You are on page 1of 14

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI


KHOA KINH TẾ & KINH DOANH QUỐC TẾ

BÀI THẢO LUẬN


KINH TẾ QUỐC TẾ 2
Lớp học phần: 2207FECO1812

Đề tài: Xây dựng đường cầu ngoại tệ

Nhóm: 6

1
MỤC LỤC

I. Lý thuyết.................................................................................................................3
1. Cầu ngoại tệ và nguồn phát sinh cầu ngoại tệ.....................................................3
2. Xây dựng đường cầu ngoại tệ.............................................................................3
3. Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đối với cầu ngoại tệ...........................................5
II. Liên hệ thực tế với Việt Nam................................................................................6
III. Liên hệ thực tế với Trung Quốc...........................................................................9

2
I. Lý thuyết

1. Cầu ngoại tệ và nguồn phát sinh cầu ngoại tệ

Ngoại tệ là các đồng tiền nước ngoài được trao đổi để lấy đồng tiền trong
nước phục vụ cho việc thanh toán các hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế
(khoản 1 Điều 2 Thông tư 07/2012/TT-NHNN).

Trên thực tế giao thương, các nước thường coi trọng ngoại tệ mạnh, là
những đồng tiền được sử dụng rộng rãi trong giao dịch quốc tế, có giá trị quy đổi
cao và ít chịu ảnh hưởng của tỷ giá đồng tiền khác. Một số đồng ngoại tệ mạnh
thông dụng nhất thế giới được thừa nhận trong thời gian dài là USD (Đô la Mỹ),
EURO (Đồng tiền chung châu Âu), GBP (Bảng Anh), CAD (Đô la Canada), CHF
(Phrăng Thụy Sỹ), YJP (Yên Nhật).

Cầu ngoại tệ là lượng ngoại tệ mà người ta muốn mua trên thị trường ngoại
hối tương ứng với mỗi mức tỷ giá nhất định (tức tỷ giá hối đoái).

Nguồn phát sinh cầu ngoại tệ:

Lượng hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu

Lượng vốn và các khoản chuyển nhượng ra nước ngoài

Du lịch ra nước ngoài

Người trong nước tham quan, du lịch ở nước ngoài

Các khoản trả nợ và lãi vay nước ngoài …

Trong đó, lượng hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu là nguồn phát sinh ngoại tệ
lớn nhất. Chính vì vậy, cán cân thanh toán xuất nhập khẩu có ảnh hưởng không
nhỏ đến cầu ngoại tệ.

3
2. Xây dựng đường cầu ngoại tệ

Coi cầu hàng hóa nhập khẩu là nguồn phát sinh cầu ngoại tệ chủ yếu, khi đó
đường cầu ngoại tệ được thiết lập từ thị trường nhập khẩu.

Đồ thị 1: Thị trường nhập khẩu của Đồ thị 2: Đường cầu nhập khẩu ngoại
US tệ của US

Xét 2 quốc gia US và UK. Trong đồ thị 1, DM là đường nhu cầu nhập khẩu
của US từ UK theo đồng bảng tại R=$2/£1, trong khi đó SM là đường cung ứng
của UK về hàng nhập khẩu của US. Với các đường cung SM và đường cầu DM,
giá hàng hóa nhập khẩu của US tính theo đồng bảng là £1, lượng nhập khẩu là 12
triệu đơn vị năm, cân bằng nhập khẩu tại B'.

Để nhập khẩu tại điểm B' thì lượng đồng bảng US cần là 12 triệu bảng,
tương ứng với điểm B’ trên đồ thị 1 ta được điểm B(12; 2) trên đồ thị 2.

Khi đồng đôla giảm giá 20% tới R=$2.4/£1, SM vẫn không đổi nhưng DM
dịch chuyển xuống dưới tới DM'. Nguyên nhân là do khi US vẫn có nhu cầu nhập
khẩu 12 triệu đơn vị năm (điểm B’ trên đường DM), để giá hàng hóa theo đôla
4
không đổi thì giá hàng hóa theo đồng bảng phải giảm từ PM = £1 xuống PM =
£0.8 (điểm H trên đường DM'). Tuy nhiên, tại mức giá thấp hơn PM = £1, UK sẽ
cung ứng lượng nhập khẩu ít hơn cho US. Trong khi đó, US sẽ có nhu cầu nhập
khẩu ít hơn tại mức giá đồng bảng cao hơn PM = £0.8 tới tận khi sự thay đổi giá
cả đạt được tại điểm cân bằng mới E'.

