You are on page 1of 14

January 13, 2018 [CHI TIẾT VỀ ỐNG NỘI KHÍ QUẢN]

Created on Wed, 06/17/2015 - 20:40. Last updated on Tue, 01/09/2018 - 17:00


Dịch bài: BS. Đặng Thanh Tuấn – TK Hồi sức Ngoại – BV Nhi Đồng 1

Chi tiết về ống Nội khí quản


Phần thảo luận này là ống nội khí quản (NKQ) Mallinckrodt cỡ 8.5 với một cổng hút ở trên.
Có rất nhiều loại khác nhau, tôi nghĩ sẽ tốt hơn nếu chọn kiểu đại diện và thảo luận về nó.
Cổng hút là một mánh lới quảng cáo, và nhiều nơi không sử dụng loại ống này. Tất nhiên,
"hình ảnh đại diện" đã được bỏ bao. Có một số đặc điểm lưu ý được nhắc đến một cách
ngắn gọn. Những tính năng này phổ biến đối với phần lớn ống NKQ.

BS. ĐẠ NG THANH TUAN Page 1


January 13, 2018 [CHI TIẾT VỀ ỐNG NỘI KHÍ QUẢN]

Cấu trúc giải phẫu


Ống PVC trong suốt (Transparent PVC tubing)
Nói chung, ở dạng đơn giản nhất, ống NKQ có chiều dài khoảng 33cm. Nó được làm bằng
polyvinyl clorua trong suốt, đó là sự cải tiến đáng kể đối với NKQ bằng kim loại và cao su
trong những thập kỷ trước đó, mặc dù nó khá dễ cháy. Trước đây các ống đầu tiên được
làm từ ống cao su thương mại, với đường kính khác nhau từ 3/8 đến 3/16 inch. Năm 1946
Tiến sĩ J.U. Con người đã viết thư than phiền rằng các NKQ cao su thông thường quá
cứng và gây ra chảy máu khi sử dụng đường mũi, một biến chứng mà ông cảm thấy có
thể "mang tiếng xấu cho ống NKQ”. Ông đã làm mềm ống NKQ cao su của mình trong dầu
hỏa trước khi sử dụng chúng một cách an toàn.

Độ cong giải phẫu (Anatomical curvature)


Độ cong của ống nội khí quản phù hợp với hình dạng của đường thở với đầu được giữ ở
vị trí trung tính và để dễ dàng đặt NKQ. Sự phát triển này phần lớn là một tai nạn
(accident). Người đàn ông chịu trách nhiệm cho NKQ hiện đại là Magill, và trợ lý của ông
ta cắt những ống đầu tiên ông sử dụng để nghiên cứu từ một cuộn ống cao su; do đó ống
của ông thừa hưởng hình dạng từ cuộn ống cao su. Magill dựa vào đường cong tự nhiên
này để tránh việc sử dụng nòng trong NKQ bằng kim loại (stylet). Cho đến ngày nay, độ
cong của ETT được gọi là "đường cong Magill". Theo tiêu chuẩn, nó là một đường cong
của bán kính khoảng 140mm, +/- 20mm.

Đầu nối đường thở tiêu chuẩn 15mm (Standard 15mm


airway connector)
Vâng, cần xác định kích thước tiêu chuẩn của các đầu nối cho thiết bị đường thở. Các đầu
nối là 15 và 22mm (đường kính trong), phù hợp với ISO5356-1. Lý do của tiêu chuẩn này
là: tất cả các thiết bị đường thở có thể kết nối với tất cả các thiết bị đường thở khác, do đó
không bao giờ nên có một tình huống ác mộng, trong khi bác sĩ gây mê đang cố gắng tìm
kiếm đúng bộ adaptor, thì không thể thông khí cho bệnh nhân được.

