Professional Documents
Culture Documents
HÀ NỘI – 2019
BỘ Y TẾ BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN QUÂN Y
====== ======
FFR > 80% loại trừ thiếu máu cơ tim trong 90% các trường hợp.
1.1.4. Điều trị bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính
Mục tiêu điều trị bao gồm: (1) cải thiện tiên lượng bệnh (ngăn ngừa tử
vong và nhồi máu cơ tim) và (2) cải thiện triệu chứng cho người bệnh.
Hiện nay có 3 phương pháp điều trị cơ bản BTTMCBMT: điều trị nội
khoa, can thiệp động mạch vành qua da, phẫu thuật bắc cầu nối chủ vành.
Việc chỉ định phương pháp điều trị nào phụ thuộc vào tình trạng bệnh và
nên bắt đầu cũng như duy trì bằng điều trị nội khoa. Trong trường hợp điều trị
nội khoa thất bại hoặc bệnh nhân có nguy cơ cao trên các thăm dò thì cần có
chỉ định chụp ĐMV và can thiệp kịp thời.
1.2. Bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính ở bệnh nhân đái tháo đường typ
2
1.2.1. Dịch tễ học.
* Dịch tễ học bệnh đái tháo đường typ 2.
Đái tháo đường (ĐTĐ) là một bệnh rối loạn chuyển hoá đã được biết
đến từ lâu. Bệnh được Tổ chức Y tế thế giới (WHO) định nghĩa như sau:
"Bệnh ĐTĐ biểu hiện bởi sự tăng đường huyết và rối loạn chuyển hoá chất
đường, chất mỡ, chất đạm, thường kết hợp với sự giảm tuyệt đối hay tương
đối về tác dụng và/hay là tiết insulin".
Số lượng bệnh nhân (BN) ĐTĐ đang gia tăng một cách mạnh mẽ, đặc
biệt là ĐTĐ typ 2. Năm 2000 trên toàn thế giới có trên 171,2 triệu người
ĐTĐ, tính đến đầu năm 2010 con số này đã tăng lên 284,8 triệu người, chiếm
6,4% dân số. Dự báo đến năm 2030 số BN ĐTĐ trên toàn thế giới sẽ tăng
thêm 54,1 % và đạt tới trên 438,7 triệu người, chiếm 7,7% dân số, trong đó
ĐTĐ typ 2 chiếm tới trên 97%. Khu vực gia tăng mạnh nhất là Châu Á và
Châu Phi - là những nơi có các nền kinh tế đang phát triển [58].
Ở Việt Nam, theo điều tra tại Hà Nội năm 1990, tỉ lệ ĐTĐ ở người trên
15 tuổi là 1,2 %, tỷ lệ rối loạn dung nạp glucose là 1,6 % [50]. Tại Huế (1993-
1994) tỉ lệ ĐTĐ là 0,98% dân số, tại thành phố Hồ Chí Minh (1992-1993) là
2,68%. Theo số liệu tính đến năm 2010, cả nước có 1,647 triệu người ĐTĐ,
chiếm 2,9% dân số và dự báo đến năm 2030 con số này sẽ tăng tới 3,415 triệu
người, chiếm 4,4% dân số. Trung bình mỗi năm số lượng BN ĐTĐ sẽ tăng
thêm khoảng 88.000 người [58]. Theo thống kê của Tạ Văn Bình, trong số các
BN ĐTĐ của Việt Nam thì có tới 91,8% là ĐTĐ typ 2.
Để chẩn đoán chắc chắn một BN là ĐTĐ typ 2 cần phải có các bằng
chứng chứng minh BN không phải là ĐTĐ typ 1 và các typ đặc biệt khác [2].
Cụ thể: tự kháng thể kháng tế bào β (islet cell autoantibodies - ICA) âm tính,
tự kháng thể kháng insulin (autoantibodies to insulin - AI) âm tính, tự kháng
thể kháng glutamic acid decarboxylase (anti-GAD) âm tính, tự kháng thể
kháng tyrosine phosphatases (IA-2 và IA-2β) âm tính, ...Đây là một công việc
vô cùng khó khăn, phức tạp và không thực sự cần thiết bởi trong số các BN
ĐTĐ thì ĐTĐ typ 2 đã chiếm tới trên 97% [58]. Vì vậy trong thực hành lâm
sàng cho đến nay người ta dựa vào các đặc điểm lâm sàng để phân loại một
BN là ĐTĐ typ 2 [25].
* Bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính ở bệnh nhân đái tháo đường typ
2.
Liên quan giữa ĐTĐ và BTTMCBMT đã được giới y học bắt đầu nhận
ra từ rất sớm – vào năm 1883 – khi người ta tiến hành làm xét nghiệm glucose
trong nước tiểu của các BN đau thắt ngực. Tuy nhiên, mãi đến cuối những
năm 1950 người ta mới chính thức khẳng định ĐTĐ là một nhân tố quan
trọng trong nguy cơ mắc và tử vong do BTTMCBMT [26].
Qua rất nhiều nghiên cứu tại nhiều trung tâm khác nhau người ta nhận
thấy rằng nguy cơ bị BTTMCBMT ở BN ĐTĐ typ 2 tăng gấp 2-4 lần so với
người không có ĐTĐ [44], [65], [38], [6]. Trong khi tỷ lệ BTTMCBMT trong
dân cư nói chung là 2-4% thì tỷ lệ này ở BN ĐTĐ tăng lên một cách đáng kể
tới 55% [13].
Đặc điểm tổn thương ĐMV ở BN ĐTĐ typ 2 là mức độ hẹp vừa phải
nhưng lại rất lan toả, phức tạp, hệ thống tuần hoàn bàng hệ nghèo nàn. Vì vậy
BTTMCBMT ở BN ĐTĐ thường nặng nề hơn, việc can thiệp cũng khó khăn
hơn rất nhiều song về hiệu quả thì ngược lại, có nhiều hạn chế hơn so với
người không có ĐTĐ. Nghiều nghiên cứu cho thấy tỷ lệ tái hẹp ĐMV sau
nong bằng bóng ở người ĐTĐ cao gấp đôi so với người không có ĐTĐ [13].
Nguy cơ NMCT ở một người ĐTĐ chưa từng bị NMCT được cho là tương
đương với nguy cơ NMCT của một người không có ĐTĐ đã từng NMCT trước
đó [13]. Tỷ lệ tử vong do NMCT ở BN ĐTĐ cũng luôn cao hơn so với người
bình thường, có thể tới 1,4 lần [10]. Trong một nghiên cứu khác thực hiện trên
10.484 BN, tỷ lệ này còn cao hơn, tới 1,6 lần ở người ĐTĐ so với người không có
ĐTĐ [19]. Thậm chí một nghiên cứu gần đây trên 3824 BN đã công bố tỷ lệ tử
vong trong vòng 7 ngày do NMCT cấp ở người ĐTĐ cao hơn tới 2,11 lần so với
người không có ĐTĐ (95%, CI=1,80-2,46; p<0,001) [3].
1.2.2. Sinh bệnh học xơ vữa động mạch ở bệnh nhân đái tháo đường typ2.
Tình trạng chuyển hoá bất thường đi cùng với ĐTĐ chính là nguyên
nhân dẫn đến các rối loạn chức năng mạch máu ở các BN ĐTĐ. Các bất
thường này bao gồm: tăng glucose máu mạn tính, rối loạn lipid máu (RLLP)
và kháng insulin. Các bất thường này gây rối loạn chức năng nhiều loại tế
bào, bao gồm: tế bào nội mạc, tế bào cơ trơn thành mạch, tiểu cầu và từ đó
dần dần dẫn tới hậu quả là quá trình xơ vữa mạch máu [27].
+ Rối loạn chức năng tế bào nội mô.
Lót bên trong toàn bộ hệ thống mạch máu là một lớp tế bào nội mô –
đó chính là nội mạc mạch. Lớp tế bào này tạo thành một giao diện trao đổi
chất giữa máu và tổ chức, nó có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc điều
hoà dòng chảy, sự vận chuyển chất dinh dưỡng, quá trình đông cầm máu và
sự xuyên mạch của tế bào bạch cầu. Các tế bào này sản xuất các chất có hoạt
tính sinh học quan trọng bao gồm: nitric oxide (NO), một số loại oxy phản
ứng đặc biệt, prostaglandin, endothelin và angiotensin II để điều hoà cấu trúc
và chức năng bình thường của mạch máu. Nitric oxide có tác dụng chủ yếu là
giãn mạch và bên cạnh đó còn có tác dụng ức chế kích hoạt tiểu cầu, hạn chế
quá trình viêm bằng cách làm giảm kết dính bạch cầu vào nội mạc, giảm quá
trình xâm nhập của bạch cầu vào thành mạch. NO còn ức chế quá trình tăng
sinh và dịch chuyển của tế bào cơ trơn thành mạch. Tất cả các quá trình trên
tạo nên vai trò ức chế sự hình thành xơ vữa và bảo vệ mạch máu của NO.
Người ta thấy có nhiều cơ chế làm giảm sinh khả dụng của nội mạc
mạch liên quan đến NO ở BN ĐTĐ. Quá trình tăng glucose máu làm ức chế
sản xuất NO bằng cách ngăn chặn hoạt động của men eNOS-synthase hoạt
hoá, tăng sản xuất các oxy phản ứng đặc biệt - nhất là O2- (superoxide anion) -
trong tế bào nội mô và tế bào cơ trơn thành mạch. O2- có khả năng bất hoạt
NO một cách trực tiếp bằng cách sản xuất ra các ion peroxynitrite gây độc.
Một bất thường khác rất phổ biến ở BN ĐTĐ typ 2 đó là sự suy giảm
NO có nguồn gốc nội mạc. Sự đề kháng insulin dẫn đến sản xuất quá mức các
acid béo tự do từ mô mỡ dẫn đến hoạt hoá các men protein kinase C tín hiệu,
ức chế phosphatidylinositol-3 (PI-3) kinase, tăng sản xuất các oxy phản ứng
đặc biệt. Từ đó dẫn đến giảm sản xuất NO một cách trực tiếp hoặc giảm tác
dụng của NO.
Đồng thời với giảm sản xuất NO, ĐTĐ còn làm tăng sản xuất các chất
co mạch, trong đó đặc biệt quan trọng là endothelin-1 - một chất có tác dụng
hoạt hoá thụ thể endothelin-A trên tế bào cơ trơn thành mạch dẫn đến co
mạch. Ngoài ra, endothelin-1 còn có tác dụng làm tăng tái hấp thu nước, điện
giải tại thận, kích thích hệ thống renin-angiotensin, tăng sự phì đại của cơ trơn
thành mạch. ĐTĐ còn làm tăng các chất co mạch phụ thuộc nội mạc khác như
yếu tố co mạch prostanoids và angiotensin II.