Như vậy, khi đường cầu DM dịch chuyển xuống dưới tới DM', lượng hàng
hóa nhập khẩu cân bằng giảm từ 12 triệu xuống 11 triệu đơn vị năm, dẫn đến nhu
cầu ngoại tệ của US cũng giảm từ 12 triệu bảng xuống 9.9 triệu bảng (đồ thị 2),
đồng đôla giảm giá nên tỷ giá hối đoái sẽ tăng từ R=$2/£1 lên R=$2.4/£1, ta thiết
lập được điểm E (9.9; 2,4) trên đồ thị 2 tương ứng với điểm E’ trên đồ thị 1.

Đường thẳng đi qua 2 điểm B và E chính là đường cầu ngoại tệ. Đường cầu
ngoại tệ có độ dốc âm do mối quan hệ nghịch giữa cầu ngoại hối và tỷ giá hối
đoái.

3. Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đối với cầu ngoại tệ

Tỷ giá tăng: Cầu ngoại tệ giảm. Bởi vì khi tỷ giá tăng, tức là đồng nội tệ của
nước đó bị đánh giá thấp hơn đồng ngoại tệ, hàng hóa của nước này rẻ hơn tương
5
đối so với hàng hóa của nước ngoài, hạn chế nhập khẩu. Khi nhập khẩu giảm,
nước ngoài ít bán hàng hóa cho nước đó hơn, nhu cầu ngoại tệ dành cho thanh
toán cũng giảm theo. Điều này làm cho cầu ngoại tệ giảm khi tỷ giá tăng.

Tỷ giá giảm: Cầu ngoại tệ tăng. Ngược lại với trường hợp tỷ giá tăng, khi tỷ
giá giảm chứng tỏ đồng nội tệ được nâng giá lên và được đánh giá cao hơn ngoại
tệ, hàng hóa của nước này sẽ đắt hơn tương đối so với hàng hóa của nước ngoài.
Điều này khuyến khích nhập khẩu, người dân chuộng hàng nhập khẩu hơn. Khi
nhập khẩu tăng thì cầu ngoại tệ cũng tăng để đáp ứng nhu cầu thanh toán cho
hàng nhập khẩu.

Như vậy, cầu ngoại tệ là một hàm nghịch biến theo tỷ giá.

II- Liên hệ Việt Nam

Tại Việt Nam, khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, các giao dịch
kinh tế với nước ngoài mở rộng sang khắp các châu lục trên thế giới, nhu cầu
thanh toán bằng ngoại tệ ngày càng lớn. Bên cạnh đó, hoạt động xuất khẩu có
nhiều triển vọng. Trước tình hình này, đòi hỏi phải có một thị trường ngoại hối ra
đời để kịp đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho nền kinh tế phát triển kịp thời với các
nước khác trên thế giới. Việc hình thành thị trường ngoại hối tại Việt Nam được
tiến hành từng bước: Năm 1991, Trung tâm Giao dịch ngoại tệ được thành lập và
hoạt động với mục tiêu: Thiết lập thị trường ngoại hối chính thức cho giao dịch
giữa ngân hàng và các đơn vị kinh tế; Đánh giá và đo lường cung cầu ngoại tệ
trên thị trường; Quyết định tỷ giá chính thức hợp lý giữa USD và VND; Chuẩn bị
những điều kiện ban đầu cho việc hình thành thị trường tài chính trong tương lai.

Năm 2021 được nhận định là một năm tăng trưởng đầy bản lĩnh của nền
kinh tế Việt Nam. Vượt qua chặng đường đầy khó khăn bởi dịch Covid - 19, năm

6
2021 tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa cả năm về đích với con số kỷ lục
668,54 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm 2020.

Biểu đồ: Trị giá xuất khẩu, nhập khẩu và cán cân thương mại trong năm
2020 và năm 2021

Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm 2021 đạt 336,31 tỷ USD, tăng 19% so
với năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 91,09 tỷ USD, tăng
14,2%, chiếm 27,1% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài (kể cả dầu thô) đạt 245,22 tỷ USD, tăng 20,9%, chiếm 72,9%. Trong năm
2021 có 35 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 93,8% tổng
kim ngạch xuất khẩu (có 8 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 69,7%).

Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa năm 2021 đạt 332,23 tỷ USD, tăng 26,5%
so với năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 114,03 tỷ USD, tăng
21,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 218,21 tỷ USD, tăng 29,1%. Trong
năm 2021 có 47 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng
94,1% tổng kim ngạch nhập khẩu.
7
Về thị trường xuất, nhập khẩu hàng hóa năm 2021, Hoa Kỳ là thị trường
xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 96,3 tỷ USD. Trung Quốc là
thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 109,9 tỷ USD.
Năm 2021 xuất siêu sang EU đạt 23 tỷ USD, tăng 12,1% so với năm trước; nhập
siêu từ Trung Quốc 53,9 tỷ USD, tăng 52,7%; nhập siêu từ Hàn Quốc 34,2 tỷ
USD, tăng 22,9%; nhập siêu từ ASEAN 12 tỷ USD, tăng 63,1%; nhập siêu từ
Nhật Bản 2,5 tỷ USD, tăng 140%.

Từ 2016 đến nay, cán cân thương mại xuất nhập khẩu hàng hóa liên tục
thặng dư, với mức xuất siêu năm sau cao hơn năm trước. Năm 2016, xuất siêu
hàng hóa của nước ta đạt 1,6 tỷ USD; năm 2017 đạt 1,9 tỷ USD; năm 2018 tăng
lên 6,46 tỷ USD; năm 2019 đạt 10,57 tỷ USD và năm 2020 đạt 19,94 tỷ USD.

Năm 2021 là một năm đầy khó khăn với ảnh hưởng nặng nề của dịch
COVID-19, nhưng thành tích xuất siêu tiếp tục được giữ vững. Cho đến hết quý
III năm 2021, cán cân thương mại hàng hóa vẫn nhập siêu 2,55 tỷ USD, nhưng
với nỗ lực không ngừng trong quý IV, đến hết năm 2021 cán cân thương mại hàng
hóa đã đạt xuất siêu 4,08 tỷ USD. Mặc dù mức xuất siêu năm 2021 chỉ bằng 20%
8
so với mức xuất siêu năm 2020, nhưng trong bối cảnh khó khăn do dịch Covid-
19, xuất, nhập khẩu vẫn là điểm sáng và là tiền đề quan trọng để nền kinh tế vững
bước vào năm 2022.

Tuy nhiên vào đầu năm 2020, Việt Nam bị Hoa Kỳ cho vào danh sách các
nước “thao túng tiền tệ”.

Báo cáo đã đưa ra số liệu làm bằng chứng Việt Nam “đáp ứng” cả 3 tiêu chí
của Mỹ. Cụ thể là tiêu chí 1, đến tháng 6/2020 đã thặng dư 58 tỷ USD, tiêu chí 2
là thặng dư tài khoản vãng lai 4,6% GDP, tiêu chí 3 là mua ròng ~ 5,1%. Ngay
sau đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khẳng định Việt Nam không phải là quốc
gia thao túng tiền tệ. Theo Ngân hàng Nhà nước, các chính sách tiền tệ của Việt
Nam được ban hành vì nhiều mục đích kinh tế vĩ mô khác nhau, nhưng chắc chắn
"không nhằm tạo lợi thế cạnh tranh thương mại quốc tế không công bằng". Về
phía cầu ngoại tệ, trong nửa đầu năm nay, NHNN đã ngừng mua ngoại tệ giao
ngay từ các ngân hàng và chuyển sang mua ngoại tệ kỳ hạn 6 tháng có hủy ngang.
Động thái này thể hiện NHNN không còn đẩy mạnh mua USD; đồng thời việc mở
rộng kỳ hạn mua USD lên 6 tháng kèm điều kiện không được huỷ ngang 1 lần cho
thấy việc bán USD có kỳ hạn cho NHNN đã trở nên khó khăn hơn nhiều. Kết quả,
9
trong nửa đầu năm nay, NHNN chỉ mua thêm khoảng 5,5 tỷ USD, thấp hơn nhiều
so với mức 16,8 tỷ USD của cùng kỳ 2020.

