You are on page 1of 17

BỘ TƯ PHÁP

HỌC VIỆN TƯ PHÁP

---o0o---

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN


Môn Kỹ năng của Luật sư khi tham gia giải quyết các vụ việc hành chính

Mã số hồ sơ số: 12
Diễn lần: 02
Ngày diễn: 29/08/2021

Họ và tên : SỬ KHẮC HOÀNG LONG

Mã số học viên : LS026

Lớp : LS23BT

Bình Thuận, ngày 29 tháng 8 năm 2021


QUYẾT ĐỊNH XỬ PHẠT TRONG LĨNH VỰC TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI
Luật sư tham gia với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện

I. TƯ CÁCH ĐƯƠNG SỰ TRONG VỤ ÁN HÀNH CHÍNH

(i) Người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị Tuyết

Địa chỉ: tổ 9, phường Đông Lân, Thành phố P, Tỉnh G.L

(ii) Người bị kiện Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L - ông Trần
Ngọc Minh

Địa chỉ: số 06 Trần Hưng Đạo, Thành phố P, Tỉnh G.L

II. ĐỐI TƯỢNG KHỞI KIỆN

Đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính
số 23/QĐ-XPHC ngày 10/03/2014 của Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch tỉnh G.L.

III. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT ÁP DỤNG

(i) Luật xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13;

(ii) Nghị định số 167/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn
hóa - thông tin;

(iii) Luật tố tụng hành chính năm 2015.

IV. TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ VIỆC

Vào lúc 21h10 ngày 23/12/2013, Đoàn kiểm tra của Thanh tra Sở Văn hóa thể thao và du lịch
tỉnh G.L tiến hành kiểm tra cơ sở kinh doanh (theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hộ
kinh doanh cá thể 39A 8005684 đăng ký lần đầu ngày 19/11/2012) của bà Nguyễn Thị Tuyết
tại số 241 đường Lê Lai, thành phố P, tỉnh GL.

Qua kiểm tra đoàn phát hiện:

(i) Phòng số 11 có ông Nguyễn Văn Thường và bà Nguyễn Thị Lành không có giấy đăng
ký kết hôn đang quan hệ vợ chồng, phòng này không được nhà trọ Hoàng Lan vào sổ
khách đến lưu trú tại thời điểm kiểm tra;

(ii) Phòng số 09 có ông Phan Văn và bà Nguyễn Thị Thùy không có giấy đăng ký kết hôn
đang ở trong phòng.
Và đưa ra Kết luận: “chủ cơ sở nhà trọ Hoàng Lan thiếu tinh thần trách nhiệm để xảy ra
hành vi vi phạm như trên”. Biên bản vi phạm hành chính số 11/BB-VPHC được lập ngày
23/12/2013.

Ngày 10/3/2014, Ông Trần Ngọc Minh đã ký quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong
hoạt động văn hóa thể thao và du lịch số 23/QĐ-XPHC với mức phạt là 15.000.000 đồng với
lý do đã có hành vi vi phạm hành chính thiếu tinh thần trách nhiệm, tạo điều kiện cho người
khác lợi dụng cơ sở kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự để tổ chức hoạt động mại dâm
(áp dụng khoản 1 Điều 25 nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2003 của Chính phủ);
Đồng thời, trong quyết định để trống ngày tháng năm tại Điều 2 và Điều 3.

Ngày 18/03/2014, thanh tra sở Văn hóa thể thao và du lịch tỉnh G.L ban hành Công văn số
02/2014 đính chính lại điều 2 là “Bà Nguyễn Thị Tuyết phải nghiêm chỉnh chấp hành QĐ xử
phạt trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày được giao quyết định xử phạt là ngày 17/3/2014”.

Không đồng ý với những nội dung đã ghi trong quyết định số 23/QĐ-XPHC của Chánh
thanh tra sở Văn hóa thể thao và du lịch, bà Tuyết đã có đơn khiếu nại ngày 24/3/2014 (Bút
lục 36).

Ngày 07/4/2014, Sở văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh G.L có công văn trả lời đơn khiếu nại
của bà Nguyễn Thị Tuyết (Bút lục 12, 13) số 167/CV-VHTTDL, theo đó việc Thanh tra Sở
ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo Biên bản vi phạm hành chính số 11/BB-
VPHC ngày 23/12/2013 là đúng quy định.

Không đồng ý với công văn trả lời ngày 07/4/2014, ngày 11/04/2014, bà Tuyết gửi Đơn
khiếu nại (Bút lục 40, 41) gửi Chủ tịch UBND tỉnh GL, gửi Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao
và Du lịch tỉnh GL, Giám đốc Sở Công an tỉnh GL khiếu nại các nội dung của Quyết định số
23/QĐ-XPHC.

Ngày 20/04/2014, Thanh tra Sở ra Quyết định về việc giải quyết đơn khiếu nại xử phạt vi
phạm hành chính (lần đầu) số 01/QĐ-TTr (Bút lục 14) giữ nguyên Quyết định xử phạt vi
phạm hành chính ngày 10/03/2014.

Không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại, ngày 02/05/2014 bà Tuyết làm Đơn khởi kiện
lên Tòa án nhân dân tỉnh GL yêu cầu hủy bỏ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong
hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo số 23/QĐ-XPHC ngày 10/03/2014 của
Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh GL.

