You are on page 1of 27

THẤP TIM

Đại cương
Bệnh tim do thấp hay còn gọi là thấp tim, hay thấp khớp cấp hoặc sốt
thấp khớp là một bệnh viêm nhiễm toàn thể, được biểu hiện ở nhiều cơ
quan như tim, não, da, khớp. Trong đó bệnh chủ yếu biểu hiện ở tim và
khớp. Bệnh thấp tim thường phát triển từ 2 đến 4 tuần sau khi bị viêm
đường hô hấp trên.
• Bệnh thấp tim là bệnh hệ thống miễn dịch trung gian liên quan đến
nhiễm khuẩn liên cầu tan máu be-ta nhóm A (streptococcus), xuất
hiện sau khi nhiễm khuẩn ở đường miệng họng. Nếu không được điều
trị đầy đủ, thì trong vòng 2 đến 3 tuần sau khi nhiễm khuẩn ở vùng
hầu họng, có thể tiến triển thành bệnh thấp tim. Nguyên nhân chủ
yếu của bệnh tim mắc phải ở trẻ em từ 5 tuổi đến 15 tuổi là do bệnh
tim do thấp.
• Bệnh thấp tim gây tổn thương tim, ngoài ra bệnh còn gây tổn thương
khớp, tổ chức liên kết dưới da và đôi khi thấy tổn thương não. Bệnh
có pha cấp tính viêm nhiều thanh mạc, viêm màng hoạt dịch, gây sốt
và gây ra nhiều các tổn thương trong tim.
- Sau thời kỳ viêm họng bệnh sốt thấp thường xảy ra trong 2 tuần. Đây là thời
gian đủ để kháng nguyên của vi khuẩn hình thành kháng thể chống lại nhiễm
khuẩn, từ đó xảy ra đáp ứng miễn dịch. Tuy nhiên, phản ứng miễn dịch lại gây tổn
thương tổ chức liên kết của tim và hàng loạt các cơ quan khác ngay trong thời
điểm đó. Người ta cho rằng, các kháng thể chống lại các kháng nguyên của vi
khuẩn có phản ứng chéo với các kháng nguyên, tương tự được tìm thấy trong tim
người và tổ chức liên kết ở các nơi khác.
- Sau khi viêm họng do liên cầu khuẩn thì tỷ lệ mắc bệnh khoảng 3%, điều này
chứng tỏ rằng, chỉ có một số người có kháng nguyên tương tự như của liên cầu.
Các kháng nguyên đó bao gồm:
- Thành phần Hyaluronat có trong glycoprotein của van tim giống với hyaluoronat
của màng liên cầu
- Màng sợi cơ tim giống với kháng nguyên của màng liên cầu
- Độc tố chính của liên cầu tan huyết nhóm A là myosin của cơ tim giống với
protein M của liên cầu.
• Bệnh nhân đang trong tình trạng nhiễm khuẩn đều tìm thấy
kháng thể kháng liên cầu khuẩn được gọi là ASLO hay ASO
và hyaluronidase. Tuy nhiên trong một số trường hợp ASO
cũng tăng trước khi có sốt thấp hay gặp ở những người dễ
cảm thụ, khi có các biến đổi về tim như trong nhồi máu cơ
tim, vì thế chuẩn độ kháng thể này lại không phải là xét
nghiệm cơ bản.
• Ngoài đáp ứng miễn dịch dịch thể, trong thấp tim còn có đáp
ứng miễn dịch qua trung gian tế bào liên quan đến đại thực
bào và tế bào lympho T, vì vậy các tổn thương tim có thể do
cả hai cơ chế đều cùng xảy ra.
• Bệnh thấp tim là bệnh viêm toàn tim, được biểu hiện viêm nội tâm
mạc, viêm màng ngoài tim, viêm cơ tim hoặc kết hợp cả ba trường
hợp trên. Tổn thương viêm thành ổ nhỏ nằm rải rác khắp nơi trong
tim là tổn thương đặc trưng của thấp tim.
• Viêm nội tâm mạc là tổn thương nặng và hay gặp nhất, các biến đổi rõ
nhất trong viêm nội tâm mạc là ở nội tâm mạc phủ lên các van của
tim trái như van hai lá và van động mạch chủ. Trước tiên, trên bề mặt
các van bị viêm, sau đó dẫn tới loét và tổn thương này sẽ tạo điều
kiện để hình thành cục sùi nhỏ có thích thước từ 1 đến 2 cm, rất dễ
mủn nát. Cục sùi này sẽ được tổ chức hóa và thành sẹo xơ. 
• Viêm cơ tim là do các hạt Aschoff. Các hạt này sẽ gây phá hủy cơ tim,
nhưng tổn thương này thường nhỏ và ít gây ra rối loạn chức năng. Tuy
nhiên nguyên nhân gây loạn nhịp tim và các rối loạn về dẫn truyền
trong tim là do nếu tổn thương lớn mà lại nằm trong khu vực dẫn
truyền thần kinh tim.
