You are on page 1of 17

TOPIC

Capital Account Liberalization and Financial Crisis

A. Cơ sở lý thuyết
I. Phần mở đầu:

Sự tăng trưởng bùng nổ của các giao dịch tài chính và dòng vốn quốc tế là một trong những
diễn biến kinh tế sâu sắc và có tầm ảnh hưởng rộng rãi nhất của cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ
21. Sự tăng trưởng này bắt nguồn từ một số nguyên nhân như việc loại bỏ các hạn chế quy
định đối với các giao dịch tài khoản vốn, ổn định nền kinh tế vĩ mô, tự do hóa ở cả các nước
công nghiệp và phát triển và đáng chú ý là việc tự do hóa tài khoản vốn.

Mặc dù theo thời đại là vậy, nhưng Eichengreen - Giáo sư Kinh tế và Khoa học Chính trị tại
Đại học California, Berkeley đã từng đưa ra quan điểm của mình rằng: “Tự do hóa tài khoản
vốn, thẳng thắn mà nói, vẫn là một trong những chính sách gây tranh cãi và ít được hiểu nhất
ngày nay. Nếu áp dụng không thận trọng thì thật sự nguy hiểm.” Tại sao ông lại có ý kiến
như vậy?

Chào mừng các bạn đã đến với phần phản biện của nhóm 2 với topic: “capital account
liberalization and financial crisis.” Nhóm 2 sẽ dùng những luận điểm của mình để ủng hộ và
chứng minh topic này là hoàn toàn đúng.

II. Cơ sở lý thuyết:
1. Khái niệm:
- Tài khoản vốn:

Cụ thể, tài khoản vốn trong cán cân thanh toán quốc tế bao gồm nhiều luồng tài chính khác
nhau - chủ yếu là đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), luồng vốn đầu tư gián tiếp (bao gồm đầu
tư vào cổ phiếu) và vay ngân hàng - có điểm chung là việc mua lại tài sản ở một quốc gia bởi
cư dân của quốc gia khác. Về nguyên tắc, có khả năng kiểm soát các luồng vốn này là cực kỳ
quan trọng đối với mỗi quốc gia.

- Tự do hoá tài khoản vốn:

Tự do hóa tài khoản vốn là việc cho tự do tiến hành chuyển đổi các tài sản tài chính trong
nước thành tài sản tài chính ở nước ngoài và ngược lại theo tỷ giá hối đoái do thị trường quy
định.

- Khủng hoảng tài chính:

Khủng hoảng tài chính là các tình huống trong đó một số tài sản tài đột nhiên mất một phần
lớn giá trị danh nghĩa của chúng. Trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, nhiều cuộc khủng hoảng
tài chính gắn liền với các cuộc khủng hoảng ngân hàng, và nhiều cuộc suy thoái cũng xảy ra
với những cuộc khủng hoảng này. Một số tình huống khác cũng thường được gọi là khủng
hoảng tài chính bao gồm sự sụp đổ của thị trường chứng khoán và sự bùng nổ của các bong
bóng tài chính, khủng hoảng tiền tệ và các vụ vỡ nợ quốc gia.

- Dấu hiệu của khủng hoảng tài chính:


● Các Ngân hàng thương mại không hoàn trả được các khoản tiền gửi của người
gửi tiền.
● Chính phủ từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định.
● Tự do hóa tài chính
● Sự yếu kém trong hệ thống tài chính, nhất là các ngân hàng trong nước
Sau khi tìm hiểu và phân tích các trường hợp thực tế, nhóm 2 đã rút ra được kết luận rằng
những tác động của tự do hoá tài khoản vốn có thể dẫn đến những dấu hiệu của khủng hoảng
tài chính và cuối cùng một cuộc khủng hoảng đã thật sự diễn ra. Phần phân tích sẽ được
nhóm làm rõ ở phần sau.

2. Đặc điểm của tự do hoá tài khoản vốn:


- Tự do hoá tài khoản vốn có một số đặc điểm cơ bản như sau:
● Nới lỏng các hạn chế đối với dòng vốn qua biên giới của một quốc gia
● Chính phủ một nước cho phép người nước ngoài mua cổ phiếu của các công ty niêm
yết trên thị trường chứng khoán trong nước hoặc thậm chí được phép mua trái phiếu
và các công cụ thị trường tiền tệ.

→ Việc tự do hóa các hạn chế đối với quyền sở hữu cổ phần trong nước cho phép vốn nước
ngoài chảy vào một bộ phận nền kinh tế của đất nước. Sự thay đổi chính sách như vậy đã xảy
ra nhiều lần vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, khi một số nước đang phát
triển mở cửa thị trường chứng khoán cho các nhà đầu tư nước ngoài lần đầu tiên (Claessens
và Rhee, 1994).
● Tự do hóa tài khoản vốn cũng có thể được hiểu là tín hiệu cam kết của một quốc gia
đối với các chính sách kinh tế tốt.

3. Lý thuyết và thực tế:


- Lý thuyết:

Trên lý thuyết, tự do hóa tài khoản vốn sẽ cho phép phân bổ vốn toàn cầu hiệu quả hơn, từ
các nước công nghiệp giàu vốn sang các nền kinh tế đang phát triển nghèo vốn; giúp tăng
trưởng kinh tế, tạo thêm cơ hội việc làm và mức sống ở nâng cao đời sống.

- Thực tế:

Tuy nhiên, thực tế không hoàn toàn thuyết phục như lý thuyết. Việc tự do hóa tài khoản vốn
có thể đặt ra những thách thức có hậu quả rất lớn. Sự dịch chuyển nhanh chóng của dòng vốn
quốc tế mà hệ quả là làm tăng rủi ro, sự bùng nổ và sụp độ có tính chu kỳ của giá tài sản và
tín dụng thường là hệ quả của sự đổ vào rồi bốc hơi của các dòng vốn quốc tế. Những yếu tố
trên sẽ dẫn đến khủng hoảng tài chính - một vấn đề mà nhiều nền kinh tế thị trường mới nổi
đang phải đối mặt.
→ Có thể nói rằng, một số cuộc khủng hoảng đã từng xảy ra trong quá khứ như cuộc khủng
hoảng tài chính Châu Á 1997 đã một lần nữa chứng minh rằng tự do hóa tài khoản vốn có thể
gây ra những nguy hiểm khôn lường và để lại hậu quả vô cùng lớn. Không có cách nào để
ngăn chặn hoàn toàn những nguy hiểm này ngoài việc áp đặt việc kìm nén tài chính khắc
nghiệt, điều này thậm chí còn gây hại nhiều hơn.