Bóng chèn bơm khí (Air-filled cuff)


Đây là đặc điểm chính của NKQ cho người lớn (tất nhiên, các ống NKQ ở nhi khoa không
có bóng chèn). Bóng chèn một khi đã bơm đầy không khí, bịt kín đường vào phổi chống lại
các chất dịch xung quanh ở đường thở trên trào qua đường hô hấp. Và, nó đảm bảo rằng
BS. ĐẠ NG THANH TUAN Page 2
January 13, 2018 [CHI TIẾT VỀ ỐNG NỘI KHÍ QUẢN]

môi trường bên dưới bóng chèn có thể được giữ áp suất và thông khí bằng hỗn hợp khí
đã được kiểm soát cẩn thận.
Một số NKQ đầu tiên không có bóng chèn; Magill sử dụng hai miếng gạc phẫu thuật màu
xanh lá cây dán băng keo gắn vào, được quấn xung quanh NKQ và lấy ra bằng tay sau khi
rút nội khí quản.

Tại sao cần ống NKQ có bóng chèn


Có hai lý do chính:
 Làm kín khí quản, không làm mất áp lực dương từ thông khí phần phổi bên dưới
 Làm kín đường thở trên, không cho các chất trên thanh môn vào được khí quản

Giữ áp lực dương


Ở đối tượng bệnh nhân nhi, vòng sụn nhẫn thu hẹp đường thở đủ để tạo cho ống NKQ đủ
kín, do đó các ống này có thể không cần bóng chèn cho đối tượng này.
Tất nhiên chuyện đóng kín là không hoàn hảo (vòng sụn nhẫn là hình ê-lip chứ không phải
là hình tròn) và có một số luận cứ rằng ống NKQ có bóng chèn cũng nên được sử dụng
rộng rãi cho trẻ em - nhưng đây là một chuyện lạc đề.
Ở người lớn, khí quản rộng hơn đáng kể. NKQ được bơm phồng lên đến chiều rộng
30mm để chiếm hết đường hầm lớn này và cần khoảng 10ml không khí.

Bảo vệ đường thở khỏi các chất bài tiết


Đường thở trên là một chuồng lợn, tôi chắc như vậy. Rác rến sẽ trôi vào khí quản nếu nó
không có phản xạ đường thở trên. Miệng người là một đầm lầy hôi thối, đặc biệt là sau
một vài ngày trong ICU. Và đừng quên chất nôn mửa, nấm candida, máu, ... Nhiều lý do
tốt để bảo vệ khí quản khỏi loại vật chất này.
Nhưng: có phải bóng chèn thực sự làm được điều này? Câu hỏi hay. Việc thay đổi bóng
chèn áp lực thấp - thể tích cao (low-pressure high-volume cuffs) đã dẫn đến một bóng
chèn mà nó không mở rộng đầy đủ, hình thành nếp gấp vào các thành của khí quản.
Những nếp gấp này là điểm vào hoàn hảo cho chất tiết trên thanh môn.
Các vật liệu khác nhau và các hình dạng khác nhau của bóng chèn (ví dụ hình trụ, hình
nón) có tỷ lệ rò rỉ dịch khác nhau, ít nhất là trong phòng thí nghiệm. Và không chỉ trong
phòng thí nghiệm là trường hợp này. Có bằng chứng tại giường cho thấy sự hít các chất
tiết (micro-aspiration) đường thở trên vào khí quản vẫn tiếp tục, bất chấp áp suất bơm
bóng chèn là bao nhiêu.

BS. ĐẠ NG THANH TUAN Page 3


January 13, 2018 [CHI TIẾT VỀ ỐNG NỘI KHÍ QUẢN]

Áp suất bóng chèn phù hợp là gì ?


Câu hỏi hay. Một bài báo của BMJ năm 1984 báo cáo các quan sát trực tiếp về niêm mạc
khí quản với các mức áp suất khác nhau; Tôi đã thể hiện những phát hiện của họ trong
một đồ thị vô ích:

Trên đối tượng con người. Khi áp lực bóng chèn lên đến 30 cmH2O, niêm mạc (khí quản)
sẽ trở nên trắng nhợt, cho thấy sự tưới máu mao mạch bị suy giảm. Khi áp lực bóng chèn
tăng lên, tưới máu mao mạch càng giảm. Ở áp suất 40 cmH2O thậm chí các tiểu động
mạch niêm mạc không còn nhìn thấy nữa.
Nói tóm lại, nguy cơ hoại tử niêm mạc tăng lên khi áp lực bóng chèn NKQ tăng lên.

