You are on page 1of 38

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG ?

1: Ý nghĩa nhan đề “ Ai đã đặt tên cho dòng sông”


– “Ai đã đặt tên cho dòng sông” Câu hỏi tu từ đặt ra “Với trời, với đất” đưa nhà văn và độc giả
về với hành trình lịch sử tìm về cuội nguồn văn hoá dân tộc. Từ đó dòng sông Hương hiện ra trên
nhiều phương diện địa lí, lịch sử, văn hoá, thơ ca… Kết thúc tuỳ bút là một huyền thoại rất đẹp,
bộc lộ cái tôi trữ tình suy tư: “ Con người ở hai bờ đã nấu nước trăm loài hoa đổ xuống sông, đẻ
làn nước thơm tho mãi”. Tác giả gửi gắm vào đấy tất cả ước vọng muốn đem cái đẹp và tiếng
thơm để xây đắp văn hoá lịch sử. Nhan đề và kết thúc tác phẩm thể hiện rõ chủ đề và phong cách
bút kí của tác giả giàu sức gợi cảm thấm đẫm chất thơ.Qua đó tác giả ca ngợi tính chất sông
Hương – con sông gắn bó với lịch sử, văn hoá Huế của dân tộc ta. Tác phẩm thể hiện long yêu
mến say mê cảnh vật, văn hoá đất nước. Hình ảnh dòng sông đất nước được thể hiện bằng tài
năng của một cây bút giàu chất chí tuệ, chất văn hoá và ngôn ngữ trong sáng, chọn lọc, tinh tế.

2. Chứng minh vẻ đẹp của sông Hương qua các góc nhìn khác nhau :
* Từ thượng nguồn:
a) Dòng sông nơi thượng nguồn
– Đoạn trích được mở đầu bằng một nhận xét mang đậm tính chủ quan về dòng sông Hương:
“Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông Hương
là thuộc về một thành phố duy nhất”.
– Nói tới sông Hương xứ Huế, người ta thường có ấn tượng về sự phẳng lặng, êm đềm của dòng
sông trong khung cảnh thanh bình yên ả của xứ Huế. Riêng Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhà văn đã
không ngừng lại ngắm nhìn “khuôn mặt kinh thành” với vẻ đẹp sang trọng cổ kính của sông
Hương trong thành Huế, ông đã khao khát ngược dòng không gian, tìm về cội nguồn của rừng
đại ngàn, khám phá những vẻ đẹp bí ẩn, những sức mạnh tiềm tàng được đóng kín trong “phần
tâm hồn sâu thẳm” của dòng sông trước khi nó về tới Huế. Đặt dòng sông trong mối quan hệ với
dãy Trường Sơn xa xôi, nhà văn đã thể hiện những cảm hứng khám phá, cắt nghĩa và lý giải
trong cái nhìn sâu sắc về cội nguồn – và đó cũng là một cảm hứng quen thuộc của tình yêu.
– Với trí tưởng tượng và niềm say mê, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã miêu tả dòng sông Hương ở
khúc thượng lưu trong những vẻ đẹp hoang dại đầy cá tính
+ Hình ảnh về “bản trường ca của rừng già” khiến sông Hương hiện ra với cả chiều dài rộng
hùng vĩ và dòng chảy mãnh liệt trong sự ngưỡng mộ và niềm say mê của nhà văn, bởi “trường
ca” là áng văn chương có dung lượng lớn thường mang đậm cảm hứng ngợi ca, còn “rừng già”
lại là hình ảnh của những cánh rừng đại ngàn hoang sơ, bí ẩn, mênh mông.
+ Dòng sông chảy qua dãy Trường Sơn đã nhận vào dòng chảy của nó tất cả những sắc thái
phong phú, đa dạng của rừng già khi “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”, khi “mãnh liệt qua
những ghềnh thác”, khi “cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”, và có khi lại “dịu
dàng say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”…
+ Cách miêu tả uyển chuyển tài hoa qua những hình ảnh đối lập đã giúp nhà văn làm hiện lên
hình ảnh dòng sông Hương nơi thượng nguồn với đồng thời cả sức mạnh và vẻ đẹp. Dòng sông
với những lớp sóng hung hãn cuộn trào bởi sự tiếp sức của thác ghềnh sóng gió, những xoáy hút
dữ dội tiềm ẩn nỗi kinh hoàng của vực sâu, những miên man da diết của cỏ cây hoa lá nơi rừng
đại ngàn; do đó sông Hương vừa tràn đầy sức mạnh hoang sơ, man dại, vừa khơi gợi những bí
ẩn say mê, vừa ngời sáng vẻ đẹp kiêu sa, rực rỡ.