Thông qua việc làm giảm NO, tăng các stress oxy hoá và thụ thể AGEs
hoạt động, hiện tượng tăng glucose máu đã làm tăng kích hoạt các yếu tố sao
mã của yếu tố nhân kB và protein-1 hoạt động. Các yếu tố này điều hoà sự
biểu hiện của gene mã hoá một số khâu trung gian của quá trình xơ vữa.
Người ta còn tìm thấy các yếu tố tiền viêm, các phân tử bám dính bạch cầu
lên bề mặt nội mạc, các chất hấp dẫn bạch cầu (ví dụ các potein hấp dẫn bạch
cầu đơn nhân). Các thành phần này giúp cho các bạch cầu lympho và mono
xâm nhập vào thành mạch dễ dàng.
Ở BN ĐTĐ còn rất phổ biến tình trạng xuất hiện các thành phần lipid
bất thường (ví dụ VLDL-C), sự phóng thích quá mức các acid béo tự do và
yếu tố nhân kB nội mạc, và tiếp theo đó là các phân tử bám dính tế bào và sự
biểu hiện của các cytokine.
ĐTĐ không những đóng góp vào sự khởi đầu của quá trình xơ vữa mà
còn làm cho các MXV không ổn định và dẫn đến các biến cố lâm sàng. Tế
bào nội mô của BN ĐTĐ có khả năng sản xuất các cytokine có tác dụng làm
giảm sản xuất collagen. Bên cạnh đó, ĐTĐ còn làm tăng sản xuất men tiêu
huỷ collagen. Chính vì vậy làm cho lớp vỏ xơ ở bề mặt MXV bị phá huỷ và
MXV trở nên không ổn định, dễ nứt vỡ. Ở BN ĐTĐ, các tế bào nội mô còn
tăng sản xuất yếu tố mô, các yếu tố tiền đông máu. Tất cả các yếu tố đó làm
thúc đẩy nguy cơ xuất hiện biến cố ở BN ĐTĐ.
+ Rối loạn chức năng tế bào cơ trơn thành mạch.
Hệ thống mạch máu dưới tác động của ĐTĐ và xơ vữa thường xuất
hiện tình trạng rối loạn chức năng vận mạch. Ở BN ĐTĐ typ 2 người ta
thường tìm thấy bằng chứng của tình trạng rối loạn khả năng co mạch liên
quan đến NO, bất thường về chức năng của tế bào cơ trơn thành mạch. Các
BN này cũng thường có rối loạn khả năng co thắt mạch liên quan đến
endothelin-1 và angiotensin, rối loạn hệ thần kinh tự động. Tuy nhiên, mặc dù
tìm thấy sự có mặt của endothelin-1 và angiotensin II cũng như những bất
thường trong hoạt động của hệ thống thần kinh tự động nhưng cơ chế của
những rối loạn của tế bào cơ trơn thành mạch cũng cần được tìm hiểu thêm
rất nhiều.
ĐTĐ kích thích các hoạt động gây xơ vữa của tế bào cơ trơn thành
mạch. Người ta nhận thấy chính hiện tượng tăng glucose máu đã kích hoạt
protein kinase C, thụ thể của AGEs, yếu tố nhân kB ở tế bào cơ trơn thành
mạch cũng như tế bào nội mô.
Tế bào cơ trơn thành mạch là thành phần không thể thiếu của quá trình
XVĐM. Một khi các tế bào đại thực bào với nhiều vệt mỡ và các tế bào cơ
trơn thành mạch dịch chuyển từ lớp trung mạc ra lớp nội mạc và tăng sinh ở
đó thì đó là dấu hiệu đánh dấu một bước tiến triển quan trọng của MXV. Các
tế bào cơ trơn tăng sinh làm cho MXV ổn định hơn, giảm nguy cơ vị vỡ và
gây huyết khối. Ở BN ĐTĐ các MXV có xu hướng ít tế bào cơ trơn hơn và
không ổn định, dễ gây các biến cố lâm sàng.
+ Rối loạn chức năng tiểu cầu.
Tiểu cầu có khả năng tham gia vào việc điều chỉnh chức năng mạch
máu. Những bất thường về chức năng của tiểu cầu có thể ảnh hưởng trực tiếp
đến sự tiến triển của quá trình xơ vữa ĐM cũng như hậu quả của sự nứt vỡ
MXV. Glucose có khả năng đi vào trong tế bào tiểu cầu mà không phụ thuộc
vào insulin và nồng độ glucose trong tế bào tiểu cầu phản ánh một cách trung
thực nồng độ glucose ở ngoại bào. Cũng giống như tế bào nội mô, nồng độ
cao của glucose ở bên trong tế bào tiểu cầu sẽ kích hoạt protein kinase C,
giảm sản xuất NO phụ thuộc vào tiểu cầu, tăng sản xuất O2-.
Ở BN ĐTĐ người ta còn nhận thấy có sự rối loạn cân bằng nồng độ
calci trong tế bào tiểu cầu. Điều này góp phần đáng kể vào việc làm thay đổi
hình dạng, hoạt động bài tiết hoạt chất cũng như khả năng kết tập tiểu cầu.
Hơn nữa, BN ĐTĐ thường có tăng biểu lộ yếu tố glycoprotein Ib (GpIb) trên
bề mặt tiểu cầu do đó làm tăng gắn kết với yếu tố von Willebrand và yếu tố
GpIIb/IIIa. Điều đó làm ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động bình thường của
hệ thống tiểu cầu – fibrin. Những bất thường này còn có thể là hậu quả của
hiện tượng giảm sản xuất yếu tố kết tập NO và prostacyclin, tăng sản xuất
fibrinogen, tăng sản xuất yếu tố hoạt hoá tiểu cầu (ví dụ: thrombin, von
Willebrand). Như vậy ĐTĐ vừa làm tăng kích hoạt tiểu cầu từ bên trong vừa
làm giảm ức chế nội sinh hoạt động của tiểu cầu. Những cơ chế này có thể
giải thích cho hiện tượng tăng nguy cơ huyết khối ở các BN ĐTĐ.
+ Đông máu bất thường trong đái tháo đường.
ĐTĐ có thể gây hiện tượng tăng đông và làm cho các MXV dễ nứt vỡ
và hình thành cục máu đông trong lòng mạch. Ở các BN ĐTĐ typ 2 còn có
giảm phân huỷ fibrin do tăng tập trung yếu tố kích hoạt plasminogen typ 1.
Các BN ĐTĐ cũng cho thấy hiện tượng tăng biểu lộ yếu tố mô (một yếu tố
trợ đông), một số yếu tố đông máu huyết tương như yếu tố VII và giảm nồng
độ yếu tố chống đông nội sinh như: antithrombin III, protein C.
* Diễn biến tự nhiên của mảng xơ vữa.
MXV có thể xuất hiện từ rất sớm ngay từ thập niên đầu tiên của đời
người. Cùng với thời gian và tác động của một loạt các yếu tố nội sinh cũng
như ngoại sinh, MXV lớn dần cả về bề rộng cũng như bề dày. Mỗi một giai
đoạn tiến triển của MXV đều có những cơ chế tác động khác nhau. Hội tim
Mỹ đã phân loại sự tiến triển của MXV thành 5 typ với các cơ chế tổn thương
khác nhau theo thời gian, từ nhẹ đến nặng.
Thông thường MXV tiển triển tuần tự từ typ I đến typ VI, tuy nhiên
trong một số trường hợp, một MXV mới ở dạng vữa thôi (typ IV) cũng có thể
gây biến chứng (typ VI). Trong nhiều trường hợp khác, một MXV có thể tiến
triển đến giai đoạn cuối cùng mà không hề gây một triệu chứng lâm sàng nào.
Đó chính là các trường hợp NMCT thầm lặng rất hay gặp ở các BN ĐTĐ.
* Sự lắng đọng calci trong động mạch vành.
Sự calci hoá XVĐM bắt đầu hình thành sớm trong thập kỉ thứ hai của
cuộc đời, thậm chí còn sớm hơn nữa. Dưới kính hiển vi, tổn thương ở người
trẻ có tập hợp nhiều tinh thể calci trong nhân lipid, lắng đọng calci tìm thấy
nhiều hơn ở nhóm người cao tuổi và nhiều tổn thương phức tạp. Calcium
phosphate (Hydroxyapatite, Ca3[-PO4]2-xCa[OH]2) là apatite chính được tìm
thấy trong các MXV giống các hợp chất trong sự tạo và sửa chữa xương.
Kính hiển vi điện tử xác định quá trình lắng đọng tinh thể calci bắt đầu từ một
lượng nhỏ trong tế bào thành ĐM, tương tự như trong sụn xương. Bên cạnh
đó, các tế bào bọt chết với các lõi lipid cũng góp phần tích cực trong sự lắng
đọng calci.
Với những chứng cứ tìm được người ta cho rằng: XVĐM calci hoá
không đơn thuần là bám thụ động mà là một điều hoà có trật tự như quá trình
tạo xương. Gần đây một số nghiên cứu di truyền học với sự tạo calci trong
thành ĐM đã lần đầu tiên chỉ ra rằng có một gen chi phối trong tổn thương
này. [30],[54].
1.3. Các nghiên cứu trong và ngoài nước
Tác giả Bùi Minh Trạng nghiên cứu năm 2010 nghiên cứu hình ảnh
chụp mạch vành ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 có nhồi máu cơ tim cấp
cho thấy mức độ tổn thương mạch vành có tính chất phức tạp hơn so với
nhóm không bị đái tháo đường. Bệnh nhân bị đái tháo đường có tổn thương cả
3 nhánh mạch vành chiếm tỷ lệ khá cao lên tới 33,9%, trong đó tổn thương
typ C chiếm tới 44,5% [8].
Tỷ lệ bệnh nhân bị đái tháo đường có hẹp động mạch vành có tỷ lệ khá
cao. Trên kết quả chụp cắt lớp vi tính 64 dãy, tác giả Nguyễn Văn Công thu
được 35% bệnh nhân có hẹp động mạch vành. Trong đó, có tới 20,6% bệnh
nhân nghiên cứu có tổn thương tại 2 nhánh động mạch vành [43].
Năm 2000, Natali và cộng sự báo cáo kết quả nghiên cứu của họ khi
theo dõi các bệnh nhân được chụp động mạch vành qua da trong một thập kỷ
(1983 – 1992). Các tác giả nhận thấy bất thường động mạch vành (hẹp ≥
50%) thường gặp hơn ở bệnh nhân đái tháo đường so với bệnh nhân không
đái tháo đường (85% so với 67%, p < 0,0001), tỷ lệ tổn thương 3 nhánh động
mạch vành ở bệnh nhân đái tháo đường cũng cao hơn (36% so với 17%, p <
0,0001). Trong thời gian theo dõi trung bình 88 tháng, có 19% bệnh nhân đái
tháo đường đường so với 10% bệnh nhân không mắc bệnh đái tháo đường
chết vì nguyên nhân do tim [36].