Làm sao đo áp lực bóng chèn


Với áp kế (manual manometer)

Bạn có thể đo VÀ điều chỉnh áp lực bóng chèn.

BS. ĐẠ NG THANH TUAN Page 4


January 13, 2018 [CHI TIẾT VỀ ỐNG NỘI KHÍ QUẢN]

Nếu áp lực bóng chèn là zero. Điều gì xảy ra ?


Câu trả lời phổ biến nhất cho câu hỏi này là:
 Bóng chèn đã bị vỡ hoặc hoặc ống dẫn khí vào bóng chèn bị thủng (do bệnh nhân
cắn); có nghĩa là áp lực bóng chèn đã mất đi. Bây giờ máy thở sẽ báo động thể tích
thấp, cho thấy sự thất thoát.
 Ống dẫn từ ngoài vào bóng chèn bị tắc. Các thông số máy thở đều ổn định bất chấp
việc trị số hiện ra là "zero".

Nếu áp lực bóng chèn quá cao. Điều gì xảy ra ?


Một số điều có thể xảy ra:
 Vỡ khí quản cấp tính.
 Hoại tử niêm mạc khí quản, dẫn đến rò khí quản-thực quản nếu bạn không may
mắn
Và có bằng chứng rõ ràng rằng có bơm bóng chèn đấn áp lực 50 cmH2O vẫn không ngăn
ngừa được microaspiration.
Vì vậy, khi một người nói "overfilled" (quá đầy) và "overpressurised" (quá căng) điều này
ngụ ý là quá mức. Có ai đã từng tự hỏi bạn có thể tiêm vào bóng chèn bao nhiêu không
khí thì nó phát nổ?
Tốt. 150ml, đó là bao nhiêu.
Sau 10ml thông thường, áp suất chỉ có 4 cmH2O. Nhưng - vô tình tiêm 20 ml không khí, và
kim áp kế thực sự ở ngoài mức đo được. Đó là trên 100 cmH2O. Với mỗi lần bơm không
khí tiếp theo, không thể đo được áp lực. Bóng chèn tiếp tục phình lên thêm. Nó to đến
khoảng hai lần đường kính bình thường. Sau đó, xuất hiện tiếng nổ, có thể khiến một số
nhân viên ICU chạy đến và bắt đầu tự hỏi bạn đang làm gì.

Bóng kiểm tra bóng chèn (Pilot balloon)


Cái túi nhỏ này là hướng dẫn về bạn về sự toàn vẹn của bóng chèn của bạn. Nếu bạn
cảm thấy nó mềm, rất có thể là bóng chèn NKQ là mềm quá. Nó được nối với bóng chèn
với một ống hẹp, không phải là quá cứng, và có thể dễ dàng bị bệnh nhân cắn.
Thêm vào đó, nó có một van bằng lò xo một chiều, dễ bị kém chức năng hoặc có thể bị
hỏng trong quá trình sử dụng thường xuyên (ví dụ như đo áp lực bóng chèn thường
xuyên). Cuối cùng, tôi và nhiều bác sĩ cấp cứu có kinh nghiệm hoàn toàn thấy không có
ích gì trong việc kiểm tra bóng test của bóng chèn NKQ.

BS. ĐẠ NG THANH TUAN Page 5


January 13, 2018 [CHI TIẾT VỀ ỐNG NỘI KHÍ QUẢN]

Đó không phải nói vậy để nói rằng bóng test là hoàn toàn không có ích lợi. Một bài viết từ
năm 1995 báo cáo một kỹ thuật "balloting the cuff", nơi mà bạn có thể đè một áp lực nhẹ
nhàng trên khí quản ngay phía hõm trên xương ức, áp lực đè này sẽ tác động lên bóng
chèn và được truyền đến bóng test. Do đó, người thực hiện có thể thiết lập vị trí đầu ống
NKQ chính xác bằng cách xác nhận rằng bóng chèn đang ở mức đầu của xương đòn.
Một tính năng an toàn bổ sung là nhãn kích cỡ ống NKQ có in trên bóng test.

