You are on page 1of 5

VIÊM PHẾ QUẢN MẠN

Translation by Tâm Danh Phan – Osmosis English Class

Viêm phế quản có nghĩa là viêm các ống phế quản trong phổi và nó được
cho là mạn tính khi gây ra ho có đờm — nghĩa là tiết ra chất nhầy — ít nhất
3 tháng mỗi năm trong 2 năm trở lên.

Viêm phế quản mạn thực tế là một phần của bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
(hoặc COPD), cùng với khí phế thũng.

Hai bệnh này khác nhau ở chỗ viêm phế quản mạn được xác định bằng các
đặc điểm lâm sàng, như ho đờm, trong khi khí phế thũng được xác định bằng
những thay đổi về cấu trúc — cụ thể là sự giãn rộng của các khoang chứa khí.

Nói như vậy, chúng thường cùng tồn tại, có thể là do chúng có chung một
yếu tố nguy cơ chính - hút thuốc.

Các yếu tố nguy cơ khác của viêm phế quản mạn bao gồm phơi nhiễm với các
chất ô nhiễm không khí như lưu huỳnh và N2O phơi nhiễm với bụi và silic, cũng
như các yếu tố di truyền như tiền sử gia đình bị viêm phế quản mạn.

Với COPD, đường thở bị tắc nghẽn và phổi không được làm trống thích hợp
và điều này khiến không khí bị kẹt bên trong phổi.

Vì lý do đó, lượng khí tối đa mà người bị COPD có thể thở ra trong một lần
thở, được gọi là FVC, hay dung năng sống gắng sức, thấp hơn.

Sự giảm này đặc biệt đáng chú ý trong giây đầu tiên khí thở ra trong một hơi
thở, được gọi là FEV1 - thể tích thở ra gắng sức (trong một giây), thường
còn giảm nhiều hơn FVC.

Do đó, một số liệu hữu ích là tỷ lệ FEV1 trên FVC, vì FEV1 thậm chí còn
giảm hơn FVC, khiến tỷ lệ FEV1 trên FVC cũng giảm theo.
Được rồi, bình thường, FVC của bạn là 5L và FEV1 của bạn là 4L, tỷ lệ FEV1
trên FVC của bạn cuối cùng sẽ là 80%.

Bây giờ, một người bị COPD có FVC có thể là 4L, thấp hơn bình thường,
nhưng thể tích khí mà họ có thể thở ra trong giây đầu tiên chỉ là 2L, vì vậy
không chỉ cả hai giá trị này đều thấp hơn mà tỷ lệ của chúng cũng thấp hơn
nữa — và đây là dấu hiệu của COPD.

Tất cả những gì liên quan đến khí thở ra phải không? Ngược lại, đối với
khí đi vào, TLC, hay dung tích phổi toàn bộ, là thể tích không khí tối đa có
thể được đưa vào hoặc hút vào phổi, thực tế thường cao hơn do khí bị
giữ lại.

Được rồi, viêm phế quản mạn là một loại COPD được chẩn đoán dựa trên
các triệu chứng lâm sàng, cụ thể là ho ra nhiều chất nhầy. Nhưng tại sao
điều này lại xảy ra?

Vâng, trước hết, trong phổi, thành đường thở bình thường có một vài lớp để
suy nghĩ.

Lót trong lòng đường dẫn khí, bạn đã có biểu mô, bao gồm các tế bào biểu
mô trụ giả tầng có lông chuyển, được đặt tên như vậy bởi vì những tế bào
biểu mô này có những phần nhô ra giống như sợi lông được gọi là lông
chuyển, nhân của chúng không thẳng hàng nên trông giống như chúng có
nhiều hơn một lớp mặc dù chúng chỉ có một lớp, do đó, giả tầng, và bởi vì
các tế bào chủ yếu cao và hẹp - hay hình trụ.

Lớp này cũng chứa tế bào tiết nhầy tạo ra một số chất nhầy lót đường
thở.

Đi sâu hơn qua lớp đó, bạn có màng đáy và mô liên kết lỏng lẻo, được
gọi là lớp đệm — cùng với biểu mô tạo nên lớp niêm mạc.
Sâu hơn dưới niêm mạc, có cơ trơn, tiếp theo là nhiều mô liên kết hơn và
cùng với nhau, hai lớp này tạo nên lớp dưới niêm và đây là nơi tồn tại các
tuyến niêm mạc phế quản.

Đây là những tuyến tiết ra phần lớn chất nhờn vào lòng phế quản, giúp làm
đặc và lọc các hạt và mầm bệnh ra ngoài.

Cuối cùng, trong phế quản, nhưng không phải tiểu phế quản, còn có một
lớp sụn bên dưới lớp dưới niêm mạc làm cứng phế quản và giúp nó mở
ra.

Được rồi, những người hút thuốc đường hô hấp của họ sẽ tiếp xúc với tất
cả các loại chất kích thích và hóa chất. Dù chất kích thích là gì, tác động của
chúng là kích thích sự phì đại và tăng sản của các tuyến nhầy trong phế
quản chính, cũng như các tế bào tiết nhầy trong các đường dẫn khí nhỏ hơn
- tiểu phế quản, làm tăng sản xuất chất nhầy ở cả hai vị trí.

