Professional Documents
Culture Documents
1. Đại cương
1.1. Định nghĩa
Áp xe phổi là tình trạng hoại tử phổi, đa số từ nhiễm nhiều loại vi khuẩn gây
tạo hang. Vùng hoại tử và hóa mủ ở nhu mô phổi có thể đơn độc hay nhiều ổ (thường
> 2cm) có thể kèm tràn mủ màng phổi.
1.2. Phân loại áp xe phổi
Áp xe phổi được phân loại chủ yếu dựa vào thời gian hoặc vi sinh vật được phân lập.
- Theo thời gian: áp xe phổi được xem là mạn tính khi có triệu chứng từ 4 tuần trở lên.
- Theo căn nguyên: áp xe phổi nguyên phát (nếu áp xe phổi xảy ra mà không có các tổn
thương ở phổi trước, thường do hít dịch tiết hầu họng, viêm phổi hoại tử, suy giảm miễn dịch
hoặc xảy ra ở những người tiền sử phổi khỏe); áp xe phổi thứ phát (nếu áp xe phổi xảy ra với
sự hiện diện các tổn thương phổi cơ bản như tắc nghẽn phế quản hay lan truyền nhiễm trùng
theo đường máu, lây lan trực tiếp từ nhiễm trùng trung thất hay khoang màng phổi, các bệnh
phổi cùng tồn tại).
- Theo đường lây lan: đường thở (hít dịch tiết hầu họng, tắc nghẽn phế quản do khối u,
dị vật, hạch to, dị tật bẩm sinh); đường máu (nhiễm trùng ổ bụng, viêm nội tâm mạc nhiễm
trùng, thuyên tắc huyết khối nhiễm trùng).
1.3. Một số yếu tố nguy cơ
- Người cao tuổi, nhiễm trùng răng/nhiễm trùng quanh răng (viêm lợi - với
nồng độ vi khuẩn > 1011 đơn vị hình thành khuẩn lạc (CFU)/mL), nghiện rượu, lạm
dụng ma túy, đái tháo đường, hôn mê, thông khí nhân tạo, co giật, rối loạn thần kinh
cơ (rối loạn chức năng hành tủy), suy dinh dưỡng, đang điều trị với corticosteroid,
thuốc độc tế bào hoặc thuốc ức chế miễn dịch, chậm phát triển tâm thần, bệnh trào
ngược dạ dày-thực quản, tắc nghẽn phế quản, không thể ho, nhiễm trùng huyết.
- Tình trạng suy giảm miễn dịch: HIV-AIDS, sau ghép tạng hoặc điều trị ức
chế miễn dịch kéo dài.
- Nguy cơ hít cao: co giật, rối loạn chức năng hành tủy, ngộ độc rượu và suy
giảm nhận thức.
- Nguy cơ hít chất tiết hầu họng: nhiễm trùng răng và nha chu, viêm mũi
xoang, giảm tri giác, bệnh trào ngược dạ dày thực quản, thường xuyên nôn ói, bệnh
nhân được đặt nội khí quản, bệnh nhân được mở khí quản, liệt dây thanh, nghiện rượu,
tai biến mạch máu não.
- Nguy cơ lây nhiễm lan truyền theo đường máu: nhiễm trùng ổ bụng, viêm nội
tâm mạc nhiễm trùng, lạm dụng thuốc tiêm tĩnh mạch, ống thông hoặc ống thông tĩnh
mạch trung tâm bị nhiễm trùng, thuyên tắc huyết khối nhiễm trùng.
- Các bệnh phổi đồng mắc: giãn phế quản, bệnh xơ nang, khí phế thủng, tắc
nghẽn phế quản do khối u, dị vật hoặc các hạch bạch huyết, dị tật bẩm sinh, nhồi máu
phổi bị nhiễm trùng, dập phổi, rò phế quản - thực quản.
2. Dịch tễ học
Áp-xe phổi thường xảy ra trên cơ địa suy giảm miễn dịch, vệ sinh răng miệng
kém. Tỷ lệ áp xe phổi đã giảm trong thời kỳ hậu kháng sinh (cuối những năm 1940
đồng thời với sự thay đổi kỹ thuật phẫu thuật khoang miệng) nhưng áp xe phổi vẫn là
bệnh lý gây bệnh tật và tử vong đáng kể.