Đồng thời, NHNN đã có động thái điều chỉnh cơ cấu dự trữ quốc tế như ổn
định hoặc giảm dự trữ bằng đồng USD và cần tăng dự trữ bằng các ngoại tệ khác
như: đồng Euro, Nhân dân tệ, Yên Nhật Bản, SDR, vàng hoặc đồng tiền của các
đối tác thương mại và đầu tư lớn của Việt Nam… nhằm tránh bị coi là can thiệp
thị trường tiền tệ quá ngưỡng với đồng USD. Việc ký kết các đã mang lại những
tín hiệu tích cực cho nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là Hiệp định Thương mại tự
do giữa Việt Nam và EU (EVFTA). Năm 2020, xuất khẩu sang EU đạt 34,8 tỷ
USD; đáng chú ý, sau 5 tháng được thực thi (từ 01/8/2020), tổng kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam sang EU đạt 15,4 tỷ USD, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm
trước. Việc này đã làm tăng nguồn cung cầu đồng Euro đồng thời đẩy mạnh quan
hệ thương mại song phương giữa Việt Nam và EU. Ở chiều nhập khẩu, Việt Nam
nhập về từ các nước EU trên 12 tỷ USD hàng hoá, trong đó chủ yếu là máy móc,
dây cáp điện, dược. Đức là nước mà Việt Nam nhập nhiều hàng hoá nhất với 3,6
tỷ USD, trong đó có 1,7 tỷ USD là hàng hoá máy móc, thiết bị. Ý là nước xuất
khẩu hàng nhiều thứ 2 vào Việt Nam với 1,8 tỷ USD, Pháp đứng thứ 3 với 1,6 tỷ
USD giá trị hàng xuất vào VIệt Nam. Việt Nam nhập thuốc trị bệnh cho người lớn
nhất ở Pháp và Bỉ với kim ngạch lần lượt là 410 và 147 triệu USD. Nhờ các hiệp
định thương mại quốc tế với các nước đã đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu của
Việt Nam từ đó nguồn cầu ngoại tệ cũng tăng để đáp ứng nhu cầu trao đổi buôn
bán với các nước trên thế giới.

Trong 10 tháng của năm 2021 giao dịch qua POS tăng tương ứng 14,25% và
12,6% về số lượng và giá trị giao dịch so với cùng kỳ; qua kênh Internet tăng
tương ứng 49,39% và 29,14%; qua kênh điện thoại di động tăng tương ứng

10
72,67% và 85,09%; thanh toán qua kênh QR code tăng tương ứng 54,24% và
120,64% với hơn 90.000 điểm chấp nhận thanh toán qua QR code...

Bên cạnh đó, tình hình dịch Covid diễn ra phức tạp không chỉ ảnh hưởng
đến các nước khác mà ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt
Nam, làm giảm thặng dư thương mại hàng hóa với nước ngoài do đó cũng có sự
thay đổi trong cầu ngoại tệ của Việt Nam.

III. Liên hệ thực tế với Trung Quốc

Theo Tổng cục Hải quan Trung Quốc, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu
trong năm 2021 của nước này đã tăng lên 6.050 tỷ USD, tăng 1.400 tỷ USD so
với năm 2020. Trong khi đó, tính theo đồng nhân dân tệ, tổng kim ngạch thương
mại năm 2021 của Trung Quốc tăng 21,4% so với năm trước đó, lên 39.100 tỷ
nhân dân tệ. Trong đó, xuất khẩu của Trung Quốc tăng 21,2%, lên 21.730 tỷ nhân
dân tệ và nhập khẩu tăng 21,5%, lên 17.370 tỷ nhân dân tệ.

Số liệu chính thức công bố ngày 14/1 cho thấy tổng kim ngạch thương mại
năm 2021 của Trung Quốc đã đạt mức cao mới, lần đầu tiên vượt qua ngưỡng
6.000 tỷ USD dù đại dịch COVID-19 tiếp tục gây áp lực lên thương mại toàn cầu.

Nước nắm giữ dự trữ ngoại hối lớn nhất thế giới hiện nay là Trung Quốc,
quốc gia nắm giữ hơn 3 nghìn tỷ USD tài sản bằng ngoại tệ. Hầu hết dự trữ của họ
được giữ bằng đồng đô la Mỹ. Một trong những lý do cho điều này là nó làm cho
thương mại quốc tế dễ thực hiện hơn vì hầu hết các giao dịch diễn ra bằng cách sử
dụng đồng đô la Mỹ. Thị trường ngoại hối của Trung Quốc vẫn đang hoạt động
ổn định, cung cầu ngoại hối cơ bản cân bằng.

