You are on page 1of 4

VIÊM MÀNG NGOÀI TIM

Translation by Tâm Danh Phan – Osmosis English Class

Với bệnh viêm màng ngoài tim (pericarditis), “peri” có nghĩa là “xung quanh”,
“card” có nghĩa là “tim” và “itis” có nghĩa là “bị viêm”. Vì vậy, viêm màng ngoài
tim có nghĩa là lớp mô màng ngoài tim bao bọc tim bị viêm.

Viêm màng ngoài tim cấp tính thường chỉ kéo dài vài tuần, trong khi viêm
màng ngoài tim mạn tính kéo dài hơn, thường hơn 6 tháng. Những người bị
viêm màng ngoài tim cũng có nguy cơ tiến triển tràn dịch màng ngoài tim -
đó là khi tình trạng viêm gây tích tụ dịch xung quanh tim.

Màng ngoài tim là một túi hoặc khoang mà tim nằm bên trong. Lớp bên ngoài
của túi này là màng ngoài tim xơ và nó giúp giữ tim ở vị trí trong khoang
ngực. Lớp bên trong của túi là màng ngoài tim thanh mạc bao gồm khoang
màng ngoài tim, và chứa đầy một lượng nhỏ chất dịch cho phép tim trượt
xung quanh khi nó đập.

Các tế bào của màng ngoài tim thanh mạc tiết ra và tái hấp thu chất dịch, do
đó, thường không có quá 50 ml chất dịch trong khoang màng ngoài tim cùng
một lúc - nhiều như một shot glass

Nguyên nhân của viêm màng ngoài tim cấp thường là vô căn, có nghĩa là
chúng ta không biết nguyên nhân gây ra nó. Khi nguyên nhân được xác định,
đó thường là nhiễm vi-rút, như vi-rút Coxsackie B. Một nguyên nhân khác là
hội chứng Dressler xảy ra vài tuần sau khi bị nhồi máu cơ tim.

Về cơ bản, khi các tế bào tim chết trong một cơn nhồi máu cơ tim, nó sẽ dẫn
đến tình trạng viêm diện rộng cũng liên quan đến màng ngoài tim thanh mạc.

Một nguyên nhân khác của viêm màng ngoài tim, được gọi là viêm màng
ngoài tim do urê huyết, là khi nồng độ urê trong máu, một sản phẩm thải
nitơ, tăng thực sự cao thường do các vấn đề về thận.
Nồng độ urê cao gây kích ứng màng ngoài tim thanh mạc, làm cho nó tiết ra
dịch màng ngoài tim dày chứa đầy các sợi fibrin và các tế bào bạch cầu.
Điều này làm cho thành của màng ngoài tim thanh mạc có hình dạng giống
như “bánh mì bơ”.

Viêm màng ngoài tim cũng có thể thấy trong các bệnh tự miễn, như viêm
khớp dạng thấp, xơ cứng bì hoặc lupus ban đỏ hệ thống, do hệ thống miễn
dịch tấn công các mô của chính nó, bao gồm cả màng ngoài tim.

Các nguyên nhân khác của viêm màng ngoài tim bao gồm ung thư, xạ trị ở
ngực, và thậm chí cả các loại thuốc như penicillin và một số loại thuốc chống
co giật.

Bất kể nguyên nhân là gì, viêm màng ngoài tim có nghĩa là chất dịch cũng
như các tế bào miễn dịch bắt đầu di chuyển từ các mạch máu nhỏ trong
màng ngoài tim xơ và thanh mạc vào mô hoặc kẽ của các lớp đó, làm cho
các lớp này dày hơn một chút và lầy lội hơn - nghĩ về cách một miếng mì
ống khô phẳng được nấu chín và dày lên khi nó thấm nước.

Bây giờ, tràn dịch màng ngoài tim cũng có thể phát triển. Đó là khi dịch màng
ngoài tim bắt đầu đọng lại trong khoang màng ngoài tim, bởi vì màng ngoài
tim thanh mạc không thể loại bỏ nó nhanh như khi nó đi vào.

Nếu nhiều chất dịch bắt đầu tích tụ trong khoang màng ngoài tim - nói cách
khác, nếu tràn dịch màng ngoài tim thực sự lớn, thì nó có thể bắt đầu gây
áp lực lên tim, khiến tim không thể giãn ra hoàn toàn hoặc thư giãn giữa các
lần co bóp.

