Professional Documents
Culture Documents
Tuổi càng lớn thì càng tích tụ nhiều yếu tố nguy cơ, bệnh mạch máu càng nhiều đặc biệt là xơ vữa động mạch. Xuất
huyết não gặp nhiều ở tuổi 50- 60, huyết khối động mạch não gặp nhiều hơn ở lứa tuổi >60 tuổi, nghẽn mạch từ tim
xảy ra ở tuổi trẻ hơn.
2. Giới: Nam mắc bệnh nhiều hơn nữ trong mọi nhóm tuổi. Tỷ lệ nam/nữ tùy theo từng tác giả, từng quốc gia có thể
khác nhau, nhưng nói chung dao động từ 1,6/1 đến 2/1.
3. Tăng huyết áp: Được coi là yếu tố nguy cơ hàng đầu trong cơ chế bệnh sinh của TBMMN. Khi HA tâm thu
160mmHg và hoặc HA tâm trương 95mmHg thì nguy cơ tăng 3.1 lần ở nam và 2.9 lần ở nữ so với HA bình thường.
Nếu HA tâm thu 140- 159mmHg và HA tâm trương 90- 94mmHg thì 50% gia tăng nguy cơ đột quỵ.
4. Bệnh tim mạch: rung nhĩ, NMCT cấp, phì đại thất trái, bệnh tim do thấp, van tim nhân tạo. Theo Framingham theo
dõi 36 năm thấy: tai biến do tăng HA chiếm 80.8%, bệnh mạch vành chiếm 32.7%, suy tim 14.5%, rung nhĩ 14.5%
và 13.6% không phải các bệnh trên. Nhồi máu não do huyết khối từ tim gây nghẽn mạch gặp 15- 20%, một nửa
trong số đó là do rung nhĩ.
5. Rối loạn lipid máu: theo một số nghiên cứu, khi LDL-cholesterol tăng 10% thì nguy cơ tim mạch tăng lên 20%
thông qua xơ vữa động mạch, khi giảm HDL-cholesterol cũng làm tăng nguy cơ các bệnh tim mạch trong đó có
TBMMN.
6. Đái tháo đường: về bản chất đái tháo đường là yếu tố nguy cơ gây xơ vữa động mạch não, tim và mạch máu
ngoại vi. Bệnh nhân đái tháo đường có nguy cơ mắc đột quỵ cao gấp 2,5 - 4 lần nhóm người có đường máu bình
thường. Tuy nhiên, các nghiên cứu ở các nước Châu Âu và Bắc Mỹ đã chứng minh đái tháo đường là yếu tố nguy cơ
gây ra tất cả các thể TBMMN, nhưng ở Nhật Bản và Trung Quốc thì không thấy đó là yếu tố nguy cơ. Chưa có nghiên
cứu nào cho thấy khi kiểm soát tốt đái tháo đường thì giảm tỉ lệ mới mắc TBMMN, nhưng dự phòng tốt tăng đường
máu thì có thể làm giảm tổn thương não giai đoạn cấp của TBMMN.
7. Hút thuốc: Làm tăng nguy cơ đột quỵ gấp 3 lần. Thuốc lá làm giảm yếu tố bảo vệ HDL-C, làm tăng Fibrinogen,
tăng tính đông máu, tăng độ nhớt máu, tăng kết dính tiểu cầu...tăng Fibrinogen thì nguy cơ tăng đông dễ dẫn đến
nhồi máu não. Sau 2-3 năm ngưng thuốc lá thì mới giảm nguy cơ và nồng độ Fibrinogen mới trở lại bình thường.
Qua phân tích 32 nghiên cứu độc lập kết luận hút thuốc lá độc lập gây đột quỵ cho cả 2 giới và mọi lứa tuổi, tăng
50% nguy cơ so với nhóm không hút thuốc lá. Nguy cơ của đột quỵ ở người hút huốc lá nhiều ( > 40 điếu/ ngày)
gấp 2 lần người hút thuốc lá ít (< 10 điếu/ ngày).