V. HỆ THỐNG TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ

STT Tên tài liệu/chứng cứ Thời gian

1 Bản tường trình của ông Nguyễn Văn Thường 23/12/2013


2 Biên bản vi phạm hành chính trong hoạt động văn 23/12/2013
hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo số 11/BB-
VPHC

3 Tờ trình số 02/TT-TTr của Thanh tra sở VH-TT- 16/01/2014


DL

4 Bản tường trình của bà Nguyễn Thị Tuyết 12/02/2014

5 Đơn đề nghị của bà Nguyễn Thị Tuyết 09/03/2014

6 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt 10/03/2014


động văn hóa, thể thao và quảng cáo số 23/QĐ-
XPHC

7 Tờ trình số 02/2014/CV-TTr của Thanh tra sở VH- 18/03/2014


TT-DL tỉnh G.L đính chính một số nội dung trong
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt
động văn hóa, thể thao và quảng cáo số 23/QĐ-
XPHC

8 Đơn khiếu nại về việc xử phạt hành chính 24/03/2014

9 Biên bản về việc gặp gỡ, đối thoại 01/BB-TTr 27/03/2014

10 Công văn số 167/CV-VHTTDL của Sở Văn hóa, 07/04/2014


Thể thao và Du lịch

11 Phiếu hướng dẫn 11/PHD-VP của Văn Phòng 10/04/2014


UBND tỉnh G.L

12 Đơn khiếu nại 11/04/2014

13 Quyết định số 01/QĐ-TTr về việc giải quyết đơn 20/04/2014


khiếu nại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính
(lần đầu)

14 Công văn số 166/PA25 của Công An tỉnh G.L trả 20/04/2014


lời đơn thư khiếu nại

15 Giấy ủy quyền đại diện tham gia tố tụng của bà 19/05/2014


Nguyễn Thị Tuyết
16 Công văn số 04/2014/CV-TTr của Thanh tra sở 29/05/2014
văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh G. L gửi Tòa án
nhân dân tỉnh G.L

17 Giấy ủy quyền đại diện tham gia tố tụng của Chánh 17/06/2014
Thanh tra sở văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh G. L

18 Biên bản lấy lời khai của Dương Văn Thủy 18/06/2014

19 Bản tự khai của bà Nguyễn Thị Tuyết 23/06/2014

20 Biên bản lấy lời khai của Mai Anh Tuấn 10/07/2014

21 Biên bản lấy lời khai của Dương Văn Thành 24/07/2014

22 Biên bản lấy lời khai 17/08/2014

23 Đơn kiến nghị của bà Nguyễn Thị Tuyết 05/09/2014

24 Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh cá thể số 19/11/2012


39A 8005684

25 Bản tường trình của bà Nguyễn Thị Tuyết 29/12/2013

26 Bản cam kết thực hiện các quy định, điều kiện về [không có thời gian cụ thể]
an ninh, trật tự để làm ngành, nghề kinh doanh có
điều kiện

27 Bản tường trình của ông Phan Văn [không có thời gian cụ thể]

28 Bản tường trình của bà Nguyễn Thị Thùy [không có thời gian cụ thể]

VI. PHẦN THAY MẶT TRÌNH BÀY Ý KIẾN CỦA ĐƯƠNG SỰ

Phần trình bày ý kiến của người bị kiện đối với yêu cầu của người khởi kiện

Kính thưa Hội đồng xét xử, tôi là luật sư Đoàn Thế Hiếu thuộc Công ty HD Law và Cộng Sự
- Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội. Tôi tham gia phiên tòa hôm nay với tư cách người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện - ông Trần Ngọc Minh, Phó Giám đốc kiêm
Chánh thanh tra sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L. Tôi xin trình bày ý kiến của thân
chủ tôi đối với yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Tuyết như sau:

Ngày 23/12/2013, Thanh tra Sở Văn Hóa, Thể Thao và Du Lịch và Công an tỉnh G.L kiểm
tra nhà trọ Hoàng Lan do bà Nguyễn Thị Tuyết làm chủ cơ sở tại số 241 đường Lê Lai, thành
phố P, tỉnh GL.

Sau khi kiểm tra, Đoàn kiểm tra đã lập Biên bản vi phạm hành chính (Bút lục 07) số 11/BB-
VPHC, kết luận: Chủ cơ sở kinh doanh nhà trọ Hoàng Lan thiếu tinh thần trách nhiệm để xảy
ra hành vi vi phạm. Cụ thể các hành vi:

+ Tại thời điểm kiểm tra nhà trọ Hoàng Lan phòng 11 có ông Nguyễn Văn Thường và bà
Nguyễn Thị Lành không có giấy kết hôn đang quan hệ vợ chồng (quan hệ tình dục); phòng
số 09 có ông Phan Văn và bà Nguyễn Thị Thùy không có giấy kết hôn đang ở chung phòng
xem tivi;

+ Tại phòng số 11 chủ cơ sở kinh doanh không vào sổ bà Nguyễn Thị Lành.

Ngày 29/12/2013 Thanh tra Sở mời bà Tuyết đến làm việc và bà Tuyết tiếp tục thừa nhận
hành vi phạm nêu trên và xin sửa chữa. (Bút lục 28).

