You are on page 1of 5

XƠ NANG

Translation by Tâm Danh Phan – Osmosis English Class

Bạn có thể biết rằng bệnh xơ nang, hay CF, là một rối loạn di truyền ảnh
hưởng đến phổi, nhưng đó chỉ là một phần của câu chuyện.

Trên thực tế, tên gọi “xơ nang” đề cập đến ảnh hưởng của bệnh trên tuyến
tụy, nơi nó có thể dẫn đến nang, đó là những túi chứa đầy dịch được bao
bọc trong một lớp màng và xơ hóa - sự lắng đọng thừa của mô liên kết có
thể thay thế hoặc thâm nhiễm mô bình thường trong một cơ quan.

CF là một bệnh rối loạn lặn trên NST thường liên quan đến gen CFTR, là
viết tắt của “chất điều hòa protein dẫn truyền màng xơ nang” và gen này mã
hóa cho protein CFTR.

CF phát triển khi có đột biến gen CFTR, nhưng do gen lặn trên NST
thường, bạn cần thừa hưởng hai gen CFTR bị đột biến, một từ mẹ và một
từ bố.

Giờ đây, nếu cả bố và mẹ đều có một bản sao của gen đột biến và một gen
bình thường, thì họ được coi là người mang và không mắc bệnh.

Và di truyền CF phổ biến hơn ở những người gốc Âu.

Protein CFTR là một protein kênh, nó bơm các ion clorua vào các chất tiết
khác nhau, các ion clorua đó giúp hút nước vào các chất tiết, cuối cùng làm
loãng chúng ra.

Đột biến phổ biến nhất là đột biến "∆F508".

Delta có nghĩa là mất, và F (cũng có thể được viết là “Phe”) là viết tắt của
phenylalanin và 508 là axit amin thứ 508 trong protein CFTR.
Vì vậy, đột biến ∆F508 là đột biến trong đó axit amin thứ 508, phenylalanin,
trong số 1480 axit amin, bị mất và thiếu.

Protein CFTR với đột biến ∆F508 này bị xoắn sai và không thể di chuyển
từ lưới nội chất ra màng tế bào, có nghĩa là thiếu protein CFTR trên bề
mặt biểu mô và điều này có nghĩa là nó không thể bơm các ion clorua ra
ngoài, điều này nghĩa là nước không bị hút vào và chất tiết quá đặc.

Ở trẻ sơ sinh, chất tiết đặc có thể ảnh hưởng đến phân su của trẻ hay phân
đầu tiên, có thể dày và dính đến mức có thể kẹt trong ruột của trẻ và không
ra ngoài được và đây được gọi là tắc ruột do phân su và là một trường hợp
cấp cứu ngoại khoa.

Trong thời thơ ấu, suy tuyến tụy là ảnh hưởng nổi bật nhất của CF. Và điều
này xảy ra do dịch tiết đặc làm tắc nghẽn ống tụy, không cho phép các enzym
tiêu hóa đến ruột non.

Nếu không có các enzym tuyến tụy đó, protein và chất béo sẽ không được
hấp thụ. Và theo thời gian, điều này có thể dẫn đến tăng cân kém và chậm
tăng trưởng.

Sự kém hấp thu chất béo có thể dẫn đến phân mỡ (steatorrhea).

Cuối cùng, tuyến tụy bị tổn thương, do các enzym tiêu hóa ứ ngược làm
giáng hóa các tế bào lót trong các ống tụy, gây ra tình trạng viêm cục bộ.

Điều này có thể dẫn đến viêm tụy cấp và - với các đợt lặp đi lặp lại - viêm
tụy mạn, với sự phát triển của các nang và xơ hóa như chúng ta đã nói,
khiến cho căn bệnh này có tên gọi như vậy.

Cuối cùng, sự phá hủy mô tuyến tụy cũng có thể làm tổn hại đến chức năng
nội tiết của tuyến tụy, gây ra bệnh đái tháo đường phụ thuộc insulin.
Thường thì giai đoạn muộn của thời thơ ấu, các vấn đề về phổi mới bắt đầu
xuất hiện.

Thông thường, các lông chuyển, những phần nhô ra như lông này lót đường
thở, thực hiện khá tốt công việc giữ cho chúng sạch sẽ bằng cách di chuyển
chất nhầy, bắt giữ những thứ như mảnh vụn và vi khuẩn, về phía hầu, được
gọi là hoạt động làm sạch của lông chuyển.

Tuy nhiên, với chất nhầy đặc, nó sẽ khó đào thải hơn rất nhiều và hoạt động
làm sạch của lông chuyển trở nên khiếm khuyết, có nghĩa là vi khuẩn được
phép cư trú mạn tính ở phổi.

Nếu lượng vi khuẩn tăng đột ngột, nó sẽ gây ra các triệu chứng như ho và
sốt, giảm chức năng phổi và đôi khi thay đổi trên phim X-quang ngực, và
được gọi là đợt cấp CF và thường phải dùng một đợt kháng sinh.

Viêm phổi là một ví dụ của đợt cấp CF cần điều trị kháng sinh.

