You are on page 1of 42

CHƯƠNG IX

HỆ HÔ HẤP
I. Đại cương
1. Nội dung
- Hệ hô hấp đảm nhận chức năng trao đổi khí (hấp thu oxy vào máu và thải
khí cacbonic vào phế nang).
- Sự hô hấp dưới hình thức này hay hình thức khác là một đặc trưng cơ bản
của vật chất sống.
- Ở loài đơn bào, khí oxy đưa vào hoặc khí cacbonic thải ra được trao đổi trực
tiếp giữa tế bào và môi trường sống (không khí hoặc nước).
- Ở động vật bậc cao như các động vật có xương sống: quá trình hô hấp gồm 2
động tác cơ bản là hít vào và thở ra.
+ Cơ thể nhận oxy từ không khí của khí quyển và thải ra khí quyển khí
cacbonic tạo thành do sự oxy hóa các chất cacbon ở trong các mô của
cơ thể.
+ Quá trình trao đổi khí này được thực hiện một cách gián tiếp qua máu
của cơ thể và do đó hệ hô hấp gồm nhiều cơ quan được hình thành.

2. Phân loại
- Hệ hô hấp ở người gồm một hệ thống ống dẫn khí và một hệ thống trao đổi
khí giữa máu và không khí.
+ Hệ thống ống dẫn khí gồm mũi, hầu, thanh quản, khí quản, và phế
quản.
+ Hệ thống trao đổi khí là bộ phận quan trọng nhất gồm phổi trong có
rất nhiều túi và hốc nhỏ gọi là các phế nang và thành phần phụ thuộc
là phức hợp màng phổi là nơi xảy ra sự trao đổi khí giữa máu và
không khí.
- Có thể phân loại hệ hô hấp ở người thành đường hô hấp trên và đường hô
hấp dưới (được dùng trong sinh lý, lâm sàng):
+ Đường hô hấp trên gồm mũi, hầu và thanh quản
+ PHÂN CÁCH: KHE THANH MÔN
+ Đường hô hấp dưới gồm khí quản, phế quản, phổi và phức hợp màng
phổi.
3. Giải phẫu chức năng của hệ hô hấp
- Không khí vào ổ mũi theo hai đường: đường hô hấp hay đường thở và
đường khứu giác hay đường ngửi.
- Khi hít vào, phần lớn không khí đi qua các xoăn và ngách mũi dưới và giữa
để được làm ấm, làm ẩm và lọc sạch nhờ các đặc điểm của niêm mạc ở mũi
của vùng thở.
- Chỉ một ít không khí đi qua trên xoăn mũi giữa để cảm nhận được khứu
giác.
- Không khí sau khi đi qua mũi sẽ qua ngã tư hô hấp - tiêu hóa là hầu, vào
thanh quản rồi qua khí quản, phế quản để vào phổi. Một tắc nghẽn từ thanh
quản trở lên sẽ gây ngạt thở và cần được khai thông ngay bằng cách ở một
đường thông tạm thời qua khí quản (mở khí quản).
- Phổi giãn nở một cách chủ động khi hít vào nhờ sự gia tăng dung tích lồng
ngực do sự tác động của các cơ hô hấp mà chủ yếu là cơ hoành. Lúc đó áp
lực âm xuất hiện trong ổ màng phổi kéo phổi nở theo lồng ngực => Khi
thủng màng phổi thành hay tạng, không khí bị kéo vào ổ màng phổi gây tràn
khí màng phổi.
- Không khí đi qua các thành phần của cây phế quản đến tận các phế nang để
thực hiện quá trình trao đổi khí ở đây.
- Động tác thở bình thường (không gắn sức) là một quá trình thụ động do sự
giãn cơ hoành và sự phục hồi hình dạng vốn có của lồng ngực.
II. Sự phát triển của hệ hô hấp
1. Sự phát triển của mũi
- Mũi phát triển từ ngoại bì bắt đầu bằng một tấm dày lên ở ngay phía trên
tấm miệng.
- Bắt đầu lõm vào ở tuần thứ 5 của đời sống bào thai tạo nên các hốc mũi
nguyên thủy,
- Ngay sau đó các hốc mũi nguyên thủy trở mở thông vào ổ miệng nguyên
thủy.
- Mũi ngoài thì phát triển rất sớm cùng với sự phát triển của vùng mặt.
- Sự phát triển của mỏm khẩu cái của xương hàm trên và xương khẩu cái sau
đó sẽ ngăn cách ổ mũi với ổ miệng.
- Sự teo bớt khối trung mô ở giữa mũi sẽ hình thành nên vách mũi và 2 lỗ mũi
sau.
Hình 9.1: Phôi thai của hệ hô hấp

2. Sự phát triển của khí phế quản và phổi


- Ngoài mũi, các phần còn lại của hệ hô hấp có nguồn gốc từ trung bì và nội
bì.
- Mầm của khí phế quản và phổi bắt đầu có từ tuần thứ ba của đời sống bào
thai.
- Là một ngách lồi ra ở thành trước của đoạn đầu ruột nguyên thủy.
- Đầu trên của ngách sẽ phát triển thành thanh quản.
- Đẩu dưới tịt lai và chia thành 2 phần bên: mầm phổi phải và mầm phổi trái.
+ Mầm phổi phải phình ra thành 3 bọng và mầm phổi trái phình ra thành
2 bọng.
+ Các bọng này sẽ trở thành các thùy phổi sau này. Mỗi bọng thùy phổi
lại chia thành những bọng nhỏ hơn và cứ chia dần mãi cho tới cuối
cùng thành các túi phế nang.
- Nội bì của ruột đầu sẽ thành thượng mô của niêm mạc khí phế quản
- Trung mô ở xung quanh sẽ phát triển thành các mô liên kết, các sụn, các dây
chằng cũng như cơ của cây phế quản
Hình 9.2: Phát triển phôi thai của phổi