Ngày 16/01/2014, Thanh tra Sở đã làm tờ trình số 02/TT-TTr đề nghị được gia hạn thời hạn
ban hành quyết định xử phạt hành chính và đã được Giám đốc Sở phê duyệt (Bút lục 43).
Theo đó gia hạn thời hạn ra quyết định xử phạt đến hết ngày 11/3/2014

Ngày 12/2/2014, 9/3/2014, Thanh tra Sở mời bà Tuyết lên làm việc. Tuy nhiên, bà Tuyết vẫn
không chứng minh được các đối tượng trên là vợ chồng, không cung cấp, bổ sung thêm tài
liệu gì, thừa nhận hành vi vi phạm của cơ sở (Thể hiện tại Bút lục 29, 30 - Biên bản làm việc
có sự xác nhận của bà Tuyết) và xin chịu nộp phạt tiền do hành vi vi phạm hành chính của cơ
sở với mức phạt khung thấp nhất.

Ngày 10/03/2014, Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ra Quyết định xử
phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XPHC, trong đó xác định mức phạt đối với hành vi vi
phạm của bà Nguyễn Thị Tuyết là 15.000.000 VNĐ. Đã nhiều lần Thanh tra Sở mời bà
Nguyễn Thị Tuyết đến nhận quyết định xử phạt nhưng bà Tuyết không đến nhận, do đó đã
gửi quyết định qua đường bưu điện. Văn bản gửi bà Tuyết có một số sai sót nên ngày
18/3/2014, Thanh tra Sở gửi Công văn số 02/1014/CV-TTr và Quyết định xử phạt đã được
đính chính cho bà Nguyễn Thị Tuyết.

Ngày 02/05/2014, bà Tuyết nộp đơn khởi kiện Chánh thanh tra Sở Văn hóa, thể thao và du
lịch tỉnh G.L tại Tòa án nhân dân tỉnh G.L với nội dung yêu cầu Tòa án hủy bỏ Quyết định
xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XPHC.

Chúng tôi không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của Bà Nguyễn Thị Tuyết. Theo các quy định
tại Luật xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực ngày 01/07/2013; Pháp lệnh phòng, chống mại
dâm có hiệu lực ngày 01/07/2003 và các văn bản pháp luật có liên quan, việc Chánh thanh
tra Sở văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh G.L ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số
23/QĐ-XPHC đối với chủ cơ sở nhà trọ Hoàng Lan bà Nguyễn Thị Tuyết là hoàn toàn có
căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật trên phương diện xác định hành vi vi phạm, thẩm
quyền xử phạt, thời hạn ra quyết định cũng như nội dung Quyết định. Do vậy, chúng tôi kính
đề nghị Hội đồng xét xử bác yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.

Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét

VII. KẾ HOẠCH HỎI TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM

Quá trình hỏi của luật sư tham gia với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
Người bị kiện – ông Trần Ngọc Minh sẽ được tiến hành như sau:

3.1 Hỏi Người đại diện theo ủy quyền của bà Tuyết

- Bà Tuyết đã xác nhận những hành vi vi phạm nào? trong Biên bản ngày 23/12/2013?

- Bà Lành đến thăm ông Thường tại P.11 bà Tuyết có biết không?

- Bà Thùy thuê tại Phòng số 9 có đúng không?

- Bà Tuyết có yêu cầu bà Lành và bà Thùy xuất trình giấy tờ tùy thân không?

- Bà Tuyết đã không vào sổ theo dõi bà Nguyễn Thị Lành phòng số 11 và bà Nguyễn
Thị Thùy phòng số 9. Điều này có đúng không

- Bà Tuyết có biết kinh doanh dịch vụ nhà trọ bình dân là ngành, nghề kinh doanh có
điều kiện?

- Bà Tuyết đã tuân thủ đúng điều kiện về an ninh, trật tự đối với ngành, nghề kinh
doanh dịch vụ lưu trú:

- Bà Tuyết đã xác nhận với kết luận tại Biên bản làm việc ngày 09/3/2014 ?

- Sau khi lập Biên bản vi phạm ngày 23/12/2013, Thanh tra Sở có mời bà Tuyết lên làm
việc không?

- Các bản giải trình ngày 29/12/2013 và ngày 12/02/2014 là bà tự giải trình và nộp cho
cơ quan nhà nước?

- Với vai trò và trách nhiệm của mình là chủ của cơ sở kinh doanh dịch vụ nhà trọ, bà
Tuyết có chủ động tuyên truyền hay nhắc nhở cho khách sử dụng dịch vụ về hành vi
mua bán dâm, quan hệ tình dục không phải vợ chồng là hành vi vi phạm pháp luật
không?

3.2. Hỏi người bị kiện

- Tại quyết định XPVPHC lại căn cứ vào Biên bản VPHC ngày 21/12/2013. Ông giải
thích vấn đề này như thế nào?

- Khi lập Biên bản vi phạm, ông đã đọc lại nội dung cho mọi người? Bà Tuyết đã xác
nhận nội dung Biên bản?

- Trước khi ra quyết định xử phạt, Thanh tra Sở đã mời bà Tuyết lên làm việc và bổ
sung tài liệu mấy lần? Cụ thể những lần nào?

- Sau khi lập Biên bản vi phạm hành chính ngày 23/12/2013, tại sao ông không ra
Quyết định xử phạt VPHC luôn?

- Ông đã làm văn bản gia hạn thời hạn ra Quyết định XPVPHC?

- Theo ông, hành vi của chủ cơ sở Hoàng Lan vi phạm quy định của pháp luật?