• Viêm màng ngoài tim thường là viêm thanh huyết có ít tơ huyết và
không bao giờ hóa mủ, hay gặp ở trẻ em và chiếm tỷ lệ khoảng 85%.
Các hạt Aschoff khu trú ở màng xơ và tổ chức lớp mỡ dưới màng tim.
Viêm màng ngoài tim thường khỏi và sẽ không để lại di chứng, nhưng
có thể do xơ hóa và dính hai lá của màng ngoài tim. 
Triệu chứng
• Sốt
• Viêm đa khớp
• Đau hoặc sưng đỏ khớp hoặc kết hợp cả hai cùng với đặc điểm là hay gặp ở các khớp
lớn như khớp gối, có tính di truyền. Sau vài ngày cho đến một tuần, đau khớp thường
đỡ nhanh hoặc khi dùng aspirin hoặc các thuốc giảm đau khác và thường không để lại
di chứng ở khớp.
• Khó thở, đau tức ngực, tim đập nhanh quá và đôi khi lại chậm quá
• Người bệnh có những biểu hiện vung tay vung chân một cách vô thức như múa vờn,
múa giật.
• Một số biểu hiện khác như xuất hiện nút ban hồng là các ban đỏ hình vòng trên da đặc
biệt quanh các khớp. Hoặc ban nút là những ban nổi lên ở dưới da. Dấu hiệu này
không được phổ biến. 
Biến chứng
Trong giai đoạn bệnh cấp tính, người bệnh có thể sẽ bị ảnh hưởng do viêm cơ tim
dẫn tới suy tim cấp hoặc rối loạn nhịp tim. Thậm chí đôi khi còn đe dọa đến tính
mạng người bệnh.
Bệnh nhân thường bị đau ở khớp nhiều và có thể kèm theo sưng nóng đỏ. Tuy nhiên
dạng viêm khớp này không để lại di chứng nguy hiểm nào. Tổn thương hệ thống
ngoại tháp gây biểu hiện múa giật, múa vờn là những ảnh hưởng đến não, nhưng
các tổn thương trên não đa số lại hồi phục được và không để lại di chứng.
Gây nhồi máu:do mảnh cục sùi nhồi máu não thận và các chi, do viêm nội tâm mạc
Tạo điều kiện cho viêm nội tâm mạc nhiễm trùng cấp và bán cấp tính do liên cầu
khuẩn.
Xơ hóa các van tim: nếu bị xơ hóa toàn bộ mặt của van tim sẽ dẫn tới van tim bị co
ngắn lại và làm hở lỗ van tim. Còn nếu xơ hóa ở giữa van tim sẽ bị co kéo theo
hướng chụm lại vào nhau gây ra hẹp lỗ van tim.
• Vấn đề quan trọng nhất là sự tái phát và tiến triển dẫn gây ra những
tổn thương không phục hồi chức năng của van tim trong thấp tim dẫn
tới bệnh tim do thấp. Các tổn thương này sẽ ngày một nặng thêm và
gây ra những ảnh hưởng nặng nề về chất lượng cuộc sống cũng như
tuổi thọ của bệnh nhân.
• Bệnh tim do thấp hay gặp nhất là hở van hai lá, hẹp van hai lá, hở van
động mạch chủ,... hoặc phối hợp các tổn thương của van tim.
• Hở van tim: là khi van hai lá hở, tim bóp trong thì tâm thu một lượng
máu sẽ chạy qua van hai lá vào tâm nhĩ trái, dẫn tới ở tâm nhĩ trái dày
không đều ở nội tâm mạch được gọi là mảng Mac-callum và gây ra
giãn tâm nhĩ trái và thành tâm thất trái dày lên. Do van hai lá hở,
trong thì tâm trương một lượng máu từ nhĩ trái chảy xuống tâm thất
trái nhiều hơn bình thường làm cho tâm thất trái ngày càng dày thêm.
Nếu không thích ứng được thì tâm thất trái sẽ giãn và dẫn tới tình
trạng suy tim.
• Hở van động mạch chủ: khi van động mạch chủ hở, trong thì tâm
trương một lượng máu từ động mạch chủ sẽ chảy trở lại tâm thất (có
khi tới 1/2  lượng máu, kết hợp với hở van 2 lá làm cho tâm thất trái
phải chứa máu nhiều hơn do đó càng làm cho tâm thất trái giãn và
làm cho tình trạng suy tim trái càng nhanh hơn. 
• Hở van ba lá và van động mạch phổi: các tổn thương của van này cũng như
tổn thương của van hai lá và van động mạch chủ nhưng nhẹ hơn. Nhìn
chung dù hở bất cứ van nào của tim thì cũng đều dẫn đến tim giãn và tim
thường có hình ảnh chung như: tim giãn, tim to hơn bình thường, mỏm tim
tròn nhưng trên hình ảnh vi thể tổn thương tim thường không có gì đặc biệt.
