You are on page 1of 11

BỘ TƯ PHÁP

HỌC VIỆN TƯ PHÁP

BÀI THU HOẠCH


(Thực hành diễn án Hành chính lần 01)

Mã số hồ sơ:
Học phần:
Ngày thực hành: 26/12/2023
Giáo viên hướng dẫn:

Họ tên học viên: Đoàn Đức Nhân


Vai diễn (nếu có): Bị đơn: Phó chủ tịch UBND Thành phố A
(Đại diện theo uỷ quyền)

Sinh ngày: 24/11/2000


SBD: 332 Lớp: B3-LS Khóa 25.1 tại Hà Nội

Hà Nội, ngày 26 tháng 12 năm 2023


I. TÓM TẮT VỤ ÁN, XÁC ĐỊNH TƯ CÁCH ĐƯƠNG SỰ

1. Tóm tắt diễn biến vụ án

Ngày 14/6/2016, ông Bùi Quang Hải và bà Đặng Thị Kim nộp bộ hồ sơ đề nghị
cấp GCNQSDĐ tại bộ phận tiếp dân tại UBND Thành phố A. Được biết diện tích thửa đất
là 156,7m2 có tài sản gắn liền với đất là căn nhà số 179/8/1 Trần Phú, phường 5, Tp. A.
Nguồn gốc bất động sản, cùng các tài sản gắn liền với đất được biết do cha mẹ ông Bùi
Quang Hải để lại, chuyển giao từ năm 2002.

Ngày 7/9/2016, chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố A ra Thông báo
số 2728/TB-CNVPĐK trả hồ sơ cấp GCNQSDĐ về lại cho ông bà. Sau đó, Ông bà khởi
kiện Thông báo này ra toà án nhân dân có thẩm quyền. Ngày 9/12/2017, Toà án nhân dân
Thành phố A ra bản án sơ thẩm sau đó ông Hải và bàKim tiếp tục kháng cáo và tòa án
nhân dân tỉnh H ra bản án sơ thẩm ngày 05/04/2018 tuyên xử: chấp nhận đơn khởi kiện
của ông Hải, bà Kim, buộc Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai tiếp nhận lại hồ sơ cấp
GCNQSD đất của ông Hải bà Kim và giải quyết theo quy định của pháp luật.

Ngày 20/04/2018, ông Hải và bà Kim nộp lại hồ sơ đề nghị cấp GCNQSD đất tại bộ phận
tiếp nhận và giao trả hồ sơ thuộc UBND thành phố A, biên nhận số 2018.086.08648, hẹn
ngày 06/6/2018. Đến ngày hẹn mà chưa có kết quả, 2 ông bà yêu cầu giải trình. Sau đó
ngày 14/08/2018, chi nhánh VPĐKĐĐ thành phố A giải trình đã trình hồ sơ tới phòng Tài
nguyên và Môi trường và UBND thành phố A từ ngày 02/07/2018.

Ngày 24/08/2018, ông Hải khiếu nại việc chậm giải quyết hồ sơ tới Chủ tịch UBND thành
phố A. Sau đó ông Hải và bà Kim tiếp tục nộp đơn khiếu nại UBND TP. A vào ngày
07/01/2019 vì chậm giải quyết việc cấp GCNQSD đất của gia đình ông theo bản án số
04/2018/HC-PT.

Ngày 30/01/2019, UBND thành phố A ban hành Văn bản số 504/UNBD-TNMT về việc
tạm trả hồ sơ đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài
sản khác gắn liền với đất tại phường 5, thành phố A với nội dung: tạm trả hồ sơ đề nghị
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Hải, bà Kim đối với diện tích 54,7m2
thuộc thửa đất số 164, tờ bản đồ số 09, phường 5, thành phố A. Lý do tạm trả: Luật Đất

2
đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành không quy định việc giải quyết cấp
GCNQSD đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với các trường hợp
sử dụng đất có nguồn gốc do lấn chiếm sông hoặc biển.

Ngày 18/03/2019, UBND thành phố A ban hành Văn bản số 1126/UBND-TNMT về giải
quyết đơn (khiếu nại) của ông Bùi Quang Hải, phường 5 đề nghị cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng có nguồn gốc do lấn chiếm “Biển”, giải quyết đơn khiếu nại ngày
07/01/2019 của ông Hải. Ngày 04/04/2019, Ông Hải và bà Kim có đơn khởi kiện Văn bản
số 504/UNBD-TNMT và Văn bản số 1126/UBND-TNMT đến TAND tỉnh H, yêu cầu
hủy 2 văn bản này và buộc UBND thành phố A tiếp nhận lại và giải quyết cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho diện tích 54,7m

2. Xác định tư cách đương sự tham gia trong vụ án

2.1. Người khởi kiện:

- Ông Bùi Quang Hải, sinh năm 1971.