VIII. BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CHO NGƯỜI BỊ KIỆN

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

G.L, ngày 23 tháng 12 năm 2018

BẢN LUẬN CỨ

Kính thưa: - Hội đồng xét xử!


- Thưa vị đại diện Viện Kiểm sát!
- Thưa toàn bộ quý vị có mặt tại phiên tòa ngày hôm nay!

Tôi là luật sư Sử Khắc Hoàng Long, thuộc Công ty Luật LS23BT - Đoàn luật sư thành phố
Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Tôi tham gia phiên tòa hôm nay với tư cách người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện - ông Trần Ngọc Minh, Phó Giám đốc kiêm
Chánh thanh tra sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L trong vụ án hành chính khiếu kiện
quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch.

Qua quá trình nghiên cứu hồ sơ một cách nghiêm túc, qua phần hỏi công khai tại phiên tòa
hôm nay, chúng tôi xin được trình bày quan điểm bảo vệ của mình như sau:

1. Quyền khởi kiện của bà Tuyết

Ngày 24/03/2014, bà Tuyết đã làm đơn khiếu nại lần đầu Quyết định số 23/QĐ-XP
đến Thanh tra Sở. Theo đó, ngày 20/04/2014, Thanh tra Sở đã trả lời bằng Quyết định số
01/QĐ-TTr giải quyết khiếu nại xử phạt vi phạm hành chính lần đầu. Tuy nhiên, trong
quá trình đợi giải quyết khiếu nại lần đầu, vào ngày 11/04/2014 bà Tuyết lại tiếp tục nộp
đơn khiếu nại đến Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (cơ quan có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại lần 2).

Khoản 1 Điều 118 Luật tố tụng hành chính năm 2015 quy định một trong những
nội dung bắt buộc phải có trong Đơn khởi kiện đó là "Cam đoan về việc không đồng
thời khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại."

Đơn khởi kiện của bà Tuyết ngày 02/05/2014 gửi Tòa án nhân dân tỉnh G.L không
hề nhắc đến việc bà đã nộp đơn khiếu nại đến Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch. Trong đó, bà đã không cam đoan không đồng thời khiếu nại đến người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại.

Đơn khiếu nại lần 2 của bà Tuyết ngày 11/04/2014 cho đến thời điểm bà làm Đơn
khởi kiện ngày 02/05/2014 là 21 ngày.

Điều 37 Luật Khiếu nại năm 2011 quy định về thời hạn giải quyết khiếu nại lần
2 như sau:

"Thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ
việc phức tạp thì thời hạn giải quyết khiếu nại có thể kéo dài hơn nhưng không quá 60
ngày, kể từ ngày thụ lý."

Căn cứ điểm g khoản 1 Điều 123 Luật tố tụng hành chính 2015, thẩm phán phải
trả lại đơn khởi kiện. Tuy nhiên Tòa án nhân dân tỉnh G.L vẫn thụ lý đơn khởi kiện của
bà Tuyết là vi phạm pháp luật tố tụng.

2. Về hành vi vi phạm và lý do xử phạt

Chủ cơ sở nhà trọ Hoàng Lan - Bà Nguyễn Thị Tuyết có hành vi vi phạm hành chính: thiếu
tinh thần trách nhiệm tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh doanh có điều về an
ninh, trật tự để tổ chức hoạt động mại dâm theo quy định tại khoản 1 Điều 25 - Nghị định
167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an
toàn xã hội; phòng chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia
đình. Bởi lẽ:

Ngày 23/12/2013, Thanh tra Sở Văn Hóa, Thể Thao và Du Lịch và Công an tỉnh G.L tiến
hành kiểm tra nhà trọ Hoàng Lan do bà Nguyễn Thị Tuyết làm chủ cơ sở tại số 241 đường Lê
Lai, thành phố P, tỉnh GL. Sau khi kiểm tra, Đoàn đã lập Biên bản vi phạm hành chính số
11/BB-VPHC, kết luận: Chủ cơ sở kinh doanh nhà trọ Hoàng Lan thiếu tinh thần trách nhiệm
để xảy ra hành vi vi phạm. Cụ thể các hành vi:

+ Tại thời điểm kiểm tra nhà trọ Hoàng Lan phòng 11 có ông Nguyễn Văn Thường và
bà Nguyễn Thị Lành không có giấy kết hôn đang quan hệ vợ chồng (quan hệ tình
dục); phòng số 09 có ông Phan Văn và bà Nguyễn Thị Thùy không có giấy kết hôn
đang ở chung phòng xem tivi;

+ Tại phòng số 11 chủ cơ sở kinh doanh không vào sổ bà Nguyễn Thị Lành.

Bà Tuyết - chủ cơ sở, ông Thường, bà Lành và ông Phan Văn đã ký xác nhận hành vi vi
phạm này.

Ông Nguyễn Văn Thường và ông Phan Văn viết Bản tường trình xác nhận quan hệ vợ chồng
(Bút lục 31, 32, 33), tuy nhiên không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh quan hệ
hôn nhân.

