You are on page 1of 27

Chương 2: Chủ nghĩa duy vật biện chứng

I- VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC


1. Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất
1.1. Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước C.
Mác về phạm trù vật chất
- Chủ nghĩa duy tâm:
Tuy có thừa nhận sự tồn tại của vật chất nhưng lại phủ định đi đặc trưng “tự
thân tồn tại” của vật chất. Chủ nghĩa duy tâm khách quan coi sự tồn tại của
vật chất là sự “tha hóa” của “ý niệm tuyệt đối” của “tinh thần thế giới”; chủ
nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận vật chất tồn tại phụ thuộc vào ý thức, coi
vật chất là sự “phức hợp” của ý thức con người.
- Chủ nghĩa duy vật thời cổ đại:
Hầu hết các nhà duy vật thời kỳ này quy vật chất về một hay một vài dạng
cụ thể xem chúng là khởi nguyên của thế giới, tức đồng nhất vật chất nói
chung với những sự vật cụ thể, hữu hình.
Quan niệm về vật chất của các nhà triết học duy vật thời cổ đại mang tính
trực quan, thô sơ, mộc mạc, tự phát và phỏng đoán.
+ Ưu điểm: Các nhà triết học duy vật thời cổ đại đã coi vật chất là cơ sở,
bản nguyên của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới; xuất phát từ chính thế
giới vật chất để giải thích thế giới.
+ Hạn chế: Đồng nhất vật chất nói chung với vật thể vì vậy quan niệm về
vật chất của họ mang tính trực quan, phỏng đoán.
- Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XV - XVIII:
Bắt đầu từ thời kỳ Phục hưng, với sự phát triển mạnh của khoa học tự nhiên -
thực nghiệm, đặc biệt là cơ học cổ điển, do vậy, nhận thức của con người ở
thời kỳ này, bị chi phối bởi quan niệm siêu hình. Quan niệm triết học về thế
giới cũng bị chi phối bởi quan niệm siêu hình: các nhà triết học vẫn coi
nguyên tử là phần tử vật chất nhỏ nhất, không thể phân chia... Vận động của
vật chất chỉ được coi là vận động cơ học, nguồn gốc của vận động nằm ngoài
sự vật.
+ Ưu điểm: Các nhà triết học lý giải vật chất dựa trên cơ sở khoa học
phân tích thế giới vật chất. Đó chính là bước tiến lớn của chủ nghĩa duy vật
so với thời cổ đại (mặc dù vẫn dựa trên sự quan sát bề ngoài thế giới vật
chất). Đồng thời, cũng như chủ nghĩa duy vật thời cổ đại, quan niệm này đã
xuất phát từ chính bản thân thế giới để giải thích thế giới.
+ Hạn chế: Lý giải về vật chất và sự vận động của thế giới vật chất mang
tính siêu hình, máy móc.
Chương 2: Chủ nghĩa duy vật biện chứng

1.2. Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX và sự phá sản của các quan niệm duy vật siêu hình về vật chất
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, vật lý học, nhất là vật lý vi mô đã có những
phát hiện mới về cấu trúc của vật chất, làm thay đổi quan niệm về nguyên
tử.
- Năm 1895: Rơnghen tìm ra tia X - một loại sóng điện từ có bước
sóng cực ngắn.
- Năm 1896: Béccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ chứng tỏ
quan niệm về sự bất biến của nguyên tử là không chính xác.
- Năm 1897: Tômxơn phát hiện ra điện tử và chứng minh được
điện tử là một trong những thành phần cấu tạo nên nguyên tử.
- Năm 1901: Kaufman đã phát hiện ra khối lượng của điện tử tăng
khi vận tốc chuyển động của nó tăng.
Những phát hiện trong vật lý nói trên làm cho quan niệm về vật chất
trước đó bộc lộ ra những hạn chế, không giải thích được. Những nhà triết học
đứng trên lập trường duy vật tự phát, siêu hình dao động, hoài nghi về tính
đúng đắn của chủ nghĩa duy vật. Chủ nghĩa duy tâm đã lợi dụng tình hình đó
để tuyên truyền quan điểm duy tâm: tuyên bố vật chất “tiêu tan”, vật chất
“biến mất”. Triết học duy vật đứng trước yêu cầu của sự phát triển khoa học
là phải xây dựng một quan niệm mới, cao hơn về vật chất để khắc phục cuộc
khủng hoảng trong khoa học tự nhiên và sự bất lực của chủ nghĩa duy vật
siêu hình về vật chất.

1.3. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về vật chất
Trên cơ sở tổng kết những thành tựu của khoa học tự nhiên, V.I. Lênin chỉ
ra tính vô tận của vật chất, rằng không phải vật chất tiêu tan, vật chất biến
mất mà ở đây giới hạn nhận thức của con người đã thay đổi, ông đưa ra định
nghĩa: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào
cảm giác”.
- Phân tích nội dung định nghĩa:
+ Để có được quan niệm đúng đắn về vật chất cần có sự phân biệt rõ
ràng giữa vật chất với tính cách là một phạm trù triết học với quan niệm về
vật chất trong các ngành khoa học tự nhiên. Vật chất với tư cách là phạm trù
triết học chỉ vật chất nói chung, vô cùng, vô tận, không sinh ra, không mất
đi; còn các dạng vật chất cụ thể là hữu hạn, có sinh ra, tồn tại và biến đổi
sang hình thức tồn tại khác.
+ Đặc tính cơ bản của vật chất là thực tại khách quan , tức là cái tồn tại
hiện thực bên ngoài, không phụ thuộc vào ý thức, sự tồn tại của vật chất
Chương 2: Chủ nghĩa duy vật biện chứng

không phụ thuộc vào việc con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức
được.
+ Vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) là cái gây nên cảm giác
ở con người khi trực tiếp hoặc gián tiếp tác động lên các giác quan của con
người, tức thừa nhận ý thức, cảm giác là sự phản ánh của vật chất lên các
giác quan.
+ Vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó, tức là
vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất chính là cái quyết định ý thức.
- Ý nghĩa phương pháp luận của định nghĩa:
+ Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã khắc phục được những hạn chế
trong quan niệm của chủ nghĩa duy vật cũ về vật chất, chống lại được quan
niệm duy tâm về vật chất.
+ Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã giải quyết được hai mặt vấn đề cơ
bản của triết học trên lập trường duy vật triệt để và thừa nhận khả năng
nhận thức được thế giới của con người.
+ Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã định hướng cho các nhà khoa học
tự nhiên trong việc tìm kiếm, khám phá ra những dạng và những cấu trúc vật
chất mới, chỉ ra cơ sở khoa học cho việc xác định vật chất trong lĩnh vực xã
hội. Tạo ra nền tảng lý luận khoa học cho việc giải thích những vấn đề về xã
hội.

