Professional Documents
Culture Documents
Hình 1: Khoảng gian sườn. A. tĩnh mạch gian sườn (V), động mạch (A), và thần kinh (N),
B: tuần hoàn phụ (Trích từ Shields TW, LoCicero J III, Ponn RB, et al., eds. General thoracic
surgery, 6th ed. Philadelphia: Lippincott Williams & Wilkins, 2005)
- Lá thành có thần kinh cảm giác, lá tạng không có thần kinh. Lá tạng là nơi tiết dịch chủ yếu.
- Áp lực khoang màng phổi: Hít vào áp lực -8 đến -10 cm H2O; thở ra từ -2 đến + 0 cm H2O.
Khi hắt hơi mạnh hoặc ho hoặc thở ra tối đa thì áp lực tống ra cao +50 cm H 2O sau đó tụt sâu -50
đến -60 cm H2O (bằng áp lực hít vào tối đa) nên có thể hút ngược dịch trong bình dẫn lưu lên màng
phổi nếu bình để quá cao. Do đó bắt buộc phải để bình lúc nào cũng thấp hơn so với khoang màng
phổi (lồng ngực) là 60 cm.
- Màng phổi có khả năng chống nhiễm khuẩn hạn chế nhất định và nó rất dễ bị nhiễm trùng, vì
vậy yêu cầu của dẫn lưu màng phổi: vô khuẩn, kín, một chiều, nếu có thể hút liên tục.
3. CHỈ ĐỊNH
3.1. Chỉ định:
2
Trong trường hợp tràn dịch hay khí khu trú thì vị trí dẫn lưu sẽ tùy theo vị trí của ổ khí hoặc
dịch được quyết định bởi hình ảnh X –quang, CT Scan.
Hình 2: Tam giác an toàn hay vị trí đặt ống dẫn lưu an toàn ( Nguồn: D Laws, E Neville and J
Duffy (2003), “BTS guidelines for the insertion of a chest drain”, Thorax ; 58 :ii53–ii59)
5.3. VỊ TRÍ CHẮC CHẮN ĐỂ DẪN LƯU
Ống dẫn lưu không nên đặt mà không có sự hướng dẫn của hình ảnh để chọn lựa vị trí
thích hợp để đặt dẫn lưu, nếu khí tự do hoặc dịch không được hút ra lúc gây tê.
X quang ngực phải sẵn có vào lúc dẫn lưu ngoại trừ những trường hợp tràn khí màng
phổi áp lực.
Ngay trước khi thực hiện thủ thuật nên kiểm tra lại bệnh nhân, vị trí cần đặt, bên phổi tổn
thương bằng cách khám lại và xem X - quang ngực. Trong lúc gây tê cần chọc thăm dò, khí và dịch
phải được rút ra ngay vị trí định đặt ống. Trong trường hợp mủ màng phổi và tràn dịch màng phổi
khu trú có thể sử dụng siêu âm để hướng dẫn đặt dẫn lưu.
5.4. KỸ THUẬT SÁT TRÙNG
Ống dẫn lưu có thể phải để nhiều ngày, sát khuẩn rộng rãi là điều cần thiết để tránh nhiểm
trùng vết mổ hoặc mủ màng phổi thứ phát. Mặc dù không thường thấy nhưng tỉ lệ mủ màng phổi
sau dẫn lưu ở BN chấn thương là 2.4%. Sát khuẩn vùng da rộng nên được thực hiện, các dụng cụ
vô trùng, phẫu thuật viên mang gant tay vô trùng, đội nón mask.
Đối với bệnh nhân chấn thương, kháng sinh dự phòng được khuyến cáo sử dụng và kháng
sinh thường được sử dụng là cephalosporins hoặc clindamycin, giảm nguy cơ mủ màng phổi
khoảng 5.5 – 7.1% và tất cả các biến chứng nhiễm trùng 12.1 – 13.4%.
5.5. VÔ CẢM
Gây tê tại chỗ trước khi đặt dẫn lưu. Một kim nhỏ, tiêm một nốt phồng ngoài da, gây tê một
vùng đủ để rạch da, tiếp theo đó đâm kim chạm vào xương sườn để gây tê màng xương trước khi
tiêm sâu vào cơ gian sườn và bề mặt màng phổi thành (chú ý mốc quan trọng nhất là xương sườn).
Lidocain (lên đến 3mg/kg), liều cao hơn có thể là liều độc. Thể tích thuốc tê được cho rằng quan
trọng hơn liều được cho, mục đích ngấm đều vùng gây tê được hiệu quả.
4
Pleur – vac là hệ thống bình hút có nhiều ngăn, bán trên thị trường dựa trên nguyên tắc 3
bình, rất tiện dụng khi di chuyển:
- Chiều cao của “buồng 1” (có 3 ngăn) để xác định lượng dịch thoát ra từ khoang màng phổi
(tính bằng ml).
