Professional Documents
Culture Documents
Hình 2: Sơ đồ diễn biến sinh lý bệnh tắc cấp tính động mạch chi [nguồn: Tác giả]
Sau khi tắc mạch, sự thiếu máu tổ chức nặng dần lên theo thời gian, gây huỷ hoại
từng phần rồi toàn bộ chi, dẫn đến hoại tử chi, lan dần từ phía ngọn tới gốc chi. Diễn
biến chia làm 2 giai đoạn:
+ Thiếu máu có hồi phục: tức là trong giai đoạn này, nếu kịp thời điều trị lập lại lưu
thông mạch máu, thì chi sẽ được phục hồi hoàn toàn (trong 6 - 10 giờ đầu).
+ Thiếu máu không hồi phục: tiến triển từ không hồi phục một phần đến hoàn toàn,
do hiện tượng hoại tử dần dần tổ chức phía ngoại vi.
Khi đã ở giai đoạn thiếu máu không hồi phục 1 phần, dù chi chưa bị hoại tử toàn
bộ, nhưng nếu lập lại lưu thông mạch máu, thì chi phía dưới chỉ phục hồi một phần
về cấp máu cũng như chức năng (trong khoảng 12 – 24 giờ sau nghẽn mạch).
Còn khi đã chuyển sang giai đoạn thiếu máu không hồi phục hoàn toàn, thì phần tổ
chức chi hoại tử đã quá nhiều, thì không còn chỉ định bảo tồn chi. Nếu cố tình phục
hồi lưu thông dòng máu – có thể dẫn đến nhiễm độc, suy thận, sốc và tử vong
(thường sau nghẽn mạch 24 giờ).
Tuy nhiên, tiến triển của các giai đoạn thiếu máu còn chịu ảnh hưởng của một số
yếu tố, ví dụ như:
+ Vị trí tắc động mạch: nếu ở phía dưới 1 nhánh bên lớn thì thời gian thiếu máu còn
hồi phục sẽ dài ra nhiều, do việc cấp máu qua tuần hoàn phụ tốt hơn.
+ Toàn trạng của người bệnh (bệnh căn): nếu có rối loạn huyết động do suy tim, thì
thiếu máu có thể tiến triển nhanh hơn do áp lực tưới máu ngoại vi thấp.
+ Các biện pháp sơ cứu sau khi có chẩn đoán: việc dùng thuốc chống đông, thậm chí
mở cân sẽ giúp làm chậm quá trình “dài đuôi của huyết khối” (Hình 3) và tăng tưới
máu tổ chức, nên sẽ kéo dài thời gian thiếu máu còn hồi phục.
Hình 3: Minh họa tổn thương giải phẫu thiếu máu cấp tính chi do thuyên tắc mạch [nguồn: Tác giả]
Để đơn giản hơn trong ứng dụng lâm sàng, có tác giả đã tóm tắt hội chứng thiếu
máu cấp tính phía ngoại vi bằng “5 chữ P” (trong tiếng Anh):
− Đau (Pain): đau tại bắp cơ phía ngoại vi của mạch máu tổn thương.
− Rối loạn cảm giác (Paraesthesia): giai đoạn đầu có tê bì, kiến bò đầu ngón,
giai đoạn muộn có thể gặp mất hoàn toàn cảm giác.
− Rối loạn vận động (Paralysis): Giai đoạn đầu thấy khó vận động, đau tăng khi
vận động, giai đoạn muộn bệnh nhân mất hoàn toàn vận động.
− Chi nhợt, lạnh (Pale): Cần so sánh giữa chi lành và chi có vết thương
− Không bắt được mạch dưới vết thương (Pulseless): Mạch phía trên tổn
thương vẫn bắt bình thường, các mạch máu phía dưới vết thương không bắt
được.
Tuy nhiên, mô tả các dấu hiệu lâm sàng kiểu này thì quá đơn giản, rất khó để xác
định giai đoạn thiếu máu, từ đó ra quyết định điều trị hợp lý – do vậy hiện ít
được dùng ở Việt Nam.