8. Rượu: Qua nghiên cứu cho thấy nếu 1 ngày chỉ sử dụng 10 - 30g ethanol đối với nam và 10 - 20g ethanol đối với
nữ thì an toàn và lợi ích thông qua tăng HDL, chống ngưng tập tiểu cầu và còn thuận lợi trên những yếu tố tăng sợi
huyết. Tuy nhiên, nếu lạm dụng rượu thường xuyên sẽ làm tăng áp lực máu, tăng tập kết tiểu cầu, tăng mức
Triglycerid, cơn rung nhĩ kịch phát, gia tăng nguy cơ của TBMMN đặc biệt là xuất huyết não và tử vong do TBMMN.
9. Thuốc ngừa thai: Thuốc tránh thai có nồng độ estrogen cao gây nguy cơ TBMMN giống như khi có thai. Dùng
thuốc tránh thai khi có tăng HA hoặc hút thuốc lá sẽ làm tăng tỉ lệ TBMMN và bệnh mạch vành. Nhiều tác giả cho
rằng thuốc tránh thai, mang thai và sinh đẻ làm tăng bệnh lý huyết khối tĩnh mạch não, đặc biệt là phụ nữ trẻ. Sử
dụng thuốc tránh thai bằng đường uống liều thấp <50 µg estrogen thì không gia tăng nguy cơ TBMMN.
10. Lạm dụng thuốc: sử dụng Heroin, Amphetamin, Cocain... có thể gây TBMMN đặc biệt ở người trẻ tuổi nguyên
nhân do viêm mạch, co mạch, rối loạn nhịp tim, cơn tăng HA.
11. Hoạt động thể lực: Ít vận động thể lực làm tăng nguy cơ TBMMN cho cả 2 giới. Tập thể dục đều đặn khoảng 30
phút/ ngày làm giảm các yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch, cải thiện đường máu, giảm tỉ lệ kháng insulin, giảm
cân, tăng HDL-C, hạn chế tổn thương xơ vữa động mạch, cải thiện HA, giảm HA tâm thu. Thể dục làm giảm tỉ lệ
NMCT và cũng làm giảm tỉ lệ TBMMN.
12. Tăng acid uric máu: nhiều thống kê cho thấy tăng acid uric máu trên 7mg% thì nguy cơ TBMMN do xơ vữa động
mạch tăng lên gấp đôi. Acid uric làm ổn định sự ngưng tập tiểu cầu và xu hướng làm tăng chứng huyết khối.
13. Tiền sử đột quỵ và TIA (cơn thiếu máu não thoáng qua): Bệnh nhân đã bị đột quỵ thì 3 - 22% sẽ bị tái phát
trong năm đầu tiên và 10 - 53% bị tái phát trong vòng 5 năm. Bệnh nhân có tiền sử TIA thì có 5% bị TBMMN trong
vòng 1 tháng và 30% sẽ bị đột quỵ trong 5 năm đầu.
14. Ngáy và TBMMN: Mặc dù tỉ lệ không cao nhưng ngáy bẩm sinh và ngừng thở khi ngủ là những yếu tố nguy cơ
của TBMMN thể nhồi máu não. Ngáy và ngừng thở lúc ngủ gây tăng HA, chứng loạn nhịp tim. Qua khảo sát thấy độ
dày lớp áo trong của động mạch cảnh gia tăng, xơ vữa động mạch cảnh trong nhóm ngừng thở lúc ngủ cao hơn
nhiều so với nhóm bình thường.
15. Yếu tố tâm lý: Nhiều nghiên cứu cho thấy người dễ bị TBMMN do xơ vữa động mạch là những người có tác
phong tỉ mỉ, hay nghĩ ngợi tính toán, dễ xúc cảm, luôn trong tình trạng căng thẳng, hồi hộp, lo âu, bi quan, chán
nản.
16. Yếu tố nguy cơ thời tiết:
TBMMN xảy ra quanh năm nhưng thường xảy ra nhiều vào mùa lạnh, những tháng chuyển mùa (tháng 2,3, 10,11),
hoặc những ngày thay đổi khí hậu đột ngột. Nhiệt độ không khí càng thấp thì TBMMN càng tăng, áp suất khí quyển
càng tăng thì TBMMN càng nhiều.
