Professional Documents
Culture Documents
BỘ MÔN HÓA VÔ CƠ
------***------
TIỂU LUẬN
Các phản ứng tạo ROS có thể được khai thác trong điều trị ung thư. Một
trong những loại thuốc đầu tiên được phát triển dựa trên sự tạo thành ROS là
procarbazine. Procarbaxine bị oxy hóa dễ dàng trong môi trường giàu oxi tạo
dẫn xuất azo của nó, từ đó tạo ra ROS. Từ cách đây bốn mươi năm, Berneis đã
báo cáo tác dụng hiệp đồng trong thoái hóa DNA khi procarbazine được kết
hợp với bức xạ; điều này đã được xác nhận trong các nghiên cứu in vivo tiền
lâm sàng. Các thử nghiệm lâm sàng không đối chứng cho thấy sự tăng cường
hiệu ứng bức xạ với procarbazine, nhưng hai thử nghiệm ngẫu nhiên đã thất
bại trong việc xác nhận điều này. Ngày nay, vai trò của ROS trong điều trị ung
thư và trong sự phát triển của đề kháng với hóa trị liệu đã được hiểu rõ hơn.
Khả năng khai thác ROS như một phương pháp điều trị ung thư đang nổi lên
như một phương pháp điều trị đầy hứa hẹn với sự phát triển của các tác nhân
như buthionine sulfoximine và motexafin gadolinium.
1. Procarbazine
1.1 Giới thiệu
ROS, chẳng hạn như hydro peroxide, gốc hydroxyl và anion superoxide, là
các phân tử có khả năng phản ứng cao với các electron chưa ghép cặp được
tạo ra trong các quá trình sinh lý bình thường như chuyển hóa hiếu khí hoặc
viêm. Sự đề kháng của tế bào với ROS bao gồm: các antioxidant scavengers,
như ascorbate, glutathione và thioredoxin, và enzyme chống oxy hóa, như
superoxide dismutase, catalase, glutathione peroxidase và thioredoxin
reductase. Việc điều hòa các phản ứng oxy hóa khử là rất quan trọng với một
tế bào, vì nó ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất và các con đường truyền
tín hiệu khác. Khi sự tạo thành ROS vượt quá khả năng chống oxy hóa của tế
bào, tổn thương tế bào sẽ xảy ra. Ngày nay, có nhiều nghiên cứu chứng minh
rõ ràng hơn rằng sự tạo thành ROS có thể khai thác trị liệu trong điều trị ung
thư và khả năng của một tế bào tự bảo vệ mình trước ROS của chính nó có
liên quan đến kháng hóa trị liệu.
Một trong những thuốc đầu tiên được phát triển dựa trên sự tạo thành ROS
là procarbazine. Sự oxy hóa procarbazine trong nước dẫn đến việc sản xuất
hydro peroxide [1], được cho là cần thiết để thể hiện tác dụng gây độc tế bào
của thuốc. Berneis đã chứng minh rằng, DNA cô lập có thể bị thoái hóa bởi
procarbazine khi có mặt oxy. Bổ sung catalase hoặc peroxidase đã ngăn chặn
sự thoái hóa của DNA, gợi ý hydro peroxide có thể được hình thành. Bởi vì nó
đã được biết đến rằng hoạt động của hydro peroxide trên DNA thông qua các
gốc hydroxyl, ảnh hưởng của procarbazine trên DNA được so sánh với hiệu
ứng của bức xạ ion hóa. Sau đó, năm 1966, Berneis tiếp tục xuất bản trên Tạp
chí Ung thư châu Âu nhiên cứu cho thấy procarbazine hiệp đồng tác dụng với
bức xạ ion hóa trong việc tách DNA in vitro thông qua việc hình thành các sản
phẩm peroxide không ổn định [2].
Thử nghiệm lâm sàng đầu tiên của procarbazine được báo cáo bởi Martz
và đồng nghiệp vào năm 1963 [3]. Sau đó, Mathe [4] báo cáo về việc sử dụng
procarbazine trong điều trị Ung thư hạch Hodgkin và một số bệnh ung thư tế
bào tạo máu khác. Hai phần ba trong số 22 bệnh nhân bị Ung thư hạch
Hodgkin đã đáp ứng với procarbazine đơn liều. Các độc tính chính xảy ra trên
đường tiêu hóa và huyết học, bao gồm: buồn nôn và nôn, giảm bạch cầu và
giảm tiểu cầu. Procarbazine đã được phê duyệt cuối những năm 1960 như là
một loại thuốc gây độc tế bào và đã được sử dụng kể từ đó, chủ yếu để điều trị
bệnh ung thư hạch Hodgkin, u lympho không Hodgkin và u não nguyên phát.
