You are on page 1of 9

Lịch sử ra đời của máy ảnh

1. Buồng tối (camera obscura)

- Không biết chính xác ngày tháng năm, mọi thứ bắt đầu vào thế kỉ 5 trước công
nguyên – khi nhà triết học TQ Mặc Tử nhận thấy ánh sáng đi qua lỗ trống và một
vùng tối có thể tạo ra ảnh đảo ngược và ảnh tập trung  cơ sở cho việc nhận thức
rằng hình ảnh có thể thu lại đảo ngược, sau đó thuật ngữ “phòng tối” cũng ra đời.

- Thế kỷ 11, “buồng tối” xuất hiện với niên đại từ thời cổ xưa của người Trung Hoa
và Hy Lạp cổ, nó là một cái hộp rỗng khá lớn có ống hoặc lỗ nhỏ trên thân để
chiếu lại cảnh vật bên ngoài lộn ngược xuống trên một bề mặt.
- Lúc này, người ta lợi dụng bề mặt được chiếu lên đó để vẽ, từ đó thu được hình
ảnh.

2. Sự xuất hiện máy ảnh đầu tiên

- Vào năm 1685, Johann Zahn – người Đức,


đã đề xuất thiết kế một thứ mà ngày nay
được gọi là máy ảnh phản xạ cầm tay. Tuy nhiên, không ai thực sự nhận ra chiếc
máy ảnh này cho đến tận năm 1816.

- 1816, Joseph Nicephore Niepce tạo ra một


chiếc máy ảnh kiểu hộp. Chất lượng ảnh của
ông lúc này vẫn không bền vì máy ảnh vẫn còn
đơn giản và sử dụng giấy tráng bạc clorua để
tạo ra hình ảnh âm bản. Hình ảnh mà phần lẽ
ra phải sáng thì lại tối, bạc clorua còn bị phân
giải khi tiếp xúc với ánh sáng. Niepce không
biết điều đó.
- Niepce có thể đã tạo ra bức ảnh đầu tiên nhưng
kỹ thuật “buồng tối” lại được sử dụng trong
một thời gian dài bởi các họa sĩ thế kỷ 16
trong quá trình hoàn thành tác phẩm của họ.

Chân dung Joseph Nicephore Niepce

Nguyên mẫu do Niepce sáng tác


-

Bức ảnh đầu tiên Sau khi

Niepce qua
đời, cộng sự Chân dung Louis Daguerre
của ông là Louis Daguerre tiếp tục tìm cách tạo ra một bộ ảnh bền lâu: Trong
công trình sử dụng chất liệu bạc, ông đã thành công trong việc tạo ra kỹ thuật
chụp ảnh mới gọi là Daguerreotypes vào năm 1839. Ông đã giúp tạo ra những
hình ảnh dương bản thay vì âm bản như Niepce.

- Daguerreotype được thay


thế vào năm 1850, khi một
“quy trình cắt dán ướt” mới
ra đời. Quy trình này yêu
cầu xử lý các tấm trước khi
sử dụng chúng  tạo ra hình ảnh sắc nét hơn và yêu cầu thời gian phơi sáng ngắn
hơn.

3. Sự ra đời của film

- Doanh nhân người Mỹ George Eastman đã tạo ra chiếc máy ảnh đầu tiên sử dụng
một cuộn film giấy và sau đó là nhựa với tên gọi “Kodak” vào năm 1888.

Eastman và máy ảnh do ông tạo ra

Một vài ảnh từ George Eastman House Collection


- Máy ảnh Kodak có thể chụp những bức ảnh âm bản nhưng có độ sắc nét như ảnh
dương bản Daguerreotype. Vào thời điểm đó, Kodak đã nói rằng: “Bạn chỉ cần
nhấn nút, chúng tôi sẽ làm phần còn lại”

- Nhờ sự phổ biến của những sản phẩm Kodak và sự ra đời của các máy ảnh xách
tay khác, máy ảnh film khiến quy trình chụp ảnh trước đây trở nên lỗi thời.
- 1905 – 1913, nhiều công ty máy ảnh đã giới thiệu những cuộn film 135mm độc
lập – thứ có thể lắp vào và lấy ra khỏi máy ảnh của chính người dùng.
- Kodak luôn có kế hoạch trở thành thương hiệu tiên phong trong lĩnh vực sản xuất
máy ảnh.