Trong thời kỳ chưa có kháng sinh, 1/3 số bệnh nhân bị áp xe phổi sẽ chết, 1/3
số bệnh nhân còn lại sẽ hồi phục hoàn toàn và số còn lại sẽ sống sót với các di chứng
như áp xe phổi mạn, tràn mủ màng phổi hoặc giãn phế quản. Vào thời điểm đó, phẫu
thuật được xem là phương pháp điều trị hiệu quả duy nhất, đến ngày nay hầu hết bệnh
nhân sẽ hồi phục hoàn toàn bằng liệu pháp kháng sinh.
Mở dẫn lưu áp xe phổi giảm tỷ lệ tử vong 20-35% và với điều trị kháng sinh tỷ
lệ tử vong giảm khoảng 8,7% (so với thời điểm trước thì tỷ lệ tử vong do áp xe phổi
khoảng 75%). Đồng thời, sự tiến bộ trong vệ sinh răng miệng đã làm giảm tỷ lệ áp xe
phổi. Ngày nay, hít phải từ khoang miệng được coi là nguyên nhân chính gây áp xe
phổi cũng như vệ sinh răng miệng kém.
Áp-xe phổi nguyên phát chiếm khoảng 80%, thường do hít, gây ra bởi vi khuẩn
kỵ khí, thường gặp hơn ở nam giới trung niên. Áp-xe phổi mạn chiếm tỷ lệ khoảng 40%.
3. Nguyên nhân
Phần lớn vi sinh vật gây áp xe phổi là đa vi khuẩn (90%). Vi khuẩn kỵ khí
trong áp xe phổi phân lập được ưu thế là Bacteroides fragilis gram âm, Fusobacterium
capsulatum và necrophorum, Peptostreptococcus kỵ khí gram dương và liên cầu
khuẩn microaerophilic. Vi khuẩn hiếu khí phân lập chiếm ưu thế trong áp xe phổi là
Staphylococcus aureus (bao gồm MRSA), Streptococcus pyogenes, Klebsiella
pneumonia, Pseudomonas aeruginosa, Haemophilus influenza (type B), Acinetobacter
spp, Escherichia coli, và Legionella.
Áp xe phổi do đơn vi trùng gây ra như streptococci, Staphylococcus
aureus, Klebsiella pneumoniae, Streptococcus pyogenes, Burkholderia pseudomallei,
Haemophilus influenzae (type B), Nocardia và Actinomyces.
Trong nhiều thập kỷ, vi khuẩn chiếm ưu thế trong áp xe phổi là Streptococcus
spp (Streptococcus pneumoniae serotype 3 và Streptococcus anginosus complex).
Trong thập kỷ qua, loại vi khuẩn được phân lập nhiều nhất trong áp xe phổi, đặc biệt ở
Đài Loan là Klebsiella pneumoniae. Staphylococcus aureus là mầm bệnh căn nguyên
đơn lẻ phổ biến nhất của áp xe phổi ở trẻ em.
Căn nguyên gây bệnh áp xe phổi cũng có thể là Mycobacterium spp,
Aspergillus, Cryptococcus, Histoplasma, Blastomyces, Coccidioides, Entamoeba
histolytica, Paragonimus westermani. Actinomyces và Nocardia asteroides và người
bệnh cần sử dụng kháng sinh trong thời gian dài hơn (6 tháng).
Ở những bệnh nhân nghiện rượu, các vi sinh vật phổ biến gây áp xe phổi như
Staphylococcus aureus, Klebsiella pneumoniae, Streptococcus pyogenes
và Actinomyces. Vệ sinh răng miệng kém là yếu tố nguy cơ độc lập đối với sự phát
triển áp xe phổi.
Áp-xe phổi cộng đồng thường do hít. Vi khuẩn gây bệnh phổ biến là kỵ khí.
Phổ vi khuẩn gây bệnh trên bệnh nhân suy giảm miễn dịch có thể đa dạng.