Đến năm 2002, Tong-gou Wu và cộng sự đã nghiên cứu đặc điểm chụp
mạch vành ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 cho thấy: bệnh nhân đái tháo
đường typ 2 tổn thương nhiều mạch hơn chiếm 48,7%; tổn thương nhiều đoạn
hơn chiếm 64,9%; tổn thương lan tỏa hơn chiếm 51,4% và tổn thương nhiều
mạch máu nhỏ hơn với tỷ lệ lên tới 95,2%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
khi so sánh với nhóm bệnh nhân không bị đái tháo đường [67].
Scognamiglio và cộng sự (2006) nghiên cứu trên 1899 bệnh nhân đái
tháo đường không triệu chứng (≤60 tuổi). Các bệnh nhân được chia làm 2
nhóm, nhóm A có 1121 bệnh nhân có nhiều hơn 2 yếu tố nguy cơ của bệnh
mạch vành, nhóm B có 778 bệnh nhân có ít hơn 1 yếu tố nguy cơ. Tất cả các
bệnh nhân được làm siêu âm tim gắng sức với dipyridamole và chụp động
mạch vành. Tác giả ghi nhận nhóm bệnh nhân đái tháo đường có kèm theo
nhiều yếu tố nguy cơ tim mạch có tỷ lệ tổn thương 3 nhánh động mạch vành
cao hơn (33,3% so với 7,6%, p < 0,001), tỷ lệ tổn thương lan toả động mạch
vành cao hơn (54,9% so với 18%, p < 0,001) và tỷ lệ tắc hoàn toàn mạn tính
động mạch vành cao hơn (31,2% so với 3,8%, p < 0,001). Theo tác giả, 45%
bệnh nhân đái tháo đường có kèm theo nhiều yếu tố nguy cơ tim mạch (nhóm
A) có giải phẫu động mạch vành không phù hợp cho tái thông động mạch
vành qua đường ống thông [59].
Trong thử nghiệm TAMI (1993), Granger và cộng sự nghiên cứu trên
148 bệnh nhân nhồi máu cơ tim có đái tháo đường và 923 bệnh nhân nhồi
máu cơ tim không có đái tháo đường cho kết quả bệnh nhân đái tháo đường bị
tổn thương nhiều nhánh mạch vành với tỷ lệ 66% so với tỷ lệ 46% tổn thương
nhiều nhánh động mạch vành ở bệnh nhân không đái tháo đường (p <
0,0001). Bệnh nhân đái tháo đường có tỷ lệ tử vong tại bệnh viện gần gấp đôi
(11% so với 6%, p < 0,02) và tỷ lệ phù phổi cao hơn (11% so với 4%, p =
0,001) so với bệnh nhân không đái tháo đường [20].
Norhammar A nghiên cứu 299 bệnh nhân đái tháo đường được chụp
mạch vành thu được tổn thương 3 thân mạch vành ở bệnh nhân đái tháo
đường chiếm tỷ lệ 42% cao hơn có ý nghĩa so với tỷ lệ 31% ở nhóm bệnh
nhân không có đái tháo đường. Tỷ lệ tử vong và tái nhồi máu cơ tim sau 12
tháng chiếm tỷ lệ cao hơn ở nhóm bị đái tháo đường so với nhóm bệnh nhân
không bị đái tháo đường [36].
Tahir Sleem và cộng sự khi nghiên cứu về mức độ hẹp ĐMV bằng
thang điểm Gensini ở 110 bệnh nhân NMCT cấp (trong đó có 78 BN ĐTĐ)
cho thấy: có tới 93,58% bệnh nhân NMCT kèm ĐTĐ có mức HbA1C > 7 %
và tỷ lệ HbA1C có tương quan thuận với điểm Gensini (r = 0,427; p = 0,001)
[62]
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu:
115 bệnh nhân được chẩn đoán bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính được
chia làm 2 nhóm có kèm đái tháo đường và không kèm đái tháo đường được
điều trị tại Bệnh viện Tim Hà Nội thời gian từ tháng 9/2018 đến tháng 3/2019.
2.1.1. Nhóm bệnh nhân bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính có đái tháo
đường
2.1.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân
- Được chẩn đoán bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính theo khuyến cáo
của Hội Tim mạch học Việt Nam 2008 [22].
- Được chẩn đoán đái tháo đường theo khuyến cáo của Hội Đái tháo
đường Hoa Kỳ (ADA) 2016 [8].
- Tất cả bệnh nhân đều được chụp động mạch vành qua da và có tổn
thương hẹp ≥ 50% đường kính lòng mạch.
2.1.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Đang có suy tim sung huyết nặng, suy gan, suy thận.
- Có thai hoặc đang có kinh nguyệt.
- Đái tháo đường thứ phát sau một số bệnh lý nội khoa hoặc nội tiết.
- Đang trong bệnh cảnh cấp tính như: nhiễm khuẩn huyết, hôn mê
chuyển hóa hay nguyên nhân khác.
- Tiền sử phản ứng quá mẫn với thuốc cản quang có Iod.
- Đã phẫu thuật bắc cầu nối chủ vành trước đó, đã đặt stent.
2.1.2. Nhóm bệnh nhân bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính không đái
tháo đường
2.1.2.1. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân
- Được chẩn đoán bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính theo khuyến cáo
của Hội Tim mạch học Việt Nam 2008.
- Không bị đái tháo đường. Không dùng bất kỳ một loại thuốc nào điều
trị hạ đường huyết.
- Tất cả bệnh nhân đều được chụp động mạch vành qua da và có tổn
thương hẹp ≥ 50% đường kính lòng mạch.
2.1.2.2. Tiêu chuẩn loại trừ
+ Những người không đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: tiến cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
2.2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Đơn vị Can thiệp tim mạch Bệnh viện Tim Hà Nội.
- Thời gian từ tháng 09 năm 2018 đến tháng 03 năm 2019.
2.2.3. Nội dung nghiên cứu
- Các yếu tố nguy cơ:
+ Hút thuốc lá
+ Nghiện rượu
- Các đặc điểm nhân trắc:
+ Chiều cao (tính bằng mét)
+ Cân nặng (tính bằng kg)
+ Vòng bụng (tính bằng cm)
+ Vòng mông (tính bằng cm)
+ Chỉ số khối cơ thể (BMI)
- Các triệu chứng lâm sàng:
+ Đau ngực
+ Hồi hộp đánh trống ngực
+ Khó thở
+ Ngất, xỉu
+ Tần số tim
+ Huyết áp
+ Các triệu chứng lâm sàng khác
- Các đặc điểm cận lâm sàng
+ Xét nghiệm máu: glucose, HbA1c, ure, creatinine, điện giải,
cholesterol, triglyceride, LDL-c, HDL-c, GOT, GPT, CK, CK-MB,
Troponin.
+ Điện tim: nhịp, tần số, biến đổi đoạn ST, sóng T, các rối loạn nhịp.
+ Siêu âm tim: kích thước các buồng tim, thể tích thất trái, phân suất
tống máu thất trái, rối loạn vận động vùng.
- Chụp động mạch vành qua da:
+ Vị trí tổn thương
+ Số lượng nhánh tổn thương
+ Mức độ hẹp
+ Phân loại tổn thương theo AHA và SCAI
2.2.4. Các bước tiến hành
2.2.4.1. Hỏi bệnh và khám lâm sàng
- Hỏi bệnh: phát hiện triệu chứng cơ năng: mệt mỏi, đau đầu, khó thở,
đau ngực… và các yếu tố nguy cơ: hút thuốc lá, uống rượu…
- Khám toàn diện: tim mạch, hô hấp, tiêu hoá, tiết niệu, cơ xương
khớp…
2.2.4.2. Xét nghiệm cận lâm sàng:
+ Sinh hóa máu
+ Công thức máu
+ Điện tâm đồ 12 chuyển đạo lúc nghỉ.
+ Siêu âm Doppler màu tim
2.2.4.3. Chụp động mạch vành qua da
- Địa điểm: Đơn vị can thiệp tim mạch Bệnh viện Tim Hà Nội.
- Trang thiết bị và dụng cụ:
Máy chụp mạch: Máy chụp mạch số hóa xóa nền của hãng GE
Dụng cụ chụp động mạch vành: Sheath cỡ 5F - 6F; Ống thông chụp
ĐMV (catheter) Outlook, JR, JL cỡ 5F – 6F; Dây dẫn đầu mềm cỡ 0,035 inch,
dài 145 cm.
- Thuốc sử dụng: Thuốc cản quang Xenetic 300mg; Heparin;
Nitroglycerin.
- Chỉ định chụp động mạch vành qua da:
+ Nhồi máu cơ tim cấp có ST chênh lên.
+ Đau ngực không ổn định và nhồi máu cơ tim không ST chênh lên.
+ Đau thắt ngực ổn định: chụp ĐMV nhằm mục đích xét can thiệp khi
các thăm dò không xâm lấn thấy nguy cơ cao hoặc vùng thiếu máu cơ tim
rộng, hoặc người bệnh đã được điều trị tối ưu nội khoa không khống chế được
triệu chứng.
+ Những người bệnh nghi ngờ có bệnh mạch vành hoặc đã biết trước
bệnh mạch vành trước đó.
+ Chụp động mạch vành kiểm tra trước phẫu thuật tim, mạch máu lớn ở
người lớn tuổi (nam > 45; nữ > 50).
+ Chụp động mạch vành kiểm tra trước những phẫu thuật không phải tim
mạch ở những người bệnh nghi ngờ bệnh mạch vành.
+ Sau cấp cứu ngừng tuần hoàn ngoài bệnh viện.
+ Đau ngực tái phát sau can thiệp động mạch vành hoặc sau phẫu thuật
làm cầu nối chủ vành.
+ Suy tim không rõ nguyên nhân.
+ Chụp động mạch vành kiểm tra những bất thường động mạch vành
được phát hiện trên chụp cắt lớp vi tính đa dãy động mạch vành.
+ Những người bệnh có rối loạn nhịp tim nguy hiểm (nhịp nhanh thất,
block nhĩ thất,…)
+ Một số trường hợp đặc biệt khác (nghề nghiệp, lối sống nguy cơ cao,
kết hợp thăm dò khác).
Bệnh lý ngoài tim làm bệnh nhân không ham muốn sống.
Bệnh động mạch nặng hạn chế khả năng xâm nhập mạch máu.