Trong quá trình điều tra xem xét, xác minh vụ việc, bà Tuyết - Chủ cơ sở không bổ sung
thêm được giấy tờ gì và xác nhận hành vi vi phạm của mình, thể hiện tại các Bút lục số 28,
29 (Bản tường trình ngày 29/12/2013); thêm vào đó bà Nguyễn Thị Tuyết cũng đã thừa nhận
là có hành vi tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh doanh có điều kiện về an ninh
trật tự để tổ chức hoạt động mại dâm, ma tuy, cờ bạc hoặc các hoạt động trái pháp luật khác
thể hiện tại (Biên bản làm việc ngày 9/3/2014).

Bà Tuyết là chủ cơ sở nhà trọ nhưng không ghi nhận việc chị Lành đã có mặt tại nhà trọ và ở
cùng với anh Thường vào ngày 23/12/2013.

Ngoài ra, tại thời điểm kiểm tra bà Tuyết còn có hành vi vi phạm không vào sổ đối với bà
Thùy (Tại phòng số 09) và bà Lợi là khách thuê phòng, điều này đã được chính bà Tuyết -
Chủ cơ sở khẳng định tại Bút lục số 24 và 45.

- Hành vi nêu trên của bà Tuyết - Chủ cơ sở nhà trọ Hoàng Lan đã vi phạm các quy định sau:

+ Quy định tại khoản 1 Điều 25 - Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng chống tệ nạn
xã hội. Cụ thể:

“Điều 25. Hành vi lợi dụng kinh doanh, dịch vụ để hoạt động mua dâm, bán dâm
1. Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với người đứng đầu cơ sở
kinh doanh dịch vụ do thiếu tinh thần trách nhiệm để xảy ra hoạt động mua dâm, bán
dâm ở cơ sở do mình quản lý.”

+ Quy định tại Khoản 5 Điều 3 - Pháp lệnh số 10/2003/PL-UBTVQH11 của


UBTVQH về phòng, chống mại dâm quy định:
“Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Pháp lệnh này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
5. Tổ chức hoạt động mại dâm là hành vi bố trí, sắp xếp để thực hiện việc mua dâm,
bán dâm.”

+ Vi phạm quy định tại điểm e khoản 2 điều 6 Thông tư số 33/2010/TT-BCA quy
định cụ thể điều kiện về an ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề kinh doanh có
điều kiện:

“e) Cho thuê lưu trú


- Phải ghi đầy đủ các thông tin của khách lưu trú vào sổ trước khi khách vào phòng
nghỉ và thông báo lưu trú với cơ quan Công an xã, phường, thị trấn sở tại.
...
- Người đến thăm khách lưu trú tại phòng nghỉ phải xuất trình giấy tờ tùy thân tại
quầy lễ tân, cơ sở phải có sổ theo dõi và ghi rõ, đầy đủ các thông tin có liên quan.
- Nghiêm cấm việc sử dụng cơ sở làm nơi chứa cấp tội phạm, chứa chấp, môi giới
mại dâm và các hành vi vi phạm pháp luật khác.”

Từ những phân tích, lập luận nêu trên, đối chiếu các quy định tại khoản 1 Điều 25 - Nghị
định 167/2013/NĐ-CP; khoản 5 điều 3 - Pháp lệnh số 10/2003/PL-BUTVQH11 về phòng
chống mại dâm; điểm e khoản 2 điều 6 - Thông tư 33/2010/TT-BCA quy định cụ thể điều
kiện về an ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề kinh doanh có điều kiện hoàn toàn có căn
cứ để xác định có hành vi vi phạm xảy ra trên thực tế, và bà Tuyết - chủ cơ sở đã thiếu trách
nhiệm để xảy ra vụ việc này trong nhà trọ của mình.

Vì vậy, quyết định xử phạt số 23/QĐ-XP của Chánh thanh tra Sở văn hóa, thể thao và du lịch
tỉnh G.L về hành vi “thiếu tinh thần trách nhiệm tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở
kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự để tổ chức hoạt động mại dâm” là có căn cứ và
đúng với thực tế khách quan của vụ việc.

3. Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XPHC ngày 10/3/2014 của
Chánh thanh tra Sở Văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh G.L ban hành đúng trình
tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.

- Thứ nhất, về Biên Bản ngày 23/12/2013:

Chúng tôi tại đây nhận định rằng Biên Bản được lập ngày 23/12/2013 chỉ là một Biên Bản
mang tính chất ghi nhận vụ viêc bởi các lý do sau đây:

Khoản 1 Điều 58 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012: “Khi phát hiện vi phạm hành
chính thuộc lĩnh vực quản lý của mình, người có thẩm quyền đang thi hành công vụ phải kịp
thời lập biên bản, trừ trường hợp xử phạt không lập biên bản theo quy định tại khoản 1 Điều
56 của Luật này…”

