You are on page 1of 4

TRÀN KHÍ MÀNG PHỔI

Translation by Tâm Danh Phan – Osmosis English Class

Với tràn khí màng phổi, pneumo chỉ không khí và thorax có nghĩa là lồng
ngực, vì vậy tràn khí màng phổi là khi có không khí trong lồng ngực; cụ thể
hơn là khí trong khoang giữa phổi và thành ngực - được gọi là khoang màng
phổi.

Khoang màng phổi nằm giữa màng phổi thành dính vào thành ngực và màng
phổi tạng dính vào phổi.

Khoang màng phổi thường chứa dịch bôi trơn giúp giảm ma sát khi phổi giãn
nở và co lại.

Áp lực trong khoang màng phổi được thành lập bởi hai lực đối lập chính.
lực kéo và lực căng mở rộng
Một là sức căng cơ của cơ hoành và thành ngực co lại và mở rộng khoang
ngực ra bên ngoài, và một lực khác là sự co giãn của phổi, cố gắng kéo phổi
vào trong.

Hai lực kéo vào nhau tạo ra sự cân bằng giữa các lực tạo ra chân không
nhẹ trong khoang màng phổi.

Kết quả là khoang màng phổi có áp suất -5 cm nước so với áp suất 0 cm


nước trong cả khoang ngực và phổi.

Tràn khí màng phổi hình thành khi sự toàn vẹn của khoang màng phổi bị
thủng và không khí di chuyển từ bên ngoài vào, làm cho áp suất trong
khoang màng phổi bằng 0 cm nước. từ nơi áp suất cao vào khoang màng phổi

Vì áp suất âm màng phổi bị mất, hai lực đối nghịch không còn kéo nhau nữa.
Kết quả là, phổi chỉ đơn giản là kéo vào trong và xẹp xuống, và thành ngực
chỉ đơn giản là giãn ra ngoài một chút.

Phổi xẹp làm hạn chế khả năng trao đổi khí của nó và có thể dẫn đến giảm
oxy đưa vào cơ thể và tích tụ carbon dioxide trong cơ thể vì nó không thể dễ
dàng thải ra ngoài.

Có nhiều loại tràn khí màng phổi.

Đầu tiên là tràn khí màng phổi tự phát, thường xảy ra khi một túi khí hình
thành trên bề mặt phổi và vỡ ra.

Túi khí hình thành khi các phế nang, là các phần tận cùng của phổi, nơi diễn
ra quá trình trao đổi khí, tạo một lỗ rò rỉ nhỏ và không khí từ từ lọt vào các
mô phổi xung quanh.

Thường các phế nang sẽ lành lại, nếu không chính nó sẽ dẫn đến tràn khí
màng phổi.

Nhưng kết quả là một túi khí. Nếu túi khí bị vỡ, nó sẽ tạo ra một lỗ lớn trong
màng phổi tạng và không khí có thể đi từ đường thở trực tiếp vào khoang
màng phổi.

Tràn khí màng phổi tự phát nguyên phát là tình trạng phát triển trong trường
hợp không có bệnh lý nền - thường xảy ra ở nam thanh niên gầy, cao, đang
nín thở, tạo ra nhiều áp lực bên trong.

Tràn khí màng phổi tự phát thứ phát là bệnh phát triển ở người có bệnh phổi
nền, như hội chứng Marfan, bệnh xơ nang, khí phế thũng hoặc ung thư phổi.

Trái ngược với tràn khí màng phổi tự phát, còn có tràn khí màng phổi do
chấn thương là khi chấn thương như vết thương do súng bắn hoặc vết đâm
xuyên qua màng phổi thành, cho phép không khí đi vào từ bên ngoài, trực
tiếp vào khoang màng phổi.
Cuối cùng, tràn khí màng phổi áp lực có thể phát triển tương tự như tràn
khí màng phổi tự phát hoặc tràn khí màng phổi do chấn thương - với một
điểm khác biệt là nó tạo ra van một chiều để không khí đi vào khoang
màng phổi.

Nói cách khác, không khí có thể đi vào, nhưng không thể đi ra vì có một lớp
mô không cho phép không khí đi theo hướng khác.

Theo thời gian, không khí có thể tích tụ, làm tăng áp suất và nó có thể bắt
đầu chèn ép tim và phổi khiến chúng hoạt động kém hơn và nó có thể đè
đẩy các cấu trúc lớn như khí quản.

Tràn khí màng phổi áp lực chèn ép lên tim đặc biệt nguy hiểm vì nó có thể
ngăn tim đổ đầy bình thường, làm giảm cung lượng tim.

Triệu chứng chính của tràn khí màng phổi là khó thở và đau ngực.

Không khí thừa trong khoang màng phổi cũng làm thay đổi quá trình truyền
âm trong lồng ngực, do đó khi nghe bằng ống nghe, âm thở bình thường sẽ
giảm.

Ngoài ra, khi vỗ hoặc gõ vào lồng ngực, không khí thừa trong khoang màng
phổi làm cho âm thanh cộng hưởng trở nên lớn hơn, được gọi là gõ vang.

Thông thường, X-quang hoặc CT scan là cần thiết để chẩn đoán và thường
có thể nhìn thấy bờ ngoài của phổi xẹp với sự khác biệt rõ ràng giữa mô
phổi chủ yếu là màu đen và không khí trong khoang màng phổi có màu đen
hoàn toàn.

Nếu có tràn khí màng phổi áp lực, Xquang hoặc CT scan có thể cho thấy sự
dịch chuyển các cấu trúc lồng ngực, như khí quản lệch ra khỏi bên bị ảnh
hưởng – điều này được gọi là lệch khí quản.
Thông thường, nếu tràn khí màng phổi tự phát với lượng nhỏ và không gây
khó thở thì không cần điều trị, và màng phổi sẽ lành theo thời gian.

Tuy nhiên, với tình trạng tràn khí màng phổi nhiều hơn gây ra các triệu chứng
nghiêm trọng hoặc tràn khí màng phổi áp lực, cần phải loại bỏ không khí.

Thông thường, điều này được thực hiện bằng cách đặt một cây kim hoặc
một ống ngực và cung cấp một đường thoát cho không khí.

Được rồi, tóm tắt nhanh - tràn khí màng phổi là khi có không khí trong khoang
màng phổi và mất áp suất âm.

Điều đó dẫn đến xẹp phổi và giãn thành ngực, có thể gây khó thở và đau
ngực.

Tràn khí màng phổi áp lực là khi có một lớp mô bong ra tạo ra van một chiều
và nó có thể tạo ra áp lực tích tụ.

Theo thời gian, nó có thể chèn ép lên các cơ quan lân cận như tim và có khả
năng ảnh hưởng đến cung lượng tim.

Trong trường hợp nghiêm trọng, có thể dùng kim hoặc ống ngực để giải áp
không khí trong khoang màng phổi.

You might also like