Bệnh viêm nội tâm mạc bán cấp van động mạch chủ.
- Kỹ thuật:
Đường vào động mạch: Sheath được đặt tại vị trí đường vào là động
mạch quay hoặc động mạch đùi.
Chụp chọn lọc hệ thống động mạch vành trái và động mạch vành phải
theo các bình diện khác nhau.
- Đánh giá:
Mức độ hẹp của động mạch vành (theo phần mềm Stenosis Analysis có
sẵn trên máy).
Mức hẹp ĐMV được tính Mức hẹp (%) = [(Dn- Ds)/ Dn] x 100%.
Trong đó: Dn là đường kính đoạn mạch bình thường trước đó; Ds là đường
kính đoạn mạch hẹp nhất [11].
Phân độ hẹp [23], [47],:
0: Không hẹp.
1: Thành mạch không đồng đều, nhưng không hẹp khẩu kính.
2: Hẹp không có ý nghĩa khi hẹp khẩu kính < 50%.
3: Hẹp có ý nghĩa khi hẹp khẩu kính từ 50 - 75%.
4: Hẹp khít khi hẹp khẩu kính từ 75 - 95%.
5: Hẹp rất khít khi gần như toàn bộ khẩu kính từ 95 - 100% kèm ứ đọng
thuốc cản quang trước chỗ hẹp.
6: Tắc hoàn toàn có tuần hoàn bàng hệ.
7: Tắc hoàn toàn không có tuần hoàn bàng hệ.
Phân loại mức độ tổn thương theo ACC/AHA và SCAI
2.3. Các tiêu chuẩn dùng trong nghiên cứu
2.3.1. Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính:
Theo Khuyến cáo 2008 của Hội Tim mạch học Việt Nam về xử trí
Bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính [20].
- Lâm sàng: Có cơn đau thắt ngực với các đặc điểm: (1) đau thắt chẹn
sau xương ức với tính chất và thời gian điển hình; (2) xuất hiện khi gắng sức
hoặc xúc cảm và (3) đỡ đau khi nghỉ hoặc dùng nitrates.
- Điện tâm đồ: có đoạn ST chênh xuống hoặc có sóng Q (nhồi máu cơ
tim cũ) hoặc có sóng T âm [41], [63].
- Nghiệm pháp gắng sức điện tâm đồ: có kết quả dương tính.
- Siêu âm tim: có rối loạn vận động vùng.
- Chụp động mạch vành qua da: có hẹp ≥ 50% đường kính ít nhất một
nhánh động mạch vành. Đây là tiêu chuẩn chẩn đoán xác định.
Tất cả các bệnh nhân trong nghiên cứu này đều được chẩn đoán xác
định bằng phương pháp chụp động mạch vành qua da.
2.3.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán đái tháo đường
Chẩn đoán đái tháo đường tiêu chuẩn của Hội Đái tháo đường Hoa Kỳ
(ADA) năm 2016 [7].
- HbA1c ≥ 6,5% hoặc
- Glucose huyết tương tĩnh mạch lúc đói ≥ 7,0 mmol/l hoặc
- Glucose huyết tương tĩnh mạch bất kỳ ≥ 11,1 mmol/l kèm triệu chứng
lâm sàng cổ điển của tăng glucose máu.
- Glucose huyết tương tĩnh mạch sau làm nghiệm pháp dung nạp glucose
theo têu chuẩn của WHO ≥ 11,1 mmol/l.
Chẩn đoán xác định với xét nghiệm lặp lại lần thứ 2 (ngay sau), thỏa
mãn 1 trong 4 tiêu chuẩn trên.
2.3.3. Tiêu chuẩn chẩn đoán tăng huyết áp
Chẩn đoán Tăng huyết áp theo khuyến cáo của Hội Tim mạch Việt
Nam năm 2018. Tăng huyết áp khi huyết áp tâm thu ≥ 140 mmHg và/hoặc
huyết áp tâm trương ≥ 90 mmHg.
Phân loại HA tâm thu (mmHg) HA tâm trương (mmHg)
THA độ I 140-159 90 – 99
Béo độ 2 ≥ 30
(n = 59) (n = 56)
30.50%
69.50%
Nam Nữ
Biểu đồ 3.1. Phân bố nhóm đái tháo đường theo giới (n =59)
* Nhận xét
- Tỷ lệ nam giới ĐTĐ chiếm 69,5%, nữ giới ĐTĐ chiếm 30,5%.
Bảng 3.2. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo nhóm tuổi (n=115)
51.80%
50.00%
44.10%
39.00%
40.00%
32.10%
30.00%
20.00%
16.90% 16.10%
10.00%
0.00%
ĐTĐ Không ĐTĐ
< 60 60 - 69 ≥ 70
Biểu đồ 3.2. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo nhóm tuổi (n=115)
Bảng 3.3. Một số yếu tố nguy cơ của đối tượng nghiên cứu (n=115)
48.20%
50.00%
44.10%
30.00%
18.60%
20.00% 16.10%
10.00%
1.70% 0
0.00%
BMI < 23 BMI 23 – 24,9 BMI 25 – 29,9 BMI ≥ 30
3.1.2. Một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân BTTMCB có
đái tháo đường
3.1.2.1. Một số đặc điểm lâm sàng
Bảng 3.5. Một số triệu chứng cơ năng của đối tượng nghiên cứu (n=115)
* Nhận xét
- Một số triệu chứng lâm sàng trên bệnh nhân đái tháo đường được
chụp mạch vành gồm có biểu hiện đau ngực 67,8%; có biểu hiện khó thở
52,5%.
Triệu chứng đau ngực ở BN ĐTĐ gặp với tỷ lệ thấp hơn nhóm không
ĐTĐ, sự khác biệt có ý nghĩa với p < 0,05. Triệu chứng khó thở gặp với tỷ lệ
cao hơn tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa với p > 0,05.
CCS IV
10% CCS I
20%
CCS II
15%
CCS III
55%
Biểu đồ 3.4. Phân độ theo CCS ở bệnh nhân đái tháo đường có đau ngực
(n=40)
* Nhận xét
Ở nhóm BN ĐTĐ có đau ngực, CCS III chiếm tỷ lệ cao nhất 55%, CCS IV
chiếm tỷ lệ thấp nhất 10%.
Bảng 3.6. Đặc điểm tần số tim và huyết áp khi nhập viện của đối tượng
nghiên cứu (n=115)
ĐT Nhóm ĐTĐ Nhóm không ĐTĐ
(n = 59) (n = 56) P
Thông số �
X ± SD hoặc n (%) �
X ± SD hoặc n (%)
Tần số tim (ck/p) 78,9 ± 14,1 76,3 ± 13,4 > 0,05
≤ 6,5 3 5,1
HbA1c (%)
> 6,5 56 94,9
Tổng 59 100
* Nhận xét
- Mức độ kiểm soát glucose máu của đối tượng đái tháo đường: theo
glucose máu lúc đói < 7 mmol/l, tỷ lệ kiểm soát tốt 10,2%; theo chỉ số HbA1c
≤ 6,5 %; kiểm soát tốt chỉ chiếm 5,1%.
5,1%
94,9%
Biểu đồ 3.5. Tỷ lệ kiểm soát glucose máu theo HbA1c ở bệnh nhân đái tháo
đường (n=59)
Bảng 3.9. Mức độ kiểm soát đường máu theo giới ở bệnh nhân
đái tháo đường (n=59)
Nam Nữ
ĐT
(n = 41) (n = 18) P
Xét nghiệm
n % n %
Glucose lúc đói <7 5 12,2 1 5,6
> 0,05
(mmo/l) ≥7 36 87,8 17 94,4
≤ 6,5 2 4,9 1 5,6
HbA1c (%) > 0,05
> 6,5 39 95,1 17 94,4
Tổng 41 100 18 100
* Nhận xét
- Với tiêu chuẩn kiểm soát đường máu lúc đói G0 ≥ 7 mmol/l, tỷ lệ bệnh
nhân nam giới đạt được mục tiêu là 12,2%, cao hơn nữ giới 5,6%, tuy nhiên
sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05)
- Với tiêu chuẩn HbA1c > 6,5%, tỷ lệ kiểm soát tốt ở nam và nữ không
có sự khác biệt (p > 0,05)
95.10% 94.40%
4.90% 5.60%
Nam Nữ
Biểu đồ 3.6. Tỷ lệ kiểm soát glucose máu theo HbA1c của nhóm nam và nữ
mắc đái tháo đường (n=59)
Bảng 3.10. Biến đổi điện tim của bệnh nhân nghiên cứu
Có (< 50
10 16,9 14 25,0
%)
Giảm EF > 0,05
Không (≥
49 83,1 42 75,0
50 %)
10.20% 8.50%
81.30%
Hẹp mức độ vừa Hẹp khít - rất khít Tắc hoàn toàn (CTO)
Biểu đồ 3.7. Mức độ tổn thương ĐMV ở bệnh nhân đái tháo đường (n=59)
Bảng 3.13. Số lượng nhánh ĐMV bị tổn thương của đối tượng nghiên cứu
Nhóm không
ĐT Nhóm ĐTĐ
ĐTĐ
(n = 59) P
(n = 56)
Mức độ hẹp
n % n %
Tổn thương một nhánh 10 17,0 15 26,8 > 0,05
* Nhận xét
- Nhóm đái tháo đường, tổn thương nhiều nhánh chiếm tỷ lệ đa số
(69%), trong đó với 43,1% tổn thương 3 nhánh, tổn thương 2 nhánh 25,9%.
So sánh với nhóm không đái tháo đường, tổn thương 2 nhánh lại chiếm tỷ lệ
cao nhất 32,8%, tổn thương 3 nhánh chiếm 31,1%, sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê.
3.5
2.5
2.41
2.14
2
1.5
0.5
0
Nhóm ĐTĐ Nhóm không ĐTĐ
Biểu đồ 3.8. Số nhánh ĐMV tổn thương của nhóm nghiên cứu
(n=115)
* Nhận xét:
- Ở nhóm ĐTĐ, số lượng nhánh mạch vành bị tắc trung bình là 2,41 ±
0,77 cao hơn nhóm không ĐTĐ 2,14 ± 0,82, khác biệt có ý nghĩa với p <
0,05.
Bảng 3.14. Phân bố vị trí các tổn thương ĐMV của đối tượng nghiên cứu
Nhóm ĐTĐ Nhóm không ĐTĐ
ĐT
(n = 58) (n = 61) P
Vị trí
n % n %
LM 11 18,6 4 7,1
LAD 56 94,9 49 87,5 > 0,05
LCx 45 76,3 26 46,4
RCA 44 74,6 42 75,0
Ramus 0 0 1 100
* Nhận xét
- Vị trí động mạch vành tổn thương hay gặp trên bệnh nhân đái tháo
đường, cao nhất là LAD với 94,9%; LCx là 76,3%, RCA với 74,6%; cuối
cùng là LM với 18,6%.