Để có thể phân tích cụ thể hơn mối quan hệ giữa tự do hoá tài khoản vốn và khủng hoảng tài
chính cũng như thể hiện sự ủng hộ của nhóm với topic, chúng ta sẽ chuyển sang phần thứ hai.
B. Các luận điểm

I. Tự do hoá tài khoản vốn dẫn đến bong bóng đầu cơ:

Từ chính định nghĩa của tự do hoá tài khoản vốn, ta có thể lý giải tại sao tự do hoá tài khoản
vốn rất dễ dẫn đến bong bóng đầu cơ.
- Lý do thứ nhất: Tự do hóa tài khoản vốn làm tăng tính thanh khoản của thị trường tài
sản.

Tự do hóa tài khoản vốn làm tăng tính thanh khoản của thị trường tài sản theo hai
cách chính. Thứ nhất, nó cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường
tài sản của một quốc gia. Điều này làm tăng số lượng người mua và người bán tiềm
năng, dẫn đến tăng tính thanh khoản. Thứ hai, nó cho phép các nhà đầu tư trong nước
dễ dàng chuyển vốn ra khỏi một quốc gia. Điều này làm tăng khả năng thanh khoản
của các tài sản tài chính, vì các nhà đầu tư có thể dễ dàng bán các tài sản này để
chuyển sang một tài sản có tính thanh khoản cao hơn.

→ Khiến giá của các tài sản này dễ bị biến động, các nhà đầu cơ dễ dàng mua và bán
các tài sản tài chính → dẫn đến việc các nhà đầu cơ đẩy giá tài sản lên cao hơn giá trị
thực của chúng, tạo ra bong bóng đầu cơ.

- Lý do thứ hai: Tự do hóa tài khoản vốn làm tăng tính dễ bị tổn thương của nền kinh
tế đối với các dòng vốn nước ngoài.

Điều này có thể được giải thích theo hai cách chính. Thứ nhất, nó cho phép các nhà
đầu tư nước ngoài dễ dàng rút vốn ra khỏi một quốc gia. Điều này làm tăng khả năng
dòng vốn nước ngoài rút lui nhanh chóng, dẫn đến suy thoái kinh tế. Thứ hai, nó làm
cho thị trường tài sản của một quốc gia dễ bị thao túng bởi các nhà đầu tư nước ngoài.
Điều này có thể dẫn đến việc các nhà đầu tư nước ngoài đẩy giá tài sản lên cao hơn
giá trị thực của chúng, tạo ra bong bóng đầu cơ.

- Lý do thứ ba: Tự do hóa tài khoản vốn có thể làm giảm hiệu quả của các chính sách
kinh tế vĩ mô.

Các chính sách kinh tế vĩ mô, chẳng hạn như chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa,
được thiết kế để kiểm soát lạm phát, tỷ giá hối đoái và tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên,
tự do hóa tài khoản vốn có thể làm giảm hiệu quả của các chính sách kinh tế vĩ mô.
Lý do chính là việc các nhà đầu tư có thể dễ dàng chuyển vốn ra khỏi một quốc gia,
chính phủ sẽ gặp khó khăn hơn trong việc kiểm soát lạm phát và tỷ giá hối đoái. Điều
này có thể tạo ra những điều kiện thuận lợi cho bong bóng đầu cơ.
Ví dụ, nếu một chính phủ cố gắng giảm lạm phát bằng cách tăng lãi suất, các nhà đầu
tư nước ngoài có thể rút vốn ra khỏi quốc gia đó để tìm kiếm lợi nhuận cao hơn ở nơi
khác. Điều này có thể dẫn đến suy thoái kinh tế, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho
bong bóng đầu cơ.

Nói tóm lại, do sự thịnh vượng ảo tưởng gây ra bởi bong bóng tài sản, tự do hoá tài
khoản vốn vẫn làm tăng rủi ro bong bóng tài sản trong dài hạn và dẫn đến sự bùng
phát khủng hoảng tài chính hệ thống (theo Zhiyong Zheng, Jian He, Yuan Bian,
Cheng Fengand và Mengting Zhang năm 2021).

II. Tự do hoá tài khoản vốn dẫn đến việc mất cân bằng cán cân thanh toán và ảnh
hưởng tỷ giá

Trong hai thập kỷ qua, đã có rất nhiều giả thuyết được đưa ra về những lợi ích của việc thúc
đẩy tự do hoá tài khoản vốn, trong đó là mô hình dự báo kinh tế chính thống (extant orthodox
models) được đưa ra bởi IMF. Lợi ích lớn nhất được tác giả nêu ra là cân bằng cán cân thanh
toán, thể hiện qua việc dòng vốn đầu tư sẽ chảy ngược vào so với chu kì hoạt động của kinh
tế trong nước. Đồng thời, giả thuyết cũng đề xuất ra rằng, để việc điều chỉnh cán cân thanh
toán tự động thực hiện một cách thực sự hiệu quả, các quốc gia áp dụng tự do hoá tài khoản
vốn cần phải đi kèm với chế độ tỷ giá đối hoái linh hoạt. Tuy nhiên, qua những nghiên cứu và
số liệu qua các năm gần đây đã thể hiện những nguy cơ gây ra khủng hoảng kinh tế của mô
hình này. Tại sao vậy?

Lý do chính là đa phần rất ít các quốc gia hiện nay không thể điều chỉnh được chính sách tài
khoá và chính sách tiền tệ để phù hợp với việc dòng vốn chảy ngược khi tự do hoá tài khoản
vốn.

Cụ thể hơn, trong nghiên cứu của Kamisky (2004), đã chỉ ra rằng, đa phần các nước thuộc
OECD (Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế) và các nước phát triển mới có thể áp dụng các
chính sách tài khóa ngược chu kỳ một cách hiệu quả, còn các nước còn lại vì không được tiếp
cận với các nguồn tài chính từ các nước bên ngoài như các nước thuộc OECD nên sẽ vẫn phải
sử dụng các chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ theo chu kỳ kinh tế để đáp ứng được
dòng vốn chảy vào.

Biểu đồ 1: Hệ số tương quan giữa chu kì của lãi suất cho vay danh nghĩa và GDP thực
Ghi chú: - Thanh màu sáng là các nước không thuộc OECD

- Thanh màu tối là các nước thuộc OECD

- Hệ số tương quan dương biểu thị chính sách tiền tệ được sử dụng ngược chu kỳ

Hệ quả của việc này là biên độ và hệ số biến thiên của dòng vốn chảy vào trong các quốc gia
không thuộc OECD biến động cao hơn nhiều so với các nước thuộc OECD, tạo sự bất ổn cho
hệ thống tài chính. Họ đã phải sử dụng những chính sách tiền tệ mở rộng, ngay cả khi trong
bối cảnh thặng dư ngoại tệ hoặc họ phải sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt để thu hút dòng
vốn nước ngoài chảy vào, mục đích là để có thể trả được nợ nước ngoài. Hay còn có thể hiểu
rằng những nước có nền kinh tế đang phát triển sẽ thường gặp phải ràng buộc về chính sách
tài chính.