Lúc chuyển mùa HA tăng và giao động nhiều, HA mùa lạnh tăng hơn mùa nóng 20mmHg ở người bình thường, còn
đối với người tăng HA thì lớn hơn nhiều. Ngoài ra, nồng độ cholesterol, độ quánh của máu... cũng thay đổi theo mùa
và cao vào tháng 12 hơn tháng 6.
STT Triệu chứng Điểm Chẩn đoán
1 Bị đột ngột, nặng tối đa ngay từ đầu 1
HCS ≥ 3 điểm:
Theo dõi là đột quỵ chảy máu
2 Đau đầu 1
3 Buồn nôn và / hoặc nôn 1
4 Có hội chứng màng não 1
5 Huyết áp tâm thu khởi phát ≥ 180mmHg 1
6 Rối loạn ý thức 1
HCS ≤ 2 điểm:
Theo dõi là đột quỵ thiếu máu
7 Rối loạn cơ vòng 1
8 Co giật hoặc kích thích vật vã 1
9 Quay mắt - đầu về một bên 1
10 Co cứng mất vỏ hoặc duỗi cứng mất não 1
Cộng 10
TRÚNG PHONG
Theo YHHĐ, các bệnh xuất huyết não, nhồi máu não, cơn thoáng thiếu máu não, liệt mặt đều thuộc phạm trù chứng
trúng phong của YHCT.
Trúng phong còn gọi là “thốt trúng” nghĩa là bệnh phát sinh cấp, nhanh, đột ngột. Triệu chứng của trúng phong
gồm: đột nhiên ngã quỵ bất tỉnh, liệt nửa người, miệng méo mắt xếch, nói khó; Hoặc nhẹ hơn không hôn mê bất
tỉnh nhưng có liệt nửa người, miệng méo mắt xếch, nói khó.
Hiện nay, một số tài liệu YHCT phân loại trúng phong căn cứ theo triệu chứng nặng nhẹ, tình trạng hư thực, nông
sâu, gốc ngọn của bệnh mà phân ra trúng phong kinh lạc và trúng phong tạng phủ. Bệnh nhân không có hôn mê là
trúng phong kinh lạc, bệnh nhân có hôn mê bất tỉnh là trúng phong tạng phủ.
Trúng phong sau thời gian cấp tính khoảng 1 – 2 tuần được điều trị, bệnh nhân qua cơn nguy kịch chuyển sang thời
kỳ hồi phục. Giai đoạn này, các triệu chứng còn lại được xếp vào các chứng trạng của đông y gồm:
+ Liệt ½ người: Chứng bán thân bất toại, chứng nuy.
+ Liệt mặt: Chứng khẩu nhãn oa tà.
+ Hoa mắt, chóng mặt: Chứng huyễn vựng.
+ Tê tay chân: Chứng ma mộc.
+ Rối loạn ngôn ngữ: Chứng thất ngôn.
+ Suy giảm trí tuệ, trí nhớ: Chứng kiện vong.
I. NGUYÊN NHÂN - BỆNH SINH
1. Ngoại phong:
Kim quỹ yếu lược “Kinh mạch hư trống, phong tà thừa cơ xâm nhập, tuỳ theo bệnh nặng nhẹ mà biểu hiện chứng
hậu ở kinh lạc, tạng phủ. Tà ở lạc, cơ phu bất nhân (da tê dại), tà ở kinh trọng bất thắng (vận động khó), tà ở phủ
bất thức nhân (bất tỉnh), tà ở tạng thiệt nan ngôn (nói khó), khẩu thổ dãi (sùi bọt mép)”. Điều này cho thấy do mạch
lạc trống rỗng, phong tà xâm nhập bắt đầu từ phần biểu vào phần lý gây nên chứng oa tà, bất toại. Trường hợp này
tuy có phần nào do bên trong hư yếu nhưng cần chú trọng đến ngoại phong…
2. Nội phong - Can phong nội động
- Diệp Thiên Sỹ cho rằng trúng phong là do dương khí trong cơ thể biến động, Can dương hóa phong gây nên. Do
tinh huyết suy kém, thuỷ không dưỡng được Can mộc nên phần dương của Can quá thịnh sinh nội phong, nội phong
bốc lên gây ra chứng trúng phong. Hoặc do Can âm hư, huyết bị táo sinh ra nhiệt, nhiệt làm phong khí bốc lên, làm
cho lạc mạch và các khiếu bị nghẽn lấp gây nên chứng trúng phong.