- So sánh vị trí tổn thương của nhóm đái tháo đường, tỷ lệ gặp tại các vị
trí khá tương đồng (p > 0,05).
RCA 74.60%
LCx 76.30%
LAD 94.90%
LM 18.60%
Biểu đồ 3.9. Vị trí tổn thương ĐMV bệnh nhân BTTMCB có đái tháo
đường (n=59)
Bảng 3.15. Phân tổn thương ĐMV theo SCAI của đối tượng nghiên cứu
(n=115)
Nhóm ĐTĐ Nhóm không ĐTĐ
ĐT
(n = 59) (n = 56) P
Loại
N % N %
SCAI I 16 27,1 31 55,4
SCAI II 37 62,7 21 37,5 < 0,05
*Nhận xét
- Nhóm bệnh nhân đái tháo đường có tỷ lệ tổn thương phức tạp (SCAI
II) cao hơn nhóm không đái tháo đường. Sự khác biệt có ý nghĩa với p<0,05.
3.2. Một số mối liên quan giữa mức độ tổn thương động mạch vành với
một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng trên nhóm bệnh đái tháo
đường
Bảng 3.16. Mối liên quan đặc điểm về tuổi, giới với
số nhánh ĐMV tổn thương (n=59)
Yếu tố Tổn thương 1 Tổn thương nhiều p
nhánh (n =10) nhánh (n = 49)
n % n %
Tuổi < 60 4 40,0 6 12,2 < 0,05
≥ 60 6 60,0 43 87,8 OR=4,78
Giới Nam 7 70,0 34 69,4 > 0,05
Nữ 3 30,0 15 30,6
* Nhận xét
- Nhóm bệnh nhân đái tháo đường có tuổi ≥ 60 có tỷ lệ tổn thương
nhiều nhánh 87,8% cao hơn so với nhóm có độ tuổi < 60, khác biệt có ý nghĩa
với p < 0,05.
- Nhóm bệnh nhân nam giới có đái tháo đường, tỷ lệ mắc tổn thương
nhiều nhánh ĐMV 70,0%, cao hơn nhóm nam giới không ĐTĐ (p > 0,05).
n % n %
THA Có 9 90,0 48 98,0
> 0,05*
không 1 10,0 1 2,0
Hút Có 3 30,0 13 31,7
> 0,05
thuốc Không 7 70,0 28 68,3
Rối loạn Có 1 10,0 10 20,4
> 0,05*
mỡ máu Không 9 90,0 39 79,6
BMI < 23 5 50,0 21 42,9
> 0,05
≥ 23 5 50,0 28 57,1
* Kiểm định Fisher's exact test
* Nhận xét
- Bệnh nhân đái tháo đường kèm theo các yếu tố nguy cơ tăng huyết áp,
hút thuốc, rối loạn mỡ máu, BMI cao ≥ 23 kg/m2 đều có tỷ lệ mắc tổn thương
nhiều nhánh động mạch vành hơn so với nhóm không kèm các yếu tố nguy
cơ, sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
Bảng 3.18. Mối liên quan phận độ theo CCS ở bệnh nhân đái tháo đường
có đau ngực với số nhánh ĐMV tổn thương (n = 40)
Yếu tố Tổn thương 1 Tổn thương nhiều
nhánh (n = 8) nhánh (n = 32) p
n % n %
CCS I 4 50 4 12,5 > 0,05
CCS II 2 25 4 12,5 > 0,05
CCS III 1 12,5 21 65,6 < 0,05
CCS IV 1 12,5 3 9,4 > 0,05
* Nhận xét
- Nhóm BN ĐTĐ có đau ngực, mức độ đau ngực ở mức CCS I và CCS II có
tổn thương 1 nhánh chiếm tỷ lệ cao hơn nhóm tổn thương nhiều nhánh tuy
nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa với p > 0,05.
- Ở nhóm CCS III tỷ lệ BN có tổn thương một nhánh ít hơn nhóm tổn thương
nhiều nhánh, sự khác biệt có ý nghĩa với p < 0,05.
- Nhóm CCS IV, chúng tôi nhân thấy hai tỷ lệ này tương đương nhau, khác
biệt không có ý nghĩa với p <0,05.
Bảng 3.19. Mối liên quan mức độ kiểm soát đường máu theo chỉ số
HbA1c với số nhánh ĐMV tổn thương
Yếu tố Tổn thương 1 Tổn thương nhiều
nhánh (n =10) nhánh (n = 49) p
n % n %
≥ 7mmol 7 70,0 46 93,9
Glucose < 0,05
< 7mmol 3 30,0 3 6,1
≤ 6,5 2 20,0 1 2,0
HbA1c (%) < 0,05
> 6,5 8 80,0 48 98
* Nhận xét
- Nhóm bệnh nhân đái tháo đường có mức đường máu cao, không đạt
mục tiêu đường máu lúc đói < 7mmol/l và HbA1c ≤ 6,5 % có tỷ lệ tổn thương
nhiều nhánh ĐMV cao hơn so với nhóm kiểm soát tốt, sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p < 0,05).
98
80
100
80
60
20
40
2
20
0
HBA1c ≤ 6,5 HBA1c> 6,5
1 nhánh ≥ 2 nhánh
Biểu đồ 3.10. Số nhánh ĐMV tổn thương và mức kiểm soát glucose máu
Bảng 3.20. Mối liên quan mức độ kiểm soát đường máu theo chỉ số
HbA1c với phân loại mức độ tổn thương ĐMV theo SCAI
Yếu tố SCAI I SCAI II - III – IV
(n = 16) (n = 43) p
n % n %
≥ 7mmol 11 68,7 42 97,7
Glucose < 0,05
< 7mmol 5 31,3 1 2,3
≤ 6,5 1 6,3 2 4,7
HbA1C (%) > 0,05
> 6,5 15 93,7 41 95,3
* Nhận xét
- Nhóm SCAI I có mức độ kiểm soát đường huyết đánh giá bằng Glucose
máu lúc đói tốt hơn nhóm SCAI II-III-IV, sự khác biệt có ý nghĩa với p<0,05.
- Nhóm SCAI I có mức độ kiểm soát đường huyết đánh giá bằng HbA1C
tương đương nhóm SCAI II-III-IV, sự khác biệt không có ý nghĩa với p>0,05.
Chương 4
BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả chụp mạch vành qua da
ở bệnh nhân BTTMCBMT có đái tháo đường
Trong 59 bệnh nhân bệnh tim thiếu máu cục bộ có đái tháo tham gia
nghiên cứu, tỷ lệ bệnh nhân nam giới chiếm tỷ lệ đa số 69,5%, nữ giới 30,5%,
tỷ lệ nam/nữ 2,28/1. Nhóm không có đái tháo đường, nam chiếm tỷ lệ tương
đương với nữ giới, tỷ lệ nam/ nữ 1,07/1. Như vậy, trong toàn thể đối tượng có
bệnh tim thiếu máu cục bộ, tỷ lệ bệnh nhân nam giới cao hơn so với nữ giới.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự với nghiên cứu một số tác
giả trong và ngoài nước. Nghiên cứu của Almasi A và cs, tỷ lệ nam chiếm
69% [1]; của Nguyễn Văn Công nam chiếm đa số 72,5%, tỷ lệ nam/nữ là
2,6/1 [43]; của Dieplinger và cộng sự, nam giới chiếm 75% [12]. Các kết quả
này cao hơn rất nhiều so với nghiên cứu của Nguyễn Thái Uyên và cs, tỷ lệ
nam/nữ chỉ 1,1/1 [42]. Sự khác biệt về phân bố giới tính trong các nghiên cứu
có thể do ngẫu nhiên và khu trú trong mẫu nghiên cứu. Tuy nhiên tỷ lệ bệnh
nhân nữ thấp hơn là phù hợp với thực tế nam giới có nhiều yếu tố nguy cơ
mắc các bệnh tim mạch và đái tháo đường hơn nữ giới.
Nhóm nghiên cứu có độ tuổi trung bình là 68,1 ± 9,4; độ tuổi ≥ 70 là
thường gặp nhất chiếm 44,1%. So sánh độ tuổi trung bình của nhóm đái tháo
đường và không đái tháo đường không có sự khác biệt rõ rệt có ý nghĩa thống
kê. Như vậy, tuổi trung bình trong trong nghiên cứu của chúng tôi tương
đương với các tác giả trong nước như Nguyễn Văn Công (2012), nhóm BN
BTTMCBMT có ĐTĐ có độ tuổi trung bình là 67,6±6,9 (tuổi) [43]. Độ tuổi
trung bình của một số NC trong nước thường từ 60 – 69 (tuổi) [42],[40]. So
sánh với các nghiên cứu trên thế giới về BTMMCB có hoặc không đái tháo
đường kèm theo, độ tuổi của chúng tôi cao hơn nhiều so với kết quả của một
số tác giả. Nghiên cứu của Almasi A và cs năm 2014 cho thấy tuổi trung bình
trong nghiên cứu là 59,75 tuổi [1]. Nghiên cứu của Stuijfzand W.J. năm 2014
tuổi trung bình cũng là 57,3 tuổi [59]. Theo chúng tôi, sở dĩ có sự khác nhau
này là do ở nước ta bệnh nhân được chẩn đoán muộn hơn vì điều kiện kinh tế
xã hội, nhận thức về bệnh tật của người dân và thiếu các thiết bị y tế giúp
chẩn đoán sớm.
4.1.1.2. Một số yếu tố nguy cơ tim mạch
Trong nghiên cứu này, chúng tôi khảo sát một số yếu tố nguy cơ khác
bệnh tim mạch như tăng huyết áp kèm theo ĐTĐ, rối loạn lipid máu, hút
thuốc lá. Tỷ lệ bệnh nhân tăng huyết áp kèm theo đái tháo đường chiếm tỷ lệ
rất cao 96,6%, hút thuốc lá trong nghiên cứu là 27,1%, rối loạn lipid máu
18,6%.
