Professional Documents
Culture Documents
Viêm PH I
Viêm PH I
, MD , U ni v e r si ty a t B u ff a lo , J ac ob s Sc ho ol o f Me d ic in e an d Bi om e d ic al Sc i e nc e s
Đ án h gi á v ề mặ t y tế Th g12 2 02 0
Nguyên nhân phổ biến nhất của viêm phổi ở người lớn > 30 tuổi, trong trường
hợp không có đại dịch vi rút đang diễn ra như COVID-19, là
Nhiễm vi khuẩn
Streptococcus pneumoniae vẫn là mầm bệnh phổ biến nhất ở tất cả các nhóm tuổi
và khu vực địa lý. Tuy nhiên, tỷ lệ nhiễm S. pneumoniae ngày càng giảm do tỷ lệ
tiêm vắc xin và phát triển miễn dịch cộng đồng ngày càng tăng. Tuy nhiên, mọi loại
mầm bệnh, từ virus đến ký sinh trùng, đều có thể gây ra viêm phổi. Với sự sẵn có
của các phương pháp chẩn đoán phân tử nhạy cảm, ngày càng có nhiều công
nhận về việc vi rút là nguyên nhân gây viêm phổi.
Đường thở và phổi liên tục bị phơi nhiễm với các mầm bệnh từ môi trường bên
ngoài; đường hô hấp trên cùng miệng và thực quản là môi trường cho nhiều loại vi
khuẩn phát triển cộng sinh. Các vi sinh vật gây bệnh có mặt thường xuyên ở
đường hô hấp trên, nhưng những tác nhân gây bệnh này được giải quyết dễ dàng
bởi cơ chế phòng vệ tự nhiên của phổi. Viêm phổi phát triển khi
Sự xâm nhập của một lượng lớn vi khuẩn vượt qua hàng rào bảo vệ
thông thường
Hàng rào bảo vệ ở đường hô hấp trên bao gồm IgA trong nước bọt, proteases
và lysozyme; các chất ức chế tăng trưởng do hệ vi khuẩn chí bình thường tạo ra; và
fibronectin, lớp phủ niêm mạc và ngăn ngừa sự bám dính.
Hàng rào bảo vệ không đặc hiệu ở đường hô hấp dưới bao gồm ho, thanh thải
niêm mạc giúp tránh nhiễm trùng ở đường thở. Các biện pháp bảo vệ đường thở
dưới cụ thể bao gồm các cơ chế miễn dịch đặc hiệu với mầm bệnh khác nhau, bao
gồm quá trình opso hóa IgA và IgG, peptide kháng khuẩn, tác dụng chống viêm
của chất hoạt động bề mặt, thực bào bởi đại thực bào phế nang và đáp ứng miễn
dịch qua trung gian tế bào T. Những cơ chế này bảo vệ hầu hết mọi người chống
lại nhiễm trùng.
Nhiều điều kiện làm thay đổi hệ khuẩn chí bình thường (ví dụ như bệnh toàn thân,
suy dinh dưỡng, phơi nhiễm ở bệnh viện, tiếp xúc với kháng sinh) hoặc làm giảm
các biện pháp phòng ngừa này (ví dụ tình trạng tinh thần thay đổi, hút thuốc lá,
đặt xông dạ dày hay nội khí quản, các rối loạn hoặc các loại thuốc ức chế hệ miễn
dịch). Các tác nhân gây bệnh sau đó tiếp cận đường thở và có thể nhân lên gây
viêm phổi.