III. Mũi
1. Mũi ngoài
- Nằm chính giữa hai mặt, có dạng hình tháp tam giác mà mặt nhỏ nhất hướng
xuống dưới.
- Có hai lỗ mũi trước thông ra môi trường ngoài, hai mặt bên phân cách bởi
sống mũi - gờ lồi nối gốc mũi ở trên (nằm giữa hai mắt) và đỉnh mũi ở dưới.
- Được cấu tạo bởi một khung xương sụn phủ bên ngoài bởi da và lót bên
trong bằng niêm mạc.
- Khung mũi được hợp thành bởi 8 thành phần:
+ Xương mũi
+ Mỏm trán xương hàm trên
+ Phần mũi xương trán
+ Hai sụn mũi bên
+ Hai sụn cánh mũi lớn
+ Sụn vách mũi
+ Sụn cánh mũi bé
+ Sụn phụ
- Nhờ khung mũi mà mũi ngoài không bị xẹp khi hít vào.
- Bên trong mũi ngoài là tiền đinh mũi thuộc hố mũi có niêm mạc liên tục với
mũi trong và có nhiều lông để cản dị vật, bụi bặm.

Hình 9.3: Mũi ngoài và khung mũi

2. Mũi trong (ổ mũi)


- Ổ mũi là khoang được giới hạn bởi các xương sọ não và sọ mặt, được chia
làm hai hố mũi bởi vách mũi.
- Hố mũi hẹp ở trên và rộng ở dưới, phía trước thông ra ngoài qua tiền đình
và lỗ mũi trước, phía sau thông vào hầu qua lỗ mũi sau.
- Hố mũi có 4 thành:
Hình 9.4: Các thành của ổ mũi
a) Thành trên (trần hố mũi)
- Phần trước là xương mũi và gai mũi xương trán.
- Phần giữa là mảnh ngang xương sàng
- Phần sau là mặt dưới thân xương bướm, cánh xương lá mía và mỏm bướm
xương khẩu cái.

b) Thành dưới (nền hố mũi)


- Hẹp bới mỏm khấu cái của xương hàm trên và mảnh ngang của xương
khẩu cái (tạo thành khẩu cái cứng), được niêm mạc che phủ.

c) Thành trong (vách mũi)


- Phía trước là phần sụn gồm sụn vách mũi và trụ trong sụn cánh mũi lớn
- Phía trước dưới là da và phần màng.
- Phía sau là phần xương gồm mảnh thẳng đứng xương sàng và xương lá
mía.
Hình 9.5: Thành trong ổ mũi

d) Thành ngoài
- Là thành phức tạp nhất được tạo nên bởi:
+ Xương hàm trên
+ Mê đạo xương sàng
+ Xoăn mũi dưới
+ Mảnh thẳng đứng xương khẩu cái
+ Mặt trong mảnh chân bướm trong
- Có ba hay bốn mảnh xương cuốn lại và nhô ra gọi là xoăn mũi chia thành
ngoài của mũi làm ba hoặc bốn đường dẫn khí gọi là ngách mũi. Giữa cực
trước của xoăn mũi giữa và mặt trong mũi có một mào nhô gọi là đê mũi.
Vùng giữa cực sau của xoăn mũi giữa, xoăn mũi dưới và lỗ mũi sau gọi là
ngách mũi hầu.
+ Ngách bướm-sàng có xoang bướm đổ vào.
+ Xoăn mũi trên là một mảnh xương nhỏ của khối bên xương sàng.
Niêm mạc mỏng và ít mạch máu hơn xoăn mũi dưới.
+ Ngách mũi trên là một khe hẹp có các xoang sàng sau đổ vào.
+ Xoăn mũi giữa là một mảnh xương của xương sàng, chia làm hai
ngành lên và xuống.
+ Ngách mũi giữa có một cấu trúc giống như bọt nước gọi là bóng
sàng (bọt sàng). Phía dưới là mỏm móc. Giữa bóng sàn và mỏm móc
là khe bán nguyệt là của của phễu sàng. Đổ vào phễu sàng là các
xoang sàng trước-giữa và xoang hàm trên. Ngoài ra đổ vào ngách mũi
giữa còn có xoang trán.
+ Xoăn mũi dưới là một xương riêng biệt, được phủ bởi niêm mạc dày
chứa đám rối tĩnh mạch gọi là đám rối hang xương xoăn.

Hình 9.5: Thành ngoài ổ mũi (xem thêm atlas Netter Hình 43,44)
- Niêm mạc mũi phía sau liên tục với niêm mạc ở hầu, ngoài ra còn liên tục
với niêm mạc phủ các xoang cạnh mũi. Niêm mạc mũi chia làm hai vùng với
chức năng khác nhau:
+ Vùng nhỏ ở phía trên xoăn mũi trên, trần hố mũi và phần trên vách
mũi, có màu vàng nhạt và ở đó có các sợi thần kinh khứu giác gọi là
vùng khứu (niêm mạc khứu). Khu này là khu phẫu thuật nguy hiểm, vì
nhiễm trùng có thể theo các dây thần kinh khứu lên tới màng não. Sở
dĩ ta ngửi được là vì không khí thở vào lỗ mũi chia làm hai luồng:
● Luồng chạy theo ngách mũi trên vào khu khứu giác
● Luồng chạy theo ngách mũi giữa và dưới là luồng thở
+ Vùng lớn ở dưới xoăn mũi trên gọi là vùng hô hấp (niêm mạc hô
hấp). Vùng này niêm mạc đỏ hồng thường có:
● Nhiều tuyến niêm mạc: tiết ra một chất quánh cuống bụi với bụi
đọng khô thành vảy mũi
● Nhiều tế bào bạch huyết
● Nhiều mạch máu, tạo thành một mạng chi chít bao quanh xoăn
mũi dưới và một điểm mạch ở thành mũi trong.
= > Không khí di qua mũi sẽ được lọc bụi (nhờ lông mũi và lông chuyển của các tế
bào ở niêm mạc), được một phần nào làm ẩm, sát trùng (do tuyến niêm mạc) và
làm ấm (do các tĩnh mạch). Vì có nhiều mạch máu tạo thành điểm mạch nên cũng
dễ đưa đến chảy máu mũi ở đây.