Hút thuốc lá đã được chứng minh từ lâu là YTNC chính của bệnh lý
động mạch vành. Tỷ lệ hút thuốc lá trong nghiên cứu của chúng tôi tương tự
với điều tra quốc gia về YTNC năm 2008 tại Swedish là 22% bệnh nhân ĐTĐ
týp 2 có hút thuốc lá; hay trong nghiên cứu LOD-DIABETES đánh giá các
YTNC tim mạch của 68 bệnh nhân ĐTĐ týp 2 và 44 bệnh nhân HCCH, tỷ lệ
hút thuốc lá chiếm 23,5% - 25% [17]. Thuốc lá tác động lên tim ở nhiều cơ
chế khác nhau kết hợp: giảm nồng độ HDL-C, làm suy giảm tính đàn hồi
thành mạch, các mạch máu lớn trong cơ thể và làm tăng nguy cơ hình thành
cục máu đông, làm tăng hoạt tính của hệ thần kinh giao cảm mà điều hòa tim
và mạch máu. Bên cạnh đó khói thuốc lá có thể làm tăng bệnh lý tim mạch ở
phụ nữ thông qua nội tiết tố là thiếu hụt estrogen. Nghiên cứu
INTERHEARTcho thấy hút thuốc lá làm gia tăng nguy cơ NMCT cấp, đặc
biệt ở nam giới. Hút càng nhiều thì nguy cơ càng cao, đặc biệt là những hút >
20 điếu/ngày có nguy cơ NMCT cấp cao gấp 4,59 lần so với những người
không hút thuốc [61].
Thừa cân và béo phì cũng là yếu tố nguy cơ của bệnh ĐMV. Phần lớn
bệnh nhân ĐTĐ týp 2 có thừa cân, béo phì vì thế việc kiểm soát cân nặng
luôn có vai trò quan trọng trong chế độ điều trị không dùng thuốc. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, kết quả cho thấy có tới 55,9% bệnh nhân có chỉ số
BMI trên 23 kg/m2, tuy nhiên chỉ tập trung nhóm BMI cao 25 -29,9 kg/m2
(29,31%), ghi nhận có 1 trường hợp béo phì độ II; sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê khi so sánh với nhóm mắc BTTMCB không đái tháo đường. Kết quả
này cũng tương tự như một số nghiên cứu trong nước [49],[42], nhưng thấp
hơn so với một số nghiên cứu tại tại các nước châu Âu và Mỹ. Nghiên cứu
Gomez-Marcos và cộng sự, bệnh nhân ĐTĐ típ 2, BMI trung bình 30,08 ±
4,96 kg/m2 [17]. Tương tự, Ruckert I.M và cộng sự ghi nhận BMI trung bình
trên 240 ĐTĐ týp 2 có THA kiểm soát tốt là 32,4 ± 5,9 kg/m2 và 808 ĐTĐ
týp 2 có THA kiểm soát không tốt là 30,7 ± 5,0 kg/m2. Tỷ lệ BMI ≥ 30 kg/m2
trong 2 nhóm lần lượt là 64,2%; 48,6% [55]. Thừa cân và béo phì là yếu tố
nguy cơ tim mạch nói chung và yếu tố nguy cơ bệnh ĐMV nói riêng. Đầu tiên
phải kể đến liên quan béo phì và THA. Trong cơ chế bệnh sinh THA liên
quan đến quá trình rối loạn lipid máu gây xơ vữa ĐM. Landsberg. L (2013) lý
giải sự liên quan giữa THA với béo phì thông qua các cơ chế gồm: kháng
insulin, tăng nồng độ leptin trong máu, tăng hoạt động của hệ thần kinh giao
cảm và hệ Renin-angiotensin-aldosteron, kích thích hệ thần kinh tăng tiết
renin,tăng hấp thụ Na ở ống thận và tái phân bố lại dòng máu tưới thận [28].
Tăng cân làm tăng nguy cơ tử vong, chủ yếu do nguyên nhân tim mạch. Một
nghiên cứu trên gần 900.000 người cho thấy tỷ lệ tử vong thấp nhất ở nhóm
có BMI 22,5 - 25 kg/m2. Ở trên mức BMI này thì với mỗi mức BMI tăng 5
kg/m2 thì tăng 30% nguy cơ tử vong do mọi nguyên nhân, 40% tử vong do
nguyên nhân mạch máu. Ở nhóm có BMI 30 - 35 kg/m2 thì tuổi thọ trung bình
giảm 2-4 năm và ở nhóm có BMI 40 - 45 kg/m2 thì tuổi thọ giảm 8 - 10 năm
[66].
4.1.2. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh nhân BTTMCBMT có đái
tháo đường
Tỷ lệ THA (căn cứ theo HATT khi nhập viện) nhóm đái tháo đường là
47,5% và nhóm không đái tháo đường 33,9%. Như vậy có tỷ lệ rất lớn bệnh
nhân không được kiểm soát huyết áp và có thể không biết tình trạng huyết áp
thực tế của mình. Tỷ lệ này cao hơn khá nhiều so với tỷ lệ THA trong dân cư
nói chung, nhưng lại phù hợp với đặc điểm dịch tế THA trong các cộng đồng
những người mắc bệnh đái tháo đường. Tỷ lệ THA trong dân cư nói chung
trên thế giới năm 2000 là 26,5%, dự báo sẽ tăng lên 29,2% vào năm 2025. Ở
BN ĐTĐ typ 2, qua nhiều nghiên cứu cho thấy tỷ lệ THA cao gấp khoảng 2
lần so với người không có ĐTĐ có cùng độ tuổi [13], tỷ lệ này có thể lên tới
60% [56], thậm chí có thể tới 67,7% như trong một nghiên cứu được thực
hiện tại Malaysia [9]. Bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính là do sự hình thành
của các mảng xơ vữa trong lòng mạch, một quá trình tiến triển chậm chạp kéo
dài với sự lắng đọng từ từ của Lipid trong thành động mạch, làm cho thành
động mạch ngày càng dày lên, cứng lại và mất tính đàn hồi. Mảng xơ vữa gây
các phản ứng viêm, có thể lớn dần lên gây chít hẹp lòng mạch và vỡ ra dễ dẫn
đến hình thành cục máu đông gây nhiều biến chứng nguy hiểm như: nhồi máu
cơ tim, nhồi máu não. Ngoài ra một số trường hợp mạch vành bị co thắt gây
hẹp mạch vành từng lúc cũng có thể gây ra triệu chứng đau thắt ngực do thiếu
máu cơ tim.
Cơ chế tổn thương ĐMV ở bệnh nhân THA được nhắc đến với 2 cơ chế
chính bắt đầu từ quá trình tổn thương tế bào nội mô mạch máu, kết hợp với
tăng hậu gánh. Khi tế bào nội mạc mạch máu bị tổn thương, các tế bào nội
mạc tại chỗ mất khả năng tiết ra prostacyclin. Tiểu cầu lập tức tách ra khỏi
dòng máu để tập trung vào chỗ đó và kết dính lại, phóng thích ra nhiều chất
trong đó có yếu tố tăng trưởng, yếu tố này kích thích sự di chuyển các tế bào
cơ trơn ở lớp trung mạc ra lớp nội mạc và phát triển mạnh tại đó. Các bạch
cầu đơn nhân từ dòng máu cũng đến ngay chỗ tổn thương và được chuyển
dạng thành đại thực bào. Các đại thực bào này - thực bào các LDL-C và trở
thành các - tế bào bọt tích đầy mỡ. Đến khi quá tải, các tế bào này bị vỡ và đổ
cholesterol ra ngoài làm cho lớp dưới nội mạc dày lên tạo nên các vạch lipid
hay các mảng xơ vữa đặc trưng của bệnh. Bên cạnh việc góp phần tạo ra các
mảng xơ vữa gây hẹp động mạch vành, tăng cholesterol máu có thể làm tổn
thương lớp nội mạc mạch máu. Bên cạnh đó còn có vai trò của hệ RAA, trong
đó angiotensin II là một chất co mạch đóng góp vào quá trình tiết các
cytokine tiền viêm và viêm tại nơi tế bào nội mô tổn thương làm tăng hình
thành mảng xơ vữa. Hậu quả quá trình xơ vữa làm ĐMV hẹp từ từ, lâu ngày
có thể can xi hoá hoặc tắc hoàn toàn [31]. Quá trình xơ vữa ĐMV diễn ra
thầm lặng, kết hợp với các yếu tố nguy cơ khác làm tỷ lệ và mức độ tổn
thương ĐMV ở bệnh nhân THA nguyên phát cao hơn. Bên cạnh đó, ở bệnh
nhân THA sẽ có hiện tượng tăng hậu gánh, làm giãn các buồng tim, đặc biệt
phì đại thất trái gây giảm dòng vành tâm trương gây thiếu máu cơ tim. Ở bệnh
nhân THA kiểm soát HA về mức tốt hoặc chấp nhận được làm giảm các biến
chứng cơ quan đích của THA trong đó có bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn
tính. Khi so sánh với các tác giả khác nghiên cứu về bệnh tim thiếu máu cục
bộ mạn tính ở bệnh nhân THA chúng tôi nhận thấy các kết quả đều tương
đồng nhau thống nhất về mối liên quan bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính
và THA là yếu tố nguy cơ thường xuyên xuất hiện.
Đau ngực, khó thở là biểu hiện của tình trạng thiếu oxy cơ tim do chít
hẹp ĐMV bởi một nguyên nhân nào đó - chủ yếu là mảng vữa xơ. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ bệnh nhân đái tháo đường nhập viện để kiểm
tra mạch vành có tình trạng đau ngực 67,8%, khó thở 52,5%; tỷ lệ đau ngực ở
nhóm BN đái tháo đường thấp hơn nhóm không ĐTĐ với tỷ lệ tương ứng là
83,9%, khác biệt có ý nghĩa với p<0,05. Tỷ lệ BN khó thở khá tương đồng so
với nhóm không đái tháo đường (46,4%). Như vậy, một tỷ lệ không nhỏ các
bệnh nhân không có biểu hiện lâm sàng điển hình định hướng đến bệnh ý
mạch vành. Điều này cũng phù hợp với sự phát triển nhận thức bệnh tật của
cộng đồng, khi người bệnh càng ngày càng nhận ra vai trò quan trọng của
công tác phòng bệnh và kiểm tra sức khỏe định kỳ. Bên cạnh đó, ở những BN
ĐTĐ có hiện tượng tổn thương vi mạch làm giảm khả năng cảm nhận cảm
giác nội tạng của BN và làm các cơn đau ngực do thiếu máu mạch vành trở
lên mờ nhạt hơn so với nhóm không ĐTĐ. Phân tích sâu hơn về mức độ đau
ngực, chúng tôi nhân thấy rằng, ở nhóm ĐTĐ, các BN đau ngực có mức độ
đau theo phân loại CSS chủ yếu độ III chiếm 55%, các BN có mức độ đau độ
I chiếm tỷ lệ khá cao 20%, độ II chiếm 15% và độ IV chiếm tỷ lệ thấp nhất
10%. Theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Công, các bệnh nhân đái tháo
đường có biểu hiện đau ngực, mức độ đau ngực phân loại theo CSS chủ yếu
độ I chiếm 87,3%. Trong đó, chỉ có 20,4% bệnh nhân có biểu hiện đau ngực
điển hình, đa số dấu hiệu đau không rõ ràng vùng trước ngực hoặc chỉ có cảm
giác tức nặng ngực trái có liên quan đến xúc cảm hoặc vận động thể lực [43].