- Can phong nội động: Là nói khái quát về Can dương hóa phong quấy rối lên trên; hoặc Can phong kết hợp với đàm
xông lên trên, khí và huyết đều dồn lên trên; hoặc âm huyết của tạng Can quá hư sinh táo sinh phong.
Chứng Can phong nội động gặp trong bệnh trúng phong tạng phủ là chứng nặng của nội phong loại trúng, do Can
dương hoá phong quá nặng, gây ra chứng bế, chứng thoát.
3. Đàm thấp – Phong đàm:
- “Đan khê tâm pháp - Trúng phong luận” của Chu Đan Khê cho rằng: người ăn nhiều chất béo bổ sẽ sinh đàm thấp
trong cơ thể. Thấp lâu ngày hóa đàm, đàm sinh nhiệt, nhiệt sinh hỏa, hỏa sinh phong, phong động gây trúng
phong.
- Chứng phong đàm: phần nhiều gặp ở người Can Thận âm hư, Can dương quá găng và thể trạng béo mập đàm
thịnh.
. Cơ thể vốn âm hư dương thịnh, hoặc béo mập đàm trọc quá thịnh dễ hoá hoả, lại bị phong tà xâm nhập kích động
nội phong mà phát bệnh.
. Người tuổi cao, hoặc do thất tình nội thương, hoặc phòng dục quá độ, hao tổn tinh huyết, Can Thận âm hư, âm hư
không liễm được dương, dương cang hoá hỏa sinh phong, đàm theo phong động là cơ sở động phong của đàm
chứng.
. Người có tình chí ức uất hoặc tính tình nóng nảy dễ làm cho can khí uất kết, khí uất hoá hoả, Can dương bùng lên
đột ngột, dương cang mà phong động, đàm cũng theo phong mà động xuất hiện chứng phong đàm. Can phong kết
hợp với đàm hoành hành len lỏi kinh lạc, che lấp thanh khiếu gây bệnh.
4. Tình chí thương tổn
- Đời nhà Thanh, thế kỷ 17-18, Trương Bá Long, Trương Sơn Lôi, Trương Tích Thuần cho rằng do âm dương không
điều hoà, khí nghịch huyết loạn trực trúng phạm vào não gây nên. Do ngũ chí bị tổn thương, tình chí không điều hoà
(giận, lo, sợ gây tổn thương 3 tạng Tỳ, Can, Thận) làm cho âm dương mất cân bằng, Can mất chức năng điều đạt,
khí bị uất trệ, huyết không thông hành gây ứ kết ở não mạch. Người có tình chí uất, hoặc tính tình nóng nảy, giận dữ
quá dễ làm cho Can khí uất kết, khí uất hoá hoả, Can dương bùng lên đột ngột, Can phong nội động. Phong và hoả
hợp với nhau, huyết bị uất, khí nghịch lên đưa lên não gây bệnh. Như vậy, tình chí thất thường đều có thể làm cho
khí huyết nghịch lên não gây ra trúng phong.
5. Nội thương, tích tuổi, hư tổn: Các y gia đời Đường và Tống cho là do “tích tuổi, hư tổn”, các y gia đời sau như
Trương Giới Tân, Diệp Thiên Sĩ đều cho rằng bệnh là do “nội thương, tích tổn” chứ không phải do phong tà bên
ngoài xâm nhập vào cơ thể.
- Người lớn tuổi, người vốn suy nhược, người bệnh lâu ngày khí huyết bị hao tổn, nguyên khí hư suy, não mạch
không được nuôi dưỡng, khí hư không đủ sức để vận hành huyết, âm huyết suy yếu không ức chế được dương,
dương cang hoá hoả sinh phong. Nội phong bốc lên hợp với đàm trọc, ứ huyết làm che lấp thanh khiếu gây nên
bệnh.
- Người thể chất vốn âm hư dương thịnh, lao lực nội thương mệt nhọc quá độ, mà cáu giận làm khí hoả bốc lên, dẫn
đến phong dương bị động. Nội phong động thì Can dương bốc lên làm cho khí huyết vọt mạnh lên, hoặc kèm theo
đờm, ứ huyết che lấp thanh khiếu, mạch lạc gây bệnh.