Biểu đồ 2: Hệ số tương quan giữa dòng vốn vào ròng và thuế lạm phát theo chu kì

Ghi chú: Hình 2 chỉ ra rằng ở các nước đang phát triển, có một mối tương quan âm chi phối
giữa các thành phần chu kỳ của dòng vốn ròng chảy vào và thuế lạm phát. Điều này có nghĩa
là khi dòng vốn ròng chảy vào các nước đang phát triển tăng lên trong các giai đoạn tăng
trưởng kinh tế (theo chu kỳ), thì thuế lạm phát ở các nước này có xu hướng giảm xuống.
(Dòng vốn tăng đồng biến với chính sách tài khoá mở rộng)

Biểu đồ 3: Hệ số tương quan giữa các thành phần mang tính chu kỳ của lãi suất cho vay
danh nghĩa và dòng vốn vào ròng
Ghi chú: Mối tương quan âm này cho thấy chu kỳ dòng vốn và chu kỳ chính sách tiền tệ (thể
hiện qua lãi suất cho vay) có tác động tăng cường cho nhau ở các nước đang phát triển.

Thứ hai, chỉ ra rằng các quốc gia trong thực tế sử dụng chế độ tỷ giá linh hoạt lại thể hiện
biến động lớn trong dự trữ ngoại hối và lãi suất. . Cụ thể, các quốc gia này phải điều chỉnh lãi
suất liên tục để phù hợp với tỉ giá → làm giảm mức độ tự chủ của chính sách tiền tệ. Hậu
quả là nếu tiếp tục tự do hoá tài khoản vốn mà không đáp ứng được yêu cầu về chính
sách tài khóa và tỷ giá đối hoái, sẽ gây áp lực ngược lên cán cân thanh toán và tỷ giá đối
hoái, từ đó dẫn đến nguy cơ của khủng hoảng tài chính.

III. Tự do hoá tài khoản vốn dẫn đến sự khủng hoảng ngân hàng

Ngoài lý thuyết kinh tế, kinh nghiệm cho thấy việc tự do hóa tài khoản vốn trước khi hệ
thống tài chính trong nước thật sự vững chắc có thể gây ảnh hưởng đến các ngân hàng, góp
phần vào những vấn đề kinh tế nghiêm trọng. Tự do hóa trong nước, thông qua việc tăng
cường cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính, loại bỏ lớp bảo vệ cho các bên trung gian khỏi hậu
quả của các khoản vay và nợ xấu. Chính sách này cho phép các ngân hàng trong nước mở
rộng các hoạt động rủi ro với tốc độ vượt xa khả năng quản lý và cho phép các ngân hàng
trong nước có giá trị ròng âm sử dụng nguồn vốn đắt đỏ cho việc “đầu tư chỉ đủ để kinh
doanh”. Bằng cách cấp quyền cho các ngân hàng trong nước truy cập vào các công cụ tài
chính phái sinh phức tạp, nó có thể làm cho việc đánh giá bảng cân đối kế toán của ngân hàng
trở nên khó khăn hơn và kéo dài khả năng giám sát rủi ro của các cơ quan quản lý.

Tự do hóa tài khoản vốn từ bên ngoài có thể khuếch đại tác động của các chính sách chưa đầy
đủ. Bằng cách cho phép các ngân hàng nước ngoài gia nhập có thể giảm tỷ suất lợi nhuận và
loại bỏ lớp bảo vệ của các ngân hàng trong nước chống lại tổn thất cho vay. Giống như tự do
hóa tài chính trong nước, nó có thể tạo điều kiện cho việc “đầu tư chỉ đủ để kinh doanh" bằng
cách cung cấp khả năng tiếp cận nguồn cung ngoại tệ dồi dào và các khoản đầu tư nước ngoài
đầy rủi ro. Việc này có thể dẫn đến một cuộc khủng hoảng tiền tệ hoặc một sự mất giá bất
ngờ, từ đó làm suy yếu khả năng thanh toán của các ngân hàng. Đối với những khách hàng
của ngân hàng, những người dưới sự quản lý lỏng lẻo đã tích lũy các khoản nợ lớn bằng
ngoại tệ và không được bảo vệ trước những thay đổi của tỷ giá.

Hơn nữa, tự do hóa tài khoản vốn, làm tăng khả năng đảo chiều đột ngột dòng vốn, có thể
buộc các cơ quan quốc gia phải tăng lãi suất - thậm chí còn tăng mạnh hơn để bảo vệ tỷ giá
neo đang bị tấn công, điều mà họ phải miễn cưỡng làm khi hệ thống ngân hàng trở nên mong
manh. Do đó, tự do hóa tài chính bên ngoài làm tăng nguy cơ thiếu niềm tin vào hệ thống
ngân hàng của người dân và các nhà đầu tư. Các ngân hàng thường được liên kết với nhau,
khó khăn tài chính của một số ngân hàng có thể lây lan sang những tổ chức khác và có khả
năng gây nguy hiểm cho toàn bộ hệ thống. Việc các cá nhân, các nhà đầu tư không nắm được
thông tin đầy đủ về chất lượng các khoản vay của họ có thể dẫn đến việc rút vốn. Đây có thể
được coi là tín hiệu về các vấn đề tiềm ẩn ở đâu đó trong hệ thống ngân hàng.
IV. Tự do hoá tài khoản vốn dẫn đến tấn công đầu cơ

Dòng vốn có thể chảy vào hoặc ra đột ngột và biến động liên tục là điều không thể tránh khỏi
khi một quốc gia tự do hoá tài khoản vốn. Chính sách này có thể dẫn đến các dòng vốn vào
và ra một cách đột ngột lớn, làm mất sự cân bằng của nền kinh tế. Khi nền kinh tế không ổn
định có thể dẫn đến sự mất niềm tin cho các nhà đầu tư và dẫn đến việc tấn công đầu cơ, rút
vốn hàng loạt.
Theo như giáo sư Eichengreen cùng các cộng sự của mình đã từng viết trong cuốn sách
“Capital account liberalization: Theoretical and Practical Aspects", vấn đề nghiêm trọng nhất
với sự di chuyển vốn quốc tế xảy ra khi dòng vốn đột ngột chảy ra khỏi một quốc gia, gây ra
khủng hoảng. Điều có thể để lại những hậu quả vô cùng nặng nề cho nền kinh tế nói chung.