Hình 9.6: Niêm mạc mũi


3. Các xoang cạnh mũi
- Là các hốc rỗng trong các xương nằm quanh hố mũi, gồm các xoang:
+ 2 xoang hàm trên: là xoang lớn nhất trong tất cả các xoang. Xoang
hàm trên liên quan trực tiếp với răng cối lớn thứ nhất, do đó sâu răng
có thể dẫn đến viêm xoang.
+ 2 xoang trán
+ 2 xoang sàng: gồm các nhóm xoang sàng, trước, giữa (đổ vào ngách
mũi giữa) và sau (đổ vào ngách mũi trên)
+ 2 xoang bướm
- Các xoang này được lót bên trong bởi niêm mạc có lông chuyển liên tục với
niêm mạc mũi ở các lỗ xoang => luôn đẩy các chất tiết trong xoang đổ về
phía lỗ xoang nên bình thường lòng xoang rỗng, thoáng và khô.
- Các xoang cạnh mũi ngoài nhiệm vụ cộng hưởng âm thanh, làm ẩm niêm
mạc, ổ mũi, sưởi ấm không khí, còn làm nhẹ đi trọng lượng khối xương đầu
mặt.

4. Mạch máu và thần kinh


a) Động mạch
- Động mạch của mũi ngoài là các nhánh của động mạch mặt, mắt
- Động mạch của hố mũi:
+ Động mạch bướm khẩu cái của động mạch hàm chia làm các nhánh:
● Các động mạch mũi sau ngoài cho các xoăn mũi.
● Các động mạch mũi sau vách cho phần dưới và sau của vách
mũi.
+ Động mạch khẩu cái xuống xuất phát từ động mạch hàm cấp máu
cho phần sau của ổ mũi và chia làm hai nhánh:
● Các động mạch khẩu cái nhỏ.
● Động mạch khẩu cái lớn cấp máu cho phần trước nền mũi
+ Các động mạch sàng trước và sau của động mạch mắt: cấp máu cho
thành ngoài và thành trong của mũi.
+ Nhánh môi trên của động mạch mặt: cấp máu cho phần trước vách
mũi.
Hình 9.7: Động mạch vùng mũi

b) Tĩnh mạch
- Đám rối tĩnh mạch niêm mạc mũi đổ về đám rối tĩnh mạch chân bướm, còn
phía trên đổ về tĩnh mạch mắt, phía trước đổ về tĩnh mạch mặt.

c) Thần kinh
- Các cơ ở mũi được vận động bởi thần kinh mặt còn cảm giác mũi ngoài
được chi phối bởi dây thần kinh sinh ba.
- Các sợi thần kinh khứu giác đi từ niêm mạc mũi qua mảnh sàng tới hành
khứu làm nhiệm vụ giác quan (ngửi)
- Các nhánh mũi của thần kinh sinh ba và hạch chân bướm khẩu cái chi phối
cảm giác và tiết dịch:
+ Các nhánh mũi của thần kinh sàng trước
+ Nhánh mũi sau trên ngoài và trong và nhánh mũi sau dưới ngoài
+ Thần kinh mũi khẩu cái

Hình 9.8: Thần kinh vùng mũi


IV. Hầu
- Khoang hầu là con đường chung của không khí và thức ăn.
- Hầu đi từ nền sọ (bờ dưới xương chẩm) đến bờ dưới sụn nhẫn (ngang mức
đốt sống cổ VI), tại đây hầu nối tiếp với thực quản.
- Khẩu cái mềm dính vào mép sau của khẩu cái cứng, và được xem như là một
cái van, hoạt động như sau:
+ Nâng lên đóng eo hầu, ngăn sự thông thương của tỵ hầu và khẩu hầu
+ Đè xuống để đóng eo khẩu hầu, ngăn sự thông thương của ổ miệng và
khẩu hầu.

Hình 9.9: Giới hạn của hầu


1. Cấu tạo của hầu
Hầu được cấu tạo bởi ba lớp từ ngoài vào trong là:
a) Lớp cơ hầu
- Lớp cơ vòng ở ngoài được tạo nên bởi 3 cặp cơ khít hầu trên, giữa và dưới.
Các cơ này nối với cơ tương ứng dọc đường giữa phía sau hầu và cặp cơ
dưới chổng một phần lên cơ trên.
- Lớp cơ dọc bên trong là cơ trâm hầu và cơ vòi hầu.
- Do hầu thông phía trước với mũi, miệng và lỗ trên thanh quản nên các cơ
hầu chỉ hiện diện ở mặt bên và sau hầu. Các cơ hầu tham gia động tác nuốt
cùng thực quản.

Hình 9.10: Các lớp cơ hầu


b) Tấm dưới niêm mạc
- Biệt hóa thành mạc trong hầu ở thành sau và ngoài của hầu, lớp này dày và
chắc, đặc biệt là ở hố hạch nhân khẩu cái.

c) Lớp niêm mạc


- Liên tục với niêm mạc mũi, miệng và thanh quản, có nhiều tuyến hầu.