● Bằng cách bắt mạch trong khí khám bệnh, có thể xác định được vị trí mạch bị tắc
mạch, trên nguyên tắc mất mạch ở đâu thì tắc ngay trên đó, ví dụ: tắc động mạch
chậu ⬄ mất mạch bẹn; tắc động mạch đùi ⬄ mạch bẹn yếu, mạch khoeo mất;
tắc động mạch khoeo ⬄ mạch bẹn hơi yếu, mạch khoeo yếu hoặc mất; tắc động
mạch dưới đòn - nách ⬄ mất mạch cánh tay; tắc động mạch cánh tay trên chỗ
chia quay - trụ ⬄ mạch cánh tay yếu, mạch quay mất ...
Việc xác định vị trí tắc mạch có ý nghĩa nhất định trong tiên lượng bệnh, cũng
như trong việc lựa chọn đường mổ, và kỹ thuật lấy dị vật.
2.2.4. Cận lâm sàng
− X quang ngực, điện tim, sinh hoá máu là các thăm dò thường qui để đánh giá
tình trạng chung của bệnh nhân trước phẫu thuật, cũng như giúp tìm bệnh căn ở
tim.
− Thăm dò hình ảnh: do bệnh cần phải mổ cấp cứu để lấy dị vật, lập lại lưu thông
dòng máu càng sớm càng tốt, nên chỉ làm các thăm dò hình ảnh khi có điều kiện
làm cấp cứu, và ở các cơ sở chuyên khoa sâu. Trong đó chủ yếu là: siêu âm
Doppler mạch, siêu âm Doppler tim, chụp cắt lớp vi tính động mạch chủ để xác
định bệnh căn. Hiếm khi phải dùng đến chụp mạch số hóa xóa nền, chụp cắt lớp
vi tính dựng hình mạch máu, cộng hưởng từ dựng hình mạch máu.
2.3. Chẩn đoán phân biệt
− Lóc động mạch chủ (aortic dissection) - thể lóc lan xuống tận động mạch chủ
bụng và động mạch chậu, lòng giả phồng ra - chèn ép lưu thông máu ở lòng thật,
gây thiếu máu chi. Điều trị rất khó và tiên lượng rất xấu.
+ Thường xảy ra ở người lớn tuổi, cao huyết áp do xơ vữa động mạch. Khởi phát
bằng đau đột ngột và dữ dội ở ngực và lưng lan xuống bụng.
+ Bắt mạch và đo huyết áp thấy khác nhau giữa 2 tay và giữa tay - chân, ví dụ
huyết áp tay phải >> tay trái, huyết áp tay >>> chân. Nghe tim có thể thấy thổi
tâm trương của hở van động mạch chủ.
+ Hội chứng thiếu máu cấp tính chi có thể xuất hiện ở cả 2 chân, lúc nặng lúc
nhẹ, tiến triển rất nhanh.
+ Chụp X quang ngực thấy trung thất giãn rộng.
+ Chẩn đoán xác định bằng chụp cắt lớp vi tính động mạch chủ ngực, bụng.
− Chi sưng - nóng - đau (phlegmatia cerulea dolens): do viêm tắc hệ tĩnh mạch
chậu - đùi đột ngột, gây ứ trệ tuần hoàn, đau - phù chân làm khó bắt mạch, da có
mầu tím. Chẩn đoán xác định bằng siêu âm Doppler mạch, chụp tĩnh mạch ...
Điều trị nội khoa là chính.
− Tắc chạc 3 chủ - chậu cấp tính: do huyết khối hình thành tại chỗ hay từ nơi khác
trôi đến. Biểu hiện thiếu máu rất cấp tính ở cả 2 chân. Xác định bằng siêu âm
Doppler mạch. Điều trị phức tạp và tiên lượng rất xấu.
2.4. Điều trị
Mục tiêu là cố gắng rút ngắn tối đa thời gian thiếu máu chi bằng các biện pháp
sơ cứu và mổ phục hồi lưu thông dòng máu càng sớm càng tốt.