V. Yếu tố tác động thêm: Tự do hoá tài khoản vốn dẫn đến sự lây lan khủng hoảng
tài chính

Một cuộc khủng hoảng do việc tự do hoá tài khoản vốn không chỉ tác động trong phạm vi
một quốc gia mà nó còn nguy hiểm hơn thế. Cuộc khủng hoảng này có thể lan nhanh sang
các nền kinh tế lân cận, dẫn đến hiệu ứng domino và sự lây lan tài chính khu vực.
C. Dẫn chứng cụ thể

I. Khủng hoảng tài chính Châu Á (1997)


Khủng hoảng tài chính châu Á chính là một minh chứng rõ ràng nhất. Đây là cuộc khủng
hoảng tài chính bắt đầu từ tháng 7 năm 1997 ở Thái Lan rồi ảnh hưởng đến các thị trường
chứng khoán, trung tâm tiền tệ lớn ở vài nước châu Á. Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là
những nước bị ảnh hưởng mạnh nhất bởi cuộc khủng hoảng này.
1. Nguyên nhân:
Thái Lan và một số nước Đông Á đã cố gắng thực hiện cái mà các nhà kinh tế gọi là Bộ ba
chính sách không thể đồng thời. Thái Lan vừa cố định giá trị đồng tiền của mình vào Dollar
Mỹ và đặc biệt vừa cho phép tự do lưu chuyển vốn (tự do hóa tài khoản vốn). Trong khoảng
thời gian đó, nền Kinh tế Đông Nam Á nói chung và nền kinh tế của Thái Lan nói riêng tăng
trưởng nhanh chóng trong thập niên 1980 và nửa đầu thập niên 1990.
2. Tác động:
● Bong bóng đầu cơ nhà đất

Những vấn đề của thị trường nhà đất Thái Lan một phần có thể do sự tăng trưởng của nền
kinh tế (đã bắt đầu vào khoảng thập niên 60 đến thập niên 70) và tiếp tục tăng trưởng với tốc
độ cao. Thời gian tăng trưởng dài đã tạo ra một thị trường nhà đất quá nóng. Các căn hộ mới
được xây dựng để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng do nền kinh tế sôi động. Nguồn cung nhà
ở tiếp tục được thúc đẩy trong thập niên 90 bởi sự tự do hóa tài khoản vốn thông qua các cơ
sở ngân hàng quốc tế Bangkok vào năm 1992, tạo điều kiện cho các tổ chức tài chính trong
nước vay vốn nước ngoài với lãi suất thấp và sau đó cho vay lại số tiền đó cho các nhà phát
triển nhà ở địa phương.

Ngành bắt đầu cảm thấy áp lực vào năm 1995 và đến năm 1996, ngành đã có nhiều dấu hiệu
gặp khó khăn. Tổng nợ của ngành lên tới khoảng 800 tỷ baht vào năm 1996.

Vào tháng 2 năm 1997, vài tháng trước cuộc khủng hoảng, công ty bất động sản Somprasong
Land PCL đã vỡ nợ, kéo theo đó là những công ty khác vỡ nợ, điều này gây áp lực cho nhiều
ngân hàng và tổ chức tài chính, đặc biệt là các ngân hàng nhỏ. Vào tháng 6, một tháng trước
khi đồng baht nổi, 16 công ty tài chính đã bị đình chỉ hoạt động. Hai tháng sau, 42 công ty
khác cũng phải chịu chung số phận. Đến cuối năm, thêm 56 công ty bị đóng cửa vĩnh viễn.

● Khủng hoảng tỷ giá:

Nhiều nước mới nổi ở Châu Á đã gắn đồng tiền của mình với đồng đôla Mỹ và đồng thời
thực hiện chính sách nới lỏng việc kiểm soát trao đổi buôn bán ngoại tệ bằng cách cho phép
người dân trong nước thực hiện các khoản vay bằng đồng USD Mỹ và người nước ngoài
buôn bán đồng nội tệ khá tự do. Việc thực hiện chế độ tỷ giá cố định và nới lỏng kiểm soát
ngoại tệ này nhằm khuyến khích kinh tế phát triển nhưng dòng chảy tư bản lớn vào khu vực
đã tạo ra sự chênh lệch tỷ giá hối đoái. Việc giá các đồng nội tệ được định giá cao hơn giá trị
thực làm cho sức cạnh tranh của các nền kinh tế này bị suy giảm so với các quốc gia khác
đồng thời bị chịu các đợt đầu cơ vào dự đoán các đồng tiền này sẽ bị giảm giá vào tương lai
gần.
Thái Lan trong cuộc khủng hoảng tài chính 1997 chính là ví dụ điển hình cho cuộc tấn công
đầu cơ vào một cơ chế tỷ giá hối đoái cố định đang có dấu hiệu không vững chắc. Khi Baht
Thái được cố định ở mức 25 Baht = 1 USD. Tại mức tỷ giá này Baht Thái được đánh giá là
có giá trị cao hơn mức cân bằng tính theo USD, do vậy dẫn đến tình trạng thặng dư Baht Thái
trên thị trường. Chính phủ Thái sử dụng dự trữ ngoại tệ 3 (USD) để mua lượng Baht hằng
ngày trên thị trường ngoại hối nhằm duy trì tỷ giá cam kết (hay có thể hiểu là bán ra USD vào
thị trường). Khi các nhà đầu tư bắt đầu kỳ vọng về sự mất giá của Baht trong tương lai, họ
đẩy mạnh bán ra Baht.

Để giữ tỷ giá cố định, chính phủ Thái phải sử dụng ngày càng nhiều hơn lượng dự trữ ngoại
tệ của mình để can thiệp vào thị trường. Thực tế là các nhà đầu tư đã thực hiện một cuộc tấn
công đầu cơ bằng cách chuyển một dòng vốn khổng lồ ra khỏi Thái Lan, họ bán tài sản Thái
và chuyển các dòng vốn của họ sang các tài sản theo đô la Mỹ ở các tài khoản ngoại tệ bên
ngoài. Dự trữ ngoại hối cạn kiệt, Baht mất giá và chuyển sang rơi tự do, cơ chế tỷ giá hối
đoái cố định kết thúc.