Ví dụ về vi khuẩn có vấn đề bao gồm Staphylococcus aureus, là vi khuẩn


gram dương và Pseudomonas aeruginosa, là vi khuẩn gram âm, cả hai đều
có thể khó điều trị nếu chúng đề kháng với các loại kháng sinh thông thường.

Ngoài ra, vi khuẩn thường tạo thành một màng sinh học (biofilm) nơi các tế
bào vi khuẩn riêng lẻ được cố định trong một chất nền nhầy bảo vệ chúng
khỏi hệ miễn dịch cũng như kháng sinh.

Nhiễm trùng và viêm mạn tính do vi khuẩn có thể dẫn đến giãn phế quản, là
tổn thương thành đường thở gây ra giãn vĩnh viễn phế quản.

Đôi khi, nếu tình trạng viêm ăn mòn thành mạch, thậm chí có thể bị ho ra
máu.

Theo thời gian, các đợt cấp CF lặp đi lặp lại cuối cùng có thể dẫn đến suy
hô hấp, nguyên nhân tử vong hàng đầu do CF.
Các vấn đề khác liên quan đến CF bao gồm vô sinh ở nam thường thiếu ống
dẫn tinh là ống vận chuyển tinh trùng từ tinh hoàn đến niệu đạo ở dương
vật.

Đàn ông và phụ nữ cũng có thể bị ngón tay dùi trống khi móng tay bắt đầu
ngoạm vào đầu ngón, polyp mũi là mô phát triển trong mũi và bệnh nhiễm
nấm aspergillus phế quản phổi dị ứng (hay ABPA), là một phản ứng quá
mẫn với nấm Aspergillus fumigatus, loài có thể sống trong xoang hoặc
khoang phổi.

Để chẩn đoán, có thể sàng lọc CF ở trẻ sơ sinh, thỉnh thoảng điều này được
thực hiện ở một số quốc gia nơi CF phổ biến và điều đó giúp việc điều trị bắt
đầu sớm hơn.

Sàng lọc trẻ sơ sinh phát hiện một loại enzym tuyến tụy được gọi là IRT, hay
trypsinogen phản ứng miễn dịch, chất được giải phóng vào máu của thai nhi
khi có tổn thương tuyến tụy do CF.

Và sau đó nếu xét nghiệm mồ hôi phát hiện ra lượng clorua cao trong mồ
hôi - thì CF được xác nhận.

Không giống như trong phổi và tuyến tụy, nơi clorua không thể đi ra ngoài,
khi CFTR không hoạt động trong các tuyến mồ hôi, clorua không thể đi vào
hoặc được tái hấp thu, vì vậy thực sự có hàm lượng clorua cao trong mồ
hôi.

Trên thực tế, các bậc cha mẹ có con bị CF đôi khi nhận thấy rằng, khi hôn
con của họ, con họ có vị mặn.

Về điều trị, mục tiêu chính là dinh dưỡng và tăng cân lành mạnh.

May mắn thay, các vitamin tan trong mỡ (ADEK), calo bổ sung và các enzym
tuyến tụy thay thế, đều có thể được bổ sung để giúp tăng cường dinh dưỡng
và giúp bệnh nhân hấp thụ chất dinh dưỡng.
Về điều trị bệnh phổi, có vật lý trị liệu lồng ngực, để làm lỏng chất nhầy bằng
cách vỗ mạnh vào ngực, cũng như thuốc hít.

Ngoài ra còn có các loại thuốc như N-acetylcysteine phân cắt các liên kết
disulfide trong glycoprotein chất nhầy và dornase alfa là một loại nuclease
cắt axit nucleic trong chất nhầy để làm loãng chất nhầy.

Bệnh phổi CF là bệnh phổi tắc nghẽn (như hen và COPD), vì vậy các test
chức năng phổi thường xuyên được sử dụng để theo dõi bệnh.

Cuối cùng, vì các bệnh nhiễm trùng mạn tính và mất chức năng phổi theo
thời gian, đôi khi cần phải ghép phổi.

Một hy vọng mới cho những bệnh nhân mắc CF là sự phát triển của các
phương pháp điều trị cá nhân hóa nhằm vào các loại đột biến CFTR cụ thể.

Ví dụ, lumacaftor là một chaperone có thể mang ∆F508 CFTR đột biến đến
màng tế bào và được dùng kết hợp với ivacaftor.

Ivacaftor ban đầu được thiết kế để chống lại đột biến G551D, nhưng cũng
cải thiện chức năng của ∆F508 CFTR đột biến.

Mặc dù đây không phải là phương pháp chữa khỏi, nhưng những loại thuốc
này là một ví dụ điển hình về tiềm năng của y học được cá nhân hóa.

Ngoài ra, có những công nghệ di truyền mới trước mắt nhằm mục đích sửa
chữa các đột biến gen cụ thể.

Được rồi!

Thời gian để tóm tắt nhanh: xơ nang là một rối loạn lặn trên NST thường liên
quan đến gen CFTR, gây ra các vấn đề đáng chú ý nhất với phổi và tuyến
tụy, nhưng cũng có thể ảnh hưởng đến các cơ quan khác.

You might also like