- Người phòng dục quá độ gây tổn thương Thận âm, Thận âm bất túc làm cho Tâm Thận hoả thuỷ mất cân bằng
(Tâm Thận bất giao, thuỷ hoả bất tương tế), Tâm hoả bốc mạnh mà sinh phong. Đồng thời Thận âm hư không đựơc
nuôi dưỡng được Can, Can âm hư Can dương vượng lên trên, Can phong nội động (hoả sinh phong) xông lên làm
nhiễu loạn mạch lạc ở não mà phát chứng trúng phong.
6. Hoả thịnh: Do Lưu Hà Giang đề xướng. Ông cho rằng trúng phong vốn do hoả của Tâm quá thịnh, Thận thuỷ suy
yếu. Thận hư không chế được hoả gây nên âm hư dương thịnh, hư hoả bốc lên trên che lấp tâm thần khiến cho
người bệnh ngã lăn ra bất tỉnh. Trương Bá Long lại cho rằng do hoả của Tâm và Can quá thịnh làm cho khí huyết
bốc lên gây ra chứng “thốt trúng”.
7. Khí hư: Lý Đông Viên cho là khí hư: “cả bốn mùa trong năm nếu giận buồn quá thì đều thương khí, hoặc người
béo phì có thân hình thực song có khí suy” và chính khí tự suy gây nên bệnh này.
8. Huyết ứ: Do chấn thương gây huyết ứ tắc, ngăn trở đường lạc, kinh lạc không thông, mạch lạc không được nuôi
dưỡng gây nên bệnh, có thể chân tay tê dại, bán thân bất toại.
Tóm lại:
v Theo YHCT, trúng phong có liên quan đến các yếu tố sau:
- Tình chí tổn thương (thất tình):
. Do ngũ chí bị tổn thương, tình chí không điều hoà (giận, lo, sợ gây tổn thương 3 tạng Tỳ, Can, Thận) làm cho âm
dương mất cân bằng, Can mất chức năng điều đạt, khí bị uất trệ, huyết không thông hành gây ứ kết ở não mạch gây
ra trúng phong.
. Người có tình chí uất, hoặc tính tình nóng nảy, giận dữ quá dễ làm cho Can khí uất kết, khí uất hoá hoả, Can dương
bùng lên đột ngột, dương cang mà phong động, kết hợp Tâm hoả quá thịnh, phong và hoả hợp với nhau, huyết bị
uất, khí huyết nghịch lên não gây ra trúng phong.
- Nội thương hư tổn:
. Người lớn tuổi Can Thận âm suy, người vốn suy nhược, người bệnh lâu ngày khí huyết bị hao tổn, nguyên khí hư
suy, não mạch không được nuôi dưỡng, khí hư không đủ sức để vận hành huyết, âm huyết suy yếu không ức chế
được dương, dương cang thiên thịnh hóa hỏa sinh phong. Nội phong bốc lên, khí huyết thượng nghịch hợp với đàm
trọc, ứ huyết làm che lấp thanh khiếu đột nhiên mà phát bệnh.
. Người phòng dục quá độ gây tổn thương Thận âm, Thận âm bất túc làm cho Tâm Thận hoả thuỷ mất cân bằng
(Tâm Thận bất giao, thuỷ hoả bất tương tế), Tâm hoả bốc mạnh mà sinh phong. Đồng thời Thận âm hư không đựơc
nuôi dưỡng được Can, Can âm hư Can dương vượng lên trên, Can phong nội động (hoả sinh phong) xông lên làm
nhiễu loạn mạch lạc ở não mà phát chứng trúng phong.
. Người thể chất vốn âm hư dương thịnh, lao lực nội thương mệt nhọc quá độ, mà cáu giận làm khí hoả bốc lên, dẫn
đến phong dương bị động. Nội phong động thì Can dương bốc lên làm cho khí huyết vọt mạnh lên, hoặc kèm theo
đờm, ứ huyết che lấp thanh khiếu, mạch lạc gây nên trúng phong.