- Bà Đặng Thị Kim, sinh năm 1981.

- Địa chỉ: số 179/8/1 Trần Phú, phường 5, thành phố A, tỉnh H.

- Người đại diện theo ủy quyền là : Ông Trần Quốc Chinh, sinh năm 1965 - Địa chỉ: 64/1
A Nguyễn Hới, Phường Nguyễn An Ninh, Thành phố A, Tỉnh H.

2.2. Người bị kiện :

*Với văn bản số 503 : UBND Thành phố A

- Địa chỉ : 89 Lý Thường Kiệt, phường 1, Thành phố A, tỉnh H.

- Người đại diện theo ủy quyền là: Ông Nguyễn Thế Khang – Chuyên viên Phòng TNMT;

*Với Văn bản số 1126: UBND thành phố A và Chủ tịch UBND thành phố A (Văn bản
giải quyết đơn khiếu nại của ông Hải và bà Kim)

-Địa chỉ: 89 Lý Thường Kiệt, Phường 1, Thành phố A, Tỉnh H.

3
II. BẢNG KẾ HOẠCH HỎI & LUẬN CỨ BẢO VỆ

1. Bảng kế hoạch hỏi:

1. Hỏi Bị Đơn – Đại diện UNBD Tp A (Phó chủ tịch UBND TP. A)

1. Ông cho biết thành phần hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ của ông Hải bà Kim có đầy đủ
theo quy định pháp luật không?

2. Ông cho biết lý do UBND không tiến hành thủ tục cấp GCNQSDĐ cho ông Hải, bà
Kim khi đã nhận đủ thành phần hồ sơ?

3. Cơ sở nào để ông xác định diện tích đất 54,7m2 là đất lấn, chiếm biển? Theo ông,
việc lấn đất của ông Mĩ (tức bố đẻ ông Hải) có phải trường hợp đất lấn chiếm chưa sử
dụng theo Khoản 2 Điều 22 Nghị định 43/2014/NĐ-CP không?

4. Tại sao UBND thành phố A ra Văn bản 504/UBND-TNMT về việc “tạm trả hồ sơ”
khi không cấp GCN cho ông Hải, bà Kim?

5. Ông cho biết hành vi “tạm trả hồ sơ” xin cấp GCN của UBND thành phố A có phải
là kết quả giải quyết thủ tục hành chính về đất đai hay không?

6. Trong quá trình xin ý kiến hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền, UBND TP A có
làm công văn yêu cầu giải đáp hay không khi không nhận được phản hồi không?

2. Hỏi Nguyên đơn

a) ông Bùi Quang Hải

1. Ông cho HĐXX biết, phần đất diện tích 54,7m2 có nguồn gốc như thế nào?

2. Ông hãy cho biết, quá trình sử dụng của phần đất 54.7m2 từ khi được ông Mĩ khai
phá đến nay được diễn ra như thế nào?

3. Ông có biết việc lấn chiếm đất biển, còn xây dựng nhà trọ cho thuê trên đó là vi
phạm pháp luật không?

4. Ông cho biết, thửa đất 54.7m2 tại thời điểm bố ông là ông Mĩ xây phòng trọ vào năm
2000 đã được UBND chấp nhận chuyển mục đích sử dụng sang đất ở theo quy định của
pháp luật chưa?

4
5. Năm 2004, gia đình ông đã từng bị xử phạt VPHC trong lĩnh vực lĩnh vực xây dựng
và quản lý nhà và hạ tầng kỹ thuật” với mức phạt là 1,5 triệu vnđ đúng không?

6. Ông cho biết, thời điểm bố ông xây phòng trọ trên đất để cho thuê, có thông báo, hay
thực hiện thủ tục xin cấp phép xây dựng với chính quyền địa phương không?

b) bà Đặng Thị Kim

1. Bà cho HĐXX biết, UBND thành phố A Ban hành các văn bản gồm 504/UBND-
TNMT và 1126/UBND-TNMT có nêu rõ tình trạng giải quyết hồ sơ để bà và ông Hải
được biết không?

2. Bà cho biết, hai văn bản 504/UBND-TNMT và 1126/UBND-TNMT trả lời về việc
tạm trả hồ sơ để chờ hướng dẫn của Tổng cục quản lý đất đai, Sở tài nguyên môi trường
có trái với quy định của pháp luật hay không?