Vì tiểu phế quản nhỏ hơn, ngay cả sự tăng nhẹ của chất nhầy cũng có thể dẫn đến
tắc nghẽn đường thở, do đó, điều này góp phần vào phần lớn tình trạng bẫy khí.

Tuy nhiên, vấn đề còn tồi tệ hơn, hút thuốc làm cho các lông chuyển ngắn
và kém di động, khiến chất nhầy khó di chuyển lên và ra khỏi các tiểu phế
quản về phía cổ họng để bị nuốt.

Do có quá nhiều chất nhầy và lông chuyển hoạt động kém, những người bị
viêm phế quản mạn cuối cùng phải dựa vào ho để tống khứ chất nhầy ra
ngoài.

Một phép đo, thường được thực hiện sau khi khám nghiệm tử thi, được gọi
là chỉ số Reid, là tỷ số giữa độ dày của các tuyến niêm mạc phế quản, so
với tổng độ dày của đường thở - từ biểu mô đến sụn.

Thông thường, tỷ lệ này nên dưới 40%, nhưng có thể trên 40% đối với những
người bị viêm phế quản mạn, vì sự tăng sản và phì đại của các tuyến.
Mặc dù chỉ số Reid tăng đi kèm với viêm phế quản mạn, chẩn đoán vẫn
được thực hiện trên lâm sàng và phép đo này thường không được sử dụng
để chẩn đoán.

Tất cả chất nhầy này trong phổi khiến những người bị viêm phế quản
mạn thở khò khè do hẹp đường để khí di chuyển vào và ra, những người
này cũng có những tiếng ran hay ran nổ do mở đường thở nhỏ.

Những người bị viêm phế quản mạn cũng thường có biểu hiện hypoxemia,
oxy máu thấp và hypercapnia, tăng CO2 trong máu.

Điều này là do nút nhầy trong đường thở chặn luồng khí, phải không? Điều
này làm tăng áp suất riêng phần của CO2 trong phổi.

PCO2 tăng có nghĩa là áp suất riêng phần của O2 trong phổi giảm xuống và
PO2 thấp hơn có nghĩa là lượng oxy đến máu ít hơn, gây ra tình trạng giảm
oxy máu.

CO2 bị kẹt trong phổi cũng khiến CO2 khó thoát ra khỏi máu hơn, điều này
cũng giải thích cho tình trạng tăng CO2 máu.

Nồng độ CO2 trong máu tăng lên có thể trở nên tồi tệ đến mức một số người
bị tím tái, tức là da đổi màu xanh, và đây là lý do tại sao bệnh nhân viêm phế
quản mạn đôi khi được gọi là blue bloater (phù và tím).

Điều này được so sánh với thuật ngữ pink puffer (gầy, thở nhanh và hồng)
mô tả bệnh nhân bị khí phế thũng.
Được rồi, ngoài những điều đó ra, ở những vùng giảm trao đổi khí,
các mạch máu bị co mạch nhằm cố gắng chuyển máu đến vùng có sự
trao đổi khí tốt hơn; điều này, nếu khu trú ở một vùng phổi, sẽ hoạt
động khá tốt, nhưng khi một phần lớn phổi không trao đổi oxy hiệu
quả, một phần lớn các mạch máu bắt đầu bị co lại.

Và điều này có tác động làm tăng trở kháng của mạch máu phổi, và để duy
trì lưu lượng máu đến phổi, cơ thể đáp ứng bằng cách tiến triển tăng áp
động mạch phổi.

Theo thời gian, điều này làm tăng công cần thiết của tim phải để bơm máu
đến phổi, và cuối cùng tim phải to ra, dẫn đến suy tim phải, một quá trình gọi
là bệnh tâm phế.

Và cuối cùng, một hậu quả khác của nút chất nhầy trong viêm phế quản mạn
là người đó có thể tiến triển nhiễm trùng phổi ở phía sau chỗ chất nhầy tắc
trong đường thở, và những nhiễm trùng này có thể làm trầm trọng thêm các
triệu chứng về phổi và tim.

Điều trị viêm phế quản mạn chủ yếu liên quan đến việc giảm các yếu tố nguy
cơ, chẳng hạn như ngừng hút thuốc, nhưng cũng cần quản lý các bệnh liên
quan.

Oxy bổ sung, cũng như một số loại thuốc như thuốc giãn phế quản, steroid
dạng hít và thuốc kháng sinh để kiểm soát nhiễm trùng thứ phát cũng có thể
được sử dụng.

Được rồi, tóm lại, viêm phế quản mạn là một loại bệnh phổi tắc nghẽn mạn
tính hay COPD, trong đó việc tiếp xúc với hóa chất và chất kích thích — như
khi hút thuốc — kích thích tăng sản xuất chất nhầy trong đường thở, gây ra
ho đờm kéo dài ít nhất 3 tháng mỗi năm ít nhất 2 năm.

You might also like