Điều này có thể dẫn đến ép tim sinh lý, trong đó các buồng tim không thể đổ
đầy máu đầy đủ, gây giảm cung lượng tim - đây có thể là một trường hợp
cấp cứu y tế.

Khi tình trạng viêm kéo dài hàng tuần đến hàng tháng, quá trình này được
gọi là viêm màng ngoài tim mạn tính.
Trong viêm màng ngoài tim mạn tính, các tế bào miễn dịch bắt đầu xơ hóa
màng ngoài tim thanh mạc, điều này có thể tạo ra một lớp vỏ không đàn hồi
xung quanh tim khiến tâm thất khó mở rộng — giống như tim đang bị ép bởi
một cái kẹp mạnh.

Theo thời gian, tim trở nên khó thư giãn hoặc giãn nở, và thể tích nhát bóp
- lượng máu tim bơm ra theo mỗi nhịp tim giảm xuống và để bù lại nhịp tim
sẽ tăng lên.

Điều này tương tự như ép tim sinh lý nhưng xảy ra dần dần và là kết quả
của sự thay đổi thành phần của màng ngoài tim thanh mạc, chứ không phải
là tích tụ chất dịch xung quanh màng ngoài tim.

Triệu chứng chính của viêm màng ngoài tim là sốt và đau ngực trầm trọng
hơn khi hít thở sâu, nhưng cải thiện khi ngồi dậy và nghiêng người về phía
trước. Tràn dịch màng ngoài tim lớn hơn, những dịch tràn trên 100ml, có thể
gây giảm tiếng tim và thậm chí có thể làm giảm cung lượng tim dẫn đến khó
thở, huyết áp thấp và choáng váng.

Có một số cách để chẩn đoán viêm màng ngoài tim và tràn dịch màng ngoài
tim. Đầu tiên, các lớp dày của màng ngoài tim cọ xát vào nhau - nó tạo ra
tiếng cọ xát có thể nghe thấy khi nghe tim. Nghe như hai miếng da cọ vào
nhau.

Tiếp theo, trên điện tâm đồ, có một số thay đổi mà bạn có thể muốn thấy.
Trong vài ngày đến vài tuần đầu, có thể có đoạn ST chênh lên và đoạn PR
bị lõm xuống.

Sau đó, sóng T có xu hướng phẳng và sau đó đảo ngược trong một vài tuần,
và cuối cùng thì điện tâm đồ trở lại bình thường.

Trên điện tâm đồ, tràn dịch màng ngoài tim, đặc biệt là những tràn dịch màng
tim lớn, có thể cho thấy điện thế phức bộ QRS thấp hoặc biến đổi điện thế
(electrical alternans), trong đó phức bộ QRS có độ cao khác nhau, do tim đu
đưa qua lại trong một vũng dịch màng tim.
Trên phim chụp X-quang của một trái tim bị tràn dịch màng ngoài tim lớn,
bạn có thể thấy một hình bóng đọng lại ở đáy tim và tạo một dấu hiệu điển
hình “chai nước".

Trên siêu âm tim, tràn dịch màng ngoài tim làm cho tim giống như đang nhảy
múa trong màng ngoài tim, trong khi viêm màng ngoài tim mạn tính cho thấy
màng ngoài tim thanh mạc căng cứng hạn chế chuyển động của tim.

Về điều trị, mục tiêu chính là giảm đau bằng thuốc giảm đau, điều trị nguyên
nhân nền gây viêm. Nếu có tràn dịch màng ngoài tim nặng, chọc dò màng
tim có thể được thực hiện bằng cách đưa kim vào khoang màng ngoài tim
và hút dịch dư thừa ra ngoài.

Được rồi, xin tóm tắt lại - viêm màng ngoài tim cấp thường do nguyên nhân
vô căn, nhưng có thể do vi rút hoặc sau nhồi máu cơ tim.

Nó thường tạo ra tiếng cọ, cũng như thay đổi điện tâm đồ như ST chênh lên
và PR lõm xuống, sau đó là sóng T dẹt và đảo ngược.

Tràn dịch màng ngoài tim thường dẫn đến điện thế QRS thấp hoặc thay đổi
điện thế, và có thể thấy trên siêu âm tim. Viêm màng ngoài tim mạn tính
thường là kết quả của sự lắng đọng fibrin trong màng ngoài tim thanh mạc
và nó khiến tim không thể giãn nở hoàn toàn.

You might also like