Khi chiến tranh thương mại Mỹ - Trung diễn ra, Trung Quốc đã thực hiện
các bước nhằm giảm sự phụ thuộc vào đồng USD bằng cách đa dạng hóa dự trữ

11
ngoại hối của mình. Lượng mua ròng ngoại tệ Nhật Bản của nước này đạt ở mức
cao nhất trong ba năm gần đây, đạt 2,2 nghìn tỷ Yên (20,2 tỷ USD). Tính đến
7/2021 số các hợp đồng mua đồng EURO tăng từ 13899 lên 34722. Một lý do
khác khiến cho cầu đồng USD giảm đối với Trung Quốc nói riêng và các nước
khác nói chung là đồng USD đang bị mất giá. Theo dữ liệu từ IMF về 149 quốc
gia và vùng lãnh thổ, tài sản USD trong dự trữ ngoại hối toàn cầu chỉ đạt 59%,
đồng thời các đồng tiền khác như Euro, Yên Nhật,… được “ ưa chuộng” hơn.

Theo đó, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc đạt 3.250 tỷ USD vào cuối tháng
12/2021, tăng 33,6 tỷ USD so với năm trước. Cũng tính đến cuối tháng 12/2021,
dự trữ vàng của Trung Quốc là 62,64 triệu ounce, tương đương với cuối tháng
12/2020. Quan chức nước này cho biết, việc định giá đồng nhân dân tệ của Trung
Quốc tăng tiếp tục là nhân tố chính dẫn đến sự gia tăng dự trữ ngoại hối trong
năm 2021.

Theo bà Vương Xuân Anh, người phát ngôn Cục Quản lý Ngoại hối Quốc
gia Trung Quốc, sự bùng phát của đại dịch Covid-19 thời gian gần đây, kỳ vọng
về sự thay đổi chính sách tiền tệ ở một số quốc gia chủ chốt và chỉ số USD giảm,
đã gây ra “sự gia tăng định giá” của các đồng tiền không phải USD và đẩy dự trữ
ngoại hối của Trung Quốc tăng lên.

Dự trữ ngoại hối ở Trung Quốc bất ngờ giảm xuống 3,22 nghìn tỷ đô la vào
tháng 1 năm 2022 từ 3,25 nghìn tỷ đô la trong tháng 12 và so với dự báo thị
trường là 3,26 nghìn tỷ đô la, chủ yếu do sức mạnh chung của đồng đô la.

12
Trong cuộc chiến tranh thương mại Mỹ-Trung, chính quyền Mỹ chính thức
"khai hỏa" chiến tranh thương mại với Trung Quốc bằng việc áp thuế quan 25%
đối với 818 mặt hàng nhập khẩu từ quốc gia này trị giá 34 tỷ USD vào thị trường
Mỹ. Trung Quốc lập tức đáp trả bằng cách áp thuế 25% lên 545 mặt hàng nhập
khẩu từ Mỹ. Tuy nhiên, Trung Quốc đẩy mạnh nhập khẩu hàng hóa từ Mỹ trong
tháng ̣9, khi nền kinh tế hồi phục ấn tượng sau đại dịch COVID – 19 nhưng số
liệu cho thấy Trung Quốc còn khoảng cách xa so với cam kết mua hàng được nêu
trong thỏa thuận thương mại giai đoạn 1. Thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ đã
tăng 28,7%, lên tới 755,6 tỷ USD vào năm 2021, bất chấp những đòn trừng phạt
thuế quan và căng thẳng chính trị gia tăng giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Theo dữ liệu của Hải quan Trung Quốc công bố ngày 14/1, xuất khẩu của Trung
Quốc sang Mỹ tăng 27,5% trong năm 2021, trong khi nhập khẩu tăng 32,7%, đạt
179,53 tỷ USD. Những con số này được đưa ra chỉ 1 ngày trước lễ kỷ niệm hai
năm ký kết thỏa thuận thương mại giai đoạn I giữa Trung Quốc và Mỹ, cho thấy
sự bổ sung mạnh mẽ giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới.

KẾT LUẬN

Sự thay đổi trong các yếu tố nhập khẩu, chính sách tiền tệ của nhà nước đều
có thể làm thay đổi cầu ngoại tệ. Trước những sự biến động của thị trường tiền tệ
13
thế giới, NHNN sẽ có những động thái tác động tới cầu ngoại tệ để điều chỉnh tỷ
giá, tránh xảy ra lạm phát và thâm hụt cán cân thanh toán của nhà nước.

14

You might also like