+ Không dừng lại trong những miêu tả trực tiếp, nhà văn còn dùng phép nhân hóa khiến dòng
sông được miêu tả như một “cô gái Digan khóng khoáng và man dại”, “bản lĩnh gan dạ”, “tâm
hồn tự do và trong sáng”, cái mạnh mẽ phóng khoáng của một bộ tộc yêu thích cuộc sống tự do
lang thang nay đây mai đó được gắn cho dòng chảy hoang dã khiến sông Hương nơi thượng
nguồn càng trở nên quyến rũ đắm say. – Sắc thái nhân hóa càng đậm nét khi nhà văn lý giải sự
tương phản của sông Hương ở hai khúc thượng lưu và hạ lưu, không phải bằng những kiến thức
địa lý thông thường. Trong cái nhìn suy tư của nhà văn, sông Hương như một người con gái vốn
mang sức mạnh hoang dã của rừng già nay đã được chế ngự để nhanh chóng tạo cho mình một
“sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ” khi về đến Huế– sự dịu dàng như một cái bến bình yên người ta
thường mong sau những thác ghềnh bão táp, sự trí tuệ của những con người từng trải và đầy
bản lĩnh để có thể giấu kín gian truân sóng gió trong vẻ êm đềm, bình lặng, tuyệt đối không
muốn bộc lộ cái quá khứ của nửa cuộc đời đầu oanh liệt và vĩnh viễn ở lại với những cánh rừng
đại ngàn. Trong cảm nhận của nhà văn, sông Hương khi về tới Huế đã hoàn toàn trở thành
người mẹ phù sa của “một vùng văn hóa xứ sở”– những thét gào man dại, những phóng túng tự
do nay đằm lắng trong sự bồi đắp dịu dàng, thương mến của đồng bằng châu thổ. Những hình
ảnh phong phú, ấn tượng, những liên tưởng tài hoa và thủ pháp nhân hóa đặc sắc đã làm hiện
lên dòng sông Hương khúc thượng nguồn với vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt đầy cá tính, qua
đó cho thấy cách cảm nhận suy tư có bề sâu trí tuệ của nhà văn.
– Khi qua dãy Trường Sơn hùng vĩ:
+ Sông Hương là bản tình ca của rừng già; Rầm rộ và mãnh liệt…Dịu dàng và say đắm….
+ Sông Hương như một cô gái Di-gan phóng khoáng man dại.
+ Rừng già đã hun đúc cho nó 1 bản tính gan dạ, 1 tâm hồn tự do, phóng khoáng.
=> Vẻ đẹp của một sức sống trẻ trung, mãnh liệt và hoang dại.
– Khi ra khỏi rừng già:
+ Đóng kín phần tâm hồn sâu thẳm của mình ở cửa rừng…
+ Mang sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở.
=> Vẻ đẹp đầy bí ẩn, sâu thẳm của dòng sông.
Tiểu kết:
Bằng óc quan sát tinh tế và trí tưởng tượng phong phú, bằng việc sử dụng nghệ thuật so sánh,
nhân hoá tài hoa, táo bạo, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện và khắc hoạ vẻ đẹp mạnh mẽ, trẻ
trung đầy cá tính của dòng sông, gợi lên ở người đọc những liên tưởng kì thú, gợi cảm, đầy sức
hấp dẫn.
* Về châu thổ:
– Sông Hương trên đường tìm đến Huế:
+ Chuyển dòng một cách liên tục, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm
kiếm có ý thức.
+ Vẻ đẹp của dòng sông trở nên biến ảo, đa dạng trong nhiều thời gian và không gian khác nhau
(dẫn chứng…). Vẻ đẹp của Huế như trở thành vẻ đẹp của sông Hương.
=> Sông Hương qua cái nhìn đầy lãng mạn của Hoàng Phủ Ngọc Tường như 1 cô gái dịu dàng
mơ mộng đang khao khát đi tìm thành phố tình yêu của nó.
b) Sông Hương về tới đồng bằng
– Trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung thủy của cố đô, sông Hương đã trải qua một
hành trình đầy gian truân thử thách. Trong cái nhìn tình tứ và lãng mạn của nhà văn, toàn bộ
cuộc hành trình của sông Hương từ thượng nguồn về tới Huế giống như một “cuộc tìm kiếm có ý
thức” người tình đích thực của cô gái đẹp trong một câu chuyện cổ tích về tình yêu.