. Ở người béo mập thì hình thể thịnh mà khí suy, nhiều thấp nhiều trệ, khí đạo không lợi nên đàm dễ úng trệ. Cho
nên ở người béo thường có đàm trọc thịnh ở trong, thấp và trọc ấp ủ lâu ngày dễ hoá nhiệt sinh hoả sinh phong.
Phong hiệp với đàm gây bệnh.
- Ẩm thực bất tiết: Do ăn uống không điều độ (ăn nhiều chất béo, ngọt, cay nóng, uống nhiều rượu bia…) ảnh
hưởng đến công năng Tỳ vị, nội thấp tích tụ sinh đàm, đàm thấp sinh nhiệt, nhiệt cực sinh phong. Phong đàm, thấp
nhiệt nội thịnh phạm vào lạc mạch, thượng tắc thanh khiếu gây bệnh trúng phong.
II. ĐIỀU TRỊ TBMMN TRONG GIAI ĐOẠN CẤP
A. TRÚNG PHONG KINH LẠC:
1. Trúng lạc (Trúng phong ở lạc): Đột nhiên người có cảm giác tê dại nửa người, miệng méo mắt xếch (khẩu nhãn
oa tà), nói ngọng, đau đầu, hoa mắt chóng mặt, có thể có liệt nửa người. Triệu chứng này có thể thoáng qua rồi
biến mất hoặc kéo dài. Ngoài ra còn có triệu chứng của biểu: sợ rét phát sốt, khớp xương đau nhức, mạch Phù.
Phép trị: Khu phong tán tà thông lạc là chính. Hoạt huyết hoá ư hoà dinh.
Bài thuốc Tiểu tục mệnh thang (Tôn Tư Mạo)
2. Trúng kinh (Trúng phong kinh lạc): Liệt nửa người, chân tay tê dại, lưỡi cứng nói khó, nói ngọng là phong tà đã
trúng vào nhiều kinh và lạc mạch hư rỗng rõ.
Phép trị: Dưỡng huyết khu phong, thông kinh hoạt lạc.
Bài thuốc Đại tần giao thang (Bảo mệnh tập - Chu Đan Khê)
B. TRÚNG PHONG TẠNG PHỦ
B.1. CHỨNG BẾ:
Chứng trạng của bế chứng chủ yếu đột nhiên ngã ra hôn mê bất tỉnh, cấm khẩu, hàm răng cắn chặt, miệng ngậm,
tiếng thở khò khè, hai bàn tay nắm chặt, chân duỗi, đại tiểu tiện bí, tay chân co giật. Lâm sàng chia thành dương bế
(nhiệt chứng) và âm bế (thuộc hàn chứng)
1.Dương bế (nhiệt bế):
Triệu chứng: Ngoài các triệu chứng của chứng bế còn có mặt đỏ, người nóng sốt, thở dốc tiếng thở khò khè, miệng
hôi, đờm dãi nhiều, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng nhờn, mạch Huyền Hoạt Sác.
Phép trị: Tân lương khai khiếu, thanh can tức phong, trừ đờm, thông kinh lạc.
Bài thuốc Chí bảo đơn (cục phương)
2.Âm bế (hàn bế) – Đàm thấp che lấp Tâm khiếu:
Triệu chứng: Ngoài các triệu chứng của chứng bế còn có mặt nhợt tái, môi thâm, nằm yên không nhúc nhích, li bì,
chân tay lạnh, rêu lưỡi trắng nhờn dày, mạch Trầm Hoạt.
Phép trị: Tân ôn khai khiếu, trừ đàm tức phong
Bài thuốc Tô hợp hương hoàn (cục phương)
B.2. CHỨNG THOÁT:
Triệu chứng: Đột nhiên ngã quỵ bất tỉnh nhân sự, hôn mê sâu, mắt nhắm miệng há, bại liệt, tay chân quyết lạnh, tay
buông thỏng, bàn tay duỗi, chân lạnh, thở nhanh ngắn gấp hoặc thở yếu, có lúc ngưng thở, lưõi rụt, lưỡi mềm không
nói được, mặt sắc xanh. Nặng thì vã mồ hôi lạnh, nhị tiện tự chảy, mạch khó sờ thấy, mạch Vi Tế hoặc Hư Đại vô
căn.