Hình 9.11: Các lớp của hầu

2. Hình thể trong của hầu


Do sự liên quan của hầu với mũi, miệng và thanh quản mà nó được chia thành 3
phần:
a) Phần mũi
- Còn gọi là tỵ hầu, nằm ở lỗ sau của ổ mũi và trên mức khẩu cái mềm
- Thành trên (vòm hầu) được tạo nên bởi mặt dưới thân xương bướm và phần
nền xương chẩm, nơi có mô bạch huyết kéo dài xuống thành sau gọi là hạch
nhân hầu , thường bị viêm và phì đại nhất là ở trẻ con gây nghẹt mũi và sổ
mũi xanh.
- Thành sau trải dài từ phần nền xương chẩm đến cung trước đốt đội.
- Thành bên có lỗ hầu vòi tai nằm sau cực sau xoăn mũi dưới khoảng 1cm.
Đây là cửa ngõ tự nhiên để nhiễm trùng lan rộng từ hầu họng đến tai giữa.
Quanh lỗ hầu vòi tai có một mô bạch huyết gọi là hạnh nhân vòi, khi bị viêm
thì làm bít lỗ này và gây ù tai.
- Sự nâng lên của khẩu cái mềm và sự co thắt của cơ khẩu cái hầu đã đóng eo
hầu trong quá trình nuốt và ngăn cách tị hầu khỏi khẩu hầu.

Hình 9.12: Hình thể trong của hầu

b) Phần miệng
- Còn gọi là khẩu hầu, nằm sau ổ miệng, dưới mức khẩu cái mềm, sau mép
trên nắp thanh môn.
- Thành trước của phần này thông với ổ miệng qua eo họng được giới hạn
phía trên là lưỡi gà và bờ sau khẩu cái mềm, phía bên là cung khẩu cái lưỡi
và phía dưới là lưng lưỡi (ngang mức rãnh tận cùng).
- Thành bên có hai nếp chạy từ khẩu cái mềm xuống là cung khẩu cái lưỡi và
cung khẩu cái hầu, giới hạn cho một chỗ lõm cho hạnh nhân khẩu cái định
vị gọi là hố hạnh nhân.
- Thành sau trải từ đốt sống cổ II đến IV
- Các tổ chức bạch huyết của hầu (hạch nhân hầu, hạnh nhân vòi, hạnh nhân
khẩu cái) và hạnh nhân lưỡi của rễ lưỡi tạo nên một vòng bạch huyết quanh
họng, là tuyến đầu để chống nhiễm khuẩn cho vùng này.

Hình 9.13: Các thành phần tạo nên eo họng

c) Phần thanh quản


- Còn gọi là thanh hầu, trải từ xương móng đến bờ dưới sụn nhẫn, nơi nó được
nối tiếp bởi thực quản.
- Phía trước thanh hầu liên hệ với phần trên thanh quản và hai ngách bên của
thanh quản gọi là ngách hình lê được giới hạn bên trong là nếp phễu - nắp,
sụn phễu, sụn nhẫn và bên ngoài là mặt trong sụn giáp và màng giáp móng.
Dị vật thường bị mắc lại ở ngách này.
- Thành sau đi từ đốt sống cổ V đến VI.
- Thành bên là phần được nâng đỡ bởi xương móng và mặt trong sụn giáp.

3. Mạch máu và thần kinh


- Động mạch cấp máu chủ yếu cho vùng hầu là:
+ Động mạch hầu lên (nhánh của động mạch cảnh ngoài)
+ Động mạch khẩu cái lên (nhánh của động mạch mặt)
+ Nhánh bướm khẩu của động mạch hàm
- Các tĩnh mạch hầu tạo thành đám rối tĩnh mạch hầu, nằm giữa các cơ khít
hầu và mạc má hầu, thông nối với đám rối tĩnh mạch chân bướm ở trên và
tĩnh mạch cảnh trong ở dưới.
- Thần kinh chi phối của hầu, của cơ và niêm mạc, chủ yếu xuất phát từ thần
kinh lang thang, thần kinh thiệt hầu, thân giao cảm qua đám rối thần kinh
hầu.