Không thể tìm thấy các mầm bệnh đặc hiệu gây ra viêm phổi ở tối đa 50% bệnh
nhân, ngay cả với các thăm dò chẩn đoán rộng rãi, chủ yếu do những hạn chế của
các xét nghiệm chẩn đoán hiện có và khó khăn trong việc lấy đủ mẫu phổi ở sâu
(phế nang). Nhưng do các tác nhân gây bệnh và hậu quả có xu hướng tương đồng
trên những bệnh nhân có đặc điểm và yếu tố nguy cơ tương tự nên viêm phổi có
thể được phân loại thành các nhóm
Đ án h gi á v ề mặ t y tế Th g12 2 02 0
Sinh lý bệnh
Triệu chứng và Dấu hiệu
Chẩn đoán
Điều trị
Phòng ngừa
Những điểm chính
Viêm phổi hít do hít phải các chất độc hại và/hoặc chất gây kích ứng, thường
là thành phần ở dạ dày, vào phổi. Viêm phổi hoá học, viêm phổi do vi khuẩn
hoặc tắc nghẽn đường thở có thể xảy ra. Các triệu chứng bao gồm ho và khó
thở. Chẩn đoán dựa trên biểu hiện lâm sàng và phát hiện X-quang phổi. Điều
trị và tiên lượng khác nhau tùy theo chất hút.
(Xem thêm Tổng quan về Viêm phổi .)
Hít phải có thể gây viêm phổi (viêm phổi hóa học), nhiễm trùng (viêm phổi do vi
khuẩn hoặc là Áp xe phổi), hoặc là tắc nghẽn đường thở. Việc hít phải vi mô ở
đường hô hấp trên với số lượng ít là phổ biến; tuy nhiên, chất tiết bị hít phải này
sẽ bị đào thải bởi các cơ chế bảo vệ bình thường ở phổi. Thuật ngữ viêm phổi do
hít phải được sử dụng khi khả năng bảo vệ đường thở dưới bị tổn thương và/hoặc
một thể tích lớn dịch tiết bị hít phải. Đuối nước cũng có thể gây viêm phổi.
Các yếu tố nguy cơ gây viêm phổi hít bao gồm
o Ho
o Sốt
o Khó thở
o Tức ngực
Viêm phổi do hóa chất gây ra bởi dịch dạ dày gây khó thở cấp tính cùng với
ho đôi khi có đờm lẫn bọt hồng, thở nhanh, nhịp tim nhanh, sốt, ran nổ lan
tỏa và ran rít. Khi hít phải dầu hoặc thạch dầu, viêm phổi có thể không có
triệu chứng và phát hiện vô tình trên phim X-quang ngực hoặc có thể biểu
hiện với sốt nhẹ, gầy sút cân và ran nổ.
Chẩn đoán
o X-quang ngực
Đối với viêm phổi hít, chụp X-quang ngực cho thấy thâm nhiễm, thường
xuyên nhưng không riêng biệt, ở các phân đoạn phổi phụ thuộc, tức là các
phân đoạn đáy trên hoặc sau của một thuỳ dưới hoặc phân sau của một thuỳ
trên. Đối với áp xe phổi liên quan đến hít phải, chụp X-quang phổi có thể cho
thấy một tổn thương tuyến yên. CT có thuốc cản quang có độ nhạy và đặc
hiệu hơn cho áp xe phổi và cho thấy một tổn thương hang chứa đầy dịch
hoặc có mức nước hơi. Ở bệnh nhân viêm phổi do hít dầu hoặc thạch từ dầu
hỏa, hình ảnh X-quang ngực khác nhau; đông đặc, tạo hang, thâm nhiễm kẽ
hoặc nốt, tràn dịch màng phổi, và các thay đổi khác có thể tiến triển chậm.
Các dấu hiệu của việc hít tái diễn có thể bao gồm việc làm sạch cổ họng
thường xuyên hoặc ho khò khè sau khi ăn. Đôi khi không có dấu hiệu nào, hít
tái diễn chỉ được chẩn đoán thông qua chụp thực quản cải tiến có barium
được thực hiện để loại trừ rối loạn nuốt.