Nghiên cứu này sẽ tổng quan các dữ liệu được báo cáo kể từ bài báo của
Berneis về việc sử dụng procarbazine để tăng cường hiệu quả của hóa trị liệu,
vai trò của procarbazine trong điều trị ung thư ngày nay và các nỗ lực để phát
triển phương pháp điều trị ung thư thông qua các loại thuốc tạo ra ROS.
1.2 Procarbazine và xạ trị
Trong quá trình tìm kiếm các chất ức chế monoamin oxydase, các nhà
khoa học tại Hoffmann-LaRoche đã tổng hợp hàng trăm hydrazin và
hydrazide [5]. Thông qua sàng lọc in vivo, methylhydrazine N-isopropyl-a- (2-
methylhydrazine) -p-toluamide hydrochloride (procarbazine, Natulan) được
phát hiện có hoạt tính chống ung thư và ít độc nhất [6,7]. Các dẫn xuất của
methylhydrazine với hoạt tính chống khối u có cấu trúc hóa học R-CH2-NH-
NH-CH3, trong đó R đại diện cho các nhóm hữu cơ khác nhau, chủ yếu là các
nhóm benzyl. Cấu trúc của procarbazine được biểu thị trong Hình 1. Trong
các thử nghiệm sàng lọc sớm, procarbazine được chứng minh ngăn chặn sự
phát triển của khối u ở chuột, chẳng hạn như Walker carcinoma 256 và
Ehrlich carcinoma (dạng rắn và ung thư cổ chướng) và giảm sự nhân lên của
tế bào ung thư cổ chướng Ehrlich [5]. Sự phá vỡ chromatid đã được quan sát
[8]. Hơn nữa, procarbazine, khi có sự hiện diện của oxy, có khả năng gây
thoái hóa DNA in vitro, được đo bằng độ nhớt của DNA. Khi thí nghiệm được
thực hiện trong nitơ, không quan sát thấy sự thoái hóa DNA. Hiệu ứng này
được cho là do quá trình oxy hóa tự động của procarbazine khi có oxy với dẫn
xuất azo của nó, sản xuất hydro peroxide (Hình 2). Hydrogen peroxide, khi có
mặt của sắt (Feþþ), tạo ra các gốc tự do hydroxyl. Sự thoái hóa của DNA cô
lập bởi procarbazine có thể được ngăn chặn bằng cách thêm catalase vào phản
ứng, hoặc bằng cách thêm một phức chelat của sắt như desferrioxamine [1,9].
Catalase là enzyme xúc tác cho sự phân hủy hydro peroxide thành nước và
oxy phân tử mà không tạo ra gốc tự do. Phức chelat của sắt ngăn chặn sự tạo
thành gốc hydroxyl từ hydro peroxide. Do đó, khả năng tách DNA của
procarbazine in vitro phụ thuộc vào sự tạo thành ROS.
2. Buthionine sulfoximine
Buthionine sulfoximine (BSO) ức chế enzyme tổng hợp glutathione
(GSH), c-glutamylcystein sythetase, đây là những enzyme thường bị rối loạn
trong khối u kháng hóa trị. Sự cạn kiệt GSH có thể khôi phục độ nhạy cảm với
quá trình oxy hóa, ảnh hưởng đến tác dụng gây độc tế bào của các hợp chất
bạch kim và alkylators. Ví dụ, trong ung thư vú, Bcl-2 biểu hiện quá mức
MCF-7 khiến các tế bào có gia tăng mức độ glutathione gấp gần ba lần, khiến
chúng kháng với cisplatin. Điều trị sớm với BSO đã loại bỏ hoàn toàn tính
kháng Bcl-2-mediated resistance đối với cisplatin trong các tế bào này [40].
Ngoài ra, các nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy sự cạn kiệt của GSH với BSO
làm tăng độc tính tế bào của tác nhân alkyl hóa in vivo [41]. Các thử nghiệm
lâm sàng pha I đã chứng minh BSO được dung nạp tốt và glutathione có thể
được giảm xuống khoảng 10% trong các khối u và u tế bào lympho máu [42 -
44]. Buồn nôn và nôn là các tác dụng phụ thường gặp nhất do BSO, được thấy
ở 50% bệnh nhân. Tác dụng chống độc của BSO kết hợp với cisplatin và
alkylators đang được nghiên cứu.