Chế độ tỷ giá cố định và chính sách tiền tệ thả lỏng đã đẩy nền kinh tế Thái Lan rơi vào trạng
thái mất cân đối bên trong: lạm phát tăng, tiền lương tăng lên và thổi phồng một cách giả tạo
nhu cầu trong nước, khiến chỉ số giá tiêu dùng của Thái Lan liên tục tăng, chi phí lao động
tăng cao hơn nhiều so với mức tăng hiệu suất lao động và sự cải thiện cơ sở hạ tầng.

● Khủng hoảng ngân hàng:

Ban đầu, vào những năm 1990,Thái Lan hút được một lượng vốn lớn từ chính sách kinh tế ưu
việt, điều kiện kinh tế lành mạnh và sự dịch chuyển dòng vốn từ Nhật Bản hay các nước
Châu Âu mà tiêu biểu là Đức do sự suy thoái vào năm 1990 – 1991. Giai đoạn đầu người
Thái đã kiểm soát tỷ giá và lạm phát rất tốt. Việc tỷ lệ tiết kiệm cao (khoảng 33,5% GDP)
cùng mức tăng trưởng 8 - 9%, nền kinh tế Thái Lan đặc biệt hấp dẫn với những nhà đầu cơ
quốc tế. Việc dòng vốn lớn dịch chuyển mạnh mẽ khiến cho lĩnh vực ngân hàng tại Thái lan
mở rộng nhanh chóng. Các ngân hàng Thái Lan được xếp hạng vào top những ngân hàng có
lợi nhuận cao nhất thế giới tại thời điểm đấy.

Chính phủ Thái Lan đã tự do hóa nền kinh tế trong khi thiếu các biện pháp để kiểm soát và
bảo đảm nó. Ngân hàng trung ương Thái Lan đã mất tự chủ và bị các chính trị gia thao túng
để đưa ra các chính sách tiền tệ bất hợp lý. Thứ nhất, nhà nước bãi bỏ một số quy định tài
chính trong nước và dỡ bỏ các ràng buộc trong quản lý danh mục đầu tư, bao gồm nới lỏng
các quy định về yêu cầu an toàn vốn và cho phép các ngân hàng thương mại và các tổ chức
tài chính mở rộng lĩnh vực hoạt động (các tổ chức tài chính có thể tham gia vào các hoạt động
thuộc sở hữu của ngân hàng: ngoại hối, kinh doanh, vay và cho vay).

Thứ hai, nhà nước dỡ bỏ hầu hết các biện pháp kiểm soát ngoại hối và mở Ngân hàng Quốc
tế Bangkok, cho phép vay nước ngoài bằng ngoại tệ và chuyển đổi sang đồng baht Thái, do
đó làm tăng dòng vốn vào. Thứ ba, Thái Lan đã giữ đồng baht được neo vào một rổ tiền tệ
(USD, Yên Nhật, Mark Đức) trong đó USD có tỷ trọng cao nhất, do đó khiến các khoản vay
bằng đô la trở nên rẻ hơn. Bên cạnh đó, nhà nước giữ lãi suất ở mức cao và luôn ổn định tỷ
giá để thu hút vốn nước ngoài. Điều này dẫn đến một hệ quả tất yếu: các khoản vay bằng
USD trở nên rất hấp dẫn và đi kèm với các khoản đầu tư có rủi ro cao.

Tuy nhiên dòng vốn lại được đưa vào hai lĩnh vực chính đó chính là thị trường Tài chính và
thị trường Bất động sản. Đặc thù đây là những thị trường phi sản xuất và chỉ mang tính chất
giao dịch nội bộ trong nước dẫn tới sự sụt giảm rất lớn tới mảng Xuất - Nhập khẩu. Thời gian
qua đi, cán cân thương mại bị suy yếu là lộ ra những hạn chế của nền kinh tế. Bên cạnh đó
việc chỉ một phần nhỏ dòng vốn đến từ vốn FDI (đầu tư trực tiếp và dài hạn), theo sau đó là
các hoạt động cho vay dưới chuẩn đến từ hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng trở thành nơi
trung chuyển vốn mà chủ yếu là vốn đầu cơ.

(Giá trị gia tăng các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm và bất động sản tại Thái Lan những năm
1990 tăng mạnh và vượt trội hơn hẳn so với những lĩnh vực khác)

Trong quá trình chuyển mình này, Thái Lan bắt đầu gặp vấn đề với việc:
- Tỷ lệ nợ nước ngoài trên tài sản tăng mạnh.
- Sự tăng giá của đồng Đô-la làm áp lực trả nợ tăng cao (Chính quyền Thái Lan trước đó đã
khuyến khích các tổ chức vay nợ bằng Đô-la)..
- Tỷ lệ Bất động sản bỏ hoang tăng mạnh, hoạt động Bất động sản thua lỗ và chủ đầu tư mất
khả năng trả nợ.
- Tỷ lệ nợ xấu tăng vọt.

Sau một thời gian dài phát triển công nghiệp đã tích lũy vốn, kết hợp với làn sóng vay đầu tư
bằng USD và hầu hết tất cả đều chảy vào bất động sản và chứng khoán dẫn đến bong bóng
đầu cơ tài sản khổng lồ. Khi bong bóng vỡ, hàng loạt ngân hàng thương mại, tổ chức tài
chính sụp đổ. Qua thời gian, một số tổ chức tài chính Thái Lan không còn khả năng trả nợ,
các nhà đầu cơ trên thế giới muốn dịch chuyển dòng tiền ra khỏi Thái Lan. Vào đầu năm
1997, khi tốc độ tăng trưởng Thái Lan chậm lại, xu hướng bán tháo những tài sản nội địa
Thái Lan để dịch chuyển dòng tiền sang quốc gia khác ngày càng mạnh mẽ. Đồng Baht dần
mất giá, Ngân hàng Nhà nước Thái Lan sẽ phải dùng dự trữ ngoại hối để can thiệp vào tỷ giá.
Có thời điểm chỉ trong 1 tháng, Thái Lan phải sử dụng 28/30 tỷ USD dự trữ ngoại hối của
mình để can thiệp. Và khi cạn kiệt dự trữ ngoại hối, Thái Lan đã phải thả nổi đồng Baht.