1.4. Các hình thức tồn tại của vật chất


a. Vận động
Vật chất, cái thực tại khách quan đem lại cho con người trong cảm giác,
các dạng tồn tại cụ thể của vật chất vốn hết sức phong phú đa dạng mà theo
Ph. Ăng ghen “các hình thức và các dạng khác nhau của vật chất chỉ có thể
nhận thức được thông qua vận động; thuộc tính của vật thể chỉ bộc lộ ra qua
vận động”.
Theo Ph. Ăngghen: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được
hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của
vật chất, - thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong
vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí giản đơn cho đến tư duy”.
Với cách hiểu như thế, vận động là phương thức tồn tại của vật chất, nhờ
vận động và thông qua vận động mà vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình.
Vận động của vật chất là tự thân vận động, là tuyệt đối, vĩnh viễn.
Các hình thức vận động cơ bản của vật chất: Dựa vào các thành tựu khoa
học, Ph. Ăngghen chia vận động thành 5 hình thức cơ bản:
- Vận động cơ học: sự di chuyển vị trí của sự vật trong không gian.
- Vận động vật lý: sự vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ
bản, của các quá trình nhiệt, điện...
Chương 2: Chủ nghĩa duy vật biện chứng

- Vận động hóa học: sự phân giải và hóa hợp của các chất...
- Vận động sinh vật: sự biến đổi gen, trao đổi chất giữa cơ thể sinh
vật với môi trường.
- Vận động xã hội: sự biến đổi trong các lĩnh vực của xã hội, sự
thay thế nhau các hình thái kinh tế - xã hội.
Mỗi hình thức vận động cơ bản trên khác nhau về chất, nhưng giữa chúng
lại có mối quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó hình thức vận động cao xuất
hiện trên cơ sở của hình thức vận động thấp hơn và bao hàm trong nó những
hình thức vận động thấp hơn và các hình thức vận động có thể chuyển hóa
cho nhau.
Đứng im là một trạng thái đặc biệt của vận động, vận động trong trạng
thái cân bằng, trong sự ổn định tương đối, nói lên sự vật còn là nó mà chưa
chuyển hóa thành cái khác.

b. Không gian, thời gian


Chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa nhận không gian và thời gian là hình
thức tồn tại của vật chất vận động, được con người khái quát khi nhận thức
về thế giới.
- Không gian là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt quảng
tính (chiều cao, chiều rộng, chiều dài), sự cùng tồn tại, trật tự (trước hay
sau, trên hay dưới, bên phải hay bên trái) và sự tác động lẫn nhau.
- Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất, xét về mặt độ dài diễn
biến,
sự kế tiếp nhau của các quá trình vật chất (lâu, mau, nhanh, chậm).
- Không gian và thời gian có tính khách quan, vĩnh cửu và vô tận.
Không gian có tính ba chiều, thời gian có tính một chiều.

1.5. Tính thống nhất vật chất của thế giới


a.Tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự thống nhất của thế giới
Thế giới vật chất quanh ta là tồn tại, nhưng hình thức tồn tại của thế giới
vật chất là hết sức đa dạng. Chủ nghĩa duy vật xem sự tồn tại của thế giới
như một chỉnh thể mà bản chất của nó là vật chất, tồn tại của thế giới là tiền
đề cho sự thống nhất của thế giới, thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó.
Ngược lại, chủ nghĩa duy tâm thừa nhận thế giới thống nhất ở tính tinh thần.
b.Tính thống nhất vật chất của thế giới
- Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, thế giới vật chất
tồn tại khách quan.
- Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không được
sinh ra và không bị mất đi.
Chương 2: Chủ nghĩa duy vật biện chứng

- Tính thống nhất vật chất của thế giới gắn liền với tính đa dạng
của nó.

2. Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức


2.1. Nguồn gốc của ý thức
a. Nguồn gốc tự nhiên
Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên, các nhà sang lập chủ
nghĩa Mác – Lênin khảng định ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có
tổ chức cao là bộ óc người.
Bộ não người và sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ não con
người chính là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Cấu tạo và chức năng của bộ não người: Bộ não người có cấu tạo tinh vi,
phức tạp, có liên hệ với các cơ quan cảm giác, thu nhận và xử lý các tác
động từ thế giới bên ngoài thông qua các phản xạ. Sự tương tác giữa thế giới
khách quan và con người tạo lên quá trình phản ánh của bộ não.
Thuộc tính phản ánh và sự hình thành ý thức:
- Mọi dạng vật chất đều có khả năng phản ánh.
- Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật
chất này ởmột hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại
của chúng.
- Cấu tạo vật chất khác nhau sẽ có khả năng phản ánh khác nhau.
Dođó, có thể phân chia các hình thức phản ánh của vật chất từ thấp đến
cao như sau: Phản ánh vật lý, hóa học, Phản ánh sinh học, Phản ánh tâm
lý, Phản ánh ý thức.
- Phản ánh ý thức là hình thức phản ánh cao nhất, chỉ có ở con
người.
b. Nguồn gốc xã hội
Sự phát triển của giới tự nhiên mới tạo ra tiền đề vật chất có năng lực
phản ánh, chỉ là điều kiện cần cho sự ra đời của ý thức. Hoạt động thực tiễn
của loài người mới là nguồn gốc trực tiếp quyết định sự ra đời của ý thức,
trong đó cơ bản nhất và trực tiếp nhất là lao động và ngôn ngữ.
- Lao động:
+ Lao động là phương thức tồn tại cơ bản của con người, đó là quá trình
con người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên, cải biến
những dạng vật chất của giới tự nhiên thỏa mãn nhu cầu tồn tại của mình.
+ Lao động từng bước làm biến đổi cấu tạo cơ thể mà trước hết giúp con
người giải phóng hai chi trước của con người để thực hiện những động tác
tinh vi hơn, mặt khác cũng giúp con người có khả năng sáng tạo ra công cụ
lao động và sử dụng công cụ ấy phục vụ mục đích sống của con người.
Chương 2: Chủ nghĩa duy vật biện chứng

+ Việc tạo ra và sử dụng công cụ trong lao động một mặt giúp con người
thỏa mãn nhu cầu tồn tại của mình đưa bộ não con người ngày càng phát
triển, hoàn thiện về mặt sinh học. Mặt khác, nó tạo ra công cụ, phương tiện
giúp con người nhận thức thế giới thuận lợi hơn. Nó được xem là thứ nối dài
bàn tay và trí óc của con người.
+ Quá trình lao động, con người tương tác với các đối tượng trong thế giới
làm cho chúng bộc lộ ra những thuộc tính thông qua đó con người nhận thức
hình thành lên tri thức – thành phần quan trọng của ý thức. Đồng thời, quá
trình lao động con người làm biến đổi thế giới và ngược lại làm biến đổi chính
bản thân mình, ngày càng làm sâu sắc và phong phú thêm ý thức của mình.
+ Lao động ngay từ đầu đã mang tính xã hội, từ đó nảy sinh nhu cầu hình
thành ngôn ngữ.

- Ngôn ngữ:
+ Ngôn ngữ một mặt là kết quả của lao động, mặt khác lại là nhân tố tích
cực tác động đến quá trình lao động và phát triển ý thức con người.
+ Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức, là công
cụ thể hiện ý thức, tư tưởng và tạo điều kiện để phát triển ý thức.
+ Ngôn ngữ giúp con người phản ánh khái quát những đặc tính, những
thuộc tính của sự vật, hiện tượng trong thế giới.
+ Ngôn ngữ giúp con người trao đổi kinh nghiệm hoạt động sống.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và
phát triển của ý thức là lao động và ngôn ngữ, hoạt động thực tiễn xã hội của
con người.
2.2. Bản chất của ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Bản chất ý thức là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình phản ánh tích cực,
sáng tạo hiện thực khách quan của óc người.
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan:
+ Cả vật chất và ý thức đều tồn tại nhưng sự tồn tại của vật chất là tồn
tại khách quan còn ý thức tồn tại chủ quan. Ý thức không phải sự vật mà chỉ
là “hình ảnh” của sự vật ở trong đầu óc con người. Sự tồn tại của ý thức gắn
liền với sự tồn tại của con người và khả năng nhận thức của con người.
+ Ý thức phản ánh thế giới khách quan, nhưng thế giới đó đã được cải
biến thông qua lăng kính chủ quan của con người (chịu tác động của các yếu
tố như: tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, nhu cầu, tri thức, kinh nghiệm...). Ý
thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan của bộ óc
người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Document continues below

Discover more from:


Triết học Mác Lê nin
471 documents

Go to course

Nguyên lý cơ bản CN Mác Lênin

9 Triết học Mác Lê nin 95% (22)

Nội dung ôn tập Triết học Mac-Lenin ( KTHP)

11 Triết học Mác Lê nin 100% (28)

ĐÊ CƯƠNG ÔN TẬP MÁC Lênin

10 Triết học Mác Lê nin 100% (10)

MẠNG XÃ HỘI CÀNG PHÁT TRIỂN, CON NGƯỜI CÀNG CÔ


ĐƠN
16
Triết học Mác Lê nin 100% (18)