– Sử dụng một loạt các động từ mang sắc thái nhân hóa, nhà văn đã vẽ nên một hành trình sống
động của dòng sông. Giữa “cánh đồng Châu Hóa đầy cỏ dại”, sông Hương hiện ra như một “cô
gái đẹp mơ màng”. Ra khỏi vùng núi trầm mặc, thâm u, dòng sông như bừng thức sự trẻ trung
và niềm khao khát thanh xuân khi “chuyển dòng liên tục”, “vòng đột ngột”, “uốn mình theo
những đường cong thật mềm”, “vẽ một hình cong thật tròn… ôm lấy đồi Thiên Mụ, vượt qua
vực… đi giữa âm vang… trôi đi giữa hai dãy đồi…”. Những câu văn dài nối tiếp nhau làm nên
dòng chảy miên man vừa mạnh mẽ với “những dư vang của Trường Sơn” như còn phảng phất,
vừa duyên dáng đầy nữ tính trong những khúc lượn vòng mềm mại. Hành trình tìm kiếm của
dòng sông để đến với vẻ đẹp bình lặng “dịu dàng, trí tuệ” đã cho thấy sự mạnh mẽ của niềm
khát khao, của bản lĩnh kiên cường, giấu mình trong vẻ dịu dàng, duyên dáng. – Dòng sông trôi
chảy giữa những bến bờ của ngoại vi thành Huế, và tỏng cảm nhận độc đáo của nhà văn, dòng
sông như được phản chiếu những vẻ đẹp phong phú của cảnh vật đôi bờ: sông Hương đã góp
nhặt sắc núi Ngọc Trản để đem đến cho mình màu “xanh thẳm”; sông Hương hiền dịu lượn
quanh những Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo để trở nên “mềm như một tấm lụa”, lấy ánh phản
quang của những ngọn đồi “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” để rực rỡ, kiêu sa; thấm vào lòng
mình vẻ đẹp “u tịch” của rừng thông, vẻ đẹp “trầm mặc… như triết lý, như cổ thi” và niềm kiêu
hãnh âm u tỏa ra từ “giấc ngủ nghìn năm” của những vua chúa trong khu lăng tẩm Van Niên đồ
sộ. Khi thoát ra khỏi những vực sâu, những núi đồi “sừng sững như thành quách”, những “đám
quần sơn lô xô”, những lăng tẩm u buồn…, cái nhìn trìu mến và lãng mạn của nhà văn đã thấy
dòng sông đã như bừng sáng tươi tắn khi gặp mênh mang “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân
nga tận bờ bên kia”, giữa những “xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”. Cái hư vô tịch mịch
của tiếng chuông chùa hòa quyện với chất thơ ấm áp của tiếng gà nơi thôn quê đã đưa dòng
sông trôi đi giữa mộng và thực, giữa đạo và đời, như thực, như mơ…
Đoạn văn miêu tả đã cho thấy vẻ đẹp của sông Hương chính là sự hắt bóng kỳ diệu vẻ đẹp của
quần thể thiên nhiên mơ mộng xứ Huế – thiên nhiên Huế như nguồn phù sa tuyệt vời bồi đắp vẻ
đẹp nên thơ cho dòng sông Hương, “người con gái dịu dàng” của mình. Sự kết hợp tài hoa hai
bút pháp kể và tả trong cảm quan cắt nghĩa đã làm nổi bật vẻ đẹp của sông Hương trong sự phối
cảnh kỳ thú giữa dòng sông và cảnh sắc phong phú, đa dạng của thiên nhiên xứ Huế.
– Sông Hương gặp gỡ Huế:
+ Uốn 1 cánh cung rất nhẹ… > Vẻ e lệ, ngượng ngùng khi gặp người trong mong đợi, sự thuận
tình mà không nói ra.
+ Các nhánh sông toả đi khắp thành phố như muốn ôm trọn Huế vào lòng. Sông Hương và Huế
hoà lẫn vào nhau.+ Sông Hương giảm hẳn lưu tốc, xuôi đi thực chậm (điệu slow)… thực yên tĩnh
như niềm say mê, như khát vọng được gắn bó, lưu lại mãi với mảnh đất nơi đây.
+ Liên tưởng với những dòng sông khác > Niềm tự hào của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng
sông quê hương.
=> Được nhìn từ góc độ tâm trạng, nên cuộc gặp gỡ của Huế và Sông Hương như cuộc hội ngộ
của tình yêu với nhiều cung bậc cảm xúc.
– Sông Hương tạm biệt Huế để ra đi:
+ Rời khỏi kinh thành, sông Hương ôm lấy đảo Cồn Huế, lưu luyến ra đi…
+ Đột ngột rẽ ngoặt lại để gặp thành phố yêu dấu một lần cuối.
=> Quyến luyến, ngập ngừng, bịn rịn không nỡ rời xa.
Tiểu kết:
– Cách tiếp cận đối tượng bằng nhiều ngành nghệ thuật như hội họa, âm nhạc; nghệ thuật nhân
hóa, so sánh đầy mới lạ, bất ngờ làm cho sông Hương, xứ Huế trở nên có linh hồn, có sự sống.
Đó là cuộc trở về, gặp gỡ của cô gái si tình – sông Hương – đang say đắm trong tình yêu.
– Nhà văn: Tâm hồn đa cảm, lãng mạn; cách viết tài hoa.

Vẻ đẹp văn hoá của dòng sông:


– Dòng sông âm nhạc:
+ Là người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya.
+ Là nơi sinh thành ra toàn bộ nền âm nhạc có điểm của Huế.
+ Là cảm hứng để Nguyễn Du viết lên khúc đàn của nàng Kiều.
– Dòng sông thi ca:
+ Là vẻ đẹp mơ màng Dòng sông trắng lá cây xanh trong thơ Tản Đà.
+ Vẻ đẹp hùng tráng như kiếm dựng trời xanh của Cao Bá Quát.
+ Là nỗi quan hoài vạn cổ trong thơ bà Huyện Thanh Quan.
+ Là sức mạnh phục sinh tâm hồn trong thơ Tố Hữu
=> Sông Hương luôn đem đến nguồn cảm hứng mới mẻ, bất tận cho các nghệ sĩ.
– Dòng sông gắn với những phong tục, với vẻ đẹp tâm hồn của người dân xứ Huế.
+ Màn sương khói trên sông Hương là màu áo điền lục, 1 sắc áo cưới của các cô dâu trẻ trong
tiết sương giáng.
+ Vẻ trầm mặc sâu lắng của sông Hương cũng như 1 nét riêng trong vẻ đẹp tâm hồn của người
xứ Huế: rất dịu dàng và rất trầm tư…
Tiểu kết:
Với kiến thức uyên bác, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã lí giải vẻ đẹp văn hóa phong phú của sông
Hương, vẻ đẹp gắn liền với xứ Huế, với con người Huế.
c) Sông Hương khi về tới Huế
Hội họa: Dưới con mắt của hội họa, sông Hương hiện ra đẹp thơ mộng bởi những đường nét
uốn lượn mềm mại và duyên dáng, những màu sắc hài hòa và bình dị.
– Trước tiên, sông Hương được miêu tả trong “nét thẳng thực yên tâm” khi vào đến thành Huế,
cách miêu tả đặc sắc của nghệ thuật nhân hóa đã đem đến cảm giác thanh thản, bình yên của
một dòng sông khi tìm thấy chính mình, tìm thấy tình yêu của mình khi về với thành phố hình
như chỉ dành riêng cho nó, tồn tại vì nó, một thành phố luôn đợi chờ, luôn tin vào dòng sông
thân yêu từ miền thăm thẳm đại ngàn xa xôi. Nghệ thuật nhân hóa đã khiến dòng sông trở nên
gần gũi vô cùng với mảnh đất cố đô và con người xứ Huế.