- “Buồng 2” là hệ thống bình kín trong nước
- “ Buồng 3” là buồng điều hòa và kiểm soát lực hút (tính bằng cm nước). Đổ nước vào
“buồng 3”. Chính chiều cao của cột nước này là mức hằng định áp lực đang hút từ khoang màng
phổi của bệnh nhân, tốt nhất là 20 cm.
6.2. Kẹp ống dẫn lưu:
ODL đang ra khí không được kẹp.
Dẫn lưu tràn dịch màng phổi lượng nhiều nên được kiểm soát để ngăn ngừa biến chứng
phù phổi do sự giãn nở của phổi.
Trong trường hợp tràn khí màng phổi, kẹp ống dẫn lưu nên tránh. Nếu có chỉ định kẹp,
phải có sự giám sát của bác sĩ chuyên khoa.
Nếu bệnh nhân khó thở khi kẹp ODL hay bị tràn khí dưới da, lập tức tháo kẹp
Không có bằng chứng nào cho rằng kẹp ODL trước khi rút làm gia tăng sự thành công và
ngăn ngừa sự tái phát tràn khí màng phổi. Tuy nhiên, khuyến cáo kẹp ODL khi đã hết ra khí
(đối với trường hợp tràn khí màng phổi tự phát) để phát hiện những dò khí nhỏ mà không thấy
được trên lâm sàng. Bằng cách kẹp ODL trong nhiều giờ, sau đó chụp lại X quang ngực,
những trường hợp dò khí ít có thể thấy được, tránh phải đặt ODL lại sau khi rút. Những bệnh
nhân đặt ODL để điều trị tràn khí màng phổi khi kẹp phải được nằm phòng theo dõi.
Có nhiều báo cáo về những trường hợp phù phổi (re – expansion pulmonary
edema) sau xả dịch nhanh với số lượng lớn cũng như đối với tràn khí màng phổi tự phát. Đối
với dịch khuyến cáo nên kẹp ODL lại 1 giờ sau dẫn lưu được 1 lít. Trong khi đó không có 1
bằng chứng cho thể tích thật sự, trong thực hành đề nghị một lần tháo dịch không quá 1500ml
hoặc dẫn lưu chậm khoảng 500ml/h
6.3. Rút ODL
Ngay khi đạt được mục đích dẫn lưu, chỉ định rút ống phải được thực hiện sớm. Thời gian
rút ODL phụ thuộc vào tùy bệnh lý (TKMP tự phát, TKMP chấn thương, TMMP, TDMP ác tính,
mủ màng phổi…. ) và diễn tiến lâm sàng.
Thủ thuật rút ống được tiến hành trong khi bệnh nhân làm nghiệm pháp Valsalva
(Valsalva’s maneuvre) hoặc cuối thì thở ra hoặc cuối thì hít vào với động tác rút thật nhanh trong
lúc người phụ cột mối chỉ chờ đã được khâu trước đó hoặc dùng kìm agraf + móc bấm kẹp lỗ dẫn
lưu nếu không có may chỉ chờ trước đó.
7. TAI BIẾN VÀ BIẾN CHỨNG ĐẶT DLMP
- Chảy máu: do tổn thương bó mạch liên sườn. Chú ý khi bóc tách tựa sát bờ trên xương sườn dưới,
- Tổn thương cơ hoành, gan, lách, dạ dày: Chú ý không nên đặt ống dẫn lưu quá thấp. Đặc biệt khi
đặt ống dẫn lưu ở những bệnh nhân sau phẫu thuật bụng, bụng chướng và đang thở máy đặt thấp rất
dễ vào ổ bụng.
- Đặt ống nằm ngoài thành ngực: bóc tách và đặt ống một cách cẩn thận, sau khi hoàn thành thủ
thuật kiểm tra lại có khí và dịch thoát ra hay không, ống dẫn lưu có hoạt động không.
- Ống dẫn lưu tuột ra ngoài do đứt chỉ, dẫn lưu lâu ngày da nhiễm vết mổ hở: rạch da vừa đủ, cố
định chỉ Silk 1.0 hay Nylon 2.0 chắc chắn. Khi xảy ra tuột ống nhanh chóng rút bỏ và cột mối chỉ
chờ, sau đó chụp X quang kiểm tra tùy kết quả sẽ xử trí tiếp.
- Tắc ống do máu đông, mủ quá đặc: thay ống mới, mở ngực hay nội soi lồng ngực
- Nhiễm trùng vết mổ, mủ màng phổi: tôn trọng nguyên tắc vô trùng, không nên để ống dẫn lưu quá
lâu, thay nước bình dẫn lưu thường xuyên.
- Phù phổi câp: rất hiếm gặp
7