Triết c2 - Đề cương Triết học, tóm tắt kiến thức Triết học
Chương 2
26
Triết học Mác Lê nin 100% (22)

On tap Triet hoc - on tap

41
Triết học Mác Lê nin 92% (64)
Chương 2: Chủ nghĩa duy vật biện chứng

- Tính chất năng động, sáng tạo của phản ánh ý thức:
+ Ý thức phản ánh thế giới khách quan nhưng không mang tính thụ động,
rập khuôn, máy móc mà trên cơ sở tiếp thu, xử lý thông tin có chọn lọc, có
định hướng.
+ Phản ánh ý thức không dừng lại ở vẻ bề ngoài, mà còn khái quát bản
chất, quy luật của sự vật, hiện tượng.
+ Ý thức có khả năng mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình
ảnh tinh thần và chuyển mô hình từ trong tư duy ra hiện thực khách quan
thông qua hoạt động thực tiễn.
+ Trên cơ sở những tri thức đã có, con người sáng tạo ra những tri thức
mới.
- Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội:
+ Sự ra đời và phát triển của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn của
con người, chịu chi phối không chỉ của các quy luật tự nhiên mà còn (và chủ
yếu là) của các quy luật xã hội.
+ Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất riêng có của con người về hiện
thực khách quan trên cơ sở thực tiễn xã hội - lịch sử.

2.3. Kết cấu của ý thức


- Các lớp cấu trúc của ý thức: khi xem xét ý thức với các yếu tố
hợp thành, ý thức gồm nhiều yếu tố quan hệ mật thiết với nhau, trong đó
yếu tố cơ bản nhất là tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí.
- Các cấp độ của ý thức: khi xem xét ý thức theo chiều sâu của thế
giới nội tâm con người, ý thức bao gồm: tự ý thức, vô thức và tiềm thức.

3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức


3.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình
- Chủ nghĩa duy tâm: Ý thức, tinh thần của con người đã bị trừu
tượng hóa, tách khỏi con người thành một lực lượng thần bí, tiên thiên.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình: Tuyệt đối hóa yếu tố vật chất, chỉ
nhấn mạnh một chiều vai trò của vật chất sinh ra ý thức, quyết định ý
thức; phủ nhận tính độc lập tương đối của ý thức.

3.2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
- Vật chất quyết định ý thức:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có
sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức. Vật chất quyết định
ý thức thể hiện ở 4 phương diện sau:
+ Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
+ Vật chất quyết định nội dung của ý thức.
Chương 2: Chủ nghĩa duy vật biện chứng

+ Vật chất quyết định bản chất của ý thức.


+ Vật chất quyết định sự vận động, biến đổi của ý thức.
- Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất:
+ Ý thức do vật chất sinh ra, nhưng sau khi hình thành, ý thức có thể tác
động trở lại vật chất. Ý thức có thể thay đổi nhanh chậm, không song hành
với hiện thực.
+ Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực
tiễn của con người.
+ Vai trò của ý thức thể hiện nó có chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con
người. Khi phản ánh đúng hiện thực, nó có thể dự báo, tiên đoán đúng hiện
thực trong tương lai, hình thành nên những học thuyết lý luận có tính định
hướng.
+ Xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là
trong thời đại thông tin, thời đại kinh tế tri thức, thời đại cách mạng công
nghiệp 4.0.
3.3. Ý nghĩa phương pháp luận
- Ý nghĩa phương pháp luận chủ đạo: Tôn trọng tính khách quan
kết hợp với phát huy tính năng động chủ quan.
+ Tôn trọng tính khách quan: Vật chất quyết định ý thức, do đó mọi
suy nghĩ và hành động đều phải xuất phát từ hiện thực khách quan, chống
chủ quan duy ý chí. Mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch... đều phải xuất phát
từ điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Nhận thức sự vật phải chân thực.
+ Phát huy tính năng động chủ quan: Vì ý thức có vai trò tác động trở
lại đối với vật chất, cho nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta
phải biết phát huy tính năng động chủ quan: phát huy tính năng động, sáng
tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người, chống tư tưởng thụ động;
coi trọng công tác tư tưởng và giáo dục tư tưởng.
- Muốn thực hiện tốt nguyên tắc tôn trọng tính khách quan kết hợp
với phát huy tính năng động chủ quan, cần nhận thức và giải quyết đúng
đắn các quan hệ lợi ích giữa cá nhân, tập thể, xã hội; có động cơ trong
sáng, không vụ lợi, có thái độ thật sự khách quan, khoa học trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn.

II- PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT


Nghiên cứu nội dung của phép biện chứng duy vật sẽ giúp chúng ta hình
thành phương pháp luận trong nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn.
Chương 2: Chủ nghĩa duy vật biện chứng

1. Hai loại hình biện chứng và phép biện chứng duy vật
1.1. Biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan
- Khái niệm biện chứng được sử dụng để chỉ những mối liên hệ, tương
tác, chuyển hóa và vận động, phát triển theo quy luật của các sự vật, hiện
tượng, quá trình trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Biện chứng bao gồm biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan:
+ Biện chứng khách quan là cái biện chứng vốn có của chính bản thân thế
giới vật chất, tồn tại khách quan độc lập với ý thức con người.
+ Biện chứng chủ quan là cái phản ánh của biện chứng khách quan vào
trong đầu óc con người, là tư duy biện chứng.
1.2. Khái niệm phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu về bản chất biện chứng của
thế giới, khái quát thành một hệ thống các nguyên lý, phạm trù, quy luật
khoa học. Từ đó xây dựng hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận của
nhận thức và thực tiễn.
Đặc điểm của phép biện chứng duy vật:
- Phép biện chứng duy vật hình thành từ sự thống nhất hữu cơ
giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng; giữa lý luận
nhận thức và lôgíc biện chứng.
- Về vai trò của phép biện chứng duy vật: tạo ra phương pháp luận
khoa học cho nhận thức và hoạt động thực tiễn.
2. Nội dung của phép biện chứng duy vật
2.1. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật
Nguyên lý là những khởi điểm (điểm xuất phát đầu tiên) hay những luận
điểm cơ bản nhất có tính chất tổng quát của một học thuyết chi phối sự vận
hành của tất cả các đối tượng thuộc lĩnh vực quan tâm nghiên cứu của nó.
a. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
* Khái niệm “mối liên hệ” và “mối liên hệ phổ biến”:
- Mối liên hệ là khái niệm dùng để chỉ sự quy định ràng buộc, sự
tác động tương hỗ và chuyển hóa lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận
trong một đối tượng hoặc giữa các đối tượng trong thế giới.
- Mối liên hệ phổ biến là khái niệm dùng để chỉ tính phổ biến của
các mối liên hệ của các vật, hiện tượng (bao gồm cả đối tượng vật chất
hữu hình lẫn đối tượng tinh thần) của thế giới, trong đó những mối liên hệ
phổ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của
thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng duy vật.
* Các tính chất của mối liên hệ:
Chương 2: Chủ nghĩa duy vật biện chứng

