Nếu ai đã một lần đến Huế, chắc hẳn chẳng thể nào quên được hình ảnh của
dòng sông Hương xanh mát uốn lượn thật
mềm mại quanh thành phố Huế. Nhưng đã có ai hiểu rõ dòng sông hiền hòa, êm dịu ấy bằng một người yêu Huế tha thiết- Hoàng Phủ Ngọc Tường hay chưa? Bằng một phong cách riêng vừa giàu trí tuệ lại giàu chất thơ, với đầy đủ kiến thức về địa lý, lịch sử, văn hóa, ông đã mang đến cho chúng ta những hình ảnh thật chân thực về con sông Hương của xứ Huế mộng mơ qua bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông. Qua đoạn trích … cho thấy vẻ đẹp sông Hương về tới ngoại vi thành và bộc lộ nét tài hoa của tác giả. Hoàng Phủ Ngọc Tường là một gương mặt nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại, cũng là một trí thức yêu nước luôn tích cực tham gia các phong trào đấu tranh chống Mỹ ngụy ở miền Nam thời kì trước 1975. Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn có phong cách độc đáo và đặc biệt sở trường về thể bút kí, tuỳ bút. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hoá, lịch sử, địa lí... Tất cả được thể hiện trong lối hành văn hướng nội súc tích, mê đắm và tài hoa. Ai đã đặt tên cho dòng sông là bài bút kí xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường viết tại Huế năm 1981, in trong tập bút kí cùng tên, năm 1986. Bài bút kí lấy cảm hứng mãnh liệt từ dòng sông Hương thơ mộng của xứ Huế. Dòng sông quê hương được nhà văn soi chiếu từ nhiều góc độ của lịch sử, địa lí, văn hoá... Qua những suy tư và liên tưởng, dòng sông đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp của vùng đất cố đô với trang sử vẻ vang, với cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, trở thành biểu tượng cho văn hoá và tâm hồn con người xứ Huế. Bài bút ký kể về một dòng sông Hương tươi mà tạo hóa đã dành riêng cho xứ Huế mộng mơ. Sông Hương có lúc hiện lên hoang dại như một cô gái giang hồ, có lúc lại rất trữ tình và thơ mộng. Đó cũng là tính cách của một cô gái ngang bướng, mạnh mẽ nhưng không kém phần mềm mại, thơ mộng. Dòng sông ấy không lặp lại trong cảm hứng của người nghệ sĩ, dù từ thời hiện đại hay ngược dòng thời gian về thời phong kiến. Bằng chứng về vẻ đẹp của cảnh quan và sự gắn bó của sông Hương với tiến trình lịch sử, văn hóa của dân tộc, nó xứng đáng được gọi là “dòng sông huyền bí, nơi sản sinh ra vẻ đẹp tâm hồn của đất nước”. Sông Hương bắt nguồn từ dãy núi Trường Sơn, với hai dòng chính, đó là dòng Tả Trạch và dòng Hữu Trạch. Hai dòng này gặp nhau tại ngã ba Bằng Lăng. Từ Bằng Lăng đến cửa sông Thuận An, sông Hương dài 33km và chảy rất chậm, bởi vì mực nước sông ở đây không cao hơn mấy so với mực nước biển. Từ nguồn về, sông Hương chảy quanh các chân núi, xuyên qua các cánh rừng rậm của hệ thực vật nhiệt đới. Con sông chảy chậm qua các làng mạc như Kim Long, Nguyệt Biều, Vĩ Dạ, Gia Hội, Bao Vinh... Hai bên bờ sông gồm thành quách, chùa chiền, tháp và đền đài.Sông Hương hiện ra qua sự kết hợp nhiều góc nhìn khác nhau của Hoàng Phủ Ngọc Tường từ địa lý, lịch sử, văn hoá, nghệ thuật... “hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất. Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn mãnh liệt qua những ghềnh thác”. Nhưng rồi cũng có những lúc sông Hương “trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng” Mở đầu bài bút ký, sông Hương hiện hình ở nơi thượng nguồn với vẻ đẹp thơ mộng nhưng rất hùng vì Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chối lại của hoa đỗ quyên rừng. Ở nơi khởi nguồn của dòng chảy, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ví sông Hương với một hình ảnh mang nhiều sức gợi - bản trường ca của rừng già. Hình ảnh so sánh ấy được đặt trong một câu văn dài, được chia làm nhiều về, có sử dụng thủ pháp điệp cấu trúc (rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn mãnh liệt qua những ghềnh thác/ cuộn xoáy như những cơn lốc...) vừa để gợi dậy cái dư vang của trường ca, vừa tạo nên âm hưởng hùng tráng, mạnh mẽ của con sông giữa rừng già. Nơi đây, sông Hương còn được hình dung như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại với bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do và trong sáng. Cô gái ấy, dòng sông ấy thật đẹp, một vẻ đẹp quyến rũ và đắm say. Ở góc nhìn khác, sông Hương ở thượng nguồn còn được Hoàng Phủ Ngọc Tường vi như người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Với biện pháp nhân hóa này, người con xứ Huế đã xem sông Hương như một đảng sáng tạo góp phần tạo nên, gìn giữ và bảo tồn văn hóa của một vùng thiên nhiên xứ sở. Đây là một phát hiện độc đáo về sông Hương chỉ có thể có ở một người gắn bó và am tưởng về mảnh đất cố đô. Như vậy, bằng tình yêu và niềm tự hào với dòng sông quê hương, với trí tưởng tượng phong phủ và khả năng khám phá tài tình, độc đáo. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã miêu tả dòng sông Hương ở khúc thượng nguồn trong vẻ đẹp hoang dại, nguyên so và đầy cá tính. Đến với đoạn trích, Trong cái nhìn tình tứ và lãng mạn của nhà văn, toàn bộ cuộc hành trình của dòng sông từ thượng nguồn về tới Huế giống như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của một cô gái đẹp trong câu chuyện cổ tích lãng mạn về tình yêu. Trước khi trở thành người tình chung thuỷ và dịu dàng của cố đô, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân và thử thách với những núi Ngọc Trản, những đồi Tam Thai, Lựu Bảo, Thiên Mụ... nhưng chính trong thuỷ trình gian truân ấy, qua cách miêu tả tài hoa và cái nhìn tình tứ của nhà văn, sông Hương lại có cơ hội phô khoe tất cả những vẽ đẹp của mình, từ những đường cong tuyệt mỹ trên thân hình mềm mại, kiều diễm cho đến những âu yếm, nồng nàn trong tâm hồn người con gái đang khao khát, đắm say tìm đến với tình yêu. Từ Bến Tuần, sông Hương vẫn tiếp tục chảy xuôi trong âm vang của Trường Sơn, sau khi vượt qua lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản, sắc nước của nó đã trở nên xanh thẳm, và từ đó dòng sông trôi giữa hai dãy đồi cao lớn “sừng sững như thành quách, với những điểm đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo”. Những con thuyền xuôi ngược trên dòng sông Hương cũng chỉ bé vừa bằng “ con thoi”, còn dòng sông lại như một tấm lụa khổng lồ, mềm mại. Những tấm lụa ấy rực rỡ với những sắc màu thay đổi theo thời gian “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Thật ra, đó chỉ là những ánh màu được phản quang theo thời gian trong ngày nhưng chính sự phản quang cấu lại là sự biến hóa kỳ ảo riêng biệt của dòng sông Hương mà không con sông nào khác có. Mỗi chặng đường của sông Hương gắn liền với một địa danh cụ thể, thân thuộc của Huế lại được nhà văn miêu tả theo một cách cảm nhận riêng độc đáo khiến hành trình về xuôi của sông Hương không chỉ được tái hiện chân thực theo dòng chảy tự nhiên trên bản đồ địa lí mà còn thấm đượm chất trữ tình khi hình dung đó là một cuộc kiếm tìm bờ bến tình yêu của người con gái đẹp yêu kiều. Sử dụng một loạt các động từ mang sắc thái nhân hoá, nhà văn đã vẽ lên một hành trình sinh động, hấp dẫn của dòng sông. Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, sông Hương hiện ra như một cô gái đẹp mơ màng vừa bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài trong rừng sâu, vươn mình ra khỏi vùng núi thâm u, trầm mặc, bừng thức sức sống trẻ trung và niềm khao khát thanh xuân khi chuyển dòng liên tục, khi vòng đột ngột, khi uốn mình trong những đường cong thật mềm, khi vẽ một hình cung thật tròn, ôm lấy đồi Thiên Mụ, vượt qua vực, đi giữa âm vang, trôi đi giữa hai dãy đồi... Những câu văn dài nối tiếp nhau làm nên dòng chảy miên man của sông Hương, vừa mạnh mẽ với những dư vang của Trường Sơn như còn phảng phất, vừa duyên dáng với những khúc lượn vòng mềm mại, đầy nữ tính. Hành trình của dòng sông để đến với vẻ đẹp bình lặng dịu dàng, trí tuệ cho thấy sự mạnh mẽ của niềm khát khao, của bản lĩnh kiên cường giấu trong vẻ dịu dàng duyên dáng. Dòng sông trôi chảy giữa những bến bờ của ngoại vi thành Huế, và trong cách cảm nhận độc đáo của nhà văn, dòng sống như được phản chiếu những vẻ đẹp của cảnh sắc đôi bờ sông: sông Hương như cô gái digan hoang dã sau khi ra khỏi những cánh rừng đại ngàn đã tự làm đẹp, làm mới mình trong màu xanh thẳm của sắc núi Ngọc Trản; hiền dịu lượn quanh giữa những Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo để trở nên mềm như tấm lụa, nhận lấy ảnh phản quang của những ngọn đồi sớm xanh, trưa vàng, chiều tím để rực rỡ, kiêu sa; thấm vào lòng mình vẻ đẹp u tịch của rừng thông, vẻ đẹp trầm mặc toả ra từ giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa thời Nguyễn trong khu lăng tẩm Vạn Niên đồ sộ; bừng sáng, tươi tắn khi gặp mênh mang tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà - cái hư vô tịch mịch của tiếng chuông chùa hoà quyện với chất thơ ấm áp của tiếng gà nơi thôn dã đã đưa dòng sông trôi đi giữa mộng và thực, giữa đạo và đời, như thực, như mơ. Đoạn văn miêu tả đã cho thấy vẻ đẹp của sông Hương chính là sự hắt bóng kì diệu vẻ đẹp của quần thể thiên nhiên thơ mộng xử Huế. Thiên nhiên Huế như nguồn phù sa tuyệt vời bồi đắp vẻ đẹp nên thơ cho dòng sông Hương, người con gái dịu dàng của mình. Có thể thấy, bằng một lối hành văn uyển chuyển, ngôn ngữ đa dạng và giàu hình ảnh, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã diễn tả một cách sinh động và hấp dẫn từng bước đi của sông Hương. Mỗi đường đi nước bước của nó gắn với những địa danh khác nhau của xứ Huế đã được nhà văn giành cho một cách diễn đạt riêng. Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ tái hiện lại một cách chân thực dòng chảy tự nhiên trên bản đồ địa lí của dòng sông Hương mà quan trọng hơn là đã biến thủy trình ấy thành một hành trình của người con gái đẹp. Nhờ đó mà cùng với hành trình về xuôi của sông Hương, người đọc được đi từ hết phát hiện này sang ngạc nhiên khác. Ai đã đặt tên cho dòng sông ? là bài kí đặc sắc về con sông Hương của xứ Huế. Đọc bài kí, ai cũng dễ dàng nhận thấy : tác giả của nó - nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dành hết tâm sức và tình cảm của mình, thậm chí cả tinh hoa và tinh huyết của một đời văn để say sưa khám phá và miêu tả vẻ đẹp của Hương giang. Chỉ nói riêng về thủy trình của dòng sông từ thượng nguồn đổ về xuôi rồi đi ra biển, ta có thể thấy nhà văn đã say sưa và kì công “đúc câu luyện chữ” để dành tặng cho dòng sông mà mình yêu dấu như thế nào : ở thượng nguồn, sông Hương là “bản trường ca của rừng già”, là “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, là “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Khi rời vùng núi để về đồng bằng, con sông hiện lên giống như “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại được người tình mong đợi đến đánh thức”.Dường như nhà văn đã dành những câu chữ đẹp nhất trong vốn liếng ngôn ngữ của mình để gọi tên sông Hương, để định danh những vẻ đẹp vô cùng phong phú, đa dạng và độc đáo của nó. Những lời hay ý đẹp ấy đâu phải dễ thường mà có ngay được. Nó hẳn phải là kết tinh của tình yêu sâu đậm, của những hiểu biết tường tận về dòng sông và của một lối tư duy sắc bén đã được tưới tắm trong niềm xúc cảm say mê, để rồi thăng hoa trong cảm hứng nghệ thuật. Nói đến sự tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, thiết nghĩ trước hết phải nói đến cách nhìn nhận và phát hiện của nhà văn về vẻ đẹp của dòng sông. Ở đây, sông Hương không hiện lên với một vẻ đẹp thuần nhất mà hiện ra trong những vẻ đẹp khác nhau và hết sức phong phú. Mỗi vẻ đẹp lại đem đến một cảm nhận riêng thú vị cho độc giả. Chỉ riêng việc hình dung vẻ đẹp của sông Hương như vẻ đẹp của người thiếu nữ, ta đã thấy trong đoạn trích này sông Hương mang những nét quyến rũ riêng : “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”, các đoạn miêu tả dòng chảy uốn lượn của con sông đều đem đến cảm nhận về vẻ đẹp gợi cảm, đáng yêu của người thiếu nữ. Khi thì giống như những đường cong trên thân thể người con gái : “sông Hương đã chuyển dòng liên tục, vòng giữa những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”; Sẽ thật là thiếu sót nếu nói đến sự tài hoa của cái tôi Hoàng Phủ Ngọc Tường mà không nhắc đến vẻ đẹp của ngôn ngữ. Bởi văn học là nghệ thuật của ngôn từ. Chữ nghĩa chính là nơi phô bày tất cả tài nghệ của nhà văn. Sự tinh xảo của nhà văn khi chạm khắc nên những tượng đài nghệ thuật bằng ngôn từ phải nằm ở con chữ. Sự tài hoa của cái tôi tác giả hiện hiện rõ trên từng câu chữ. Ở đây, dường như có bao nhiêu góc nhìn, điểm nhìn về sông Hương thì có bấy nhiêu kiểu chữ nghĩa được huy động để đặc tả cho thật ấn tượng, thật sắc, thật tinh hình hài và tâm hồn của con sông xứ Huế. Thậm chí, từng đường đi nước bước của con sông cũng được cái kho ngôn ngữ giàu có và tài hoa ấy làm cho thỏa mãn. Chẳng hạn như đoạn nhà văn miêu tả con sông Hương ở đoạn nhà văn miêu tả sông Hương rời khỏi vùng núi xuôi về đồng bằng chuẩn bị vào lòng thành phố Huế : “qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trần, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dẫn về Huế. Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”. đoạn trích cho thấy bút lực dồi dào của nhà văn. Đó là một lối hành văn uyển chuyển, ngôn từ đa dạng và giàu hình ảnh. Từng từ, cụm từ, từng vế trong câu văn giống như một nét vẽ tài hoa của người họa sĩ, một động tác chạm khắc tinh xảo của nhà điêu khắc mà sau mỗi đường cọ, mỗi động tác nhào nặn, vẻ đẹp của sông Hương lại hiện ra một cách đặc sắc, đem đến cảm giác bất ngờ, ngỡ ngàng Nói đến tài hoa của cái tôi Hoàng Phủ Ngọc Tường về ngôn ngữ, cũng không nên quên các thủ pháp nghệ thuật mà nhà văn đã sử dụng rất thành công. Tiêu biểu hơn cả là nhân hóa và so sánh. Với nhân hóa, nhà văn đã thổi hồn vào sông Hương, biến con sông vô tri vô giác thành một sinh thể có tính cách, có nỗi niềm, tâm trạng như con người. Bên cạnh thủ pháp nhân hóa, nhà văn cũng đã sử dụng rất thành công biện pháp so sánh. Ở đây, so sánh được thực hiện trên cơ chế của liên tưởng, tưởng tượng mà trong bài kí này, sức liên tưởng, tưởng tượng của nhân vật tôi là rất mạnh mẽ, với nhiều bất ngờ, thú vị. Chính những liên tưởng ấy đã giúp nhà văn xây dựng được nhiều hình ảnh so sánh độc đáo, đưa đến những cảm nhận mới mẻ, đặc sắc về sông Hương. Như vậy, với những gì đã đề cập trên, ta có thể khẳng định cái tôi nhà văn trong bài kí này là một cái tôi tài hoa. Cái tôi ấy đã phát huy (dường như là tối đa) trí tưởng tượng bay bổng, khả năng liên tưởng tuyệt vời cùng kho từ vựng giàu có để tạo dựng nên một dòng sông nghệ thuật quyến rũ trên mỗi trang văn. Qua những biến đổi của sông Hương, ta thấy hành trình về xuôi của nó là một hành trình dài, chảy qua nhiều địa danh, mang nhiều mảng màu mới lạ đó song đó cũng là hành trình lãng mạn để tìm kiếm tình yêu đích thực. Sông Hương là một cô gái trẻ đầy đam mê, khát vọng hạnh phúc vượt qua trở ngại của thời gian, không gian để kiên nhẫn chờ đợi, nỗ lực biến đổi để mình trở nên hoàn thiện hơn để gặp người tình mong đợi. Hoàng Phủ Ngọc Tường với vốn hiểu biết uyên bác, cùng lối hành văn mê đắm giàu cảm xúc và rất đỗi tài hoa đã thể hiện một góc nhìn vô cùng lãng mạn, gửi gắm những suy tư đầy triết lý vào bút kí đặc biệt này. Nói rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường yêu Huế và hiểu Huế, thì đó là một lẽ đương nhiên. Tôi muốn đi xa hơn, tìm một căn nguyên thầm kín để cắt nghĩa cho sự thành công mỹ mãn của những trang viết ấy: Phải chăng ở đây đã có một sự hòa hợp, tương giao, linh ứng giữa cảnh sắc Huế, lịch sử Huế, văn hóa Huế với một tâm hồn nhà văn dễ rung động, nhạy cảm, tinh tế. Phải là sự tưởng giao, đến mức hòa quyện chặt chẽ mới sinh ra được những áng văn tài hoa không dễ một lần thứ hai viết được như thế. Ngỡ như không khác được: Viết về sông Hương là phải vậy, viết về "văn hóa vườn" ở Huế là phải vậy. Đó là những áng văn, câu chữ được chọn lựa cân nhắc kỹ càng, vì hình ảnh được sáng tạo đẹp đẽ, vì cảm xúc phong phú bất ngờ, mới mẻ (Phạm Xuân Nguyên). Gấp lại trang văn "Ai đã đặt tên cho dòng sông?", dường như trong lòng mỗi người đọc vẫn còn vương vấn mãi hình bóng dòng nước mênh mang trầm mặc nơi miền đất cố đô xinh đẹp, dịu dàng. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dùng ngòi bút phác họa hình dung một dòng Hương trữ tình bằng ngôn từ trên trang giấy, thể hiện trọn vẹn một nét bút tài hoa, uyên bác và khả năng quan sát, thấu thị đa chiều của mình trên từng dòng chảy Hương giang. Bao nhiêu năm đã trôi qua, thiên bút kí vẫn ở đó, vẹn nguyên cả về ý nghĩa và tình thần, mãi là nhịp phách tiền tuyệt nhất ru người đọc về với dải đất Huế mộng, Huế thương: