You are on page 1of 4

CO GIẬT DO SỐT

Translation by Tâm Danh Phan – Osmosis English Class

Co giật do sốt là những cơn co giật xảy ra khi bị sốt, và thường xảy ra ở trẻ nhỏ từ 6
tháng đến 5 tuổi.

Các neuron là các tế bào chính của hệ thần kinh, và chúng gồm một thân tế bào
trong đó chứa toàn bộ bào quan của tế bào và các sợi thần kinh là phần nhô ra ngoài
xuất phát từ thân tế bào neuron. Các sợi thần kinh có thể là các sợi nhánh nhận tín
hiệu từ các sợi thần kinh khác hoặc các sợi trục truyền các tín hiệu gọi là điện thế hoạt động
đến các neuron khác.

Hai neuron kết hợp với nhau được gọi là synapse, và đó là nơi một đầu của sợi trục
gửi chất dẫn truyền thần kinh đến sợi nhánh hoặc trực tiếp tới thân tế bào của neuron
kế tiếp trong chuỗi. Một số chất dẫn truyền thần kinh gắn với các thụ thể và làm cho tế
bào mở các kênh ion và chuyển tiếp một tín hiệu điện, và chúng được gọi là các chất dẫn
truyền thần kinh kích thích, nhưng số khác có thể đóng các kênh ion và ngăn chặn tín hiệu điện
điqua và chúng được gọi là các chất dẫn truyền thần kinh ức chế.

Chất dẫn truyền thần kinh chính trong não là glutamate. Glutamate gắn với các thụ thể
NMDA, làm cho các tế bào mở các kênh ion calci. Vì calci mang điện dương, nó làm
cho bên trong tế bào dương hơn và điều này giúp kích hoạt điện thế hoạt động.

Ngược lại, chất dấn truyền thần kinh ức chế chính trong não là GABA. GABA gắn với
các thụ thể GABA làm cho các tế bào mở các kênh ion chloride. Vì chloride mang điện
âm, nó làm cho bên trong tế bào âm hơn và điều này gây ức chế điện thế hoạt động.
Trong cơn co giật, các nhóm lớn neuron trở nên hoạt động đồng bộ, nghĩa là tất cả
cùng một thời điểm và trong co giật do sốt, tác nhân hoạt hóa hoạt động của các
neuron là sốt. Điều này làm bạn tự hỏi, tại sao? Chúng ta thật sự không thể biết chắc
chắn, nhưng có một vài sự giải thích có thể khả quan.

Đầu tiên sốt làm tăng nhiệt độ trung tâm của cơ thể và sốt làm các neuron dễ bị kích thích hơn
bình thường, nghĩa là điện thế hoạt động có nhiều khả năng xảy ra hơn. Hai là sốt làm
tăng thông khí, khi đó bạn thở nhanh hơn và nồng độ CO2 trong máu giảm, điều này
dẫn đến kiềm hô hấp hay tăng pH máu, điều này dường như cũng làm các neuron dễ
bị kích thích hơn.

Ba là sốt do các cytokine như interleukin 1-beta chất này được giải phóng từ các
bạch cầu trong quá trình đáp ứng miễn dịch tự nhiên của cơ thể. Các cytokine được
cho là cũng làm tăng hoạt hóa các thụ thể NMDA. Dĩ nhiên, hầu hết mọi người bị
sốt mà không bị co giật. Vì thế những yếu tố này chỉ là một phần của vấn đề.

Trong khi chúng ta vẫn chưa biết chắc chắn nguyên nhân của co giật do sốt là gì.
Chúng ta đã biết có một số yếu tố nguy cơ đã được xác định. Các yếu tố di truyền
dường như có vai trò vì những đứa trẻ có bố mẹ bị co giật do sốt thì cũng có nhiều
khảnăng bị co giật do sốt hơn.

