You are on page 1of 4

1.

Tại mức X thì số dư trong tài khoản phải thỏa điều kiện:
3.375 + 1000*(X – 27,42) >= 2.500 => X >= 26,545$
Biến động giá tối thiểu là 0,01$. Vậy khi giá thấp hơn hoặc bằng 26,535 thì NĐT
nhận được margin call

1. Các loại chi phí trong giao dịch giao sau và kỳ hạn là:
- Phí hoa hồng
Hoa hồng trả cho người môi giới được tính trên giá trị hợp đồng. Hoa hồng được
trả vào lúc đầu đặt lệnh vào bao gồm cả hoa hồng mở cửa và đóng cửa, có nghĩa là
tiền hoa hồng xoay vòng sẽ phải trả bất chấp nhà giao dịch cuối vị thế hợp đồng
hoặc thực hiện giao nhận hay thanh toán tiến. Không một tỷ lệ hoa hồng nhất định
nào nhưng tỷ lệ thống thường ít hơn cho 1 lần xoay vòng.
Tất cả các nhà giao dịch, dù trong sản hay ngoài sàn đều chịu một mức phí thiểu
phải trả cho công ty thanh toán bù trừ và bao gồm phí chuyển đổi và một loại phí
được đưa ra bởi Hiệp hội Giao sau quốc gia. Những phí này thường ít hơn 2$ cho
mỗi hợp đồng.
Trong thị trường kỳ hạn, chi phí giao dịch thường được cộng trực tiếp khi giao
dịch, vì vậy thường thì không có chi phí hoa hồng. Tuy nhiên, có những chi phí
đáng kể liên quan đến công việc giấy tờ
- Chênh lệch giá mua bán
Loại thứ hai của chi phí giao dịch là chênh lệch giá mua bán. Không giống như
trên thị trường quyền chọn và chứng khoán, trên thị trường giao sau không có
người tạo lập thị trường đúng nghĩa. Nhiều nhà kinh doanh trên sàn, đặc biệt là các
nhà kinh doanh chênh lệch giá mua bán và những tay đầu cơ nhỏ lẻ tiến hành yết
giá ở mức họ sẵn lòng đồng thời mua ở giá hỏi mua và bán ở giá chào bán. Chênh
lệch giá mua bán là chi phí thanh khoản - đó chính là khả năng bán nhanh mà
không có sự giảm giá lớn nào. Bởi vì các chênh lệch không điện tử hóa trên các
báo cáo nên có ít bằng chứng thống kê về quy mô của các giao dịch này. Chênh
lệch thường là giá trị tối thiểu của biến động giá, gọi là mộttick nhưng chúng có
giá trị tương đương ít hơn 1 tick đối với những thị trường nào có ít tính thanh
khoản hơn.
Trong thị trường kỳ hạn, chênh lệch giá mua bán được các nhà kinh doanh xác
định theo nhiều cách thức tương tự như là họ đang ở trên sàn giao dịch vây. Các
chênh lệch này có thể khá lớn, tùy thuộc vào lòng ham muốn của những nhà kinh
doanh và các đối thủ cạnh tranh là như thế nào.
- Chi phí giao nhận
Một nhà giao dịch giao sau nắm giữ vị thế giao nhận hàng hóa thường gặp phải
những khó khăn do có khả năng gánh chịu những chi phí giao nhận hàng phát sinh
rất lớn. Trong hầu hết các công cụ tài chính, chi phí này khá nhỏ. Tuy nhiên, đối
với hàng hóa, do cần thiết phải tổ chức quá trình dự trữ, giao nhận và vận chuyển
hàng hóa nên chi phí là khá cao. Mặc dù câu chuyện bất hủ về sự bất cẩn của các
nhà giao dịch, những người thức tỉnh nhằm kiếm hàng nghìn pound của dạ dày lợn
đã đổ thành đống chắc chắn là sự phóng đại, bất cứ ai nắm giữ vị thế mua trong
tháng giao nhận phải được báo cáo về khả năng giao nhận. Không có hoài nghi nào
giải thích về sự phổ biến của hợp đồng thanh toán tiền mặt.
Trên các thị trường kỳ hạn, các chi phí giao dịch được thiết kế theo nhu cầu của
các bên. Do đó kỳ hạn thường được xác định ở mức sao cho có chi phí giao nhận ở
mức tối thiểu. Giao nhận tiền mặt thường được thực hiện
2. Điểm dừng giao dịch và giới hạn sử dụng mỗi ngày là gì? Tại sao chúng
lại được sử dụng.
Nếu giá của một hợp đồng đụng giá trần, thị trường được gọi là giới hạn
trên. Nếu giá chạm giá sàn thị trường được gọi là giới hạn dưới. Thông
thường các giao dịch nào ở trên hoặc ở dưới giới hạn giá, thì không được
phép thực hiện giao dịch. Một vài hợp đồng chỉ giới hạn trong vài phút mở
cửa, một vài hợp đồng khác có các mức giới hạn có thể kéo dài theo quy
định.
Trong các mức giới hạn giá, một vài hợp đồng giao sau, đặc biệt là đối với
hợp đồng giao sau chỉ số chứng khoán, có thêm điểm dừng giao dịch (built
in trading halts) đôi khi được gọi là các mạch tự động ngắt. Khi giá cả biến
động nhanh, giao dịch có thể ngừng lại trong các thời kỳ đã được xác định
trước. các điểm ngừng này có thể xảy ra cùng với các điểm ngừng tương tự
trên thị trường giao ngay.
Việc sử dụng điểm dừng giao dịch nhằm mục đích làm ngừng giao dịch
được quy định kể từ sau cuộc khủng hoảng trên thị trường tài chính vào năm
1987 do có những quan ngại rằng các thị trường biến động mạnh cần phải có
một thời gian để làm dịu lại. Hiện nay vẫn còn có những tranh luận về các
điểm ngừng giao dịch có thực sự hiệu quả hay không, nhưng cho dù như thế
nào đi nữa thì chúng vẫn còn được sử dụng trên thị trường giao sau
Số lượng ban đầu:Peter có 2000 HĐ và IB có 5200 HĐ, C bán 7200 HĐ
Peter bán 600 HĐ, IB mua 600 HĐ => Peter còn 1400 HĐ, IB có thêm 5800 HĐ
Peter mua 800 HĐ, IB bán 800 HĐ => Peter có thêm 2800 HĐ, IB còn 4400 HĐ
Peter bán 800 HĐ, C mua 800 HĐ => Peter còn 1200 HĐ, C có thêm 800 HĐ ở vị
thế mua
Số lượng HĐ mà NĐT nắm giữ tăng hay giảm phụ thuộc vào việc NĐT
đang ở vị thế mua hay vị thế bán

You might also like