V. Thanh quản
Thanh quản nằm giữa cổ, trước cột sống từ C3-C6, được bao quanh bởi da,
mỡ dưới da, các chi tiết nông, mạc, cơ và các mạch máu lớn vùng cổ. Cấu trúc giải
phẫu này nối hầu ở trên và khí quản ở dưới, thực hiện hai chức năng chính là dẫn
khí và phát âm. Trong đó, phát âm là nhiệm vụ chủ yếu.
1. Cấu tạo
a) Sụn thanh quản
SỤN ĐƠN Sụn giáp - Là sụn lớn nhất của thanh
quản.
- Gồm hai mảnh nối với nhau
SỤN ở phía trước tạo thành lồi
CHÍNH thanh quản.
- Phía trên bờ sau mỗi mảnh
giáp có sừng trên nối với đỉnh
sừng lớn xương móng.
- Phía dưới có sừng dưới khớp
với sụn nhẫn.
Sụn nhẫn - Là sụn duy nhất của thanh
quản có cấu tạo một vòng sụn
trọn vẹn.
- Hình dạng giống chiếc nhẫn,
nằm ngay dưới sụn giáp và
trên vòng sụn khí quản I.
- Sụn nhẫn gồm mảnh sụn
nhẫn hướng ra sau và cung sụn
nhẫn ở phía trước có thể sờ
thấy dưới da.
Sụn nắp thanh môn - Có hình chiếc lá, cuống quay
xuống dưới, cố định vào mặt
sau góc sụn giáp và thân
xương móng.
- Sụn nắp thanh môn gắn vào
mặt sau của lồi thanh quản bởi
dây chằng giáp nắp thanh
môn.
- Các tuyến nhầy năm ở mặt
sau làm cho mặt này có nhiều
lỗ nhỏ.
SỤN ĐÔI Sụn phễu Gồm hai sụn hình tháp cụt mà
đáy khớp với bờ trên sụn
nhẫn, đỉnh khớp tiếp với sụn
sừng, mỏm cơ nằm sau ngoài
có các cơ bám và mỏm thanh
âm hướng ra trước có dây
chằng bám vào.
Sụn sừng
SỤN Sụn chêm
PHỤ
Sụn thóc
Hình 9.14: Các sụn của thanh quản
b) Các cơ thanh quản
Gồm hai nhóm:
- Cơ ngoại lai: Từ các cấu trúc xung quanh bám vào thanh quản như cơ vai
móng, cơ ức móng, cơ ức giáp, cơ giáp móng và một số cơ trên móng là cơ
trâm hầu, cơ khẩu hầu, cơ khít hầu giữa và cơ khít hầu dưới.
- Cơ nội tại: Là cơ có cả hai đầu đều bám vào thanh quản:
Dây thanh âm Khe thanh môn Tiền đinh thanh quản
- Căng: cơ nhẫn giáp, - Mở: cơ nhẫn phễu sau - Làm hẹp: cơ phễu ngang
cơ nhẫn phễu sau. - Khép: cơ phễu chéo cơ giáp phễu
- Chùng: cơ giáp cơ phễu ngang cơ phễu chéo
phễu cơ nhẫn phễu bên cơ phễu nắp
cơ giáp phễu nhóm cơ khít hầu
cơ thanh âm

Hình 9.15: Các cơ của thanh quản


c) Các dây chằng và màng xơ chun thanh quản
- Màng giáp móng: nối từ bờ trên sụn giáp đến xương móng, có bó mạch thần
kinh thanh quản trên xuyên qua. Ở giữa, màng dày lên tạo thành dây chằng
giáp móng giữa và ở hai bên là dây chằng giáp móng bên có chứa sụn thóc.
- Màng tứ giác: là một tấm liên kết hình bốn cạnh:
+ Cạnh trước dính vào bờ bên sụn nắp
+ Cạnh sau bám vào sụn phễu và sụn sừng
+ Cạnh trên tự do khi được phủ niêm mạc thì tạo thành nếp phễu-nắp
thanh môn
+ Cạnh dưới tự do tạo nên nếp tiền đình

Hình 9.16: Màng tứ giác


- Nón đàn hồi (màng nhẫn thanh âm): bên dưới bám dọc bờ trên cung sụn
nhẫn. Ở trên, bám phía trước vào mặt trong góc giáp và ở phía sau vào mỏm
thanh âm sụn phễu, giữa hai chỗ bám này là một bờ tự do dày lên gọi là dây
thanh âm (khi được phủ niêm mạc thì tạo thành nếp thanh âm)
- Các dây chằng thanh quản:
+ Dây chằng móng nắp
+ Dây chằng lưỡi nắp
+ Dây chằng nhẫn khí quản
+ Dây chằng sừng hầu
+ Dây chằng giáp nắp
Nhóm nội tại Nhóm ngoại lai
- Dây chằng giáp nắp - Màng giáp móng
- Dây chằng nhẫn phễu sau - Dây chằng móng nắp
- Màng tứ giác - Dây chằng lưỡi nắp
- Nón đàn hồi - Dây chằng sừng hầu

d) Các khớp thanh quản


Tương tự như các dây chằng, khớp của thanh quản cũng được chia làm hai
nhóm là khớp ngoại và khớp nội. Khớp ngoại là những khớp giữa sụn thanh quản
và các cấu trúc lân cận. Khớp nội là những khớp giữa các sụn thanh quản với nhau,
bao gồm:
- Khớp nhẫn giáp: Giữa sừng dưới sụn giáp và sụn nhẫn
- Khớp nhẫn phễu: Đóng vai trò quan trọng trong cơ chế phát âm
- Khớp phễu sừng: Là khớp bất động

Hình 9.16: Các khớp thanh quản


2. Hình thể trong
Hình 9.16: Giới hạn ổ thanh quản
Hình thể ngoài của thanh quản tương đối to nhưng ổ thanh quản (Laryngeal
cavity) lại hẹp và được chia thành nhiều tầng khác nhau. Nếp tiền đình (Vestibular
folds) và nếp thanh âm (Vocal folds) chia ổ thanh quản thành 3 phần:
a) Tiền đình thanh quản (Laryngeal vestibule)
- Hình phễu, được giới hạn bởi mặt trong hai màng tứ giác được phủ niêm
mạc, có bở trên là nếp phễu nắp và bờ dưới là nếp tiền đình.
- Giới hạn phía trên là lỗ trên thanh quản, giới hạn dưới là tiền đình thanh
quản. Hai nếp tiền đình giới hạn bởi một khe ở giữa là khe tiền đình (Rima
vestibuli).

b) Thanh thất (Glottis)


- Là khoang giới hạn bởi nếp tiền đình ở trên và nếp thanh âm ở dưới. Nếp
thanh âm có bờ mỏng, nằm gần giữa hơn nếp tiền đình. Bờ của nếp thanh âm
có dây chằng thanh âm và cơ thanh âm. Khe nằm giữa hai dây chằng thanh
âm là khe thanh môn (Rima glottidis), gồm hai phần:
+ Phần gian màng: nằm giữa các nếp thanh âm ở phía trước
+ Phần gian sụn: nằm giữa các sụn phễu ở phía sau
c) Ổ dưới thanh môn (Infraglottis Cavity)
- Là tầng dưới của dây chằng thanh âm, có hình phễu ngược, được tạo nên bởi
mặt trong của nón đàn hồi phủ niêm mạc, có giới hạn trên là nếp thanh âm.
- Niêm mạc của ổ dưới thanh môn chứa nhiều tuyến và dễ bóc tách.