Theo đó, pháp luật về xử lý vi phạm hành chính quy định khi phát hiện hành vi vi phạm hành
chính người có thẩm quyền đang thi hành công vụ phải kịp thời lập biên bản, Luật không quy
định bắt buộc hay ngay lập tức người thì hành công vụ phải lập biên bản tại thời điểm phát
hiện ra hành vi. Ở một khía cạnh khác, tại nội dung văn bản ngày 23/12/2013 thể hiện như
sau : “Tiến hành lập biên bản kiểm tra: vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa thể
thao và du lịch”. Từ những cơ sở đó chúng tôi nhận định rằng Biên Bản lập ngày 23/12/2013
chỉ mang tính chất ghi nhận vụ việc chứ chưa phải là một Biên Bản vi phạm hành chính.
Trong vụ án, có nhiều tình tiết cần phải có thời gian xác minh làm rõ để có đủ các cơ
sở kết luận về hành vi của bà Tuyết, thỏa mãn dấu hiệu về vụ án phức tạp theo quy định tại
khoản 12 Điều 3 - Luật TTHC 2015. Trong thời gian và quá trình xác minh chúng tôi đã, tạo
điều kiện nhiều lần để Bà Tuyết giải trình và cung cấp thêm các giấy tờ chứng nhận kết hôn
của Ông Thường và Bà Lành tuy nhiên, Bà Tuyết không cung cấp được. Do đó, Ngày
09/03/2014 thân chủ tôi đã tiến hành lập Biên bản kết luận: “Nhà trọ Hoàng Lan do bà
Nguyễn Thị Tuyết làm chủ đã có hành vi thiếu trách nhiệm tạo điều kiện cho người khác lợi
dụng cơ sở kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự để tổ chức mại dâm” . Chúng tôi nhận
định rằng Biên Bản được lập ngày 09/03/2014 hội tụ và đảm bảo đầy đủ yếu tố của một biên
bản vi phạm hành chính theo Khoản 2 Điều 58 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012, việc
xác định thời hạn ra quyết định xử lý vi phạm hành chính được chúng tôi xác định kể từ Biên
Bản ngày 09/03/2014.

- Thứ hai, về thời hạn ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính:

+ Khoản 1 điều 66 - Luật XLVPHC 2012 quy định:

“Điều 66. Thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính

1. Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết định xử phạt vi
phạm hành chính trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành
chính. Đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp mà không thuộc trường hợp giải
trình hoặc đối với vụ việc thuộc trường hợp giải trình theo quy định tại khoản 2 và
khoản 3 Điều 61 của Luật này thì thời hạn ra quyết định xử phạt tối đa là 30 ngày, kể
từ ngày lập biên bản.
Trường hợp vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp và thuộc
trường hợp giải trình theo quy định tại đoạn 2 khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của Luật
này mà cần có thêm thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ thì người có thẩm
quyền đang giải quyết vụ việc phải báo cáo thủ trưởng trực tiếp của mình bằng văn
bản để xin gia hạn; việc gia hạn phải bằng văn bản, thời hạn gia hạn không được quá
30 ngày”.

Vì vậy, kể từ 09/03/2014 là ngày lập Biên bản vi phạm cho tới ngày 10/03/2014 ban hành
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là không vi phạm quy định về thời hạn theo quy định
tại Điều 66 - Luật XLVPHC 2012, phù hợp với nguyên tắc áp dụng pháp luật của Việt Nam.

Từ những phân tích, lập luận trên chúng tôi khẳng định rằng, Quyết định xử phạt vi phạm
hành chính của Chánh thanh tra Sở Văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh G.L ban hành là đúng
trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.

4. Quyết định xử phạt vi phạm hành chính ban hành đúng thẩm quyền

Người ban hành và trực tiếp ký quyết định xử phạt vi phạm hành chính là Ông Trần Ngọc
Minh, chức vụ Phó Giám đốc kiêm Chánh Thanh tra Sở văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh G.L
với hình thức xử phạt: Phạt tiền 15.000.000 VNĐ.

- Căn cứ pháp lý:

+ Điểm b khoản 2 điều 46 - Luật XLVPHC 2012 quy định:

“Điều 46. Thẩm quyền của Thanh tra:


2. Chánh Thanh tra sở có quyền:
b) Phạt tiền đến 50% mức tiền phạt tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định tại
Điều 24 của Luật này nhưng không quá 50.000.000 đồng;”

+ Điểm b khoản 1 điều 24 - Luật XLVPHC 2012 quy định:

“Điều 24. Mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực
1. Mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực quản lý nhà nước đối với cá nhân được quy
định như sau:
b) Phạt tiền đến 40.000.000 đồng: an ninh trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ
nạn xã hội; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã; giao thông đường
bộ; giao dịch điện tử; bưu chính;”

+ Khoản 3 Điều 16 Nghị định số 178/2004/NĐ-CP Quy định chi tiết thi hành một số
điều của Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm:
“3. Lực lượng thanh tra chuyên ngành của các ngành Lao động - Thương binh và Xã
hội, Văn hóa - Thông tin, Thương mại, Du lịch, Y tế có quyền xử phạt theo thẩm
quyền quy định tại Điều 38 của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính đối với các hành
vi vi phạm pháp luật phòng, chống mại dâm được quy định tại Nghị định này”.

Từ những căn cứ pháp lý nêu trên, chúng tôi khẳng định rằng thân chủ tôi - Ông Trần Ngọc
Minh - Phó Giám đốc kiêm Chánh Thanh tra Sở văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh G.L ban
hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XPHC ngày 10/3/2014 là hoàn toàn
đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

5. Căn cứ pháp lý và căn cứ thực tế ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành
chính

- Thứ nhất, về căn cứ pháp lý: Trong quyết định xử phạt vi phạm hành chính tại Bút lục số
05 gửi cho người bị xử phạt - bà Nguyễn Thị Tuyết:
+ Căn cứ Luật xử lý vi phạm hành chính 2012;
+ Căn cứ Điều 25 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong
hoạt động văn hóa - thông tin.