- Tính khách quan của mối liên hệ: các sự vật, hiện tượng trong
thế giới tồn tại khách quan, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức con
người, do đó tự chúng có mối liên hệ, tác động qua lại với nhau.
- Tính phổ biến của mối liên hệ: bất cứ sự vật, hiện tượng nào
trong tự nhiên, xã hội và tư duy, ý thức con người, cũng như các mặt
trong các sự vật, hiện tượng đều có liên hệ với nhau.
- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ: mối liên hệ của mỗi sự
vật, hiện tượng trong mỗi lĩnh vực khác nhau có đặc điểm, vị trí, vai trò
khác nhau.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Quan điểm toàn diện:
+ Khi nhận thức sự vật, chúng ta phải xem xét sự vật trong toàn bộ mối
quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, các mặt của chính
sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với sự vật khác.
+ Phải phân loại, đánh giá vị trí, vai trò của từng mối liên hệ đối với sự
vận động, phát triển của sự vật.
- Quan điểm lịch sử - cụ thể: đòi hỏi chúng ta khi xem xét sự vật, hiện
tượng phải xác định được vị trí, vai trò của từng mối liên hệ, trong những
không gian, thời gian nhất định, trong điều kiện, hoàn cảnh mà nó ra đời,
tồn tại.
b. Nguyên lý về sự phát triển
* Khái niệm phát triển:
- Phát triển là quá trình vận động của sự vật từ thấp đến cao, từ
kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, từ chất cũ đến chất mới ở trình độ
cao hơn.
- Phân biệt sự khác nhau giữa phát triển và vận động: vận động là
bao hàm mọi biến đổi nói chung, còn phát triển biểu hiện khuynh hướng
của vận động, vận động theo khuynh hướng tiến lên làm cho sự vật ngày
càng hoàn thiện hơn.
* Các tính chất cơ bản của phát triển:
- Tính khách quan của sự phát triển: sự phát triển của sự vật, hiện
tượng trong thế giới là do việc giải quyết mâu thuẫn vốn có ở bên trong
tạo ra chứ không phụ thuộc vào ý thức con người.
- Tính phổ biến của sự phát triển: mọi sự vật, hiện tượng trong tự
nhiên, xã hội và tư duy ý thức con người đều nằm trong khuynh hướng
phát triển.
Chương 2: Chủ nghĩa duy vật biện chứng

- Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển: mỗi sự vật, hiện
tượng ở mỗi lĩnh vực phát triển khác nhau qua từng giai đoạn cụ thể thì
sự phát triển có những đặc điểm khác nhau.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Quan điểm phát triển đòi hỏi chúng ta khi xem xét sự vật phải đặt nó
trong khuynh hướng tiến lên, có cái mới, cái tiến bộ ra đời thay thế cái cũ.
Tuy nhiên, cũng phải nhận thấy rằng sự phát triển của sự vật không diễn ra
theo đường thẳng mà quanh co, phức tạp.
- Quan điểm phát triển là cơ sở khoa học giúp chúng ta khắc phục tư
tưởng bảo thủ, trì trệ, ngại đổi mới trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
2.2. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật
- Phạm trù là những khái niệm chung nhất, phản ánh những mặt,
thuộc tính, mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật, hiện tượng
trong một lĩnh vực nhất định.
- Khái niệm là những tri thức của con người phản ánh đúng đắn
bản chất của sự vật, hiện tượng, là kết quả của quá trình nhận thức và
kết quả của sự khái quát trong tư duy.
Như vậy, cả “khái niệm” và “phạm trù” đều là tri thức của con người, là
kết quả của quá trình nhận thức, quá trình khái quát hóa, trừu tượng hóa
trong tư duy.
- Các phạm trù triết học là những khái niệm chung nhất, phản ánh
những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản nhất, phổ biến
nhất trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy.

a. Cái riêng và cái chung


* Định nghĩa “cái riêng”, “cái chung” và “cái đơn nhất”:
- Phạm trù cái riêng dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một
quá trình nhất định.
- Phạm trù cái chung dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính,
những yếu tố, những quan hệ không chỉ có ở một sự vật, hiện tượng mà
còn lặp lại ở nhiều sự vật, hiện tượng khác.
- Cái đơn nhất là những mặt, những đặc tính, những tính chất,.. chỉ
tồn tại ở một sự vật, hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở các sự vật,
hiện tượng khác.
* Mối liên hệ biện chứng giữa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất:
- Cả cái chung và cái riêng đều tồn tại khách quan, giữa chúng có
mối quan hệ biện chứng với nhau.
Chương 2: Chủ nghĩa duy vật biện chứng

+ Không có cái chung tồn tại thuần túy tách rời cái riêng. Cái chung chỉ
tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình.
Cái chung là bộ phận được khái quát từ những cái riêng.
+ Không có cái riêng tồn tại tuyệt đối độc lập mà lại không có mối liên
hệ với cái chung. Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Cái
riêng được gọi là cái riêng khi xem xét các đối tượng trong mối liên hệ với
nhau và với cái chung.
+ Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung; còn cái chung là
cái bộ phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì
nó phản ánh những thuộc tính lặp đi lặp lại ở nhiều sự vật. Còn cái riêng
phong phú hơn cái chung vì nó là cái tổng hợp của cái chung và cái đơn nhất.
- Cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau trong
những điều kiện nhất định.
+ Cái chung có thể chuyển hóa thành cái đơn nhất, đó là quá trình tồn
tại và tiêu vong dần dần của cái cũ.
+ Cái đơn nhất chuyển hóa thành cái chung, đó là quá trình ra đời và
phát triển của cái mới.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, nên muốn tìm cái chung
phải tìm từ những cái riêng.
- Vì cái chung sâu sắc hơn cái riêng, nên phải dựa vào cái chung
để cải tạo cái riêng và khi vận dụng cái chung vào cái riêng, phải cá biệt
hóa cho phù hợp với đặc điểm của từng cái riêng.
- Trong hoạt động thực tiễn, tùy theo lợi ích và vai trò của cái
chung, cái đơn nhất mà cần tạo điều kiện để cái chung bất lợi và cái đơn
nhất có lợi có thể chuyển hóa cho nhau.

b. Nguyên nhân và kết quả


* Định nghĩa “nguyên nhân” và “kết quả”:
- Phạm trù nguyên nhân dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa
các mặt trong một sự vật, hiện tượng, hoặc giữa các sự vật, hiện tượng
với nhau tạo ra những biến đổi nhất định.
- Phạm trù kết quả dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác
động giữa các mặt, các yếu tố trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các
sự vật, hiện tượng.
* Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả:
Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả biểu hiện mối quan hệ khách
quan của sự vật, hiện tượng.
Chương 2: Chủ nghĩa duy vật biện chứng

- Nguyên nhân sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn có trước kết
quả, còn kết quả là cái được sinh ra bởi nguyên nhân nên chỉ xuất hiện
sau khi đã có nguyên nhân tác động. Tuy nhiên, không phải mọi quan hệ
nối tiếp về mặt thời gian đều là quan hệ nhân quả mà chỉ có những quan
hệ sản sinh ra nhau mới là quan hệ nhân quả.
- Tính phức tạp của mối quan hệ nhân - quả:
+ Một nguyên nhân sinh ra một hoặc nhiều kết quả.
+ Nhiều nguyên nhân sinh ra một hoặc nhiều kết quả.
- Quan hệ nhân – quả là một chuỗi liên tục. Nguyên nhân và kết
quả có thể thay đổi vị trí cho nhau. Điều này có nghĩa là: Một sự vật, hiện
tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì ngược lại trong
mối quan hệ khác, nó lại là kết quả và ngược lại.
- Kết quả có khả năng tác động trở lại nguyên nhân theo hướng
tích cực hoặc tiêu cực.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Mối liên hệ nhân - quả có tính khách quan, phổ biến, nghĩa là
nhiệm vụ của nhận thức khoa học là phải tìm ra được nguyên nhân khách
quan, tất yếu của những sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư
duy để giải thích và cải biến được hiện tượng đó.
- Mối liên hệ nhân - quả có tính phức tạp, đa dạng nên cần phân
biệt chính xác các loại nguyên nhân để có phương pháp giải quyết cho
phù hợp.
- Một nguyên nhân có thể có nhiều kết quả và ngược lại, nên trong
nhận thức và hoạt động thực tiễn phải có quan điểm toàn diện và quan
điểm lịch sử - cụ thể để giải quyết và ứng dụng nó.