– Sau cảm giác bình yên giữa lòng thành phố, dòng sông bắt đầu thể hiện sự duyên dáng quen
thuộc của mình trong những nét uốn lượn tình tứ. Đó là việc “sông Hương uốn một cánh cung
rất nhẹ nhàng đến Cồn Hến”, với liên tưởng độc đáo, lãng mạn của nhà văn, “đường cong ấy
làm dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. Qua phép so sánh
thật ngọt ngào, dòng sông bỗng trở thành người tình dịu dàng, e ấp mà vẫn thật tình tứ, đắm say
của Huế. – Bức tranh sông Hương còn được vẽ bởi một bàn tay nghệ sỹ tài hoa trong nghệ thuật
phối màu. Màu sắc của dòng sông là màu “xanh thẳm” của chính nó, màu rực rỡ của trăm
nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh trong đêm hội trên sông, lung linh sắc màu phong phú của cảnh
vật bến bờ: từ những mảng phản quang nhiều màu sắc của núi đồi “sớm xanh, trưa vàng, chiều
tím” đến những “biền bãi xanh biếc của ngoại ô Kim Long”; từ màu thanh khiết nõn nà của
“chiếc cầu trắng in ngần trên nền trời”, nhỏ nhắn như những vầng trăng non đến sắc “u trầm”
của những vầng cổ thụ, ánh “lập lòe” của lửa thuyền chài, rồi lại là màu xanh biếc của tre trúc,
của cau thôn Vĩ Dạ cùng sắc “mơ màng sương khói” của Cồn Hến… Sông Hương đã hiện ra
như một bức tranh tuyệt đẹp trong thành Huế với những nét vẽ huyền ảo, những sắc màu thơ
mộng.
Âm nhạc: Qua cách cảm nhận của âm nhạc, sông Hương đẹp và êm đềm như một điệu slow
chậm rãi, trữ tình, sâu lắng.
– Chất âm nhạc của dòng sông hiện ra ở chính âm hưởng, nhịp điệu của văn bản ngôn từ. Đó là
một nhịp điệu êm đềm, tĩnh lặng, được tạo ra bởi những câu văn dài nối tiếp, với rất ít dấu ngắt
và rất nhiều thanh bằng, bởi sự giãn cách trong nhịp trầm tư sâu lắng của những suy ngẫm,
những liên tưởng mênh mang trong không gian, thăm thẳm trong thời gian. Chất liệu miêu tả đã
làm hiện hữu sinh động đối tượng miêu tả, nhịp điệu ngôn từ đã mô phỏng tài hoa nhịp điệu êm
đềm, yên ả của dòng sông.
– Chất nhạc còn hiện ra qua cách nhà văn miêu tả dòng chảy của sông Hương: “một dòng sông
trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”, trong đó từ nhịp ngắt, các yếu tố
điệp cho đến so sánh đều góp phần làm đậm thêm nhịp chảy chậm rãi, yên ả của dòng sông; có
lúc nhà văn không giấu được tình yêu thiên vị của mình khi so sánh dòng chảy băng băng của
sông Nêva lúc xuân về với “điệu chảy lặng tờ” của dòng sông xứ Huế, nhà văn còn cho rằng chỉ
dòng chảy êm lặng ấy mới giúp con người cảm nhận được tâm hồn dịu dàng, đa cảm của một
dòng sông “ngập ngừng như muốn đi, muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương
của một nỗi lòng”.
– Chất nhạc của dòng sông cũng được thể hiện qua những âm thanh của chính dòng sông và
cảnh sắc đôi bờ. Đó là âm thanh gợi cõi vô thường huyễn hoặc vủa “tiếng chuông chùa Thiên
Mụ ngân nga tận bờ bên kia”, âm thanh nồng ấm thân yêu của “những xóm làng trung du bát
ngát tiếng gà”, âm thanh không lời của một tình yêu e ấp, âm thanh của chính dòng sông được
ví như “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”, “tiếng nước rơi bán âm”, tiếng “những mái
chèo khua đập nước”…; và chất nhạc đặc biệt được hiện ra trong những liên tưởng tới “nền âm
nhạc cổ điển Huế”
– một giá trị văn hóa đặc sắc của cố đô, luôn gắn bó và làm nên một phần linh hồn của dòng
sông xứ Huế. Những so sánh, nhân hóa đặc sắc, những liên tưởng mang đậm chất trữ tình khiến
dòng sông Hương hiện ra thủy chung và tình tứ giữa thành phố quê hương, vừa dịu dàng mềm
mại như một bức tranh lụa huyền ảo, vừa tha thiết đắm say như một bản nhạc êm đềm.

– Là 1 dòng sông anh hùng:


•Từ xa xưa: là một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước
•Thời trung đại:bảo vệ biên giới phiá nam của tổ quốc
•Thời chống Pháp: sống hết lịch sử bi tráng với các cuộc khởi nghĩa
•Đi vào thời đại cách mạng tháng 8 với những chiến công rung chuyển.