Hình 9.17: Phân chia ổ thanh quản

3. Mạch máu và thần kinh


a) Mạch máu
- Động mạch cung cấp máu cho thanh quản chủ yếu là động mạch thanh quản
trên (Superior laryngeal artery) (nhánh của động mạch giáp trên thuộc cảnh
ngoài) và động mạch thanh quản dưới (Inferior laryngeal artery) (từ động
mạch giáp dưới thuộc thân giáp cổ của động mạch dưới đòn).
- Máu dẫn lưu về theo các tĩnh mạch tương ứng là tĩnh mạch thanh quản trên
và tĩnh mạch thanh quản dưới.
- Mạch bạch huyết: Gồm những nhóm hạch bạch huyết trên và dưới nếp thanh
âm.
Hình 9.18: Động mạch cấp máu cho thanh quản

b) Thần kinh
- Tất cả các cơ nội tại của thanh quản đều do thần kinh thanh quản dưới
(Inferior laryngeal nerve) chi phối, ngoại trừ cơ nhẫn giáp. Cơ nhẫn giáp do
thần kinh thanh quản trên (Superior laryngeal nerve) vận động.
- Chịu trách nhiệm cảm giác cho phần thanh quản phía trên nếp thanh âm là
do thần kinh thanh quản trên. Còn phần dưới nếp thanh âm là do thần kinh
thanh quản dưới chi phối.
Hình 9.19: Thần kinh thanh quản
VI. Khí quản

Hình 9.20: Sơ đồ thanh quản, khí quản và phế quản chính


Khí quản (Trachea) là ống dẫn khí, được cấu tạo bởi sụn và các dây chằng,
nối thanh quản ở trên và phế quản ở dưới. Sụn khí quản không tạo thành một vòng
sụn trọn vẹn quanh khí quản mà có hình chữ C được phủ kín ở phía sau bằng một
lớp cơ trơn và nối liền với nhau bởi các dây chằng vòng. Lòng khí quản được lót
bởi một lớp niêm mạc và ở chỗ chia đôi có một gờ dọc phân cách hai lỗ phế quản
chính gọi là cựa khí quản. Có khoảng 16 đến 20 sụn khí quản.
1. Hình thể ngoài
- Nằm trên đường giữa, từ đốt sống cổ C6, khí quản chạy xuống dưới, ra sau
và hơi lệch sang phải. Đến đốt sống ngực N4 - N5, thì khí quản chia thành
phế quản chính phải và phế quản chính trái.
- Phế quản chính phải ngắn hơn, dốc hơn và có đường kính lớn hơn bên trái
nên dị vật thường rơi vào bên phải nhiều hơn bên trái.
- Hai bên khí quản liên quan với các thành phần trong bao cảnh (động mạch
cảnh chung, tĩnh mạch cảnh trong và thần kinh X), thần kinh quặt ngược
thanh quản.
2. Liên quan
a) Liên quan ở cổ
- Phía trước là da, mỡ dưới da, cơ mạc vùng cổ. Eo tuyến giáp là một chi tiết
quan trọng dính chắc vào các vòng sụn 2,3,4.
- Phía sau là thực quản nằm chếch về bên trái so với khí quản. Thần kinh quặt
ngược thanh quản nằm trong vách giữa thực quản và khí quản.
- Hai bên là các mạch máu lớn và thần kinh ở cổ như: động mạch cảnh chung,
tĩnh mạch cảnh trong, thần kinh lang thang…

Hình 9.21: Thiết đồ cắt ngang đốt sống cổ

b) Liên quan ở ngực


Khí quản đi vào ngực trong trung thất, được bao quanh bởi mô liên kết lỏng
lẻo và gắn chặt vào trung tâm gân cơ hoành.
- Phía trước là cung động mạch chủ, thân động mạch cánh tay đầu, động mạch
cảnh chung trái, tĩnh mạch tay đầu trái, và tuyến ức.
- Phía sau là thực quản nằm lệch về bên trái.
- Bên phải là thần kinh lang thang, cung tĩnh mạch đơn, tĩnh mạch chủ trên,
màng phổi trung thất và qua màng phổi liên quan với phổi phải.
- Bên trái là cung động mạch chủ, động mạch dưới đòn trái, thần kinh quặt
ngược thanh quản trải.
Hình 9.22: Tương quan khí quản ở đoạn ngực

3. Mạch máu và thần kinh


a) Động mạch
Khí quản nhận máu nuôi từ các động mạch sau:
- Động mạch giáp dưới (Inferior thyroid artery) là nhánh của thân giáp cổ xuất
phát từ động mạch dưới đòn.
- Động mạch giáp trên (Superior thyroid artery) là nhánh của động mạch cảnh
ngoài.
- Động mạch phế quản: có thế xuất phát từ động mạch chủ hay động mạch
gian sườn sau thứ ba.
Hình 9.23: Động mạch cung cấp máu cho khí quản

b) Tĩnh mạch
Dẫn lưu máu hai bên khí quản về các đám rối tĩnh mạch của tĩnh mạch tuyến
giáp kế cận.

c) Mạch bạch huyết


Tương đối nhiều, có thể chia chúng thành hai nhóm là nhóm dưới niêm mạc
và nhóm trong niêm mạc. Mạch bạch huyết khí quản dẫn lưu về các hạch khí quản,
hạch phế quản và hạch thực quản.

d) Thần kinh
Nhận các nhánh từ hạch giao cảm cổ và các thần kinh quặt ngược thanh
quản.
Hình 9.23: So sánh các lớp của khí quản, phế quản và tiểu phế quản
VII. Phổi
Phổi là cơ quan trao đổi khí, gồm hai phổi nằm trong lồng ngực giới hạn
trung thất. Mỗi phổi được bao bọc bởi một phức hợp màng phổi, đóng vai trò quan
trọng trong chức năng hô hấp.