3. Bà có giấy tờ gì xác nhận về việc không có tranh chấp với ai về diện tích đất 54,7 m2
không?

5
2. Bản luận cứ bảo vệ

ĐOÀN LUẬT SƯ TP. HÀ NỘI CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
VĂN PHÒNG LUẬT SƯ Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
LA VICTOIRE DÉFENSEUR

Số: /BBV-LVF Hà Nội, ngày 26 tháng 12 năm 2023

LUẬN CỨ BẢO VỆ
(Bị đơn UBND Thành phố A trong vụ án Hành chính sơ thẩm: Khiếu kiện về cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất)

Kính thưa: Hội đồng xét xử !

Quý vị Đại diện Viện Kiểm sát !

Quý Luật sư đồng nghiệp cùng toàn thể mọi người tham gia vào phiên
toà hôm nay !

Tôi là Luật sư Đoàn Đức Nhân hành nghề luật sư tại Văn phòng luật sư La
Victoire Défenseur thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội. Theo lời mời của đại diện
UBND Thành phố A là bị đơn trong vụ án Hành chính sơ thẩm được đưa ra xét xử theo
quyết định Số: 13/QDXXST-HC do TAND tỉnh H ban hành, tôi có mặt với tư cách là
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Bị đơn là UNBD Thành phố A tại phiên toà
hôm nay.

Trước tiên, tôi xin cảm ơn Hội đồng xét xử đã tạo điều kiện cho tôi được nghiên
cứu hồ sơ, tham dự phiên toà ngày hôm nay. Qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ
án, qua phần hỏi đáp cùng kết quả tranh tụng ngày hôm nay tôi xin trình bày quan điểm
bảo vệ của mình về vấn đề khiếu kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như sau:

Thứ nhất, Văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30 tháng 01 năm 2019 và văn
bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 của UBND thành phố A ban hành hoàn
toàn phù hợp với quy định của pháp luật và thực tiễn quản lý đất đai
6
Căn cứ theo đơn khởi kiện, bên khởi kiện cho rằng họ có căn cứ rằng phần diện
tích của họ được cấp GCNQSDĐ theo khoản 3, Điều 22 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đất đai (sau đây gọi tắt là Nghị định
43/2014/NĐ-CP) có quy định một số trường hợp cấp GCNQSDĐ như sau: "3. Trường
hợp lấn chiếm đất chưa sử dụng hoặc tự ý chuyển mục đích sử dụng đất thuộc trường hợp
phải xin phép theo quy định của pháp luật về đất đai mà chưa được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cho phép thì thực hiện xử lý..."

Thửa đất 54,7m2 mà gia đình ông Hải, bà Kim muốn xin cấp GCNQSDĐ có
nguồn gốc là lần đất có mặt nước ven biển chứ không phải là trường hợp lấn, chiếm đất.
Tại bút lục số 11, Phiếu lấy ý kiến của khu dân cư, ý kiến của ông Đoàn Văn Như đã nêu
rõ phần đất 54,7m2 đầu tiên là sàn gỗ trên mặt biển để phơi cá, sau đó năm 1996, ông Mỹ
(bố của ông Hải) đã xây kẻ, đổ đất, đến năm 2000 đã xây phòng trọ. Việc lấn chiếm biển
và xây dựng không được chính quyền đồng ý và có hành vi vi phạm Luật Đất đai cũng
như Luật Xây dựng. Tại phần hỏi ông Hải cũng đã xác nhận điều này.

Như vậy nguồn gốc đất này được quy định cụ thể tại Điều 140 Luật Đất đai 2013
là lấn đất có mặt nước ven biển chứ không phải là trường hợp lấn, chiếm đất, nên khi xem
xét cấp GCNQSDĐ không thể áp dụng khoản 3, điều 22 Nghị định 43/2014/NĐ-CP.

Mặt khác, Thông tư số 02/2015 TT-BTNMT ngày 27 tháng 1 năm 2015 của Bộ
Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết một số điều của Nghị định số 43/2014/NĐ-
CP và Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ liên quan
đến quản lý sử dụng đất bãi bồi, ven sông, ven biển, đất có mặt nước ven biển cũng không
đề cập đến việc xem xét cấp giấy chứng nhận đối với các trường hợp sử dụng đất có
nguồn gốc đất do lấn chiếm "biển". Tại khoản 4 Điều 26 Thông tư số 02/2015/TT-
BTNMT còn nêu rõ “trong quá trình thực hiện nếu có khó khăn, vướng mắc thì các cơ
quan tổ chức cá nhân phân ảnh kịp thời về Bộ Tài nguyên môi trường để xem xét giải
quyết". Như vậy, Chủ tịch UBND TP A cũng có văn bản gửi Sở TN&MT để Sở TN&MT
có văn bản gửi Tổng cục Quản lý đất đai hướng dẫn thực hiện theo đúng quy định pháp
luật về việc cấp GCNQSDĐ đối với trường hợp đất lấn "biển".