Tên Quyết định 167/2013 không chính xác và đã được ông Trần Ngọc Minh đính chính tại
Công văn số 02/2014/VC-TTr (Bút lục số 34) gửi bà Nguyễn Thị Tuyết vào ngày 18/3/2014.
- Thứ hai, về căn cứ thực tế - hành vi vi phạm: hành vi thiếu tinh thần trách nhiệm tạo điều
kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh doanh có điều về an ninh, trật tự để tổ chức hoạt
động mại dâm đã được chúng tôi phân tích ở trên.
Vì vậy, việc ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với bà Nguyễn Thị Tuyết -
chủ cơ sở nhà trọ Hoàng Lan là hoàn toàn có căn cứ.

6. Nội dung Quyết định xử phạt vi phạm hành chính

- Thứ nhất, đối tượng áp dụng

Điều 1 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XP (Bút lục 05) quy định: Xử phạt
vi phạm hành chính đối với bà Nguyễn Thị Tuyết là cá nhân đại diên hộ kinh doanh cá thể
(Thể hiện trong Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh cá thể - Bút lục 10).
Việc xác định đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính theo đúng quy định tại khoản 1 điều
5 - Luật xử lý vi phạm hành chính 2012.

- Thứ hai, hình thức xử phạt:

Phạt tiền với mức phạt là 15.000.000 VNĐ (mười lăm triệu đồng).
Áp dụng quy định tại điểm b khoản 2 điều 46, điểm b khoản 1 điều 24 - Luật xử lý vi phạm
hành chính, theo đó: Chánh thanh tra Sở có quyền phạt tiền đến 50% mức tiền phạt tối đa đối
với lĩnh an ninh trật tự, an toàn xã hội; phòng chống tệ nạn xã hội không quá 50.000.000
VNĐ (Năm mươi triệu đồng).

- Thứ ba, hành vi vi phạm:

Hành vi vi phạm chính: thiếu tinh thần trách nhiệm tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ
sở kinh doanh có đủ điều kiện về an ninh, trât tự để tổ chức hoạt động mại dâm (Áp dụng
khoản 1 - điều 25 Nghị định 167/2013/NĐ-CP) là hoàn toàn có căn cứ.

- Thứ tư, thời điểm có hiệu lực của Quyết định xử phạt:

Quyết định xử phạt vi phạm hành chính (Bút lục 05) đề ngày 10/3/2014, trong quyết định
không ghi rõ ngày có hiệu lực của Quyết định. Và ngày 18/3/2014, Thanh tra Sở đã gửi Công
văn số 02/2014/CV-TTr (Bút lục 34, 35) đính chính lại Quyết định xử phạt vi phạm hành
chính số 23/QĐ-XPHC ngày 10/3/2014, theo đó:

+ Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký (là ngày 10/3/2014);

+ Bà Nguyễn Thị Tuyết phải nghiêm chỉnh chấp hành quyết định xử phạt trong thời hạn
10 ngày, kể từ ngày được giao Quyết định xử phạt là ngày 17/3/2014. Hoàn toàn phù
hợp với quy định tại khoản 2 điều 68 - Luật xử lý vi phạm hành chính 2012. Tại bút
lục số 45, người đại diện theo ủy quyền của bà Tuyết là ông Mai Anh Tuấn đã khẳng
định bà Tuyết nhận được Quyết định vào ngày 17/3/2014.
Từ những phân tích nêu trên, nội dung Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là
hoàn toàn đúng với căn cứ pháp lý và hành vi vi phạm xảy ra trên thực tế.
Từ những phân tích, lập luận cũng như các căn cứ chứng minh nêu trên, chúng tôi
một lần nữa khẳng định rằng: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XPHC đối
với chủ cơ sở nhà trọ Hoàng Lan bà Nguyễn Thị Tuyết ngày 10/3/2014 của Chánh thanh tra
Sở văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh G.L là hoàn toàn có căn cứ, phù hợp với quy định của
pháp luật. Kính đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: khoản 1 Điều 25 - Nghị định
167/2013/NĐ-CP, khoản 5 điều 3 - Pháp lệnh số 10/2003/PL - UBTVQH11, điểm e khoản 2
điều 6 Thông tư số 33/2010/TT-BCA, Điểm b khoản 1 điều 24, Điểm b khoản 2 điều 46 -
Luật XLVPHC 2012, Khoản 3 Điều 16 Nghị định số 178/2004/NĐ-CP và điểm a khoản 2
điều 193 - Luật TTHC 2015 bác yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Tuyết - Chủ cơ sở
kinh doanh nhà trọ Hoàng Lan.
Kính thưa hội đồng xét xử, qua các hành vi mà chủ cơ sở kinh doanh nhà trọ đã được
chúng tôi nêu trên, việc mặc kệ cho hành vi mại dâm, quan hệ tình dục không phải vợ chồng
xảy ra mà không chủ động nhắc nhở, ngăn chặn kịp thời, buông lỏng quản lý cũng được coi
là hành động tiếp tay cho hoạt động mại dâm, hành vi vi phạm pháp luật diễn ra;
Vì vậy, việc ra quyết định xử phạt là hoàn toàn đúng pháp luật và không thể nào bị
hủy bỏ. Nếu hủy bỏ quyết định xử phạt này sẽ tạo tiền lệ xấu, tạo kẽ hở trong pháp luật,
không đẩy lùi được tệ nạn mại dâm mà còn tạo điều kiện cho hoạt động bị pháp luật nghiêm
cấm, xã hội lên án này ngày càng phát triển, kéo theo nhiều hệ lụy tiêu cực trong xã hội,
khiến nhiều kẻ coi thường pháp luật, từ đó tính thượng tôn pháp luật không được coi trọng.
Trên đây là toàn bộ luận cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ tôi -
Ông Trần Ngọc Minh - Chánh Thanh tra Sở văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh G.L. Tôi xin
cảm ơn Hội đồng xét xử, cảm ơn những người tham gia tố tụng và những người tham gia
phiên tòa đã chú ý lắng nghe phần trình bày này và mong chờ sự công tâm của Hội đồng xét
xử!