1. Hình thể ngoài


Phổi là một tạng di động trong lồng ngực, nhưng được giữ chặt vào tim và
khí quản. Có thể coi mỗi phổi như một nửa hình tròn, gồm một đỉnh, một đáy, hai
mặt và hai bờ.
a) Đỉnh phổi
Là một mỏm nhô lên khỏi lỗ trên lồng ngực nên thường nghe đỉnh phổi ở
đáy cổ.

b) Đáy phổi
Có mặt hoành lõm nằm ngay trên vòm hoành. Cơ hoành ngăn cách đáy phổi
và các tạng trong ổ bụng:
- Đáy phổi phải với: Phúc mạc, thùy trái của gan
- Đáy phổi trái với: Phúc mạc, thùy trái của gan, đáy vị, lách và đại tràng góc
lách

c) Mặt sườn
- Lồi, hướng ra ngoại vi để liên hệ với các xương sườn chính vì vậy có các vết
hằn gọi là ấn sườn.
- Mặt này thấy rõ các khe gian thùy (Interlobar fissure) gồm khe chếch
(Oblique fissure) và khe ngang (Horizontal fissure)
- Đối với phổi trái, chỉ có khe chếch nên phổi trái chỉ có 2 thùy là thùy trên
(Superior lobe) và thùy dưới (inferior lobe), nhưng lại có một phần nhu mô
nhô ra ở phía trước dưới gọi là lưỡi phổi trái.
- Đối với phổi phải, thì có cả khe chếch và khe ngang, chia phổi thành 3 thùy:
thùy trên, thùy giữa và thùy dưới.
Hình 9.24: Hình thể ngoài của phổi

d) Mặt trong
- Mặt trong hay còn gọi là mặt trung thất, gồm hai phần:
+ Phần cột sống: lồi, liên quan với cạnh bên của thân đốt sống và các
đĩa gian đốt sống, bó mạch gian sườn sau, thần kinh tạng.
+ Phần trung thất: liên quan mật thiết với tim tại ấn tim. Ấn tim bên
trái rất sâu nên gọi là hố tim.
- Mặt trong có rốn phổi và các vết ấn do những cấu trúc lân cận tạo thành như
rãnh động mạch dưới đòn, rãnh thân tĩnh mạch cánh tay đầu. Ngoài ra, còn
có rãnh tĩnh mạch đơn đối với phổi phải và động mạch chủ đối với phổi trái.
- Rốn phổi là nơi mà các thành phần của cuống phổi đi qua như:
+ Phế quản chính
+ Động mạch phổi
+ Hai tĩnh mạch phổi
+ Động mạch phế quản
+ Tĩnh mạch phế quản
+ Các dây thần kinh và hạch bạch huyết.
- Có sự khác biệt về tương quan giữa các thành phần trong rốn phổi phải và
trái:
+ Đối với rốn phổi phải, động mạch phổi nằm phía trước phế quản
chính. Phía trước dưới là ấn tim. Trước và trên là ân tĩnh mạch đơn và
ấn của thân tĩnh mạch cánh tay đầu. Phía sau là ấn thực quản.
+ Đối với rốn phổi trái, động mạch phổi nằm phía trên phế quản chính.
Phía trước dưới là hố tim. Phía trước và trên là ấn cung động mạch
chủ, ấn động mạch dưới đòn… phía sau là ấn động mạch chủ.

Hình 9.25: Rốn phổi


Hình 9.26: So sánh rốn phổi trái và phải
- Hai tĩnh mạch phổi nằm trước và dưới phế quản chính. Các thành phần trong
rốn phổi được bao xung quanh bởi màng phổi.
e) Bờ trước
- Là giới hạn phía trước giữa mặt sườn và mặt trong.
- Đối chiếu lên thành ngực ngay sát đường giữa, nối từ đỉnh phổi đến đầu
trong sụn sườn VI.
- Bờ trước phổi trái có khuyết một phần tương ứng với tim gọi là khuyết tim.
f) Bờ dưới
- Là một bờ khép kín bao lấy mặt hoành, có hai đoạn:
+ Đoạn thẳng phân cách mặt hoành với mặt trong
+ Đoạn cong phân cách mặt hoành với mặt sườn, mỏng và sắc, lách vào
ngách sườn hoành của màng phổi
- Đoạn này đối chiếu lên thành ngực theo một đường từ đầu trong sụn sườn
VI, qua mức gian sườn VII ở đường nách giữa và tới gần cột sống ở đầu sau
xương sườn XI.
- Để tránh chọc vào phổi, người ta chọc dò màng phổi ở khoang gian sườn
VIII đường nách giữa để lấy dịch ở ngách dưới hoành.
Hình 9.27: Các bờ của phổi
2. Hình thể trong (Đọc thêm trong sách GP học hệ thống)
Các thành phần của cuống phổi đi qua rốn phổi: cây phế quản, động mạch,
tĩnh mạch phổi, động tĩnh mạch phế quản và thần kinh phổi chia nhỏ dần, kết hợp
với mô liên kết ở chung quanh tạo nên phổi.
a) Sự phân chia của cây phế quản
- Phế quản chính chia thành các phế quản thùy.
- Phế quản thùy chia thành những phế quản phân thùy.
- Phế quản phân thùy lại chia thành các phế quản hạ phân thùy.
- Phế quản hạ phân thùy tiếp tục chỉa nhiều lần nữa để tạo thành phế quản tiểu
thùy dẫn khí cho một tiểu thùy phổi. Tiểu thùy phổi là đơn vị cơ sở của phổi.
- Mỗi tiểu thùy có những tiểu phế quản tận cùng chia thành các tiểu phế quản
hô hấp dẫn khí vào ống phế nang, rồi túi phế nang và cuối cùng là phế nang.
- Có thể tóm tắt sự phân chỉa cây phế quản cho đến phế quản phân thùy như
sau:
Bảng tóm tắt tên và số thứ tự các phân thùy phổi
Phổi phải Phổi trái
Thùy trên