7
 Qua đó, Chủ tịch UBND TP A đã ban hành văn bản 504 và và văn bản 1126 để trả lời
cho gia đình ông Hải, bà Kim biết rõ được việc chậm giải quyết việc cấp GCNQSDĐ do
chưa có quy định pháp luật cụ thể để áp dụng.

Thứ hai, Việc “tạm trả hồ sơ” đăng ký quyền sử dụng đất của Ông (bà) Bùi
Quang Hải – Đặng Thị Kim theo văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/01/2019 của
UBND thành phố A là phù hợp với thực tế quản lý đất đai và quy định của pháp luật

Thửa đất số 164, tờ bản đồ số 09, diện tích 54.7m2, tọa lạc tại số 179/8/1 đường
Trần Phú, phường 5, Thành phố A mà người khởi kiện yêu cầu cấp bổ sung Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất là phần đất được hình thành bởi hoạt động “khai phá, lấn biển”.
Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án cũng những thông tin đã được thống nhất trong phần
hỏi đáp tại phiên tòa. Tại bút lục số 11 về phiếu lấy ý kiến của khu dân cư, các bên đương
sự đều thừa nhận rằng phần diện tích đất này trước đây là sàn phơi cá do ông Bùi Xuân
Mĩ cất sàn từ trước năm 1993. Đến năm 1998 ông Mĩ xây kè đổ đất lấn biển và tiếp tục
làm nơi phơi cá và năm 2000 ông Mĩ xây phòng trọ trên diện tích đất trên để cho thuê và
cho toàn bộ nhà đất đang sử dụng, tổng diện tích 156.7m2 cho vợ chồng con trai là ông
Bùi Quang Hải – bà Đặng Thị Kim từ năm 2003.

UBND thành phố A chưa thể thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất do Luật Đất đai năm 2013 và các văn
bản hướng dẫn thi hành hiện nay: chưa có quy định về trình tự, thủ tục giải quyết đối với
các trường hợp sử dụng đất có nguồn gốc do lấn “sông hoặc biển”

 Vì vậy, UBND thành phố A cần phải xin ý kiến của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền trước khi thực hiện việc cấp giấy theo quy định (đây là một trong những trường
hợp vướng mắc khi áp dụng Luật Đất đai).

Căn cứ khoản 4 Điều 26 Thông tư số 02/2015/TT-BTNMT: “4. Trong quá trình
thực hiện, nếu có khó khăn, vướng mắc thì các cơ quan, tổ chức, cá nhân phản ánh kịp
thời về Bộ Tài nguyên và Môi trường để xem xét, giải quyết”

Do chưa có văn bản hướng dẫn, trả lời của Tổng cục Quản lý Đất đai đối với
trường hợp này, nên UBND thành phố A đã ban hành văn bản số 504/UBND-TNMT

8
ngày 30/01/2019 về việc ‘tạm trả hồ sơ”, mục đích là để thông báo tình trạng và quá trình
giải quyết hồ sơ để công dân được biết. Điều này là phù hợp với thực tế quản lý hành
chính nhà nước, UBND vẫn tiến hành theo dõi và sẽ thông tin đến Ông Hải bà Kim được
biết khi có hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện quyền của người
sử dụng đất.

Thứ ba, Thửa đất trên không đủ điều kiện được cấp GCNQSDĐ

+ Một là, Không xem xét cấp GCNQSDĐ đối với đất có nguồn gốc lần đất có mặt
nước ven biển.

Trong khi chưa có văn bản hướng dẫn của cấp trên, Phòng TN&MT, TPA đã
nghiên cứu rà soát lại các quy định của pháp luật và thấy rằng: Nguồn gốc thửa đất
54,7m2 là lấn chiếm đất có mặt nước ven biển như đã trình bày ở trên. Khoản 1, Điều 140
Luật Đất đai 2013 quy định: "1. Đất có mặt nước ven biển được Nhà nước cho thuê đối
với tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để sử dụng vào mục đích nuôi trồng thủy sản, sản xuất
nông nghiệp, làm nghiệp, làm muối, phi nông nghiệp". Như vậy loại đất này chỉ cho thuê
để sử dụng vào mục đích nuôi trồng thủy sản, sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, làm
muối, phi nông nghiệp, không được làm đất ở. Chính vì vậy đất có nguồn gốc lần đất có
mặt nước ven biển không thể được xem xét cấp GCNQSDĐ.