c. Tất nhiên và ngẫu nhiên


* Định nghĩa “tất nhiên” và “ngẫu nhiên”:
- Phạm trù tất nhiên dùng để chỉ cái do những nguyên nhân cơ
bản, bên trong của kết cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện
nhất định, nó xảy ra như thế, không thể khác.
- Phạm trù ngẫu nhiên dùng để chỉ cái do các nguyên nhân bên
ngoài, do sự ngẫu hợp của nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định, do đó
nó có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này
hoặc như thế khác.
* Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên:
Chương 2: Chủ nghĩa duy vật biện chứng

- Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan và đều có vai trò
nhất định trong quá trình phát triển của sự vật, trong đó tất nhiên giữ vai
trò quyết định.
- Cái tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại trong sự thống nhất biện
chứngvới nhau; không có cái tất nhiên thuần túy và ngẫu nhiên thuần túy.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hóa cho nhau. Cả tất
nhiên và ngẫu nhiên không nằm yên ở trạng thái cũ mà chúng cũng luôn
vận động, biến đổi cùng với sự biến đổi của sự vật, hiện tượng và trong
những điều kiện nhất định có thể chuyển hóa cho nhau.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan. Vì vậy,
không thể tìm tất nhiên và ngẫu nhiên trong ý thức con người.
- Về căn bản trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, chúng ta
phải dựa vào cái tất nhiên chứ không dựa vào cái ngẫu nhiên để cải tạo
sự vật.
Nhưng mặt khác, cũng phải chú ý tới cái ngẫu nhiên xảy ra.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hóa cho nhau. Vì vậy, cần
tạo điều kiện nhất định để cản trở hoặc thúc đẩy sự chuyển hóa của
chúng theo mục đích nhất định.

d. Nội dung và hình thức


* Định nghĩa “nội dung” và “hình thức”:
- Phạm trù nội dung dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt,
yếu tố, quá trình tạo nên sự vật, hiện tượng.
- Phạm trù hình thức dùng để chỉ phương thức tồn tại, phát triển
của sự vật, hiện tượng đó, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững
giữa các yếu tố của nó.
* Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức:
- Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức:
+ Thống nhất: Nội dung và hình thức gắn bó với nhau trong một chỉnh
thể thống nhất. Không có hình thức nào tồn tại thuần túy mà không có nội
dung và ngược lại không nội dung nào lại không tồn tại trong một hình thức
nhất định.
+ Mâu thuẫn: Tuy nhiên không phải bao giờ nội dung và hình thức cũng
phù hợp với nhau hoàn toàn. Trong quá trình phát triển của sự vật, có thể có
hai trường hợp sau:
• Cùng một hình thức có thể chứa đựng những nội dung khác
nhau.
• Cùng một nội dung có thể thể hiện ở nhiều hình thức khác nhau.
Chương 2: Chủ nghĩa duy vật biện chứng

- Nội dung giữ vai trò quyết định hình thức, hình thức tác động trở lại nội
dung:
+ Vai trò của nội dung: Khuynh hướng chủ đạo của nội dung là biến đổi,
khuynh hướng chủ đạo của hình thức là tương đối bền vững, biến đổi chậm
hơn so với nội dung. Nhưng do xu hướng phát triển của sự vật, hình thức
buộc cũng phải biến đổi theo cho phù hợp với nội dung, như vậy nội dung giữ
vai trò quyết định đối với hình thức.
+ Vai trò của hình thức:
• Nếu hình thức phù hợp với nội dung sẽ thúc đẩy nội dung phát
triển.
• Nếu hình thức không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của nội
dung.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Vì nội dung và hình thức gắn bó với nhau, nên trong nhận thức
không tách rời tuyệt đối hóa giữa nội dung và hình thức, chống chủ nghĩa
hình thức.
- Để cải tạo và biến đổi sự vật, trước hết cần căn cứ vào nội dung,
song cũng phải chú ý tới hình thức, theo dõi mối quan hệ giữa nội dung
và hình thức để kịp thời điều chỉnh sự can thiệp của con người vào quá
trình biến đổi sự vật.
- Vì nội dung có thể chứa trong nhiều hình thức và ngược lại, nên
muốn cải tạo, biến đổi sự vật, cần phải sử dụng nhiều hình thức.

e. Bản chất và hiện tượng


* Định nghĩa “bản chất” và “hiện tượng”:
- Phạm trù bản chất dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt,
những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định
sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng đó.
- Phạm trù hiện tượng dùng để chỉ sự biểu hiện của những mặt,
những mối liên hệ đó trong những điều kiện xác định.
* Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng:
Bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan, là hai mặt vừa thống
nhất, vừa đối lập nhau.
- Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
+ Bản chất luôn bộc lộ qua hiện tượng; còn hiện tượng nào cũng là biểu
hiện của bản chất ở mức độ nhất định. Không có bản chất nào tồn tại thuần
túy ngoài hiện tượng và ngược lại cũng không có hiện tượng nào hoàn toàn
không phải là biểu hiện của bản chất.
Chương 2: Chủ nghĩa duy vật biện chứng

+ Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng biểu hiện của nó sớm muộn cũng
thay đổi theo. Bản chất mất thì hiện tượng của nó cũng mất theo.
- Sự đối lập giữa bản chất và hiện tượng:
+ Bản chất thể hiện cái chung, cái tất yếu, quyết định sự phát triển của
sự vật, còn hiện tượng phản ánh cái riêng, cái cá biệt ở bên ngoài sự vật. Vì
vậy, cùng một bản chất có thể biểu hiện bằng những hiện tượng khác nhau,
tùy theo sự thay đổi của điều kiện và hoàn cảnh, còn hiện tượng phong phú
và đa dạng.
+ Bản chất là mặt bên trong, ẩn giấu sâu xa hiện thực khách quan, còn
hiện tượng là biểu hiện bên ngoài của hiện thực khách quan đó. Bản chất
không biểu hiện ở một hiện tượng mà ở nhiều hiện tượng. Còn hiện tượng chỉ
biểu hiện một khía cạnh nào đó của bản chất.
+ Bản chất là cái tương đối ổn định, còn hiện tượng là cái thường xuyên
biến đổi.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Muốn hiểu được bản chất của sự vật phải thông qua nhiều hiện
tượng, phải phân tích tổng hợp sự biến đổi của nhiều hiện tượng, nhất là
những hiện tượng điển hình mới làm rõ bản chất sự vật.
- Trong nhận thức không dừng lại ở hiện tượng mà phải tiến tới bản
chất sự vật. Còn trong hoạt động thực tiễn, phải dựa vào bản chất sự vật
để đưa ra được phương thức cải tạo, biến đổi sự vật.

f. Khả năng và hiện thực


* Định nghĩa “khả năng” và “hiện thực”:
- Khả năng là tổng thể các tiền đề của sự biến đổi, sự hình thành của
hiện thực mới, là cái có thể, nhưng ngay lúc này còn chưa có.
- Hiện thực là cái đang có, đang tồn tại thực sự.
* Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực:
- Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ biện chứng
không tách rời nhau và luôn chuyển hóa cho nhau. Trong sự vật, hiện
tượng đang tồn tại đã chứa đựng khả năng và sự vận động, phát triển của
sự vật chính là quá trình chuyển hóa từ khả năng thành hiện thực và
ngược lại.
- Ở cùng một sự vật, trong cùng điều kiện nhất định, có thể tồn tại
nhiều khả năng, chứ không phải chỉ có một khả năng. Ngoài những khả
năng vốn có, khi có thêm điều kiện mới thì sự vật sẽ xuất hiện những khả
năng mới, đồng thời bản thân mỗi khả năng cũng thay đổi theo sự thay
đổi của điều kiện.
Chương 2: Chủ nghĩa duy vật biện chứng