4. Các dòng vốn nước ngoài kéo vào, tấn công đầu cơ và rút vốn:
Các nước châu Á lại thực hiện chính sách tự do hóa tài khoản vốn dẫn đến việc lãi suất ở các
nước châu Á cao hơn ở các nước phát triển. Chính vì vậy mà các dòng vốn quốc tế đã ồ ạt
chảy vào các nước châu Á. Tuy nhiên sự tăng trưởng nóng của nền kinh tế Thái Lan đã để lại
những hậu quả khác nhau cho nền kinh tế của quốc gia này. Khi thị trường bất động sản gặp
khó khăn, lĩnh vực ngân hàng và tài chính bị siết chặt. Điều này đến lượt nó gây áp lực cho
các lĩnh vực khác của nền kinh tế.
Khi tình trạng nền kinh tế xấu đi, niềm tin của các nhà đầu tư đã dần lung lay, họ tin rằng
trong tương lai gần giá trị đồng Baht sẽ suy giảm, họ bắt đầu rút vốn ra khỏi Thái Lan. Chính
tự do hoá tài khoản vốn đã dẫn đến những cuộc tấn công đầu cơ và việc rút vốn đồng loạt
khỏi quốc gia này, dòng vốn tháo chạy trở nên không thể kiểm soát. Dòng vốn chảy ra trở
nên lớn đến mức cuối cùng ngân hàng trung ương Thái Lan không còn bảo vệ được đồng
Baht. Từ Thái Lan, cuộc khủng hoảng bắt đầu lây lan. Đây cũng chính là nguyên nhân trực
tiếp của khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997.

- Hậu quả:
● Nền kinh tế Thái Lan chịu tổn thất nặng nề
Ngày 14 và ngày 15 tháng 5 năm 1997, đồng baht Thái bị tấn công đầu cơ quy mô lớn. Ngày
30 tháng 6, thủ tướng Thái Lan tuyên bố sẽ không phá giá baht, song rốt cục lại thả nổi baht
vào ngày 2 tháng 7. Baht ngay lập tức mất giá gần 50%. Vào tháng 1 năm 1998, nó đã xuống
đến mức 56 baht mới đổi được 1 dollar Mỹ. Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ
mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm 1997. Trong cuộc khủng hoảng, IMF đã
phải hai lần cung cấp gói hỗ trợ cho Thái Lan.
(11/81997: cung cấp gói cứu trợ trị giá 16 tỷ dollar Mỹ; 20/8: cung cấp một gói cứu trợ nữa
trị giá 3,9 tỷ dollar Mỹ)

● Sự lây lan tài chính: Hàn Quốc, Indonesia và Malaysia chính là 3 quốc gia chịu
ảnh hưởng nặng nề nhất từ khủng hoảng tài chính tại Thái Lan.
+ Hàn Quốc

Vào thời điểm khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, Hàn Quốc có một gánh nặng nợ nước
ngoài khổng lồ. Các công ty nợ ngân hàng trong nước, còn ngân hàng trong nước lại nợ ngân
hàng nước ngoài. Khi thị trường châu Á bị khủng hoảng, tháng 11 các nhà đầu tư bắt đầu bán
ra chứng khoán của Hàn Quốc ở quy mô lớn. Giá chứng khoán của Hàn Quốc giảm mạnh. và
đồng Won giảm giá xuống còn khoảng 1700 từ mức 1000 KRW/USD.

+ Indonesia

Sau khi khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, Indonesia đã nới rộng biên độ dao động của tỷ giá
giữa Rupiah và Dollar Mỹ từ 8% lên 12%. Tháng 8, đồng Rupiah bị giới đầu cơ tấn công và
đến ngày 14 thì phải thả nổi hoàn toàn đồng nội tệ. Đồng Rupiah liên tục mất giá .Tháng 9, cả
giá Rupiah lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm xuống mức thấp lịch sử. Khủng
hoảng kinh tế và khủng hoảng xã hội đã dẫn tới khủng hoảng chính trị. Giữa năm 1998,
Suharto - tổng thống đương nhiệm buộc phải từ chức tổng thống.
(IMF phải cung cấp gói hỗ trợ trị giá 23 tỷ dollar Mỹ trong thời điểm này cho Indonesia)

+ Malaysia

Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, đồng Ringgit của Malaysia và thị trường chứng
khoán Kuala Lumpur lập tức bị sức ép giảm giá mạnh. Ringgit đã giảm từ mức 3,75
Ringgit/Dollar Mỹ xuống còn 4,20 Ringgit/Dollar. Những người tham gia thị trường tiền duy
trì tài khoản bằng đồng Ringgit ở trạng thái bán ra nhiều hơn mua vào với dự tính về sử giảm
giá của đồng Ringgit trong tương lai. Kết quả là lãi suất trong nước của Malaysia giảm xuống
khuyến khích dòng vốn chảy ra nước ngoài.

+ Lào, Philippines và một số quốc gia khác:


Hai quốc gia này cũng bị ảnh hưởng trầm trọng bởi sự sụt giá bất thình lình. Mặc dù bắt
nguồn từ Đông Á, nhưng ảnh hưởng của nó lại lan truyền toàn cầu với những tác động lớn
lan rộng đến cả các nước như Nga, Brazil và Hoa Kỳ.

II. Khủng hoảng đồng Peso tại Mexico (1994)


1. Nguyên nhân:
Phân tích các nguyên nhân của cuộc khủng hoảng peso Mexico - và mức độ nghiêm trọng
của nó - đã dần đi đến thống nhất nhiều yếu tố khác nhau.

Một khía cạnh cụ thể của việc tự do hóa nhanh chóng tài khoản vốn đặc biệt đáng chú ý chính
là việc cư dân nước ngoài được phép mua trái phiếu chính phủ Mexico vào cuối năm 1990
mà không có bất kỳ hạn chế nào, trong khi trước đây họ không được phép làm như vậy. Đây
chính là một phần của quá trình tự do hóa rộng hơn - người nước ngoài được phép mua trái
phiếu, cổ phiếu và công cụ thị trường tiền tệ của Mexico. Cụ thể trong thực tế, trong khoảng
thời gian đầu những năm 1990, tỷ lệ trái phiếu chính phủ ngắn hạn của Mexico rất lớn, đồng
thời tỷ lệ trái phiếu này nằm trong tay các nhà đầu tư nước ngoài cũng rất cao. Bên cạnh đó,
vào năm 1994, chính phủ đã cho phép chuyển đổi một phần lớn trái phiếu chính phủ sang trái
phiếu mệnh giá bằng USD.

Các nhà nghiên cứu đã lập luận rằng quá trình tự do hóa diễn ra ở Mexico vào đầu những
năm 1990 trong lĩnh vực tài chính nói chung và tài khoản vốn nói riêng có lẽ là quá nhanh và
trên hết, chính sách này đã đem đến quá nhiều thay đổi xảy ra cùng lúc. Với nền kinh tế đang
trên đà tăng trưởng mạnh, tỷ giá hối đoái danh nghĩa cố định, lãi suất trong nước cao là
những nhân tố thúc đẩy dòng vốn tư nhân nước ngoài đổ vào nền kinh tế Mexico. Riêng thời
gian từ 1990 đến 1993, Mexico đã thu hút được 93 tỷ Dollar đầu tư nước ngoài, chiếm một
nửa tổng đầu tư nước ngoài vào Mỹ Latinh.
Tuy nhiên điều này vô hình chung đã gây ra khó khăn cho hệ thống kinh tế bấy giờ của
Mexico. Một lượng lớn nguồn vốn ngắn hạn đã tăng đột biến khiến nền kinh tế khó có thể
thích nghi, cân bằng cũng như điều chỉnh phù hợp.