Bảng 7.1. Một số tác nhân vi sinh gặp trong áp xe phổi
Tổn thương huyết khối Staphylococcus aureus (thường từ viêm màng trong tim),
(tắc mạch phổi) Fusobacterium necrophorum (bệnh Lemierre)
Các bệnh nhiễm trùng Mycobacterium tuberculosis (có thể Mycobacterium avium và
đặc hữu Mycobacterium kansasii), Coccidioides spp., Histoplasma
capsulatum, Blastomyces spp., ký sinh trùng (Entamoeba
histolytica, Paragonimus westermani, Strongyloides
stercoralis)
Hình 7.2. Hình ảnh mô học áp xe phổi cấp với bạch cầu hạt trung tính và mạch máu giãn,
phù viêm (HE, ×100).
(Nguồn: Ann Transl Med 2015 Aug; 3(13): 183)
Áp xe phổi mạn tính thường có hình dạng tròn, không đều với ranh giới rõ,
được lấp đầy bằng đường màu xám hoặc mảnh vụn dày (hình 7.3). Xung quanh ổ áp
xe là một màng sinh mủ (qua đó các tế bào bạch cầu di chuyển đến hốc áp xe) gồm tế
bào lympho, tế bào plasma và tế bào mô trong mô liên kết (hình 7.4).
Hình 7.4. Hình ảnh mô học áp xe phổi mạn với xung quanh là màng sinh mủ (tế bào lympho,
tế bào plasma và tế bào mô được đặt trong mô liên kết) (HE, ×100).
(Nguồn: Ann Transl Med. 2015 Aug; 3(13): 183)
Áp-xe phổi cấp tính thường có bờ không rõ, thành dầy (hình 1) trong khi áp-xe
phổi mạn tính lòng rộng, thành mỏng, không đều nhưng bờ rõ (hình 3).
Nhìn chung, hình ảnh áp xe phổi là hình ảnh tổn thương tạo hang với hình mức
nước-hơi, đôi khi được bao quanh bằng một vùng thâm nhiễm (thường gặp áp-xe phổi
kỵ khí điển hình, nằm ở vị trí phân thùy đỉnh của thùy dưới hay phân thùy sau của
thùy trên - 75% ở phần sau của thùy trên bên phải hoặc ở phần đỉnh của thùy dưới của
cả hai phổi - là các vị trí thuận lợi cho đọng dịch hít). Phổi bên phải bị ảnh hưởng phổ
biến hơn bên trái. Các áp-xe phổi thứ phát (áp-xe phổi hiếu khí, áp-xe phổi bệnh viện,
áp-xe phổi theo đường máu) có thể có nhiều ổ không phụ thuộc vào vị trí của phổi. CT
ngực giúp xác định thêm những đặc điểm khác của tổn thương đã thấy trên Xquang
ngực (có thể phát hiện thêm nguyên nhân làm bít tắc nội lòng phế quản). Trên CT ngực:
hình áp-xe là một khối tròn trong lòng nhu mô phổi với hình ảnh hang ở trung tâm.
6.2. Xét nghiệm vi sinh
Trong áp-xe phổi, vi khuẩn phân lập được chủ yếu là vi khuẩn Gram âm và vi
khuẩn kỵ khí. Các vi khuẩn hiếu khí chủ yếu gồm S.aureus, S.pyogenes, S.pneumonia,
K.pneumonia, P.aeruginosa, H.influenzae (type B), Acinetobacter spp, E.coli và
Legionella. Đa tác nhân gây bệnh là hình ảnh thông thường của vi sinh phân lập được.
S.aureus là căn nguyên phân lập được phổ biến nhất trên áp-xe phổi trẻ em. Đặc điểm vi
khuẩn gây bệnh trong áp-xe phổi phụ thuộc vào cơ chế sinh bệnh, tiên phát hay thứ phát.
Phân tích vi sinh trong đàm có thể hỗ trợ trong việc xử trí. Nếu bệnh nhân có
các yếu tố nguy cơ nhiễm nấm hoặc vi khuẩn mycobacterium thì nên thực hiện các
phương pháp nuôi cấy cụ thể. Phân tích dịch màng phổi và nội soi phế quản với rửa
phế quản phế nang (BAL) cũng được đề nghị trong một số trường hợp.