Điều này cho thấy tình trạng nghèo nàn về lâm sàng bệnh tim thiếu máu cục
bộ mạn tính ở bệnh nhân đái tháo đường.
4.1.2.2. Đặc điểm cận lâm sàng
* Glucose máu và HbA1c
Từ trước đến nay, vấn đề kiểm soát glucose máu luôn luôn được quan
tâm hàng đầu và cũng chính là một áp lực rất lớn không chỉ đối với bản thân
người bệnh mà còn đối với chính các bác sĩ điều trị cho bệnh nhân, với mục
đích hạn chế các biến chứng trên bệnh nhân ĐTĐ. Việc kiểm soát đường
huyết không tốt làm gia tăng nguy cơ bệnh mạch máu lớn và mạch máu nhỏ
của bệnh. Trong nghiên cứu này, chúng tôi ghi nhận giá trị trung bình glucose
máu lúc nhập viện của nhóm ĐTĐ là 9,6 ± 3,3 mmo/l; HBA1c là 8,0 ± 1,2.
Mức độ kiểm soát glucose mục tiêu theo tiêu chuẩn glucose máu lúc đói và
HbA1c chỉ đạt 10,2% và 5,1%; so sánh giữa hai nhóm bệnh nhân đái tháo
đường nam và BN ĐTĐ nữ, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Như
vậy, đa số các bệnh nhân đái tháo đường không đạt được mục tiêu kiểm soát
đường máu. Tỷ lệ kiểm soát đường máu trong nghiên cứu của chúng tôi cũng
tương tự so với một số nghiên cứu của một số tác giả; nghiên cứu của Trần
Thị Trúc Linh, 74,1% bệnh nhân không đạt mục tiêu kiểm soát glucose máu
lúc đói, HbA1c trung bình 8,36 ± 2,49% và 66,4% không đạt mục tiêu này
[64]; Huelsmann M và cộng sự, HbA1c trung bình 8,0 ± 1,63% [21]. Tuy
nhiên, kết quả cũng thấp hơn so với tác giả Tô Thị Mai Hoa, tỷ lệ kiểm soát
glucose đạt mục tiêu trong nhóm ĐTĐ 46,6% [62], hay Võ Thị Quỳnh Như
trên bệnh nhân ĐTĐ týp 2 ghi nhận HbA1c trung bình là 7,6 ± 1,49% và tỷ lệ
đạt HbA1c mục tiêu là 35,9%, không đạt là 64,1%. Sự khác biệt này có thể
giải thích do điểm cắt mức độ kiểm soát glucose mục tiêu hay HbA1c mục
tiêu của các nghiên cứu có sự khác nhau, phù hợp với các hướng dẫn điều trị
ĐTĐ tại thời điểm nghiên cứu.
Tương tự biểu hiện trên kết quả điện tim, trong nghiên cứu của chúng
tôi, biểu hiện trên siêu âm tim cũng không rõ ràng; rối loạn vận động vùng
27,1%; chỉ có 16,9% có biểu hiện EF% giảm < 50%. So sánh với nhóm không
đái tháo đường, sự khác biệt không thực sự rõ rệt, ghi nhận có tỷ lệ rối loạn
vận động vùng nhóm chứng cao hơn nhóm bệnh; 29,51% so với 27,59%, tuy
nhiên chưa có ý nghĩa thống kê. Kết quả nghiên cứu của Tô Thị Mai Hoa trên
nhóm tăng huyết áp, có 6,9% bệnh nhân có giảm EF%, giảm vận động thành
tim chiếm 4,6% và 76,6% bệnh nhân dày thất trái [62]. Kết quả của chúng tôi
giá trị trung bình Dd và Ds của nhóm đái tháo đường thấp hơn so với nhóm
không đái tháo đường, tuy nhiên sự khác biệt chưa thực sự rõ rệt. Mặc dù có
sự khác biệt trong một số nghiên cứu, nhưng các tác giả đều cho rằng cơ tim
của bệnh nhân ĐTĐ thường dày hơn so với các đối tượng khác và đây cũng là
yếu tố tiên lượng các biến chứng tim mạch và tiên lượng tử vong của người
bệnh [15].
4.1.3. Tổn thương động mạch vành của đối tượng nghiên cứu qua chụp
động mạch vành qua da.
Biết được số lượng ĐMV bị tổn thương là một trong những tiêu chí
quan trọng hàng đầu đối với các nhà tim mạch can thiệp. Nó không những
giúp lựa chọn phương pháp điều trị tối ưu mà còn đóng vai trò trong tiên
lượng bệnh. Tổn thương ĐMV ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 cũng có
những điểm đặc biệt, đó là tổn thương lan toả, tỷ lệ bệnh nhân có tổn thương
từ 3 nhánh trở lên rất cao thường chiếm 50%-70% trong một số nghiên cứu.
Đặc điểm tổn thương các nhánh ĐMV cho thấy: xu thế tổn thương lan rộng
và đặc biệt tổn thương thân chung là hạn chế lớn, kể cả chống chỉ định cho
việc chỉ định can thiệp vành qua da vì có nguy cơ tái hẹp cao và có tỷ lệ tử
vong cao.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ có phát hiện tổn thương ĐMV
qua chụp mạch chiếm tỷ lệ 100%, trong đó ở nhóm ĐTĐ tổn thương chủ yếu
là hẹp khít – rất khít chiếm 81,3%, tắc hoàn toàn chiếm 10,2% và hẹp mức độ
vừa chiếm tỷ lệ ít nhất 8,5%. So sánh với nhóm chứng, tỷ lệ hẹp có ý nghĩa
và tắc hoàn toàn cũng tương đương. Khác biệt không có ý nghĩa với p < 0,05.
Sau khi xác định các tổn thương ĐMV, chúng tôi chia nhóm nghiên
cứu thành nhóm tổn thương phức tạp, nhiều nhánh (≥2 nhánh) và nhóm tổn
thương một nhánh; Qua đó, chúng tôi tìm hiểu một số mối liên quan mức độ
tổn thương và một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm bệnh nhân nam giới có tỷ lệ tổn
thương nhiều nhánh ĐMV cao hơn so với nhóm có bệnh nhân nữ giới, tuy
nhiên sự khác biệt giữa các nhóm không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Nhóm bệnh nhân đái tháo đường có tuổi ≥ 60 có tỷ lệ tổn thương nhiều
nhánh 87,8% cao hơn so với nhóm có độ tuổi < 60, khác biệt có ý nghĩa với p
< 0,05; OR=4,78. So sánh với kết quả nghiên cứu của tác giả Tạ Thị Mai Hoa,
nhóm bệnh nhân từ 60 tuổi trở lên có nguy cơ hẹp ĐMV trên chụp CLVT cao
gấp 2,578 lần so với nhóm bệnh nhân dưới 60 tuổi (p < 0,01); nhóm bệnh
nhân nam có tỷ lệ hẹp ĐMV có ý nghĩa cao gấp 2,215 lần so với giới nữ (p <
0,05) [62]. Sự khác biệt biệt giữa kết quả nghiên cứu của chúng tôi có thể lý
giải do cỡ mẫu của chúng tôi còn thấp, 56 bệnh nhân đái tháo đường, tỷ lệ nữ
giới chỉ chiếm 30,4%. Nghiên cứu của tác giả Tô Thị Mai Hoa tiến hành trên
182 bệnh nhân; bên cạnh đó, tỷ lệ bệnh nhân có tăng huyết áp kèm theo đái
tháo đường chiếm tỷ lệ đa số.
Các tác giả đều cho rằng có nhiều thay đổi về hình thái cấu trúc mạch
máu ở người cao tuổi. Những biến đổi ở hệ tim mạch, đặc biệt là xơ vữa động
mạch là nguyên nhân góp phần gây ra các bệnh lý tim mạch ở người cao tuổi.
Tình trạng rối loạn chuyển hóa và mỡ máu cao là nguyên nhân gây ra tình
trạng xơ vữa động mạch và các bệnh về tim mạch khác. Ở người cao tuổi,
mạch máu trở nên cứng, kém đàn hồi. Tim co bóp bơm máu vào động mạch
nhưng luôn gặp sức cản nên phải hoạt động nhiều hơn. Ngoài ra ở người cao
tuổi, tình trạng xơ vữa động mạch làm cấu trúc mạch máu bị biến đổi, thành
mạch dày lên và lòng mạch hẹp lại. Mạch máu bị xơ cứng, giảm tính đàn hồi
làm tim phải hoạt động nhiều hơn, về lâu dài sẽ dẫn đến hậu quả là thành tim
ngày càng dày lên. Trong khi đó, các mạch máu bị xơ vữa lại hẹp, lượng máu
lưu thông ít gây thiếu máu cơ tim, nặng hơn nữa là nhồi máu cơ tim. Những
lý do trên khiến tỷ lệ hẹp ĐMV ở người cao tuổi cao hơn nhóm người trẻ tuổi.
4.2.2. Liên quan tổn thương ĐMV với chỉ số BMI, tăng huyết áp, mức kiểm
soát glucose máu và rối loạn lipid máu
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi, nhóm bệnh nhân có chỉ số BMI ≥ 23
kg/m2 có tỷ lệ tổn thương nhiều nhánh ĐMV là 57,1% cao hơn so với nhóm
BMI < 23 là 50%; tuy nhiên sự khác biệt giữa 2 nhóm chưa có ý nghĩa thống
kê. Nghiên cứu của tác giả Robert H. E; nguy cơ bệnh tim thiếu máu cục bộ
mạn tính tăng lên tới 50% ở nữ giới trung niên có BMI > 23 kg/m2 và > 25
kg/m2 ở nam trung; có thể lên tới 70% nếu ở các điểm cắt cao hơn [53].