Phép trị: Ích khí hồi dương, phù chính cố thoát.
Bài thuốc Sâm phụ thang (Phụ nhân phương lương)
III. ĐIỀU TRỊ TBMMN SAU GIAI ĐOẠN CẤP
Tùy theo thể bệnh có phép trị và bài thuốc phù hợp
1. Khí hư huyết ứ
Triệu chứng: liệt ½ người (liệt cứng hoặc liệt mềm), có hoặc không rối loạn ngôn ngữ, rối loạn cơ vòng, miệng
méo, ăn uống rơi đổ, mất cảm giác nửa người, sắc mặt u tối, hơi thở ngắn không có sức, tự ra mồ hôi, hồi hộp, tay
chân phù, lưỡi nhạt tía hoặc ứ huyết, rêu trắng, mạch tế sáp hoặc hư nhược.
Phép trị: Ích khí, hoạt huyết, thông lạc.
Bài thuốc Bổ dương hoàng ngũ thang (Y lâm cải thác) gia giảm….
2. Phong đàm trở khiếu, lạc mạch ứ trệ
Triệu chứng: liệt ½ người (liệt cứng hoặc liệt mềm), có hoặc không rối loạn ngôn ngữ, rối loạn cơ vòng, miệng
méo, ăn uống rơi đổ, chân tay co quắp, miệng sùi bọt, mất ngủ, lưỡi nhạt tối, rêu nhờn, mạch huyền hoạt.
Phép trị: Tức phong, hóa đàm, hoạt huyết thông lạc.
Bài thuốc Giải ngữ đơn gia giảm….
3. Âm hư dương xung
Triệu chứng: liệt ½ người (liệt cứng hoặc liệt mềm), có hoặc không rối loạn ngôn ngữ, rối loạn cơ vòng, miệng
méo, ăn uống rơi đổ, đau đầu, chóng mặt, ù tai, lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch huyền sác.
Phép trị: Tư âm, tiềm dương, hoạt huyết, thông lạc.
Bài thuốc Thiên ma câu đằng ẩm (Tạp bệnh chứng trị tân nghĩa) gia vị....
4. Can thận âm hư
Triệu chứng: liệt ½ người (liệt cứng hoặc liệt mềm), có hoặc không rối loạn ngôn ngữ, rối loạn cơ vòng, miệng
méo, ăn uống rơi đổ, tiểu đêm, táo bón, ngủ kém, nóng trong người, dễ bực dọc, bứt rứt, lưỡi đỏ bệu, mạch trầm
sác vô lực.
Phép trị: Tư âm tiềm dương, tư bổ can thận, hoạt huyết thông lạc.
Bài thuốc Trấn can tức phong thang (Y học trung trung tham tây lục) gia giảm….
5. Thận âm dương lưỡng hư
Triệu chứng: liệt ½ người (liệt cứng hoặc liệt mềm), có hoặc không rối loạn ngôn ngữ, rối loạn cơ vòng, miệng
méo, ăn uống rơi đổ, tiểu đêm, ngủ kém, không khát, ít uống nước, sợ lạnh, lưỡi nhạt bệu, mạch trầm nhược.
Phép trị: Ôn bổ thận dương.
Bài thuốc Hữu quy ẩm….
6. Đàm thấp
Triệu chứng: liệt ½ người (liệt cứng hoặc liệt mềm), có hoặc không rối loạn ngôn ngữ, rối loạn cơ vòng, miệng
méo, ăn uống rơi đổ, nặng đầu, người béo, thừa cân, lưỡi dày to, mạch hoạt.
Phép trị: Hóa đàm, trừ thấp, kiện tỳ, thông lạc.
Bài thuốc Nhị trần thang gia vị....
Hiện nay, khoa đang sử dụng một trong các loại thuốc sau để điều trị TBMMN sau giai đoạn cấp:
- Thang hoạt huyết dưỡng não (BV).