- Để khả năng biến đổi thành hiện thực thường không chỉ cần một
điều kiện mà là một tập hợp các điều kiện cần và đủ.
- Trong xã hội, hoạt động có ý thức của con người có vai trò rất
quan trọng để biến khả năng thành hiện thực. Hoạt động có ý thức của
con người có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm khả năng phát triển theo hướng
này hoặc hướng khác để tạo ra hiện thực nhanh hoặc chậm.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Trong hoạt động thực tiễn cần dựa vào hiện thực chứ không dựa
vào khả năng để xác định chủ trương, phương hướng, mục đích hành
động của mình.
- Tuy không dựa vào khả năng nhưng cũng phải tính đến các khả
năng để đề ra phương hướng hành động phù hợp với yêu cầu cải tạo,
biến đổi sự vật.
- Trong xã hội, muốn khả năng biến thành hiện thực phải phát huy
tối đa vai trò của nhân tố chủ quan.
2.3. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
* Khái niệm quy luật:
Quy luật là những mối liên hệ phổ biến, khách quan, bản chất, tất yếu và
lặp lại giữa các đối tượng và nhất định tác động khi có các điều kiện thích
hợp.
* Phân loại quy luật:
- Căn cứ vào phạm vi hoạt động, quy luật được chia ra:
+ Quy luật riêng: tác động trong một lĩnh vực nhất định.
+ Quy luật chung: tác động trong một số lĩnh vực.
+ Quy luật phổ biến: tác động trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Căn cứ vào lĩnh vực tác động, quy luật được chia ra:
+ Quy luật tự nhiên: hình thành và tác động một cách tự phát trong tự
nhiên.
+ Quy luật xã hội: hình thành và tác động thông qua hoạt động của con
người có ý thức, nhưng vẫn mang tính khách quan.
+ Quy luật tư duy: là những mối liên hệ của khái niệm, phán đoán, suy
luận, nó phản ánh những quy luật của hiện thực khách quan vào trong đầu
óc con người.
Phép biện chứng duy vật nghiên cứu những quy luật phổ biến của tự
nhiên, xã hội và tư duy.

2.3.1. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng


thành những sự thay đổi về chất và ngược lại
Chương 2: Chủ nghĩa duy vật biện chứng

Vị trí, vai trò: Quy luật này chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động,
phát triển của sự vật.

a. Khái niệm “chất”, “lượng”


* Khái niệm “chất”:
- Chất dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật,
hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính làm cho sự vật là
nó, phân biệt nó với sự vật khác.
- Mối quan hệ giữa chất và thuộc tính:
+ Mỗi sự vật có nhiều thuộc tính cơ bản và không cơ bản, chỉ những
thuộc tính cơ bản mới hợp thành chất của sự vật, khi nào chúng thay đổi
thì chất thay đổi; còn các thuộc tính không cơ bản thay đổi thì chưa dẫn
đến sự thay đổi về chất của sự vật.
+ Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ có ý nghĩa tương đối, được xét trong
từng mối quan hệ cụ thể.
- Chất và các phương thức liên kết: Chất của sự vật không chỉ
được quy định bởi chất của các yếu tố tạo thành mà còn bởi phương thức
liên kết của các yếu tố đó.
* Khái niệm “lượng”:
- Lượng dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật
về các phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn
tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận động, phát triển của sự vật.
- Một sự vật có thể tồn tại nhiều lượng khác nhau, xác định bằng
các phương thức khác nhau phù hợp với từng loại lượng cụ thể của sự
vật.
- Lượng cũng có tính khách quan, là cái vốn có của sự vật, quy
định sự vật đó.
- Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa tương
đối được xét trong từng mối quan hệ cụ thể.

b. Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng


* Tính thống nhất giữa chất và lượng:
- Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất của hai mặt
chất và lượng, chúng tác động qua lại lẫn nhau làm cho sự vật biến đổi.
- Trong khoảng giới hạn nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn
đến sự thay đổi căn bản về chất, sự vật đang còn là chính nó gọi là “độ”.
“Độ” là phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn mà trong đó sự
thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất, sự vật đang còn là
chính nó.
Chương 2: Chủ nghĩa duy vật biện chứng

* Quá trình chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự
thay đổi về chất:
- Sự thay đổi về lượng đến một thời điểm nhất định thì tạo ra sự
thay đổi căn bản về chất gọi là “điểm nút”. “Điểm nút” là phạm trù triết
học dùng để chỉ thời điểm mà ở đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay
đổi căn bản về chất của sự vật.
- Sự vật tích lũy đủ về lượng tại điểm nút sẽ tạo ra “bước nhảy”.
“Bước nhảy” là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của
sự vật do sự thay đổi về lượng trước đó tạo ra.
Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển, đồng thời lại mở đầu
cho giai đoạn phát triển mới tiếp theo. Cứ như vậy cái mới ra đời thay thế cái
cũ.

* Chất mới ra đời tác động trở lại lượng của sự vật:
Khi chất mới ra đời quy định lượng mới của sự vật, nó có tác động trở lại
đối với lượng của sự vật, có thể làm thay đổi quy mô, kết cấu, trình độ, nhịp
điệu vận động của sự vật.
Khái quát nội dung quy luật: Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng là sự
thống nhất biện chứng giữa hai mặt chất và lượng. Sự thay đổi dần dần về
lượng trong khoảng giới hạn độ tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất
thông qua bước nhảy. Chất mới ra đời tác động đến sự thay đổi của lượng
mới. Quá trình đó diễn ra liên tục tạo thành phương thức phổ biến của các
quá trình vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.

c. Ý nghĩa phương pháp luận


- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta phải chú ý cả
hai mặt chất và lượng, tạo nên sự nhận thức toàn diện về sự vật.
- Cần chú ý từng bước tích lũy về lượng để tạo ra sự biến đổi về
chất; đồng thời phát huy tác động của chất mới để làm thay đổi lượng
mới.
- Quy luật này là cơ sở khoa học để chúng ta khắc phục hai biểu
hiện tư tưởng sai lầm sau đây:
+ Tư tưởng nóng vội, chủ quan, duy ý chí, muốn tạo nhanh sự biến đổi về
chất mà chưa có sự tích lũy đủ về lượng.
+ Tư tưởng bảo thủ trì trệ, ngại đổi mới, coi sự phát triển chỉ là sự tăng
lên đơn thuần về lượng mà không chủ động tạo ra sự biến đổi về chất khi có
điều kiện.
- Trong hoạt động thực tiễn cần vận dụng linh hoạt các bước nhảy
và sử dụng kết hợp các bước nhảy để cải tạo, biến đổi sự vật.
Chương 2: Chủ nghĩa duy vật biện chứng

2.3.2. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
Vị trí, vai trò: Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (quy
luật mâu thuẫn) chỉ ra nguồn gốc vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng
trong tự nhiên, xã hội và tư duy.

a. Khái niệm mâu thuẫn và các tính chất chung của mâu thuẫn
* Khái niệm “mâu thuẫn” và “mâu thuẫn biện chứng”:
- Khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất và đấu
tranh, chuyển hóa giữa các mặt của một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các
sự vật, hiện tượng với nhau.
- Mâu thuẫn biện chứng được tạo nên từ những mặt đối lập, vừa
nương tựa vào nhau vừa phát triển theo những chiều hướng trái ngược
nhau.
- Khái niệm mặt đối lập dùng để chỉ những mặt, có những thuộc
tính, những khuynh hướng vận động trái ngược nhau nhưng lại là tiền đề,
điều kiện tồn tại của nhau.
* Các tính chất chung của mâu thuẫn:
- Mâu thuẫn có tính khách quan. Điều này có nghĩa là mâu thuẫn
của sự vật, hiện tượng trong thế giới tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào
ý thức con người; nói cách khác, mâu thuẫn là cái vốn có của bản thân sự
vật, hiện tượng.
- Mâu thuẫn có tính phổ biến, nghĩa là mọi sự vật, hiện tượng
trong mọi lĩnh vực của tự nhiên, xã hội và tư duy đều tồn tại mâu thuẫn.
Chỉ có sự khác nhau giữa mâu thuẫn đã phát hiện ra và mâu thuẫn chưa
phát hiện ra.
- Mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú. Tính đa dạng của mâu
thuẫn được thể hiện ở chỗ: mỗi sự vật, hiện tượng trong mỗi lĩnh vực khác
nhau, qua từng giai đoạn phát triển, mâu thuẫn có đặc điểm, vị trí, vai trò
khác nhau đối với sự vận động, phát triển của sự vật. Đó là mâu thuẫn cơ
bản và không cơ bản, mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, mâu thuẫn chủ
yếu và thứ yếu...