Tương tự, một nghiên cứu tiến cứu theo dõi trong 8 năm ở 115.886 phụ nữ
Mỹ cho thấy: nguy cơ mắc BTTMCBMT tăng cao rõ rệt ở những người béo
phì [32]. Kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Công, BN có BMI > 23
có tình trạng tổn thương mạch vành nặng hơn so với nhóm BMI ≤ 23, tuy
nhiên cũng chưa nhận thấy mối liên quan rõ rệt giữa mức độ tổn thương
ĐMV và tình trạng thừa cân của bệnh nhân [43]. Sự khác biệt giữa các nghiên
cứu, ngoài lý do đặc điểm từng đối tượng, khu vực địa lý, các yếu tố tim mạch
đi kèm, còn có thể giải thích do sự khác nhau giữa điểm cut – off chỉ số BMI,
các nghiên cứu sử dụng điểm cắt cao hơn có thể sẽ làm rõ hơn mối liên quan
này.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, bệnh nhân đái tháo đường có kèm
theo tăng huyết áp có tỷ lệ tổn thương nhiều nhánh ĐMV cao hơn so với
nhóm không tăng huyết áp. Kết quả này cũng phù hợp với nhận xét rút ra từ
rất nhiều nghiên cứu về vai trò của THA đối với bệnh tim thiếu máu cục bộ
mạn tính nói riêng và bệnh tim mạch nói chung. Tuy nhiên, sự khác biệt
không có ý nghĩa với p > 0,05.
Người ta thấy rằng: điều trị hạ HA - dù bằng thuốc ức chế men chuyển
hay ức chế thụ thể angiotensin II hay chẹn β giao cảm – đều làm giảm nguy
cơ đột quỵ, nguy cơ NMCT tái phát, nguy cơ tử vong do suy tim tiến triển và
đặc biệt, làm giảm tiến triển của các MXV. Trong nghiên cứu ALLHAT, các
tác giả còn thấy ngay cả lợi tiểu cũng có những lợi ích tương tự [33].
Liên quan giữa bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính (BTTMCBMT) và
các chỉ số lipid máu như: cholesterol, triglycerid, HDL-C, LDL-C, Apo(A), ...
đã được nghiên cứu từ rất lâu trên thế giới. Một nghiên cứu phân tích gộp từ
rất nhiều nghiên cứu khác nhau trong khoảng thời gian 30 năm (1959 - 1989)
cho thấy: hầu hết các nghiên cứu đều tìm thấy một mối liên quan giữa các chỉ
số lipid máu và sự xuất hiện BTTMCBMT hoặc các biến cố tim mạch nói
chung, tuy nhiên trong một số nghiên cứu người ta đã không tìm thấy một
mối liên hệ nào giữa chúng, đặc biệt là trong các nghiên cứu cắt ngang [5].
Các nghiên cứu về cholesterol cũng cho những kết quả rất khác nhau giữa các
nghiên cứu. Đa số các nghiên cứu thì cho thấy có tăng nguy cơ BTTMCBMT
liên quan với tăng nồng độ cholesterol trong máu, tuy nhiên có một số nghiên
cứu lại không thấy có sự liên quan, thậm chí còn thấy giảm nhẹ nguy cơ
BTTMCBMT liên quan với tăng cholesterol trong máu [24].
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ bệnh nhân có đái tháo đường
kèm rối loạn lipid máu có tỷ lệ gặp tổn thương nhiều nhánh động mạch vành
cao hơn rõ rệt với nhóm không có rối loạn lipid máu, 20,4% so với 10,0%, sự
khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
* Liên quan với mức độ đau ngực theo CCS
Trong nhóm BN ĐTĐ có tổn thương 1 nhánh, triêu chứng đau ngực ở
mức CCS độ I và II cao hơn nhóm có tổn thương nhiều nhánh tuy nhiên sự
khác biệt không có ý nghĩa với p>0,05. Mức độ CCS III gặp ở những BN có
tổn thương 1 nhánh với tỷ lệ 12,5% thấp hơn nhóm có tổn thương nhiều
nhánh (tỷ lệ 65,6%), khác biệt có ý nghĩa với p < 0,05. Mức độ CCS IV gặp
với tỷ lệ tương đương ở 2 nhóm có tổn thương một nhánh và tổn thương
nhiều nhánh.
* Liên quan với mức kiểm soát glucose máu
Trong nghiên cứu của chúng tôi, sử dụng tiêu chuẩn kiểm soát đường
máu theo HbA1c để tìm hiểu mối liên quan giữa tổn thương nhiều nhánh
ĐMV và mức kiểm soát đường máu. Nghiên cứu của tác giả Elizabeth S. và
cộng sự năm 2005 đã chỉ ra rằng, HbA1C được cho là một yếu tố cảnh báo
đối với bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính, kể cả ở những người không có
ĐTĐ, trong khi không tìm thấy mối liên quan nào với glucose lúc đói [14]. Ở
bệnh nhân ĐTĐ, mức HbA1C trong hiện tại còn liên quan mật thiết với nguy
cơ BTTMCBMT trong tương lai. Bên cạnh đó, mức độ hẹp ĐMV cũng được
cho là có mối liên hệ với mức HbA1C. Tahir Sleem và cộng sự khi nghiên
cứu về mức độ hẹp ĐMV bằng thang điểm Gensini ở 110 bệnh nhân NMCT
cấp (trong đó có 78 BN ĐTĐ) cho thấy: có tới 93,58% bệnh nhân NMCT kèm
ĐTĐ có mức HbA1C > 7 % và tỷ lệ HbA1C có tương quan thuận với điểm
Gensini (r = 0,427; p = 0,001) [60]. Như vậy kết quả nghiên cứu của chúng
tôi hoàn toàn phù hợp với các nghiên cứu khẳng định vai trò kiểm soát
glucose máu thông qua theo dõi chỉ số HbA1c, liên quan giữa mức độ tổn
thương mạch vành và mức độ kiểm soát glucose máu; cụ thể nhóm HBA1c >
6,5 có tổn thương ĐMV nhiều nhánh hơn so với nhóm kiểm soát glucose máu
tốt, 71,1% so với 66,7% (p > 0,05). Khi đối chiếu theo mức độ tổn thương
mạch vành theo phân loại SCAI, nhóm glucose máu < 7 mmol/l có tỷ lệ tổn
thương SCAI I 83,33% cao hơn rõ rệt so với nhóm glucose máu ≥ 7 mmol/l (p
<0,05); không thấy sự khác biệt giữa nhóm HbA1c trên và dưới 6,5%. Như
vậy trong thực tế lâm sàng, các bác sĩ nên kết hợp cả 2 chỉ số trong theo dõi
đường máu cho bệnh nhân đái tháo đường.
Khi xét về mức độ tổn thương động mạch vành theo SCAI, nhóm BN
tổn thương SCAI I có 11 BN Glucose máu lúc đói ≥ 7mmol chiếm 68,7%,
thấp hơn nhóm SCAI II - III – IV (tỷ lệ 97,7%), khác biệt có ý nghĩa với p
<0,05. Khi xét mức độ kiểm soát đường huyết dựa vào HbA1C chúng tôi
nhận thấy hai tỷ lệ trên là tương đương nhau, lần lượt và 6,3% và 4,7%, khác
biệt không có ý nghĩa với p > 0,05.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu trên 59 bệnh nhân bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính
có đái tháo đường, so sánh đối chứng với 56 bệnh nhân bệnh tim thiếu máu
cục bộ mạn tính không đái tháo đường, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
1. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả chụp động mạch vành của
đối tượng nghiên cứu.
Ở bệnh nhân bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính có đái tháo đường:
- Nam giới chiếm tỷ lệ đa số 69,5%, tỷ lệ nam/nữ 2,28/1. Tuổi trung bình 68,1
± 9,4, nhóm tuổi tuổi từ 70 tuổi trở lên chiếm tỷ lệ đa số 44,1%.
- Một số yếu tố nguy cơ đi kèm với bệnh nhân nghiên cứu: tăng huyết áp kèm
đái tháo đường 96,6%, BMI ≥ 23 kg/m2 là 55,9%; hút thuốc 27,1%; rối loạn
lipid máu 18,6%.
- Các biểu hiện lâm sàng thường gặp là: đau ngực 67,8% và khó thở 52,5%.
Triệu chứng đau ngực ở bệnh nhân đái tháo đường gặp với tỷ lệ thấp hơn
nhóm không đái tháo đường, sự khác biệt có ý nghĩa với p < 0,05.
- Nồng độ trung bình glucose máu lúc đói và HbA1c lần lượt là 9,8 ± 2,9
mmol/l và 8,0 ± 1,1%. Bệnh nhân đạt được kiểm soát glucose mục tiêu theo
tiêu chuẩn HbA1c ≤ 6,5% là 5,1%.
- Biểu hiện trên siêu âm tim: tỷ lệ BN rối loạn vận động vùng 27,1% và EF <
50% chiếm 16,9%.
- Tổn thương động mạch vành qua kỹ thuật chụp động mạch vành qua da: đa
số là tổn thương lan tỏa và phức tạp với biểu hiện tổn thương nhiều nhánh (≥
2 nhánh) chiếm 83,0%; 10,2% tắc hoàn toàn. Vị trí tổn thương động mạch
vành hay gặp: ĐM liên thất trước 94,9%; ĐM vành phải 74,6%; ĐM mũ
76,3% và 18,6% tổn thương thân chung ĐMV trái.
- Bệnh nhân bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính có đái tháo đường có tỷ lệ
tổn thương động mạch vành phức tạp (SCAI II) cao hơn bệnh nhân không có
đái tháo đường (tỷ lệ 62,7% so với 37,5%, p<0,05).
2. Mối liên quan tổn thương động mạch vành với một số đặc điểm lâm
sàng và cận lâm sàng
- Nhóm bệnh nhân đái tháo đường có tuổi ≥ 60 có tỷ lệ tổn thương nhiều
nhánh 87,8% cao hơn so với nhóm có độ tuổi < 60, khác biệt có ý nghĩa với p
< 0,05.
- Chưa thấy có mối liên quan giữa các yếu tố nguy cơ tim mạch kèm đái tháo
đường như hút thuốc, tăng huyết áp, rối loạn lipid máu, béo phì với số nhánh
động mạch vành bị tổn thương.
- Ở nhóm bệnh nhân đái tháo đường có đau ngực CCS III, tỷ lệ tổn thương
nhiều nhánh động mạch vành cao hơn tổn thương một nhánh động mạch
vành, sự khác biệt có ý nghĩa với p < 0,05.
- Nhóm bệnh nhân đái tháo đường có mức đường máu cao, không đạt mục
tiêu đường máu lúc đói < 7mmol/l và HbA1c ≤ 6,5 % có tỷ lệ tổn thương
nhiều nhánh động mạch vành cao hơn so với nhóm kiểm soát tốt, sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
- Nhóm SCAI I có mức độ kiểm soát đường huyết đánh giá bằng Glucose
máu lúc đói tốt hơn nhóm SCAI II-III-IV, sự khác biệt có ý nghĩa với p<0,05.
KIẾN NGHỊ
Cần kiểm soát tốt glucose máu để hạn chế mức độ tổn thương phức tạp
của động mạch vành ở bệnh nhân bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính có đái
tháo đường .
TÀI LIỆU THAM KHẢO