4. Máy ảnh kỹ thuật số


- Năm 1975, chiếc máy kỹ thuật số đầu tiên được ra đời bởi một nhân viên của
Kodak – Steven Sasson. Máy lưu ảnh không phải bằng những tấm film mà bằng
bộ tích điện kép (sau này chính là cảm biến CCD), hình ảnh sẽ được lưu vào
những cuộn băng cassette dưới dạng kỹ thuật số. Trên thực tế, loại cảm biến CCD
nàyđã được phát minh vào năm 1973 bởi một kỹ sư có tên Fairchild
Semiconductor. Vàchính Steven Sasson là người đã nảy ra ý tưởng dùng cảm biến
CCD để lưu ảnh thay cho những cuộn phim thông thường.

- Chiếc máy ảnh kỹ thuật số ban đầu với tên Polaroid Model 20 Swinger nặng tới
3.6kg và có độ phân giải chỉ 10MP. Thời gian chụp mỗi tấm ảnh mất tới 23s cho

Steve Sasson và chiếc máy ảnh kỹ thuật số đầu tiên


mỗi tấm.Tuy nhiên, càng về sau Steven Sasson đã càng hoàn thiện sản phẩm của
mình bằng cách thu gọn tối đa kích thước và phần cứng bên trong. Cũng chính
sản phẩm này về sau đã đặt dấu chấm hết cho đế chế ảnh phim mà Kodak đã từng
thống trị trong thời gian dài.
- Máy ảnh số thật sự đầu tiên là Fuji DS-1P vào năm 1988, hình chụp được ghi vào
thẻ nhớ 16MB (phải nuôi bộ nhớ này bằng pin). Máy ảnh số đầu tiên được bán
rộng rãi là Kodak DSC-100 năm 1991. Nó có độ phân giải 1,3MP và giá là
13.000$. Máy chụp ảnh số đầu tiên có màn hình tinh thể lỏng là Casio QV-10
năm 1995. Máy chụp ảnh số đầu tiên dùng Compact Flash là Kodak DC-25 năm
1996.

Kodak DS-1P

Kodak DSC-100

Kodak DC25
Năm 1999, chiếc máy ảnh kỹ thuật số DSLR đầu tiên ra đời là Nikon D1 với độ phân
giải 2.47MP. Nó là thiết bị đánh dấu chấm hết cho thời đại chụp ảnh phim với cấu tạo
tương đương nhưng lại dùng công nghệ lưu ảnh điện tử thay vì những cuộn phim như
trước đây. Điều đặc biệt là mức giá 6000 USD của máy khi đó được đánh giá phù hợp
với phần lớn các nhiếp ảnh gia lẫn người chơi ảnh có điều kiện.

Casio QV-10

Nikon D1
- Tới năm 2003, Canon chính thức giới thiệu dòng Digital Rebel với một tên gọi khác là
Canon 300D. Máy thực sự được đón nhận nồng nhiệt bởi mức giá dưới 1000 USD và
độ phân giải được tăng lên 6MP.

- Kể từ đó, các máy ảnh kỹ thuật số vẫn luôn được cải tiến về thiết kế, tính năng
cũng như hiệu suất hoạt động để phục vụ tốt nhất cho nhiềunhu cầu khác nhau.
Các máy ảnh kỹ thuật số ngày nay cũng được phát triển theo nhiều hướng khác
nhau: compact, Micro Four Thirds, DSLR hay Mirrorless càng làm cho người
dùng có nhiều lựa chọn đúng với nhu cầu và sở thích của bản thân.

You might also like