Hệ vi sinh vật của áp xe phổi nguyên phát thường là vi trùng, chủ yếu các vi
sinh vật kỵ khí và liên cầu. Việc lấy và nuôi cấy vi khuẩn kỵ khí có thể phức tạp do
mẫu bị nhiễm vi khuẩn từ khoang miệng và cần phải vận chuyển nhanh các mẫu cấy
đến phòng thí nghiệm, kỹ thuật nuôi cấy đặc biệt, cần thời gian nuôi cấy kéo dài và
nhu cầu thu thập mẫu trước khi sử dụng kháng sinh. Khi chú ý đến các yếu tố này, tỷ
lệ phân lập được các chủng vi khuẩn cụ thể lên đến 78%.
Trong thực hành phát triển các kỹ thuật chuyên biệt để lấy bệnh phẩm nuôi cấy,
như hút dịch qua khí quản, rửa phế quản phế nang với bàn chải được bảo vệ cho phép
lấy bệnh phẩm nuôi cấy và tránh nhiễm bẩn từ khoang miệng. Khi không phân lập
được mầm bệnh nào từ áp xe phổi nguyên phát (thường 40% trường hợp), áp xe này
được gọi là áp xe phổi không đặc hiệu.
6.3. Cận lâm sàng khác
Nội soi phế quản nên được thực hiện sớm ở bệnh nhân có tiền sử, triệu chứng
hoặc phát hiện hình ảnh tắc nghẽn phế quản. Nội soi phế quản chẩn đoán là một phần
của phác đồ chẩn đoán để lấy bệnh phẩm kiểm tra vi sinh và xác định nguyên nhân
của áp xe như khối u hoặc dị vật. Kiểm tra đờm rất hữu ích để xác định các tác nhân vi
sinh hoặc xác định ung thư biểu mô phế quản.
Áp xe phổi có biến chứng có thể gây tràn khí màng phổi hoặc tràn dịch màng
phổi, tràn khí-dịch màng phổi. Trong những trường hợp như vậy, phân tích dịch màng
phổi có thể hỗ trợ chẩn đoán. Trong các trường hợp áp xe phổi thứ phát lan truyền
theo đường máu thì cấy máu và siêu âm tim đóng vai trò thiết yếu trong xử trí áp xe
phổi.
7. Chẩn đoán
7.1. Chẩn đoán xác định
7.1.1. Lâm sàng
Sốt: 38º5C - 39ºC hoặc cao hơn, có thể kèm rét run hoặc không.
Đau ngực bên tổn thương, có thể có đau bụng ở những bệnh nhân áp xe phổi
thuỳ dưới.
Ho khạc đàm có mủ, đờm thường có mùi hôi hoặc thối, có thể khạc mủ số
lượng nhiều (ộc mủ), đôi khi có thể khạc ra mủ lẫn máu hoặc thậm chí có ho máu
nhiều. Có thể có trường hợp chỉ ho khan.
Khó thở, có thể có biểu hiện suy hô hấp: thở nhanh, tím môi, đầu chi,
PaO2 giảm, SaO2 giảm.
Khám phổi: có thể thấy ran nổ, ran ẩm, ran ngáy, có khi thấy hội chứng hang,
hội chứng đông đặc.
7.1.2. Cận lâm sàng
Công thức máu: thường thấy số lượng bạch cầu >10 G/L, tốc độ máu lắng tăng.
X-quang ngực: hình hang thường có thành tương đối đều với mức nước hơi. Có
thể có 1 hay nhiều ổ áp xe, một bên hoặc hai bên. Cần chụp phim X-quang ngực
nghiêng (có khi phải chụp cắt lớp vi tính) để xác định chính xác vị trí ổ áp xe giúp
chọn phương pháp dẫn lưu mủ phù hợp.
Nhuộm soi trực tiếp và nuôi cấy vi khuẩn từ đàm, dịch phế quản hoặc mủ ổ áp
xe. Cấy máu khi sốt > 38,50C. Làm kháng sinh đồ nếu thấy vi khuẩn.
7.2. Chẩn đoán nguyên nhân
Việc xác định căn nguyên phải dựa vào xét nghiệm vi sinh đàm, dịch phế quản,
máu hoặc bệnh phẩm khác.