Với lượng vốn đổ vào nhiều như vậy nhưng chính phủ Mexico lại không có những chính sách
phù hợp để kiểm soát. Dưới sự tác động của các sự kiện an ninh lúc bấy giờ, Chính phủ
Mexico đã phá giá peso theo từng biên độ nhỏ. Các nhà đầu tư trở nên lo ngại về sự bền vững
của nền kinh tế Mexico. Sau đó chính phủ đã đổi các khoản nợ định danh bằng peso sang
định danh bằng dollar càng làm người ta lo lắng hơn. Bên cạnh đó, năm 1994 đã xảy ra hiện
tượng lãi suất quốc tế tăng lên kích thích các nhà đầu tư điều chỉnh danh mục đầu tư của
mình theo hướng giảm đầu tư vào các nền kinh tế đang phát triển. Hai xu hướng trên đã kết
hợp với nhau tạo nên sự rút vốn ồ ạt khỏi Mexico.
2. Hậu quả:
Ngày 20 tháng 12 năm 1994, peso bị mất giá mạnh. Chính phủ đã can thiệp nhằm giảm tốc
độ mất giá, song không có hiệu quả mà lại mất rất nhiều dự trữ ngoại hối nhà nước. Đến ngày
22, chính phủ đành tuyên bố thả nổi peso. Đồng Peso vốn đã mất giá, sau khi quyết định này
được ban hành đã làm các nhà đầu tư mất hết lòng tin vào khả năng trả các khoản nợ ngắn
hạn (các khoản nợ nước ngoài nếu tính theo peso phình ra khi tỷ giá giữa peso và dollar tăng
lên). Vì thế, peso càng mất giá hơn nữa. Hậu quả là nền kinh tế Mexico rơi vào khủng hoảng
trầm trọng.
Cuộc khủng hoảng này không chỉ làm cho kinh tế Mexico chao đảo, mà còn ảnh hưởng tiêu
cực tới kinh tế các nước Mỹ Latinh khác. Chính phủ Mỹ, Chính phủ Canada, Quỹ Tiền tệ
Quốc tế và Ngân hàng Thanh toán Quốc tế đã phải phối hợp cấp cho Mexico các khoản tín
dụng lên tới 50 tỷ Dollar Mỹ để ngăn chặn sự phát triển và khắc phục hậu quả của khủng
hoảng.

* Bên cạnh hai cuộc khủng hoảng ở Châu Á và Mexico còn một số các cuộc khủng
hoảng khác có nguyên nhân từ việc tự do hoá tài khoản vốn, mặc dù chính sách này
không phải là nguyên nhân chính. Cuộc khủng hoảng ngân hàng tại Nhật Bản kể từ
năm 1990 hay cuộc khủng hoảng tài chính tại Nga năm 1998 là hai trong những ví dụ
điển hình.

III. Khủng hoảng ngân hàng Nhật Bản những năm 1990
1. Nguyên nhân:
Những rắc rối trong ngành ngân hàng Nhật Bản kể từ năm 1990 là một ví dụ đặc biệt nổi bật
về mối liên hệ rõ ràng giữa việc tự do hoá tài khoản vốn và tự do hoá tài chính dẫn đến việc
bùng nổ tài sản, khủng hoảng ngân hàng và suy giảm hiệu quả hoạt động kinh tế vĩ mô.
Trong nửa cuối thập niên 1980, chính sách tiền tệ lỏng lẻo của Ngân hàng Trung ương Nhật
Bản đã thúc đẩy sự gia tăng lớn về cho vay ngân hàng, tạo ra một “nền kinh tế bong bóng”.
Việc mở rộng tín dụng dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng giá trị thị trường của bất động sản và
chứng khoán Nhật Bản, từ đó khuyến khích các ngân hàng cho vay thêm dựa trên việc định
giá đầu cơ đất đai và cổ phiếu được sử dụng làm tài sản thế chấp.
Các khoản vay bất động sản đã giúp bù đắp sự sụt giảm trong cho vay doanh nghiệp xảy ra
khi tự do hóa tài khoản vốn cho phép các công ty Nhật Bản lớn có thể tiếp cận tín dụng
thông qua thị trường trái phiếu Nhật Bản và thị trường Eurobond.

2. Hậu quả:
Khi nhận thấy nền kinh tế đang tăng trưởng quá nóng, ngân hàng Nhật Bản đã thắt chặt chính
sách tiền tệ một cách đáng kể vào năm 1990 với mục tiêu ngăn cản việc mở rộng hơn nữa
“nền kinh tế bong bóng”. Tuy nhiên cũng đã đến lúc những “bong bóng" vỡ, thị trường bất
động sản và chứng khoán Nhật Bản đều sụp đổ vào đầu những năm 1990, với giá trị ở mỗi
lĩnh vực đều giảm hơn 2/3. Hai trong số 20 ngân hàng lớn nhất Nhật Bản phá sản và một số
ngân hàng lớn khác bị đẩy đến bờ vực mất khả năng thanh toán.
Hai công ty chứng khoán lớn và ba công ty bảo hiểm lớn cũng phá sản. Các ngân hàng Nhật
Bản cũng nắm giữ danh mục cổ phiếu bị mất giá nghiêm trọng, làm suy giảm khả năng đáp
ứng yêu cầu về vốn. Cuộc khủng hoảng ngân hàng Nhật Bản đã làm tê liệt nền kinh tế Nhật
Bản trong khoảng thời gian đó.