- Trà dưỡng thần tiêu độc ẩm 6g × 1 - 2 gói/ ngày, hãm uống. Phối hợp với Hoa đà tái tạo hoàn, Bổ khí thông huyết,
Dưỡng huyết thanh não, Tể lục vị, Tể thập toàn, Tể quy tỳ, Tể bổ trung, Mediphylamin, Mimosa,…
7. Phương pháp điều trị khác: Tùy tình hình bệnh, có thể sử dụng một hoặc phối hợp các phương pháp điều trị sau:
a. Châm cứu (hào châm, điện châm), 1 lần/ ngày, lưu kim 20 - 30 phút/lần. Chọn theo phương huyêt sau:
- Liệt tay: Kiên ngung, Kiên trinh, Kiên tỉnh, Khúc trì, Ngoại quan, Hợp cốc, Thủ tam lý, Thiên tông….
- Liệt chân: Giáp tích L4 - L5, Hoàn khiêu, Túc tam lý, Thừa sơn, Dương lăng tuyền, Giải khê, Thái xung, Tam âm
giao, Phong long, Huyền chung, Huyết hải ….
- Thất ngôn: Á môn, Thượng liêm tuyền…
- Liệt mặt: Ế phong, Quyền liêu, Giáp xa, Phong trì, Thái dương….
- Tiểu tiện không tự chủ: Trung cực, Quan nguyên, Tử cung, Khúc cốt.
- Đại tiện không tự chủ: Đại trường du, Trật biên, Thứ liêu…
b. Điện mãng châm : 1 lần/ ngày, lưu kim 20 - 30 phút/lần. Chọn theo phương huyêt sau:
- Thất ngôn, châm tả các huyệt: Á môn, Thượng liêm tuyền hướng lên gốc lưỡi, Ngoại kim tân, Ngoại ngọc dịch,
Bách hội.
- Liệt mặt, châm tả các huyệt:
Quyền liêu → Hạ quan
Địa thương → Giáp xa
Ế phong, Thừa tương
- Liệt tay, châm tả các huyệt:
Giáp tích C4 → C7
Đại chùy → Tích trung
Kiên ngung → Khúc trì
Kiên trinh → Cực tuyền
Khúc trì → Ngoại quan
Hợp cốc → Lao cung
Bát tà
- Liệt chân, châm tả các huyệt:
Giáp tích D12 → L5
Hoàn khiêu → Thừa phù
Trật biên → Thừa phù
Thừa sơn → Ủy trung
Tích trung → Yêu dương quan
Dương lăng tuyền → Huyền chung
Lương khâu → Bễ quan
Phi dương → Côn lôn
Giải khê → Khâu khư
Châm bổ:
Thận du → Bạch hoàn du
Thái khê → Trúc tân
Tam âm giao → Âm cốc
Huyết hải → Âm liêm
c. Thủy châm: Vitamin B12, 1000mcg, 1ml × 2 ống; Lidocain 2%, 2ml × 1 ống; 1lần/ ngày. Chọn phương huyệt
mục châm cứu.
d. Nhĩ châm: 1 lần/ ngày, lưu kim 20 - 30 phút/lần. Chọn huyệt trên loa tai như tuyến thượng thận, tâm, can, não…
e. Laser châm: 1 lần/ ngày. Chọn phương huyệt mục châm cứu.
f. Laser nội mạch: 30 phút/lần/ngày.
g. Cứu: (thể hàn), 10 - 20 phút/lần/ngày. Chọn phương huyệt mục châm cứu.
h. Cấy chỉ: Chọn phương huyệt mục châm cứu.
i. Xoa bóp bấm huyệt: Xoa bóp dùng các thủ thuật: Day, lăn, bóp, vờn, vận động, phát…kết hợp bấm huyệt: Chọn
phương huyệt mục châm cứu; 30 phút/lần/ ngày.
j. Xoa bóp bằng máy: Tùy theo vùng bệnh lý, 10 - 20 phút/ lần/ ngày.
k. Tập dưỡng sinh: Luyện thở, tập các động tác phù hợp với bệnh lý, 30 phút/lần/ngày.
l. Điện xung: Tay chân liệt 15 - 20 phút/lần/ngày.
m. Phục hồi chức năng: Tập 30 phút/lần/ngày.
- Trường hợp có kèm đau cứng khớp ở chi có thể phối hợp thêm siêu âm điều trị, bó parafin, chiếu sóng ngắn, chiếu
đèn hồng ngoại, chườm nóng,…