2.4.1. Sơ cứu ban đầu
- Dùng ngay thuốc chống đông máu (nếu không có chống chỉ định) bằng Heparin
tiêm tĩnh mạch, liều lượng 100 – 200 UI/ kg / 24 giờ.
- Chuyển ngay bệnh nhân lên cơ sở ngoại khoa có khả năng phẫu thuật mạch máu.
Trước khi chuyển, nên tiến hành thủ thuật mở cân cẳng chân nếu đánh giá thấy tình
trạng thiếu máu sắp chuyển sang giai đoạn không hồi phục.
2.4.2. Điều trị thực thụ
- Cắt cụt chi thì đầu:
+ Nếu trên lâm sàng có thiếu máu không hồi phục rõ ràng (cứng khớp tử thi, căng
cứng bắp cơ, nổi phỏng nước) hoặc chi đã tím đen hoại tử.
+ Vị trí cắt: thường ngay dưới vùng tắc mạch.
- Mở cân phía dưới vị trí tắc mạch
+ Thực hiện trước khi phục hồi lưu thông mạch máu.
+ Chủ yếu là mở cân ở chi dưới (cẳng chân), hiếm khi ở chi trên.
+ Thực hiện khi thiếu máu muộn (trên 6h) hoặc nghi ngờ thiếu máu không hồi
phục.
+ Đánh giá kĩ sự sống của cơ: màu sắc, mức độ đáp ứng với kích thích cơ học, kích
thích điện.
+ Mở rộng rãi tất cả các khoang cơ.
- Phẫu thuật lấy dị vật, phục hồi lưu thông dòng máu
+ Gây tê tại chỗ hoặc tê vùng, rất ít khi cần mê toàn thân.
+ Mở động mạch lấy huyết khối bằng ống thông có bóng (Fogarty) – (Hình 4).
+ Vị trí mở động mạch thường ở vùng nông dưới da (cánh tay, đùi chung).
Hình 4: Phẫu thuật điều trị thiếu máu cấp tính chi. A: mở cân cẳng chân, đánh giá sự sống
cơ; B: lấy huyết khối động mạch (1: ống thông có bóng Forgarty, 2: động mạch) [nguồn:
tác giả]
Hình 5: Phẫu thuật bắc cầu đùi – đùi bằng mạch nhân tạo
- Bóc nội mạc, tạo hình động mạch bị hẹp.
- Cầu nối ngoại vi cho những hẹp lan toả, thường dùng tĩnh mạch hiển tự thân đảo
chiều hoặc tại chỗ + phá van.
- Cắt thần kinh giao cảm. Hiện rất ít dùng.
3.4.3. Can thiệp nội mạch:
- Nong hẹp mạch bằng bóng.
- Nong hẹp mạch bằng bóng + đặt giá đỡ có phủ.
- Kết quả tốt như phẫu thuật ở tầng mạch chậu, gần bằng phẫu thuật ở tầng mạch
đùi, và rất hạn chế ở tầng cẳng chân.
- Có giá trị cao trong điều trị “cứu vãn” chi, khi các phương pháp khác không thực
hiện được.
3.4.4. Phẫu thuật kết hợp can thiệp nội mạch đồng thì (hybrid)
- Phẫu thuật + Can thiệp nội mạch đồng thì.
- Cho phép giải quyết nhiều nhóm bệnh phức tạp, giảm nguy cơ mổ nhiều lần cho
bệnh nhân và tiết giảm chi phí.
Hình 6: A – Điều trị can thiệp nội mạch (1: động mạch tắc do xơ vữa, 2: động mạch thông
với sau đặt giá đỡ có phủ).
B – Hybrid điều trị thiếu máu chi dưới (1: đặt giá đỡ có phủ động mạch chậu gốc phải; 2:
phẫu thuật bắc cầu đùi – đùi bằng mạch nhân tạo)
3.4.5. Điều trị sau phẫu thuật, can thiệp
- Chống đông bằng Heparin, sau chuyển Lovenox hoặc kháng tiểu cầu.
- Theo dõi tái tưới máu chi và các biến chứng phẫu thuật.
- Điều trị và theo dõi như sau mổ thiếu máu cấp tính chi.