Luật sư

Sử Khắc Hoàng Long

* Yêu cầu của giáo viên:


Câu 1: Quan điểm của luật sư khi bà Lành xuất trình chứng cứ là Giấy chứng nhận
đăng ký kết hôn tại phần hỏi:
Luật sư người khởi kiện: sẽ xin tòa tạm dừng hoặc hoãn phiên tòa để xác minh
giấy đăng ký kết hôn là thật và trước thời điểm ông Thường và bà Lành vào nhà
nghỉ Hoàng Lan.
Luật sư người bị kiện: sẽ kiến nghị tòa tiếp tục vì trước khi tòa diễn ra Thẩm phán
– chủ tọa phiên tòa đã hỏi ai có thêm chứng cứ gì không thì bà Lành không nêu ra
cho đến phần hỏi mới đưa ra thêm chứng cứ. Mặc dù xuất hiện tình tiết mới nhưng
không ảnh hưởng đến quá trình tố tụng tại tòa.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 133 Luật tố tụng hành chính năm 2015, trường
hợp sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, đương sự mới
giao nộp tài liệu, chứng cứ mà Tòa án đã yêu cầu đương sự giao nộp trước đó thì
đương sự phải chứng minh lý do của việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ. Nếu lý
do chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ là chính đáng thì Hội đồng xét xử chấp nhận
việc giao nộp tài liệu, chứng cứ đó. Nếu đương sự nêu lý do nhưng lý do không
chính đáng thì Tòa án không chấp nhận việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ đó,
nhưng phải lập luận việc không chấp nhận tài liệu, chứng cứ đó trong bản án, quyết
định của Tòa án. Tuy nhiên, cần lưu ý trường hợp tài liệu, chứng cứ đã giao nộp
chưa đảm bảo đủ cơ sở để giải quyết vụ án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử yêu
cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc tự mình xác minh, thu thập
tài liệu, chứng cứ để làm rõ các tình tiết của vụ án.

Câu 2: Phương pháp và mục đích hỏi tại phiên tòa của 2 bên luật sư
Để xác định hành vi vi phạm hành chính của vụ án trong phiên tòa vừa qua, thì
phương pháp và mục đích hỏi của 2 bên luật sư vẫn chưa logic.
Thứ nhất là về thẩm quyền xử phạt: ở đây vẫn chưa rõ việc xử phạt việc vi phạm
hành chính này thuộc về ai.
Thứ hai là về trình tự thủ tục xử phạt: Có đúng với quy trình xử phạt vi phạm hành
chính hay không, vì việc không ghi tên vô sổ có thể áp dụng vô việc trốn thuế từ
tiền thuê nhà nghỉ của khách.
Thứ ba là về thời hiệu xử phạt: Khi có thông báo xử phạt nhưng lại hoãn thì không
chứng minh được việc chờ kết luận thanh tra điều ra.
Mục đích hỏi của 2 bên luật sư vẫn chưa xoáy vào trọng tâm là việc xác định vi
phạm hành chính mà chỉ tập trung vào người làm chứng và các văn bản đã ban
hành.
Mục đích hỏi cũng dựa vào các căn cứ pháp luật chứ chưa dựa trên thực tiễn của
vụ việc xảy ra, phải tập trung vào sự việc đã diễn ra thực sự lúc đó, để rút ra được
kết luận về việc vi phạm hành chính của nhà nghỉ Hoàng Lan.

Kết luận:
Phương pháp hỏi: Mặc dù cơ sở để bảo vệ cho NBK yếu, nhưng các Luật sư bên

NBK có phương pháp đặc câu hỏi rất đặc sắc, hỏi những câu rất thực tế như “Nếu

không có vi phạm, tại sao tại các hồ sơ khiếu nại, bà Tuyết lại thừa nhận hành vi

của mình?”. Các câu hỏi có tính logic cao để chứng minh cho việc ban hành Quyết

định 23/QĐ-XP của mình là đúng và dẫn tới yêu cầu “Cần tạm ngừng phiên tòa để

giám định chứng mới là Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn của bà Lành vì bà đã

từng bị xử phạt hành vi hành chính mua bán dâm”. • Mục đích hỏi: Các câu hỏi mà

các luật sư đã hỏi ông Tuấn – người đại diện cho bà Tuyết phù hợp theo logic đã

đảm bảo mục đích để chứng minh bà Tuyết có hành vi vi phạm, chứng minh quyết

định do mình ban hành là đúng như “Giấy đăng ký kinh doanh bà Tuyết được cấp

ngày nào”, “Bà Tuyết hoạt động lâu vậy mà không nắm được quy định?”, “Bà

Tuyết có biết ngành nghề kinh doanh của mình thuộc ngành nghề kinh doanh có

điều kiện?

You might also like