Cửa hút dưới thanh môn – trên bóng chèn (Subglottic


"Above the Cuff" Suction Port)
Tính năng bổ sung này cho phép hút các chất tiết tích tụ phía trên bóng chèn ống NKQ.
Những chất bài tiết có chứa một hỗn hợp nhiễm khuẩn của nước bọt và chất nhầy trong
mũi, vi khuẩn phát triền mạnh trong môi trường đó, dịch này có thể thoát xuống thanh môn
nhưng bị ứ lại trên mức bóng chèn. Muốn tránh viêm phổi bệnh viện, bằng cách nào đó
dịch này phải được hút ra, để nó không xuống phổi?
Vâng, có lẽ đó là điều đúng. Theo một đánh giá của Revista Brasileira de Terapia
Intensiva, không nên mong đợi nhiều về cải thiện tỷ lệ tử vong hoặc thời gian thở máy.
Nguy cơ của viêm phổi do thở máy (VAP) giảm đi, nhưng ở mức độ nào? nếu nó không
làm tăng tỷ lệ cai máy thở, vai trò thực sự của nó là giảm chi phí chăm sóc liên quan đến
VAP, bởi vì ống này rẻ hơn là dùng các kháng sinh đắt tiền như Tazocin.

BS. ĐẠ NG THANH TUAN Page 6


January 13, 2018 [CHI TIẾT VỀ ỐNG NỘI KHÍ QUẢN]

Bất lợi của việc hút trên bóng chèn NKQ là tổn thương niêm mạc. Máy hút áp dụng áp lực
100mmHg vào thành khí quản. Mức áp lực này - mặc dù được coi là "áp lực hút thấp" -
vẫn có thể hút niêm mạc ra khỏi thành của khí quản. Biến chứng này, có vẻ như, chủ yếu
là một nguy cơ liên quan đến việc hút liên tục chứ không gây ra biến chứng này nếu hút
dưới thanh môn gián đoạn.

Vạch đánh dấu mức dây thanh âm (Suggested vocal


cords marker)
Một cách hữu ích, NKQ có một vạch đánh dấu ở mặt bên của nó mà bạn vẫn có thể nhìn
thấy khi bóng chèn đã biến mất đằng sau dây thanh âm. Vạch đánh dấu được ở vị trí trên
ống NKQ phù hợp với tiêu chuẩn của chiều sâu từ dây thanh âm đến khí quản. Rõ ràng là
khí quản của con người không được sản xuất theo các thông số chính xác như nhau. Và -
điểm đánh dấu này dường như được đặt trên ống ở vị trí hoàn toàn tùy ý. Không có tiêu
chuẩn, và tất cả các nhà sản xuất dường như không đồng ý với nhau về những gì đánh
dấu để đặt, hỏi thật bao nhiêu người trong số họ biết vị trí chính xác nơi để đặt.
Những vấn đề này dẫn đến sự không đồng ý giữa vạch đánh dấu vị trí dây thanh âm và
các bác sĩ săn sóc tăng cường. Bác sĩ săn sóc tăng cường có xu hướng thắng.

Đường khí trong (Internal diameter)