IV. Khủng hoảng tài chính tại Nga (1998)


1. Nguyên nhân:
Vào những năm 1990, Nga đã áp dụng cơ chế cố định tiền tệ và neo đồng Rúp theo đồng Đô-
la Mỹ. Điều này có nghĩa là giá trị của đồng Rúp so với đồng Đô-la là không đổi và chỉ được
phép dao động trong một biên độ hẹp. Ngân hàng Nga sẽ can thiệp bằng cách mua và bán
đồng Rúp khi cần thiết để duy trì tỷ giá hối đoái. Bên cạnh đó, nền kinh tế Nga cũng được hỗ
trợ tài chính từ Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã cải thiện niềm tin của
nhà đầu tư. Trong quý đầu tiên của năm 1997, đầu tư nước ngoài vào Nga tăng mạnh sau khi
các hạn chế đối với đầu tư gián tiếp nước ngoài được nới lỏng.
Tuy nhiên, kỳ vọng của nhà đầu tư đã sớm thay đổi. Suy thoái kinh tế toàn cầu và giá hàng
hóa giảm đã làm cho việc thực thi thuế của chính phủ Nga trở nên yếu kém. Điều này dẫn đến
mất cân đối tài chính và đặt ra câu hỏi về khả năng chính phủ thanh toán các khoản nợ Chính
phủ và duy trì tỷ giá hối đoái cố định. Sự gia tăng vỡ nợ và rủi ro tỷ giá hối đoái đã khiến
dòng vốn rút khỏi Nga nhanh chóng, đồng Rúp cũng bị các nhà đầu cơ tấn công và mất giá
trầm trọng.
2. Hậu quả:
Vào đầu tháng 08/1998, do lo ngại về khả năng vỡ nợ trong nước và đồng Rúp mất giá, thị
trường chứng khoán, trái phiếu và tiền tệ của Nga đều chịu áp lực nặng nề. Giao dịch trên thị
trường chứng khoán bị đình chỉ trong 35 phút do giá giảm mạnh.Sau đó vào ngày 17/08,
chính phủ tuyên bố phá giá tỷ giá hối đoái cố định của đồng Rúp, vỡ nợ trong nước và đình
chỉ thanh toán của các ngân hàng thương mại cho các chủ nợ nước ngoài trong 90 ngày. Hai
tuần sau, vào ngày 02/09, Ngân hàng Nga từ bỏ nỗ lực duy trì tỷ giá hối đoái cố định và cho
phép đồng Rúp thả nổi tự do. Trong ba tuần, đồng tiền này đã mất khoảng 2/3 giá trị. Cuộc
khủng hoảng tiền tệ và rối loạn thị trường tài chính liên quan đã góp phần khiến nền kinh tế
Nga suy thoái và thu hẹp 5,3% vào năm 1998.
D. Một số quan điểm của các chuyên gia

1. Trong cuốn sách “Capital account liberalization: Theoretical and Practical


Aspects”, các nhà nghiên cứu đã cho rằng:

“Tự do tài chính trong nước và quốc tế thường đi đôi với nhau. Chúng đều phản ứng trước
nhiều động cơ và áp lực. Trong một số trường hợp cụ thể, tự do tài chính, cả trong nước và
quốc tế, dường như đều liên quan đến những cuộc khủng hoảng tài chính đắt đỏ."

"Tự do tài chính cũng mang trong mình những nguy cơ, bởi vì các hệ thống đã được tự do
hóa thường cung cấp cơ hội cho cá nhân, doanh nghiệp và tổ chức tài chính thực hiện những
rủi ro lớn hơn và đôi khi không thận trọng, từ đó tăng khả năng gây ra những biến động hệ
thống."

2. Trong bản ghi “Capital Account Liberalization: What's the Best Stance?” được đăng
trên trang web của IMF vào tháng 10 năm 1998, MICHAEL MUSSA - Cố vấn Kinh
tế và Giám đốc tại Phòng Nghiên cứu của IMF đã có những nhận định như sau:

“Quá trình tự do hóa trong lĩnh vực tài chính - tôi muốn nhấn mạnh ở đây cả trong nước và
quốc tế - thường xuyên xảy ra ở quá nhiều quốc gia trên thế giới gắn liền với nhiều thảm họa
kinh tế.

Vấn đề chính của sự dịch chuyển vốn quốc tế là việc các nguồn vốn bị rút. Đây là khó khăn
chính nảy sinh trong quá trình tự do hóa tài khoản vốn đối với các nước thị trường mới nổi.
Đó không phải là khó khăn duy nhất nhưng lại là khó khăn chính.

Tự do hóa tài khoản vốn chính là một điều khó khăn. Nó cũng giống như lửa vậy. Bạn không
muốn chơi đùa với lửa mà bạn muốn sử dụng lửa đúng cách. Bạn muốn sưởi ấm ngôi nhà
của mình, nhưng hãy cẩn thận kẻo bị bỏng!”

Bên cạnh những minh chứng thực tế về các cuộc khủng hoảng kinh tế gây ra hoặc có tác
động bởi chính sách tự do hoá tài khoản vốn, các chuyên gia và một số nhà nghiên cứu cũng
đã đưa ra các quan điểm của mình về tính hai mặt của tự do hoá tài khoản vốn. Từ những
phần trình bày trên ta có thể thấy rằng, giữa khủng hoảng tài chính và tự do hoá tài khoản vốn
có một mối liên hệ nhất định và mối liên hệ đó có thể bùng lên bất cứ lúc nào nếu các quốc
gia áp dụng chính sách mà không ổn định được nền kinh tế.
E. Trích nguồn
1. tự do hóa tk vốn tăng nguy cơ bong bóng đầu cơ
2. housing bubble in Thailand
3. khủng hoảng tài chính châu á 1997
4. Mexican peso crisis
5. Causes and Lessons of the Mexican Peso Crisis
6. tdhtkv dẫn đến khủng hoảng ngân hàng
7. https://www.tipeas.com/2023/05/looking-back-at-thailands-economic.html
8. https://vietnambusinessinsider.vn/viet-nam-va-bai-hoc-khung-hoang-kinh-te-thai-lan-
1997-a26325.html
9. Capital account liberalization: Theoretical and Practical Aspects
10. Liberalization and bank crisis
11. Russia’s 1998 currency crisis: what lessons for today?
12. Calvo, G. A., and Reinhart, C. M. (2002). “Fear of floating”. The Quarterly Journal
of Economics, 117(2), 379-408.
13. khủng hoảng tài chính là gì? dấu hiệu
14. Capital account liberalization: liberalize or not?
15. Capital account liberalization: theory, evidence and speculation
16. tác động của tdhtkv đến tỷ giá
17. Claessens, Stijn and Moon-Whoan Rhee. 1994. “The Effect of Barriers to Equity
Investment in Developing Countries” in The Internationalization of Equity Markets,
Jeffrey A. Frankel, (ed.), University of Chicago Press, Chicago and London, 231-275.
18. Frederic S. Mishkin (2001), Các chính sách tài chính và việc ngăn chặn khủng hoảng
tại các nước thị trường mới nổi. NBER.
19. Transcript: Capital Account Liberalization: What's the Best Stance?

You might also like