Các tác nhân gây áp xe phổi thường là Staphylococcus aureus, Klebsiella
pneumoniae, Pseudomonas aeruginosa, E. Coli, Proteus, vi khuẩn yếm khí,
Streptococcus pneumoniae, Haemophilus influenzae. Một số trường hợp do nấm, ký
sinh trùng (amip).
Cần tìm các yếu tố thuận lợi như nghiện rượu, suy giảm miễn dịch do HIV
hoặc các thuốc ức chế miễn dịch, tìm các ổ nhiễm khuẩn nguyên phát: răng hàm mặt,
tai mũi họng,…
7.3. Chẩn đoán phân biệt:
- Với các bệnh nhiễm khuẩn: Lao phổi, thuyên tắc phổi nhiễm khuẩn, bóng khí
(bullae) nhiễm khuẩn.
- Với các bệnh không nhiễm khuẩn: Ung thư áp-xe hóa, u hạt Wegener, nốt
thấp, viêm mạch, sarcoidosis, nhồi máu phổi, bệnh lý bẩm sinh (bóng khí- bullae, kén
khí - cyst, nốt khí -blebs), thoát vị hoành.
- Với tràn mủ màng phổi khu trú.
Các dấu hiệu và triệu chứng sớm của áp xe phổi không thể phân biệt được với
viêm phổi, bao gồm sốt kèm lạnh run, ho, đổ mồ hôi ban đêm, khó thở, sụt cân, mệt
mỏi, đau ngực và đôi khi thiếu máu. Lúc đầu ho khan, nhưng khi thông với phế quản
thì ho có đờm, đôi khi ho ra máu.
Chẩn đoán phân biệt bệnh lao, bệnh nấm, các tổn thương nang phổi như các
nang phế quản nằm trong phổi, các bóng khí nhiễm trùng,…có thể khó phân biệt,
những vị trí của tổn thương và các dấu hiệu lâm sàng có thể chỉ ra chẩn đoán thích
hợp. Tràn mủ màng phổi khu trú có thể được phân biệt bằng CT scan hoặc siêu âm.
Ung thư phổi áp xe hóa thường có thành dày hơn và không đều so với áp xe
phổi. Không sốt, không đờm mủ và không tăng bạch cầu có thể chỉ ra ung thư biểu mô
chứ không phải bệnh nhiễm trùng.
Hình 7.5. Ung thư biểu mô phế quản
(Nguồn: Ann Transl Med. 2015 Aug; 3(13): 183)
Dấu hiệu X quang của mức khí-dịch có thể được nhìn thấy trong nang sán phổi.
Tiếng Việt
1. Bài giảng bệnh học nội khoa (2013), Trường Đại học Y Hà Nội, NXB Y học
2. Bài giảng bệnh học nội khoa (2013), Trường Đại học Y TP Hồ Chí Minh, NXB Y
học
Tiếng Anh
1. Ainge-Allen HW, Lilburn PA, Moses D, Chen C, Thomas PS (2020), “Antibiotic
instillation for a chronic lung abscess”, Respir Med Case Rep, 29.
2. Bhanusivakumar R. Sabbula, Guhan Rammohan, Jagadish Akella (2022), “Lung
Abscess”.
3. Eira IM, Carvalho R, Carvalho DV, Ângela C (2019), “Lung abscess in an
immunocompromised patient: clinical presentation and management challenges”, BMJ
Case Rep, 12(7).
4. Fishman A.P (2015), “Pulmonary diseases and disorders”, international edition,
fourth edition.
5. Harrison's Principles of Internal Medicine 19th Edition (2015), The McGraw- Hill
companies.
6. Marra A, Hillejan L, Ukena D (2015), “Management of Lung Abscess”, Zentralbl
Chir, 140 (l).
7. Rosado-de-Christenson Martínez-Jiménez (2022), “Lung abscess”, Diagnostic
Imaging Chest, 3th edition, Elsevier, pp. 276-279.
8. Kuhajda I, Zarogoulidis K, Tsirgogianni K et al (2015), “Lung abscess-etiology,
diagnostic and treatment options”, Ann Transl Med, 3(13), pp. 183.
9. Van Brummelen SE, Melles D, van der Eerden M (2018) “A lung abscess caused
by bad teeth”, Ned Tijdschr Tandheelkd, 125(7-8), pp. 384-387.