•Thời chống Mĩ:
– Sông Hương cùng với thành phố Huế cũng chịu nhiều đau thương mất mát.
Tiểu kết:
– Vừa là bản tình ca dịu dàng, Sông Hương cũng là một bản hùng ca gắn liền với lịch sử oanh
liệt của dân tộc.
Nhìn từ góc độ địa lý, sông Hương khúc thượng nguồn là “bản trường ca của rừng già”; về tới
Huế, sông Hương mang âm hưởng của một điệu slow chậm rãi sâu lắng, một bản tình ca tình tứ
ngọt ngào; nhưng nếu đặt trong quan hệ với lịch sử dân tộc, sông Hương lại là bản anh hùng ca
hào hùng, bi tráng, là chứng nhân nhẫn nại, kiên cường của cuộc đời qua bao thăng trầm trong
lịch sử.
– Là một trong số những dòng sông có mặt từ thuở đầu lập nước, sông Hương đã chứng kiến và
tham gia hầu hết những biến cố quan trọng vừa oanh liệt vừa đau thương trong suốt chiều dài
của lịch sử của dân tộc. Sông Hương xuất hiện trong lịch sử trước hết với vai trò một dòng sông
biên thùy của đất nước các vua Hùng, thuở còn mang tên Linh Giang – dòng sông thiêng; trong
Dư địa chí của Nguyễn Trãi, sông Hương là dòng sông “viễn châu”, dòng sông ở chốn xa xôi
của Tổ quốc đã cùng con người tham gia vào những trận chiến đấu oanh liệt để bảo vệ chủ
quyền nước Đại Việt thân yêu. Dòng sông cũng đã từng “soi bóng kinh thành Phú Xuân của
người anh hùng Nguyễn Huệ” trong thế kỷ XVIII, “nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỷ XIX
với máu của bao cuộc khởi nghĩa”. Trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của thế kỷ XX,
sông Hương lại đóng góp sức mạnh của mình để làm nên chiến thắng, từ Cách mạng Tháng Tám
1945 đến mùa xuân Mậu Thân năm 68, sông Hương kiên cường chịu đựng nỗi đau của những
mất mát không thể bù đắp khi thành phố Huế bị bom Mỹ tàn phá, khi những di sản văn hóa bị
hủy hoại. Cũng vì thế, sông Hương đã trở thành một “nét son” trong lịch sử Đảng, lịch sử dân
tộc.
– Đặt sông Hương trong chiều dài lịch sử từ thời dựng nước của các vua Hùng tới thời đánh
Mỹ, nhà văn đã thể hiện không chỉ tình yêu mà còn là niềm tự hào sâu sắc về dòng sông quê
hương. Tác giả coi sông Hương là “dòng sông của thời gian ngân vang” – sông Hương đã
mang trong mình nó những âm vang hào hùng, bi tránh của dòng thời gian lịch sử với cả những
chiến công và những đau thương. Sông Hương còn được coi là dòng sông “của sử thi viết giữa
màu cỏ lá xanh biếc” – nghệ thuật ẩn dụ đã làm hiện lên vai trò của một chứng nhân lịch sử,
cách miêu tả tinh tế lại gợi ra những sắc thái khác nhau cùng tồn tại trong một dòng sông, vì sử
thi còn được gọi là anh hùng ca, là thể loại gắn với những chiến công, gợi đến chiến tranh;
nhưng “màu cỏ lá xanh biếc” lại là sắc màu mang chất trữ tình của cuộc sống, của tình yêu và
sự bình yên. Sông Hương vì thế vừa sử thi, vừa trữ tình, vừa là thiên anh hùng ca hào tráng, vừa
là khúc tình ca tươi mát, dịu dàng.