Đường kính trong xác định tốc độ lưu lượng tối đa cho bất kỳ độ chênh lệch áp suất nào,
theo luật của Pouiseuille.
Tình huống hiếm hoi, bệnh nhân của bạn bị tắc nghẽn đường thở, trong tuyệt vọng bạn
đặt một catheter 14G qua màng giáp nhẫn. Tốc độ dòng chảy trong thì thở ra sẽ thấp đáng
kể, bởi vì độ chênh lệch áp suất rất thấp (ở thì thở ra) không thể đẩy khí ra đủ nhanh; theo
nghĩa này một catheter kích thước lớn hơn có thể cung cấp oxy đầy đủ, nhưng không thể
thông khí đầy đủ.
Lý do lựa chọn một ống NKQ đủ lớn để để đặt NKQ không chỉ quan trọng với đường kính
trong, mà đường khí ngoài tự nhiên tăng lên theo cũng rất quan trọng. Một người đàn ông
to lớn có một khí quản lớn, và bạn đặt ống NKQ nhỏ cho anh ấy sẽ dẫn đến rất nhiều thất
thoát quanh bóng chèn NKQ. Và sau đó bạn cố gắng bơm bóng chèn NKQ thật phồng lên
để bù đắp cho việc thất thoát như vậy, khi phần bóng chèn tiếp xúc với khí quản của bệnh
nhân, nó sẽ tăng áp lực trong bóng chén. Vì vậy, điều quan trọng là phải đảm bảo rằng
kích cỡ ống NKQ phải khớp với kích cỡ khí quản. Thông thường, một người đàn ông
trưởng thành dùng ống 8,0 hoặc 8,5 là một lựa chọn lý tưởng và 7,5 đến 8,0 cho phụ nữ
trưởng thành.
BS. ĐẠ NG THANH TUAN Page 7
January 13, 2018 [CHI TIẾT VỀ ỐNG NỘI KHÍ QUẢN]

Vạch đánh dấu chiều sâu (Depth markers)


Việc làm này chủ yếu là để lưu trữ hồ sơ chứ không phải là để xác định vị trí. Tuy nhiên,
nếu không có xác nhận vị trí thông qua phim X quang, người ta có thể dựa vào các vạch
đánh dấu chiều sâu để quyết định xem có đẩy ống vào quá sâu hay không. Một thử
nghiệm quy mô nhỏ đã cho thấy 20-21cm đối với phụ nữ và 21-22 cm đối với nam giới là
vị trí lý tưởng với cổ ở vị trí trung gian.
Vị trí chính xác để đo độ sâu, vì lý do nào đó được xem như ở góc miệng. Tuy nhiên, nếu
bạn nghĩ về nó, đây là một nơi ngu ngốc để cố định một ống NKQ. Khả năng cắn dù thứ gì
đó với răng hàm của bạn lớn hơn nhiều so với răng cửa; ống đặt ở các góc của miệng sẽ
dễ dàng bị nứt và có thể dễ bị tắc nghẽn do cắn hơn. Ngược lại, rất khó để cắn xuống đủ
mạnh để làm nghẽn ống NKQ nếu chỉ sử dụng răng cửa của bạn.

Mắt Murphy hay lỗ thông khí bên (Murphy's Eye)


Wood Library Museum of Anaesthesiology đã trưng bày một số ống nội khí quản cũ và
đẹp, cũng như các câu chuyện thú vị từ lịch sử của thiết bị gây tê. Ở đây, tôi phát hiện ra
rằng mắt của Murphy được đặt tên như vậy vì thực sự có một người tên là Francis J.
Murphy, người đã thiết kế nó. Không chỉ vậy, anh ta là người đề cao việc cung cấp oxy
liên tục trong khi gây mê, điều mà tôi cho rằng có thể những người khác trong thời gian
này (nửa đầu thế kỷ 20) đã phản đối mạnh mẽ dùng oxy trong khi phẫu thuật.

BS. ĐẠ NG THANH TUAN Page 8


January 13, 2018 [CHI TIẾT VỀ ỐNG NỘI KHÍ QUẢN]

Toàn bộ quan điểm của mắt Murphy là hoạt động như một lỗ thông khí bổ sung. Về cơ
bản, ngay cả khi đầu NKQ bị tắc với chất tiết bẩn, có thể vẫn có không khí đi qua lỗ này để
đến được phế nang bệnh nhân.
Ngoài ra, có một lợi ích phụ.
Khi bạn đặt NKQ cho ai đó, giữ góc nghiêng ở vị trí thích hợp, mắt của Murphy nhìn vào
thành bên phải của khí quản. Chính ở đây, ở khoảng 0,5% dân số, phế quản thùy trên
phổi phải xuất phát bất thường từ khí quản. Với một niềm tin rằng, mắt của Murphy bảo vệ
những người này khỏi bị xẹp phổi thùy trên bên phải, bằng cách cho phép thông khí vào
thùy phổi đó.

Đầu ống NKQ mặt vát nghiêng bên trái (Left-facing


bevel tip)
Nhiều tác giả có thể cho bạn tin rằng đây là một phương tiện để đảm bảo rằng các đầu
ống không bao giờ bị tắc nghẽn bởi trực tiếp đối diện với thành của khí quản. Tuy nhiên,
ngay cả khi đầu ống có thể bị tắc nghẽn bởi thành khí quản; chỉ là vấn đề định vị nó ở vị trí
đúng. Trong thực tế, mặt vát nghiêng bên trái giúp cho mắt người đặt NKQ nhìn thấy
thanh quản rõ ràng hơn. Một ống NKQ hình trụ hoàn toàn sẽ che lấp hầu hết dây thanh,
ngăn cản các bác sĩ nhìn thấy liệu mình đã đưa ống NKQ qua dây thanh âm có đúng hay
không.
Thật thú vị, các phiên bản sớm của ống NKQ không có mặt vát, chủ yếu là vì chúng đã
được đặt mù, trên một bệnh nhân còn tỉnh, chứ không dùng đèn soi thanh quản. Khi lịch
sử của đèn soi thanh quản tiến triển mặc dù sử dụng thiết bị như kính viễn vọng có gắn
gương soi lên một cái giá treo, cuối cùng chúng tôi đã đến được dụng cụ soi thanh quản
trực tiếp đầu tiên của Janeway và dùng ống NKQ đầu tiên của Magill.
Magill đã thực hiện ống NKQ của mình từ ống cao su thương mại cao cấp, mà ông cắt
bằng tay; ông đề nghị các ống này được cắt xiên, nhưng có lẽ bởi vì điều này làm đặt qua
mũi dễ dàng hơn (và không phải vì nó đã được làm như vậy để nhìn thấy dây thanh âm dễ
dàng hơn). Khi các ống bắt đầu được sản xuất hàng loạt, thì mặt vát vẫn còn. Hình ảnh
đẹp của những ống sớm này có thể được tìm thấy ở đây, tại Virtual Museum of Equipment
for Airway Management.
Nói tóm lại, mặt vát nghiêng trái cải thiện khả năng hiển thị của dây thanh âm, và có lợi ích
phụ là khó bị tắc nghẽn với đờm.

BS. ĐẠ NG THANH TUAN Page 9


January 13, 2018 [CHI TIẾT VỀ ỐNG NỘI KHÍ QUẢN]

Đường cản quang màu xanh (Radio-opaque blue line)


Đây chỉ là một cách thuận tiện để xác định vị trí đầu ống trên phim X quang. Đường cản
quang màu xanh lam thường chỉ được làm bằng PVC "không tinh khiết" và được ép chung
với phần còn lại của ống PVC. Người ta không tiết lộ nó là tạp chất gì, nhưng nó không có
gì là độc hại.
Nó giúp tôi rằng ngoài việc như một chỉ thị độ sâu ống NKQ thuận tiện, đường này cũng đi
theo độ cong của ống, nó trở nên quan trọng trong thế giới không bóng chèn của nhi khoa.
Có thể tưởng tượng, người ta có thể dễ dàng thấy được nếu ống có vị trí ngược với
đường cong bình thường của đường thở, chèn ép lên mô khí quản và gây tổn thương
niêm mạc. Bóng chèn NKQ của người lớn ngăn không cho điều này xảy ra bằng cách giúp
ống NKQ ở mức trung tâm trong khí quản; Hơn nữa, tỷ lệ độ dày của ống so với đường
kính cho phép PVC của ống NKQ người lớn đủ mềm đáng kể trong quá trình sử dụng kéo
dài, phù hợp với tư thế giải phẫu.

Cạnh tù giảm chấn thương (Smooth atraumatic edge)


Các ống nội khí quản đầu tiên (ví dụ như ống của Bouchut) được làm thẳng, bằng kim
loại, và có thể rất khó chịu. Hậu quả của việc mang một ống như vậy trong khí quản
thường xuyên là một vết loét khí quản. Kế tiếp ống NKQ do Joseph P O'Dwyer sản xuất
vào năm 1885 được làm bằng cao su, và thời gian này được dung nạp tốt hơn (với các
cạnh được bo tròn).

BS. ĐẠ NG THANH TUAN Page 10


January 13, 2018 [CHI TIẾT VỀ ỐNG NỘI KHÍ QUẢN]

Chi tiết về chức năng


Ống NKQ cho phép đặt NKQ và thông khí cơ học, cũng như làm vệ sinh khí quản.

Chỉ định đặt NKQ


Có một số chỉ định riêng cho đặt NKQ và thở máy, mặc dù chúng ta thường thấy giống
nhau. Chúng tôi có thể tách chúng đến một mức độ nào đó. Người ta có thể nói rằng sự
cần thiết cho thông khí cơ học là một trong những chỉ định đặt nội khí quản.

Chỉ định đặt NKQ:


 Khắc phục tắc nghẽn đường thở và bảo vệ đường thở
 Cho phép tiếp cận đường thở dưới để hút các chất bài tiết
 Cho phép thở máy xâm lấn ở bệnh nhân mà thở máy không xâm lấn là chống chỉ
định.

Chỉ định thông khí cơ học:


 Để điều chỉnh PaO2 và PaCO2
 Để giảm công thở (giảm suy hô hấp hoặc giảm nhu cầu cung cấp oxy toàn cơ thể)
 Để tăng dung tích cặn chức năng (FRC)
 Để ổn định thành ngực bệnh nhân bị chấn thương ngực nặng

Chống chỉ định đặt NKQ


Trên thực tế có rất ít chống chỉ định cho đặt nội khí quản.
 Không có đường thở trên (ví dụ: cắt bỏ thanh quản triệt căn)
 Chấn thương ở thanh quản có thể trầm trọng thêm do đặt NKQ (ví dụ: thanh quản bị
chấn thương)
 Mới vừa phẫu thuật trên đường thở có thể trầm trọng thêm do đặt NKQ
Chống chỉ định tương đối thì nhiều, nhưng có thể được tóm tắt như mọi trường hợp đặt
NKQ khó khăn (vì bất cứ lý do gì) và bạn không cảm thấy mình có thể hoàn thành nó thật
tốt. Trong những trường hợp đó, không phải là một ý tưởng tốt để bạn vẫn tiến hành đặt
NKQ. Không chỉ bạn sẽ làm hỏng nỗ lực của bạn, bạn có thể thực hiện một số thiệt hại
thực sự, và làm cho quá trình đặt NKQ khó khăn hơn cho người tiếp theo.

BS. ĐẠ NG THANH TUAN Page 11


January 13, 2018 [CHI TIẾT VỀ ỐNG NỘI KHÍ QUẢN]

Phương pháp đặt NKQ


Rất nhiều sách đã viết về chuyện này. Chúng ta đừng làm ồn ào thêm.
Thay vào đó, chúng ta tập trung vào việc định vị ống NKQ sao cho đúng.

Vị trí đầu ống NKQ thích hợp


Sự phù hợp của vị trí NKQ thực sự là một yếu tố đảm bảo an toàn của nó.
Ống NKQ cần phải làm hai việc. Nó cần phải ở nơi mà bóng chèn phải nằm dưới dây, và
nó không được lọt vào phế quản gốc nào. Đủ cả hai điều kiện đó, mọi người đều vui vẻ.
Do đó, chiều dài của ống NKQ phần nằm trong khí quản phải đáp ứng các điều kiện này.
Chúng ta biết rằng khi bệnh nhân gập cổ và ngữa cổ, ống NKQ di chuyển lên và xuống
khoảng 2 cm theo cả hai hướng. Vì vậy, khuyến cáo đầu ống NKQ được đặt ở độ cao 5
cm trên carina, với đầu ở vị trí trung gian. Bằng cách đó, nó có thể di chuyển 2 cm lên và 2
cm xuống, không có nguy cơ thoát khỏi dây thanh âm hoặc đi xuống phế quản gốc bên
phải.
Tất nhiên, quy tắc "5 cm" chính xác này dựa vào người biết chính xác nơi carina. Điều
này, trong bối cảnh các phim X quang ngực có chất lượng kém của ICU, hoàn toàn không
thực tế. Một nửa thời gian chúng tôi không biết nơi mà các carina ở là địa ngục.
Vì vậy kết quả các nghiên cứu trên X-quang rằng: đầu NKQ nên ở mức T3-T4, dựa vào
các cột mốc xương cố định. Điều này tương ứng với vị trí carina ở khoảng T5-6.

BS. ĐẠ NG THANH TUAN Page 12


January 13, 2018 [CHI TIẾT VỀ ỐNG NỘI KHÍ QUẢN]

Nói chung bạn không bao giờ có thể bắt chước được như trong bức ảnh X quang ICU di
động này, nhưng nếu bạn làm như vậy, bạn sẽ biết rằng vị trí đầu "trung gian" tương ứng
với mức xương hàm ở C5-C6. Mức này cũng ngang với nơi có dây thanh âm.

Các tính năng an toàn


Tổng kết:
 Chỉ sử dụng một lần, không có nguy cơ lây nhiễm chéo
 Đầu nối 15mm tiêu chuẩn để phù hợp với tất cả các thiết bị đường thở
 Sản xuất bằng PVC không gây dị ứng, không chứa cao su
 Thân ống trong suốt, để xem máu hoặc chất nôn
 Vạch đánh dấu mức ngang cung răng để chỉ độ sâu đặt ống NKQ vào
 Vạch màu đen ngang dây thanh để hướng dẫn đặt vào chiều sâu thích hợp
 Bóng chèn áp suất thấp thể tích cao để bít kín khí quản
 Ghi nhãn kích cỡ ống NKQ trên bóng test
 Có bóng test để đo áp suất bóng chèn
 Đầu NKQ bờ tù giảm chấn thương
 Mắt của Murphy để bảo vệ chống lại tắc nghẽn
 Mặt vát bên trái của ống để hỗ trợ nhìn thấy dây thanh khi đặt ống
 Đường cản quang màu xanh để giúp đánh giá vị trí NKQ trên phim X quang ngực

Biến chứng của đặt NKQ


 Không đặt được NKQ
 Đặt NKQ nhầm qua thực quản
 Tắc nghẽn ống NKQ (có thể bị cắn bởi răng hoặc bị tắc với đờm)
 Tụt ống NKQ ra khỏi đường thở
 Đặt NKQ sâu qua phế quản gốc (thường vào phế quản gốc bên phải)
 Bóng chèn vỡ, mất áp lực
 Chấn thương do đặt NKQ (ví dụ: chấn thương khí phế quản, thậm chí thủng)
 Loét niêm mạc và hoại tử do đặt nội khí quản kéo dài

BS. ĐẠ NG THANH TUAN Page 13


January 13, 2018 [CHI TIẾT VỀ ỐNG NỘI KHÍ QUẢN]

References
1. Ellis, D. Y., C. Lambert, and P. Shirley. "Intracranial placement of nasopharyngeal
airways: is it all that rare?." Emergency medicine journal: EMJ23.8 (2006): 661.

2. Grogan, Tracy A., and David J. Kramer. "The rectal trumpet: use of a
nasopharyngeal airway to contain fecal incontinence in critically ill patients."Journal
of Wound Ostomy & Continence Nursing 29.4 (2002): 193-201.

3. Roberts, K., H. Whalley, and A. Bleetman. "The nasopharyngeal airway: dispelling


myths and establishing the facts." Emergency Medicine Journal 22.6 (2005): 394-
396.

4. Stoneham MD. The nasopharyngeal airway. Assessment of position by fibreoptic


laryngoscopy.Anaesthesia 1993;48(7):575–80.

BS. Đặng Thanh Tuấn thực hiện (13/1/2018)

BS. ĐẠ NG THANH TUAN Page 14

You might also like