+ Hai là, Không được xem xét cấp GCNQSDĐ đối với đất không phù hợp với quy
hoạch xây dựng chi tiết.

Tại bút lục số 27, Thông báo số 2728/TB-CN VPĐK của Chi nhánh VPĐKĐĐ TP
A ngày 07/9/2016 v/v trả hồ sơ đăng ký cấp GCNQSDĐ, QSH nhà ở và tài sản gắn liền
với đất, ý kiến của Phòng quy hoạch đô thị đã chỉ rõ: "Đối với thửa đất của Ông (Hải) như
sau: Theo quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/2000 Khu dân cư Nam Sân bay, TPA được UBND
tỉnh BR-VT phê duyệt tại quyết định số 1400/QĐ-UB ngày 10/5/2006, Quy chế quản lý
quy hoạch kiến trúc đô thị TP A được UBND TP A phê duyệt tại quyết định số
03/2014/QĐ- UB ngày 08/7/2014 thì thửa đất có 1 phần diện tích thuộc quy hoạch khu
dân cư, mật độ xây dựng theo quy chuẩn xây dựng Việt Nam, tầng cao trung bình 03 tảng:

9
Hêm hưởng Tây Nam quy hoạch rộng > 7m (tim hẻm chia đều 2 bên), Phần còn lại nằm
ngoài ranh giới quy hoạch được duyệt nên không xác định được chức năng sử dụng đất".
Tại bút lục số 30, Hồ sơ quy hoạch khu dân cư có bản vẽ do Phòng quản lý đô thị TP-A
cung cấp, phần diện tích đất 54,7m2 nằm ngoài ranh giới quy hoạch được duyệt. Theo
khoản 2 Điều 101 Luật Đất đai 2013 quy định: "2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất
không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này nhưng đất đã được sử dụng ổn
định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và không vi phạm pháp luật về đất đại, nay được
Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử
dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn
đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch thì được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất".

Như vậy thửa đất 54,7m2 nằm ngoài ranh giới quy hoạch được duyệt, không phù
với quy hoạch xây dựng, không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật đất đai 2013 do
vậy không đủ điều kiện được xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

+ Ba là, Không xem xét cấp GCNQSDĐ đối với trường hợp vượt hạn mức giao đất
ở theo quy định của UBND tỉnh H.

Tại bút lục số 23, Quyết định số 51/2014/QĐ-UB, ngày 29/10/2014 vv/v quy định
hạn mức các loại đất khi giao đất, công nhận QSD đất cho các hộ gia đình, cá nhân sử
dụng đất trên địa bàn tỉnh H, điểm b, khoản 1, Điều 1 có quy định: "bị đối với khu vực
chưa có quy hoạch xây dựng đô thị tỷ lệ 1/500, theo quy hoạch xây dựng điểm dân cư
nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, hạn mức đất ở để thực
hiện việc giao đất cho mỗi hộ gia đình, cá nhân tự làm nhà như sau : « các phường thuộc
thành phố A : không quả 150m2/1 hộ gia đình cá nhân" Như trên đã trình bày, tại bút lục
số 27, Thông báo số 2728/TB-CN VPĐK đã chỉ rõ: Khu dân cư Nam Sân bay, TP A chỉ
có quy hoạch 1/2000, chưa có quy hoạch 1/500 ».

Như vậy ông Hải, bà Kim xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất trên diện tích 156,7m2 150m2, vị trí này chưa
10
có quy hoạch chi tiết 1/500, nên chỉ có hạn mức giao tối đa cho hộ gia đình là 150m2 theo
điểm b. khoản 1, Điều 1 Quyết định số 51/2014/QĐ-UB như đã nêu ở trên. Chính vì vậy
không xem xét cấp GCNQSDĐ đối với trường hợp vượt hạn mức giao đất ở theo quy
định của UBND tỉnh H.

Từ những lập luận, viện dẫn có quy định pháp luật, kính đề nghị HĐXX :

Áp dụng điểm a) Khoản 2) Điều 193. Luật tố Tụng hành chính nám 2015 để tuyên
bác toàn bộ yêu cầu của người khởi kiện.

Trên đây là những quan điểm bảo vệ Bị đơn UNBD Thành phố A. Kính mong Hội
đồng xét xử từ đó có thể ra một bản án công minh, công lý và đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của thân chủ tôi !

Tôi xin chân thành cảm ơn !

LUẬT SƯ

Đoàn Đức Nhân

11

You might also like