1. Phân thùy đỉnh 1 - 2. Phân thùy đỉnh - sau

2. Phân thùy sau

3. Phân thùy trước 3. Phân thùy trước

Thùy giữa

4. Phân thùy bên 4. Phân thùy lưỡi trên

5. Phân thùy giữa 5. Phân thùy lưỡi dưới

Thùy dưới

6. Phân thùy đỉnh 6. Phân thùy đỉnh

6’. Phân thùy dưới đỉnh 6’. Phân thùy dưới đỉnh

7. Phân thùy đáy giữa 7 - 8. Phân thùy đáy trước giữa

8. Phân thùy đáy trước

9. Phân thùy đáy bên 9. Phân thùy đáy bên

10. Phân thùy đáy sau 10. Phân thùy đáy sau

Hình 9.27: Các phân thùy phổi trái và phải


- Cách chia phân thùy này mang ý nghĩa phẫu thuật nhiều hơn vì mỗi phân
thùy có phế quản, động mạch riêng của nó, một vài tĩnh mạch dưới phân
thùy nhưng lại có nhưng lại có tĩnh mạch chính nằm ở ngoại vi của phân
thùy.
- Phế nang là nơi xảy ra quá trình trao đổi khí giữa máu và không khí. Hệ
thống phế quản có các cơ trơn, các cơ này khi co thắt làm hẹp đường thông
khí, vì vậy trong bệnh lý hen gây khó thở nhất là ở thì thở ra.
b) Sự phân chia của động mạch phổi
- Thân động mạch phổi xuất phát từ tâm thất phải chạy lên trên, ra sau đến bờ
sau cung động mạch chủ thì chia thành động mạch phổi phải và động mạch
phổi trái, uốn quanh cây phế quản và phân chia gần giống cây phế quản.
- Động mạch phổi dẫn máu đen đến phổi để trao đổi khí nên đó là động mạch
chức năng của phổi.

Hình 9.27: Động mạch phổi


c) Sự hình thành tĩnh mạch phổi
- Các lưới mao mạch quanh các phế nang đổ vào các tĩnh mạch quanh tiểu
thùy rồi lập rồi tập trung lớn dần, cuối cùng hợp thành tĩnh mạch phổi trên
(nhận máu từ thùy trên và giữa) và tĩnh mạch phổi dưới (nhận máu của thùy
dưới mỗi phổi) đem máu giàu oxy đổ về tâm nhĩ trái.
Hình 9.28 :Sự hình thành tĩnh mạch phổi
d) Động - tĩnh mạch phế quản
- Là hệ mạch dinh dưỡng của phổi
- Động mạch phế quản tách ra từ động mạch chủ
- Tĩnh mạch phế quản đổ về hệ tĩnh mạch đơn
e) Bạch huyết phổi
- Các mạch bạch huyết từ nhu mô phổi đến các hạch bạch huyết phổi thường
nằm ở chỗ chia của các phế quản rồi tạo thành các mạch đi đổ tiếp vào hạch
phế quản-phổi ở rốn phổi và cuối cùng đổ vào hạch khí-phế quản ở chỗ chia
đôi của khí quản.

VIII. Màng phổi


1. Lá tạng
- Áp sát bề mặt của phổi, lách vào các khe gian thùy đến tận rốn phổi.
- Lá thành và lá tạng liên tục nhau ở rốn phổi theo hình vợt mà cán hướng
xuống dưới tạo thành dây chằng phổi.

2. Lá thành
- Bọc ngoài lá tạng và dính vào lồng ngực, cơ hoành và các cơ quan lân cận
gồm các phần đỉnh màng phổi, màng phổi sườn, màng phổi hoành và màng
phổi trung thất.

3. Ổ màng phổi và các ngách màng phổi


- Giữa hai lá màng là ổ màng phổi, là một khoang ảo nên lá tạng áp sát và
trượt lên lá thành. Hai ổ màng phổi không thông nhau.
- Ổ màng phổi có hai ngách quan trọng là:
+ Ngách sườn-hoành:
● Được giới hạn bởi phần sườn và phần hoành của lá hoành, là
nơi thấp nhất nên thường là nơi ứ đọng dịch của ổ màng phổi.
● Đối chiếu lên thành ngực ở mức thấp hơn bờ dưới phổi khoảng
hai khoảng gian sườn: ngang mức xương sườn VIII đường
trung đòn, xương sườn X ở đường nách giữa và xương sườn
XII ở gần cột sống.
+ Ngách sườn-trung thất:
● Do màng phổi sườn gặp màng phổi trung thất.
● Ngách này đối chiếu lên thành ngực ứng với bờ trước phổi, trừ
phần dưới bên trái thì gần đường giữa hơn khuyết tim.

You might also like