b. Quá trình vận động của mâu thuẫn


* Trong mỗi mâu thuẫn của các mặt đối lập vừa thống nhất, vừa đấu
tranh với nhau:
- Khái niệm thống nhất của các mặt đối lập dùng để chỉ sự liên hệ,
nương tựa, ràng buộc, làm tiền đề tồn tại cho nhau của các mặt đối lập.
Sự thống nhất của các mặt đối lập bao hàm sự đồng nhất của nó.
- Khái niệm đấu tranh của các mặt đối lập dùng để chỉ khuynh
hướng tác động qua lại, bài trừ, phủ định nhau của các mặt đối lập.
Chương 2: Chủ nghĩa duy vật biện chứng

- Trong sự thống nhất, đấu tranh của các mặt đối lập, thì sự đấu
tranh giữa chúng là tuyệt đối nói lên sự vận động tuyệt đối của sự vật;
còn sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối.
* Quá trình vận động và phát triển của mâu thuẫn:
- Khi mới xuất hiện, mâu thuẫn biểu hiện ở sự khác biệt giữa hai
thuộc tính, hai yếu tố nào đó và dần dần phát triển thành hai mặt đối lập.
Hai mặt đối lập đó tồn tại trong cùng một sự vật, vừa thống nhất, vừa đấu
tranh với nhau.
- Sự vật phát triển, sự khác nhau của hai mặt đối lập phát triển
thành sự đối lập.
- Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột với nhau gay gắt và
nếu gặp điều kiện thích hợp thì mâu thuẫn sẽ được giải quyết làm cho sự
vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời.
- Sự vật mới ra đời lại nảy sinh mâu thuẫn mới và quá trình tác
động, chuyển hóa của mâu thuẫn mới lại tiếp diễn. Bởi vậy, sự liên hệ,
tác động, chuyển hóa lẫn nhau giữa hai mặt đối lập là nguồn gốc, động
lực của sự vận động, phát triển.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta phải biết phát
hiện ra mâu thuẫn, tôn trọng mâu thuẫn, nắm được bản chất, nguồn gốc
và khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật để từ đó đưa ra được
những đường lối, chủ trương, biện pháp phù hợp đối với việc cải tạo, biến
đổi sự vật.
- Việc giải quyết mâu thuẫn phải có quan điểm lịch sử - cụ thể, tức
là phải xác định được vị trí, vai trò của từng loại mâu thuẫn để có biện
pháp giải quyết cụ thể với yêu cầu của hoạt động nhận thức và thực tiễn.

2.3.3. Quy luật phủ định của phủ định


- Vị trí, vai trò: Quy luật phủ định của phủ định chỉ ra xu hướng của
sự vận động, phát triển của sự vật.
a. Khái niệm phủ định biện chứng và những đặc trưng cơ bản của nó
* Khái niệm phủ định:
- Phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận
động, phát triển của thế giới.
* Khái niệm phủ định biện chứng:
- Khái niệm phủ định biện chứng dùng để chỉ sự phủ định tự thân tạo tiền
đề cho sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ.
- Đặc trưng của phủ định biện chứng:
Chương 2: Chủ nghĩa duy vật biện chứng

+ Tính khách quan: Sự phủ định được thực hiện do việc giải quyết mâu
thuẫn vốn có bên trong sự vật quy định, hoàn toàn không phụ thuộc ý muốn
chủ quan của con người.
+ Tính kế thừa: Phủ định biện chứng kế thừa có chọn lọc những tinh
hoa, nhân tố tích cực, tiến bộ của sự vật cũ và lọc bỏ những yếu tố tiêu cực,
bảo thủ, lạc hậu.

b. Phủ định của phủ định


* Phủ định biện chứng diễn ra có tính chất chu kỳ theo hình thức “xoáy
ốc”:
- Biểu hiện của tính chất chu kỳ: Trong sự vận động vĩnh viễn của thế
giới vật chất, phủ định biện chứng là một quá trình vô tận, tạo nên khuynh
hướng phát triển của sự vật từ trình độ thấp đến trình độ cao hơn, diễn ra
có tính chất chu kỳ theo hình thức “xoáy ốc”.
- Biểu hiện của tính chất “xoáy ốc”:
+ Trong chuỗi phủ định tạo nên quá trình phát triển của sự vật, mỗi lần
phủ định biện chứng đều tạo ra những tiền đề, điều kiện cho sự phát triển
tiếp theo của nó. Trải qua nhiều lần phủ định, tức “phủ định của phủ định” sẽ
dẫn đến kết quả là sự vật vận động, phát triển theo chiều hướng ngày càng
hoàn thiện hơn.
+ Mỗi chu kỳ phát triển của sự vật thường trải qua hai lần phủ định cơ
bản với ba hình thái tồn tại chủ yếu của nó. Trong đó, hình thái cuối cùng
dường như lặp lại hình thái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn về trình độ
phát triển.
* Khái quát nội dung quy luật:
Phủ định của phủ định khái quát khuynh hướng phát triển phổ biến của sự
vật, hiện tượng không diễn ra theo đường thẳng mà theo đường “xoáy ốc”.
Đường “xoáy ốc” diễn tả tính chất biện chứng của sự phát triển đó là tính lặp
lại, tính kế thừa và tính tiến lên. Mỗi vòng khâu mới của đường xoáy ốc
dường như lặp lại, nhưng với trình độ cao hơn. Sự nối tiếp của các vòng khâu
đó phản ánh quá trình phát triển vô tận từ thấp đến cao của thế giới.

c. Ý nghĩa phương pháp luận


- Quy luật phủ định của phủ định là cơ sở khoa học giúp chúng ta
nhận thức đúng đắn về xu hướng phát triển của sự vật, hiện tượng. Quá
trình phát triển đó không diễn ra theo đường thẳng mà trải qua nhiều lần
phủ định quanh co, phức tạp, nhất là trong lĩnh vực xã hội.
- Để cái mới ra đời thay thế cái cũ theo đúng quy luật của nó,
chúng ta phải nhận dạng được cái mới, ủng hộ cái mới và quan trọng hơn
là tạo điều kiện cho cái mới phát triển. Để thực hiện được điều này cũng
Chương 2: Chủ nghĩa duy vật biện chứng

cần khắc phục tư tưởng giáo điều, bảo thủ, kìm hãm sự ra đời, phát triển
của cái mới.
- Phải có quan điểm biện chứng trong quá trình kế thừa của sự
phát triển. Chúng ta không phủ định hoàn toàn nhưng cũng không kế
thừa nguyên xi cái cũ mà chỉ kế thừa những nhân tố tích cực, tiến bộ, hợp
lý của cái cũ, phù hợp với sự phát triển của cái mới.

III- LÝ LUẬN NHẬN THỨC

1. Các nguyên tắc của lý luận nhận thức duy vật biện chứng
- Lý luận nhận thức duy vật biện chứng được xây dựng dựa trên các
nguyên tắc cơ bản:
Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của
con người.
Hai là, thừa nhận con người có khả năng nhận thức thế giới khách quan.
Ba là, khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng, tích cực, tự
giác và sáng tạo.
Bốn là, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức, là
động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
2. Nguồn gốc, bản chất của nhận thức
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa nhận sự tồn tại khách quan
của thế giới và coi thế giới khách quan là đối tượng của nhận thức. Thế
giới vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý thức con người là nguồn gốc
duy nhất và cuối cùng của nhận thức.
- Nhận thức là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng
tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm
tạo ra tri thức về thế giới khách quan.
- Nhận thức là một quá trình biện chứng có vận động và phát
triển. Đó là quá trình đi từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ
biết chưa đầy đủ đến đầy đủ hơn.
- Nhận thức là quá trình tác động biện chứng giữa chủ thể nhận
thức trên cơ sở hoạt động thực tiễn của con người.

3. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
3.1. Phạm trù thực tiễn
- Định nghĩa: Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất - cảm tính, tính lịch sử
- xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ nhân loại tiến
bộ.
Chương 2: Chủ nghĩa duy vật biện chứng

Khác với hoạt động tư duy, trong hoạt động thực tiễn, con người sử dụng
những công cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật chất làm biến đổi
chúng theo mục đích của mình.
- Các tính chất cơ bản của thực tiễn:
+ Tính khách quan: thực tiễn là hoạt động vật chất hướng đến cải tạo thế
giới khách quan vì sự sinh tồn và phát triển của xã hội loài người.
+ Tính mục đích: thực tiễn là hoạt động có ý thức, có tính mục đích, khác
với hoạt động mang tính bản năng của loài vật.
+ Tính lịch sử - xã hội: thực tiễn không bất biến mà luôn biến đổi theo
từng thời kỳ lịch sử.
- Các hình thức cơ bản của thực tiễn:
Hoạt động thực tiễn rất đa dạng với nhiều hình thức phong phú, song có
ba hình thức cơ bản là:
+ Hoạt động sản xuất vật chất: là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên
của thực tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công
cụ lao động tác động vào tự nhiên để tạo ra của cải vật chất nhằm duy trì sự
tồn tại và phát triển của mình.
+ Hoạt động chính trị - xã hội: là hoạt động của các tổ chức cộng đồng
người khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để
thúc đẩy xã hội phát triển.
+ Hoạt động thực nghiệm khoa học: là một hình thức đặc biệt của thực
tiễn. Đây là hoạt động được tiến hành trong những điều kiện do con người
tạo ra gần giống, giống hoặc lặp lại trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm
xác định các quy luật biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu.
Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có chức năng khác nhau,
song chúng có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Trong mối
quan hệ đó, hoạt động sản xuất vật chất là loại hoạt động có vai trò quyết
định đối với các loại hoạt động thực tiễn khác.

3.2. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Trong mối quan hệ với nhận thức, thực tiễn có vai trò như sau:
- Thực tiễn là cơ sở của nhận thức:
+ Nhận thức ngay từ đầu đều xuất phát từ thực tiễn, từ nhu cầu tồn tại và
phát triển của con người.
+ Thông qua hoạt động thực tiễn, thế giới khách quan bộc lộ những thuộc
tính là cơ sở dữ liệu cho hoạt động nhận thức.
+ Thông qua hoạt động thực tiễn, con người tạo ra những công cụ ngày
càng tinh vi giúp nối dài khí quan vật chất của con người, giúp con người
nhận thức thế giới sâu sắc hơn.
- Thực tiễn là động lực của nhận thức:
Chương 2: Chủ nghĩa duy vật biện chứng

Thực tiễn luôn biến đổi, luôn đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ mới cần
được nhận thức và giải quyết.
- Thực tiễn là mục đích của nhận thức:
Mục đích cuối cùng của nhận thức là quay trở về phục vụ thực tiễn, định
hướng và chỉ đạo thực tiễn.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý:
Thực tiễn đóng vai trò là tiêu chuẩn, thước đo giá trị của những tri thức đã
đạt được trong nhận thức, từ đó bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và
hoàn thiện nhận thức. Nhận thức của con người phải được kiểm tra trong
thực tiễn, nếu chưa hoàn thiện thì bổ sung, nếu sai lầm thì bác bỏ. Trong thực
tiễn con người phải chứng minh chân lý.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Phải luôn quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm thực tiễn yêu cầu
việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, phải coi
trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với
thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của
bệnh chủ quan, duy ý chí, ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn
sẽ rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm.

3.3. Các giai đoạn cơ bản của quá trình nhận thức
Nhận thức là một quá trình, trải qua hai giai đoạn: đi từ nhận thức cảm
tính (trực quan sinh động) đến nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng):
- Nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức. Đó là
giai đoạn con người nhận thức khách thể trực tiếp bằng các giác quan.
Nhận thức cảm tính gồm 3 hình thức cơ bản từ thấp đến cao như sau: cảm
giác, tri giác, biểu tượng.
+ Cảm giác là sự phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện
tượng khi chúng trực tiếp tác động lên các giác quan của con người.
+ Tri giác là hình ảnh tương đối toàn vẹn về sự vật khi sự vật đó đang trực
tiếp tác động lên các giác quan. Tri giác nảy sinh dựa trên cơ sở của cảm
giác, là sự tổng hợp của nhiều cảm giác.
+ Biểu tượng là hình thức phản ánh cao nhất và phức tạp nhất của giai
đoạn nhận thức cảm tính. Đó là hình ảnh cảm tính và tương đối hoàn chỉnh
còn lưu lại trong bộ óc người về sự vật khi sự vật đó không còn trực tiếp tác
động vào các giác quan.
- Nhận thức lý tính là giai đoạn cao hơn của quá trình nhận thức. Đó là
sự phản ánh gián tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những
đặc điểm bản chất của sự vật khách quan.
Nhận thức lý tính cũng bao gồm 3 hình thức cơ bản đi từ thấp đến cao
như sau: khái niệm, phán đoán, suy luận.
Chương 2: Chủ nghĩa duy vật biện chứng

+ Khái niệm là hình thức đầu tiên của nhận thức lý tính, phản ánh những
đặc tính bản chất của sự vật.
+ Phán đoán là hình thức của tư duy liên kết các khái niệm lại với nhau để
khẳng định hoặc phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối
tượng.
+ Suy luận là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để
rút ra tri thức mới.
- Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính:
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn phản ánh hai
trình độ khác nhau của quá trình nhận thức nhưng có mối quan hệ qua lại
gắn bó với nhau, nhận thức cảm tính là cơ sở của nhận thức lý tính, nhận
thức lý tính định hướng cho nhận thức cảm tính.
Tuy nhiên, quá trình nhận thức không kết thúc ở nhận thức lý tính mà phải
quay trở về thực tiễn để phục vụ thực tiễn và kiểm tra tính đúng đắn của
mình. Như vậy, thực tiễn vừa là điểm khởi đầu vừa là điểm kết thúc của một
chu kỳ nhận thức.
3.4. Chân lý và vai trò của chân lý đối với thực tiễn
- Chân lý là những tri thức có nội dung phù hợp với hiện thực
kháchquan đã được thực tiễn kiểm nghiệm.
- Các tính chất của chân lý:
+ Tính khách quan: nội dung của chân lý phản ánh hiện thực khách quan,
không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
+ Tính tuyệt đối và tính tương đối: tính tuyệt đối và tính tương đối phụ
thuộc vào khả năng nhận thức của con người. Việc phân biệt chân lý tuyệt
đối hay chân lý tương đối cần dựa trên quan điểm lịch sử - cụ thể.
+ Tính cụ thể: không có chân lý trừu tượng, chân lý luôn mang tính cụ
thể.
- Vai trò của chân lý với thực tiễn:
+ Hoạt động thực tiễn chỉ có thể thành công và hiệu quả khi con người
vận dụng những tri thức đúng đắn về thực tiễn khách quan trong chính hoạt
động thực tiễn của mình.
+ Mối quan hệ giữa chân lý và hoạt động thực tiễn là mối quan hệ song
trùng, chân lý phát triển được nhờ thực tiễn và thực tiễn phát triển được nhờ
vận dụng đúng đắn những chân lý mà con người đã đạt được trong hoạt động
thực tiễn.

You might also like