3. Motexafin gadolinium
Motexafin gadolinium là một porphyrin mở rộng, được chọn lọc cục bộ
trong khối u. Nó có đa cơ chế hoạt động, bao gồm cả việc tạo ra ROS và sự
suy giảm các chất chuyển hóa, như protein thiols, thioredoxin, nicotinamide
adenine dinucleotide phosphate (NADPH), ascorbate và glutathione [45]. Các
electron được chuyển từ các chất chuyển hóa khử đến oxy để tạo ra ROS
(Hình 3). Thuốc ức chế sản xuất ATP bằng cách can thiệp vào chuỗi vận
chuyển điện tử[46]. Kết quả là các tế bào trải qua quá trình apoptosis dễ dàng
hơn [47], có nghĩa là motexafin gadolinium có thể được sử dụng như một
phương pháp điều trị khối u ác tính haematolymphoid, các tế bào rất nhạy cảm
với stress oxy hóa, hoặc kết hợp với hóa trị và xạ trị. Trong các nghiên cứ tiền
lâm sàng, motexafin gadolinium tăng cường tác dụng của nhiều tác nhân hóa
trị liệu in vitro và in vivo [48], và có ảnh hưởng đến tác dụng của xạ trị
[46,49,50].
Các quan điểm hiện nay về tính chọn lọc của motexafin gadolinium chủ
yếu dựa trên sự trao đổi chất bất thường trong các khối u. So với tế bào bình
thường, các tế bào ung thư sử dụng chủ yếu là glycolysis kỵ khí. Motexafin
gadolinium dễ dàng bị khử (tức là nhận một electron) trong tế bào ung thư.
Các chất khử bị mắc kẹt chọn lọc trong tế bào khối u. Thực tế, motexafin
gadolinium tác dụng chọn lọc trên khối u mục tiêu đã được hiển thị rõ ràng
bằng hóa trị liệu [50] và hình ảnh cộng hưởng từ (MRI). Bởi vì motexafin
gadolinium chứa gadolinium liên kết cộng hóa trị ở trung tâm, thuốc được
phát hiện bởi MRI. Kết quả MRI ở những bệnh nhân được điều trị bằng
motexafin gadolinium đã chứng minh sự hấp thu thuốc chọn lọc ở khối u
nguyên phát và di căn, nhưng không chọn lọc trong các cơ quan bình thường,
ngoại trừ gan và thận, nơi thuốc chuyển hóa và bài tiết [51 - 54].
Hình 3: Các phản ứng oxy hóa khử biến đổi motexafin gadolinium (MGd)
tạo ra oxy và RS-H. Sự khử RS-SR về trạng thái khử yêu cầu năng lượng
từ NADPH
Hình 4: Thời gian tiến triển thần kinh được xác định bởi một ủy ban đánh
giá ngẫu nhiên ở bệnh nhân ung thư phổi không phải tế bào nhỏ và di căn
não. WBRT, xạ trị toàn bộ não; MGd, motexafin gadolinium + WBRT (điều
trị); CI, khoảng tin cậy; D, ngày; M, tháng [56] (in lại với sự cho phép của
Hiệp hội Ung thư lâm sàng Hoa Kỳ).
Motexafin gadolinium là đối tượng thử nghiệm cho hơn 500 bệnh nhân
trong một số thử nghiệm lâm sàng pha I, II và III. Nhìn chung, thuốc được
dung nạp tốt, độc tính thận đảo ngược giới hạn liều ở liều cao sau khi dùng lần
đầu [53] và nhiễm độc gan có thể đảo ngược sau khi dùng lặp lại [55]. Một
nghiên cứu lâm sàng pha III ở những bệnh nhân di căn não trải qua xạ trị
wholebrain đã được hoàn thành gần đây. Trong khi thời gian sống và thời gian
tiến triển khối u thần kinh không được đáp ứng cho toàn bộ nhóm 401 bệnh
nhân ngẫu nhiên, được chỉ định trước phân nhóm gồm 251 bệnh nhân ung thư
phổi không phải tế bào nhỏ và di căn não cho thấy cải thiện đáng kể, giúp kéo
dài thời gian tiến triển khối u thần kinh trong điều trị bằng bức xạ kết hợp
gadolinium motexafin (Hình 4) [56]. Trung bình, kéo dài được từ 7,4 tháng
trong điều trị bức xạ đơn độc lên 15 tháng trong điều trị bằng bức xạ kết hợp
motexafin gadolinium (P 1/4 0: 048). Với bệnh nhân ung thư phổi, cải thiện
thời gian tiến triển nhận thức thần kinh cũng quan sát thấy [57]. Các tác dụng
không mong muốn được báo cáo thường xuyên nhất là trên da và nước tiểu
đổi màu, và tăng huyết áp độ 1 và 2 và buồn nôn. Những kết quả này đang
được xác nhận trong một thử nghiệm lâm sàng pha III đa quốc gia ở châu Âu,
Bắc Mỹ và Úc gọi là Nghiên cứu về Thần kinh học Tiến triển với Motexafin
Gadolinium và Hóa trị liệu (SMART). Thử nghiệm này đánh giá thời gian tiến
triển thần kinh là điểm cuối trong 550 bệnh nhân ung thư phổi không phải tế
bào nhỏ và di căn não. Bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên để điều trị bằng bức
xạ wholebrain tiêu chuẩn (30 Gy trong 10 phần) hoặc xạ trị toàn bộ não tiêu
chuẩn cộng với motexafin gadolinium, tiêm tĩnh mạch mỗi ngày trước khi xạ
trị.
Tổng kết lại, Berneis và các đồng nghiệp đã phát hiện ra từ 40 năm
trước, ROS được tạo ra bởi procarbazine làm tăng sự thoái hóa DNA trong xạ
trị. Procarbazine vẫn là một tác nhân chống ung thư hiệu quả. Ý tưởng sử
dụng ROS trong trị bệnh ung thư tiếp tục được nghiên cứu tích cực, gần đây
nhất là thử nghiệm lâm sàng BSO và motexafin gadolinium.
NHẬN XÉT:
Gốc tự do có oxy (ROS) là các chất được sản xuất tự nhiên sau quá trình
chuyển hóa oxy. Chúng thường đóng một vai trò quan trọng trong việc điều
chỉnh chức năng sinh học (homeostasis), cũng như trong tín hiệu tế bào.
Nhưng khi ROS đến mức bất thường, điều này có thể tạo ra mất cân bằng
oxy hóa, đây là một hiện tượng dẫn đến tế bào lão hóa và suy giảm. Không
giống như các tế bào khỏe mạnh, các tế bào ung thư đòi hỏi mức ROS cao hơn
nhiều để cho phép chúng duy trì sự tăng trưởng và lây lan nhanh chóng.
Thông thường, sự gia tăng nồng độ ROS dẫn đến ung thư. Các nhà nghiên cứu
đã cố gắng để tiêu diệt các tế bào ung thư bằng chính thứ vũ khí oxidative
stress.
Từ cách đây bốn mươi năm, Berneis đã báo cáo tác dụng hiệp đồng trong
thoái hóa DNA khi procarbazine được kết hợp với bức xạ; điều này đã được
xác nhận trong các nghiên cứu in vivo tiền lâm sàng. Ngày nay, vai trò của
ROS trong điều trị ung thư và trong sự phát triển của đề kháng với hóa trị liệu
đã được hiểu rõ hơn. Một trong những thuốc đầu tiên được phát triển dựa trên
sự tạo thành ROS là procarbazine. Thử nghiệm lâm sàng đầu tiên của
procarbazine được báo cáo bởi Martz và đồng nghiệp vào năm 1963 [3]. Sau
đó, Mathe báo cáo về việc sử dụng procarbazine trong điều trị Ung thư hạch
Hodgkin và một số bệnh ung thư tế bào tạo máu khác. Berneis và các đồng
nghiệp đã báo cáo tác dụng hiệp đồng khi procarbazine được kết hợp với
phóng xạ. Sự hiệp đồng tác dụng giữa procarbazine và phóng xạ tạo ra các đứt
gãy DNA lớn hơn khi hydro peroxide và bức xạ tác động đơn lẻ.
Buthionine sulfoximine (BSO) ức chế enzyme tổng hợp glutathione
(GSH), c-glutamylcystein sythetase, đây là những enzyme thường bị rối loạn
trong khối u kháng hóa trị. Các thử nghiệm lâm sàng pha I đã chứng minh
BSO được dung nạp tốt và glutathione có thể được giảm xuống khoảng 10%
trong các khối u và u tế bào lympho máu.
Motexafin gadolinium là một porphyrin mở rộng, được chọn lọc cục bộ
trong khối u. Nó có đa cơ chế hoạt động, bao gồm cả việc tạo ra ROS và sự
suy giảm các chất chuyển hóa, như protein thiols, thioredoxin, nicotinamide
adenine dinucleotide phosphate (NADPH), ascorbate và glutathione. Các
electron được chuyển từ các chất chuyển hóa khử đến oxy để tạo ra ROS.
Thuốc ức chế sản xuất ATP bằng cách can thiệp vào chuỗi vận chuyển điện
tử. Kết quả là các tế bào trải qua quá trình apoptosis dễ dàng hơn, có nghĩa là
motexafin gadolinium có thể được sử dụng như một phương pháp điều trị khối
u ác tính haematolymphoid, các tế bào rất nhạy cảm với stress oxy hóa, hoặc
kết hợp với hóa trị và xạ trị.
Cần nhiều hơn các ý tưởng sử dụng ROS trong trị bệnh ung thư tiếp tục
được nghiên, đặc biệt là các thử nghiệm lâm sàng của BSO và motexafin
gadolinium.