• Hẹp van hai lá: trong thì tâm trương, máu xuống tâm thất trái, giảm và sẽ ứ
lại trong tâm nhĩ trái. Ở cuối kỳ tâm trương, làm cho tâm nhĩ trái phải bóp
mạnh để tống máu xuống tâm thất trái. Do đó sẽ giãn tâm nhĩ trái và làm
cho máu xuống tâm thất trái càng ít đi, tâm thất trái càng ít máu. Máu sẽ
càng giảm khi co bóp để đẩy máu lên động mạch chủ, dần dần tâm thất trái
sẽ teo và nhỏ hơn bình thường.
• Hẹp van động mạch chủ: ở thì tâm thu lượng máu từ tâm thất trái lên
động mạch chủ sẽ ít đi. Tâm thất trái sẽ phải làm việc nhiều hơn dẫn
tới phì đại tâm thất trái và cuối cùng sẽ dẫn đến suy tim.
• Hẹp hở van ba lá và hẹp van động mạch chủ: Tổn thương thường
giống như hẹp van 2 lá và van động mạch chủ, và thường rất hiếm
gặp.
Bệnh thấp tim có thể phòng ngừa được nhằm tránh dẫn tới bệnh van tim do
thấp hoặc phòng tránh được sự tiến triển của bệnh thêm nặng. 
Một số biện pháp phòng bệnh bao gồm:
Cách phòng bệnh cấp một
Giáo dục sức khỏe nhằm nâng cao ý thức của người dân.
Nâng cao mức sống, hỗ trợ những người có hoàn cảnh khó khăn, vùng sâu
vùng xa,...
Giữ gìn vệ sinh, vệ sinh răng miệng, mũi, hầu họng nhằm ngăn ngừa các
nhiễm trùng do liên cầu
Tránh nhiễm lạnh, ăn uống đầy đủ để nâng cao sức đề kháng cho cơ thể.
Cách phòng bệnh cấp hai là khi phát hiện bị bệnh thấp tim thì cần tim phòng
thấp đều đặn nhằm tránh những biến chứng trầm trọng đến van tim.
Chẩn đoán bệnh thấp tim dựa trên các tiêu chuẩn của Jone bao gồm:
Các tiêu chuẩn chính
Viêm đa khớp: biểu hiện đau sưng đỏ ở các khớp to với các đặc điểm
lâm sàng như không cử động được khớp, và đau khớp có tính chất di
động, từ khớp này sang khớp khác thì khỏi mà không để lại di chứng.
Viêm tim: nghe tim có tiếng thổi tâm trương hay tâm thu hoặc có thêm
tiếng cọ màng tim, mạnh nhanh mà nhỏ và gõ tim thấy diện tim to.
Cục Meynet dưới da: di động được, rắn, to bằng hạt đỗ thậm chí là hạt
ngô, đa số sờ thấy được ở khớp và cột sống.
Hồng ban: dấu hiệu nút hồng ban cho thấy có các biến đổi tổ chức dưới
da.
Múa giật: do rối loạn về thần kinh dẫn đến vận động không tự chủ do
tổn thương não.
Các tiêu chuẩn phụ
Sốt
Điện tâm đồ sóng PR kéo dài: Xét nghiệm này còn được gọi là ECG hoặc
EKG để ghi lại các tín hiệu điện hoạt động của tim và cho thấy tình trạng
viêm của tim hoặc chức năng tim kém.
Tiền sử đã mắc viêm khớp do liên cầu
Tốc độ lắng máu tăng cao
Bạch cầu tăng
C-reactin protein dương tính.
Siêu âm tim: Sử dụng sóng âm thanh để tạo ra hình ảnh của tim được
hiển thị trên màn hình điện tử giúp bác sĩ phát hiện các bất thường về
tim
- Bệnh thấp tim cấp tính có thể xảy ra sau khi nhiễm trùng họng do liên cầu
gây ra. Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời có thể sẽ dẫn tới những
biến chứng trầm trọng đến van tim. Vì vậy có hai chiến lược quan trọng để
điều trị bệnh thấp tim trong giai đoạn cấp:
- Để loại trừ liên cầu khuẩn ra khỏi cơ thể và ngăn chặn tại pháp thấp tim cần
dùng kháng sinh kịp thời, hơn nữa còn làm giảm đi cơ hội của việc tổn
thương đến van tim. Thuốc kháng sinh để điều trị bệnh tim do thấp khá đơn
giản là penicillin như là một loại thuốc đầu tay, nếu bệnh nhân bị dị ứng với
penicillin có thể dùng một số loại kháng sinh khác.
- Hàng tháng hoặc cứ mỗi 3 tuần trong vài năm sau đó, bệnh nhân cần được
tiêm phòng thấp tim sau đó bằng penicillin chậm, tùy theo chỉ định của bác sĩ
dựa trên tình trạng cụ thể của người bệnh để phòng ngừa tái phát thấp tim.
- Trong giai đoạn cấp có các thuốc điều trị triệu chứng như các thuốc giảm
viêm, dùng để giảm viêm khớp đặc biệt là aspirin. Nếu bị viêm tim nặng có
thể sẽ dùng nhóm thuốc corticoid.

You might also like