Độ tuổi dường như cũng là một yếu tố vì mặc dù co giật do sốt xảy ra ở trẻ từ 6
tháng đến 5 tuổi, phần lớn xảy ra ở trẻ từ 12 đến 18 tháng tuổi. Nói chung, co giật do
sốt xảy ra thường xuyên hơn khi sốt tăng nhanh hoặc sốt cao. Co giật do sốt dường như
có liên quan nhiều hơn với một số nhiễm trùng như human herpes virus 6, gây bệnh
ban đào (roseola).
Co giật do sốt cũng có thể khởi phát sau tiêm vaccine do kích thích hệ thống miễn
dịch, như tiêm vaccine sởi, quai bị, rubella, thủy đậu nhưng tần suất là khá thấp và lợi
ích của tiêm vaccine cao hơn so với nguy cơ này. Co giật do sốt cũng luôn liên quan
đến nhiệt độ cao hay sốt trên 38 độ C hay 100.4 độ F, và chúng có thể được phân
loại thành thể đơn thuần hoặc thể phức hợp. Co giật do sốt đơn thuần kéo dài ít hơn
15 phút, ảnh hưởng đến toàn cơ thể và không tái phát trong vòng 24 giờ.

Co giật do sốt phức hợp, là khi kéo dài hơn 15 phút hoặc ảnh hưởng đến một phần
khutrú của cơ thể liên quan tới một phần cụ thể của não bộ hoặc tái phát trong vòng 24
giờ.

Về cơ bản, nếu cơn co giật không đáp ứng các tiêu chí của thể đơn thuần thì được
xem là thể phức hợp. Có thể nói rằng, hầu hết co giật do sốt là thể đơn thuần kéo dài
trong vài phút và là cơn co cứng co giật, nghĩa là có pha co cứng khi toàn bộ cơ của
cơ thể đột ngột co lại và cứng đờ, sau đó là pha giật khi các cơ nhanh chóng bắt đầu
co và duỗi gây co giật.

Sau co giật, thường có giai đoạn sau cơn, khi đó trẻ có thể cảm thấy lú lẫn và có thể
không nhớ điều gì xảy ra trong cơn. Chúng cũng có thể còn yếu tay hoặc chân.

Hầu hết co giật do sốt không cần điều trị vì chúng thường tự hết. Trong cơn co giật do
sốt, nên đặt trẻ nằm nghiêng và tiếp tục theo dõi một thời gian. Cần chú ý hơn nếu cơn
co giật kéo dài hay có các triệu chứng nghiêm trọng khác như nôn, khó thở hay cứng
cổ.

Thông thường, điều quan trọng là phân biệt co giật do sốt với các nguyên nhân nền
gây sốt và co giật, như viêm não và viêm màng não, là các tình trạng nhiễm trùng của
não và các mô xung quanh não. Ở giai đoạn đầu trẻ nhũ nhi, chọc dò thắt lưng có thể
hữu íchtrong xác định nguyên nhân nền gây co giật.
Trong một số trường hợp, các thuốc chống co giật có thể được sử dụng, nhưng thường
không cần thiết trong các trường hợp co giật do sốt đơn thuần. Cuối cùng, sốt có thể
gây khó chịu ở trẻ do đó thuốc hạ sôt như ibuprofen hoặc acetaminophen có thể được
sử dụng để hạ sốt.

Được rồi, tóm tắt nhanh, co giật do sốt là những cơn co giật xảy ra ở trẻ đang sốt, dù
thông qua tăng nhiệt độ cơ thể, kiềm hóa máu hay giải phóng các chất hóa học nhất
định như interleukin 1-beta, sốt dường như kích thích các hoạt động neuron, làm cho các
nhóm neuron dễ dàng phóng điện một cách đồng bộ lặp đi lặp lại nhiều lần. Hầu hết co giật do sốt
là co giật co cứng toàn thể gây cứng, giật và mất ý thức.

May mắn thay, hầu hết co giật do sốt tự hết mà không cần bất kỳ điều trị nào và không gây tác
hại lâu dài.

You might also like