Điều trị
o Kháng sinh
Điều trị hỗ trợ thường là bổ sung oxy và thở máy. Thuốc kháng sinh (beta-
lactam/ức chế beta-lactamase hoặc clindamycin) thường được dùng cho
bệnh nhân có chứng hít dịch dạ dày đã xác định hoặc đã biết vì có khó khăn
trong việc loại trừ nhiễm khuẩn là yếu tố góp phần hay ban đầu ; tuy nhiên,
nếu bệnh nhân cải thiện nhanh chóng, có thể ngừng thuốc kháng sinh.
Những bệnh nhân rõ ràng là những trường hợp nhẹ cũng có thể được theo
dõi mà không cần bắt đầu dùng kháng sinh.
Nên tránh các chất độc hại có thể gây viêm phổi mỡ. Một số báo cáo cho thấy
các corticosteroid toàn thân có thể có lợi trong điều trị bệnh nhân hít phải
dầu.
Đối với viêm phổi do hít phải, nên sử dụng thuốc ức chế beta-lactam/beta-
lactamase, với clindamycin được dành riêng cho bệnh nhân dị ứng với
penicillin (1). Nếu hút phải xảy ra ở cơ sở bệnh viện, có thể dùng carbapenem
hoặc piperacillin/tazobactam; bổ sung thêm thuốc có hiệu quả chống lại tụ
cầu vàng kháng methicillin nếu có các yếu tố nguy cơ của mầm bệnh đó. Thời
gian điều trị thường từ 1 đến 2 tuần.
Điều trị áp xe phổi bằng thuốc kháng sinh và đôi khi bằng dẫn lưu qua da
hoặc phẫu thuật. Nhiều bác sĩ tiếp tục điều trị bằng thuốc kháng sinh cho
đến khi phim chụp X-quang phổi cho thấy khỏi hoàn toàn hoặc chỉ còn sót lại
một bất thường nhỏ, ổn định.
Tài liệu tham khảo về điều trị
o 1. Metlay JP, Waterer GW, Long AC, et al : Diagnosis and Treatment of Adults
with Community-acquired Pneumonia. An Official Clinical Practice Guideline
of the American Thoracic Society and Infectious Diseases Society of
America. Am J Respir Crit Care Med200(7): e45–e67, 2019.
https://doi.org/10.1164/rccm.201908-1581ST
Phòng ngừa
Các chiến lược để ngăn ngừa viêm phổi hít là rất quan trọng đối với chăm sóc
và kết quả lâm sàng chung. Đối với những bệnh nhân suy giảm ý thức, tránh
cho ăn theo đường miệng và tránh cho dùng thuốc theo đường uống và kê
cao đầu giường > 30 độ có thể có tác dụng. Nên dừng thuốc an thần. Từ lâu,
những bệnh nhân bị khó nuốt (do đột quỵ hoặc do các bệnh lý thần kinh
khác) đã được khuyến nghị việc tuân theo chế độ ăn có kết cấu chuyên biệt
để cố gắng làm giảm nguy cơ hít phải tuy nhiên có rất ít bằng chứng chắc
chắn rằng việc này có hiệu quả. Chuyên gia trị liệu ngôn ngữ có thể hướng
dẫn bệnh nhân các phương pháp luyện tập cụ thể (bài tập gập cằm, v.v.) để
giảm nguy cơ hít sặc. Đối với những bệnh nhân bị khó nuốt nghiêm trọng, mở
thông dạ dày qua da hoặc mở thông hỗng tràng qua da thường được áp
dụng, mặc dù không rõ liệu chiến lược này có thực sự làm giảm nguy cơ bị hít
phải hay không vì bệnh nhân vẫn có thể bị hít phải dịch tiết qua đường miệng
và có thể bị trào ngược thức ăn qua ống thông dạ dày.
Tối ưu hóa vệ sinh răng miệng và chăm sóc thường xuyên của nha sĩ có thể
giúp ngăn ngừa sự phát triển của bệnh viêm phổi hoặc áp xe ở bệnh nhân hít
tái diễn.