3. Sông Hương với những vẻ đẹp nhìn từ văn hóa và thi ca


– Qua cách cảm nhận độc đáo và lãng mạn, nhà văn đã coi sông Hương là cội nguồn sinh
thành của nền âm nhạc cổ điển xứ Huế. Sự thơ mộng của sông Hương trong đêm, tiếng nước rơi
trầm bổng từ những mái chèo khuya thánh thót khiến nhà văn liên tưởng đến “phiến trăng sầu”
của Nguyễn Du trong những đêm dạo thuyền trên sông Hương, nhớ đến giai điệu du dương của
Tứ đại cảnh, một bản nhạc cổ về Huế tương truyền do Tự Đức sáng tác. Theo cảm nhận chủ
quan với rất nhiều thiên vị của tình yêu, Hoàng Phủ Ngọc Tường cho rằng có lẽ vẻ đẹp buồn
lãng mạn của sông Hương là nguyên nhân của nhiều liên tưởng về mối quan hệ kỳ diệu giữa
dòng sông đêm, bản nhạc và câu thơ Nguyễn Du: “Trong như tiếng hạc bay qua Đục như tiếng
suối mới sa nửa vời” Sông Hương thực sự trở thành nguồn cảm hứng vô tận của âm nhạc và thi
ca, và chính dòng sông cũng là bản nhạc êm đềm, những khúc tình ca xao xuyến lòng người.
– Nhà văn cho rằng có một dòng thi ca về sông Hương, một dòng thơ không bao giờ lặp lại
mình, mỗi thi nhân đều tìm cho mình một cảm hứng mới mẻ, độc đáo về dòng sông. Điều đó
không chỉ xuất phát từ cảm nhận chủ quan của thi sỹ mà còn vì những vẻ đẹp phong phú, biến
ảo của dòng sông.
+Với trí tưởng tượng say đắm của nhà văn, sông Hương hiện lên với những vẻ đẹp khác nhau
của một cô gái, khi là “cô gái Digan phóng khoáng và man dại”, có lúc “tự hiến đời mình làm
một chiến công”, có lúc lại trở về trong “cuộc sống bình thường, là một người con gái dịu dàng
của đất nước”. Người con gái ấy chắc chắn phải là cô gái Huế tài hoa và sâu sắc, tình tứ và dịu
ngọt, lẳng lơ kín đáo mà rất mực chung tình, biết làm đẹp một cách ý nhị duyên dáng với chút
sương khói như “tấm voan huyền ảo của tự nhiên”
+ Người con gái – sông Hương ấy khơi gợi những cảm hứng khác nhau cho các nhà thơ, khi là
“nỗi quan hoài vạn cổ” trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, khi mang vẻ đẹp hùng tráng như
“kiếm dựng trời xanh” trong thơ Cao Bá Quát, khi lại là “sức mạnh phục sinh tâm hồn” trong
những bài thơ Tố Hữu. Khi nhắc đến sức mạnh phục sinh tâm hồn của sông Hương, nhà văn đã
ngưỡng mộ ngợi ca: “Dòng sông quả thực là Kiều, rất Kiều” – niềm trân trọng thân yêu đã biến
một danh từ chỉ tên người được tính từ hóa, khẳng định vẻ đẹp đa đoan say lòng người của một
dòng sông “trong veo” có thể cuốn đi tất cả những ô uế của cuộc đời: “Không gian sặc sụa mùi
ô uế Mà nước dòng Hương mãi cuốn đi”
– Đoạn trích kết lại bằng câu hỏi của một nhà thơ: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”, câu hỏi
bâng khuâng này cũng là nhan đề của bài bút ký, đã làm rõ cảm hứng cắt nghĩa, cảm hứng của
tình yêu và niềm ngưỡng mộ say mê với dòng sông bởi tình yêu đích thực luôn khát khao đi đến
tận cội nguồn. Dòng sông được ai đó gọi là sông Hương – cái tên gợi cảm nhận thơm tho thanh
quý, vừa lãng mạn vừa quý giá, gợi đến những ẩn dụ của nhà văn về người con gái sông Hương
có chút “lẳng lơ kín đáo” mà vẫn thật “dịu dàng”, “mãi chung tình với quê hương xứ sở”.
Đoạn trích bài bút ký mang đậm phong cách của thể tùy bút vì chất tự do phong túng và hình
tượng cái “tôi” tài hoa, uyên bác của Hoàng Phủ Ngọc Tường, một hồn thơ thực sự trong văn
xuôi với trí tưởng tượng lãng mạn và những xúc cảm sâu lắng. – Từ tình yêu say đắm với dòng
sông quê hương, từ những hiểu biết phong phú về văn hóa, lịch sử, địa lý, Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã làm hiện lên những vẻ đẹp khác nhau của sông Hương trong một văn phong tao nhã,
hướng nội, qua đó người đọc nhận ra tình yêu và sự gắn bó tha thiết của một trí thức yêu nước
với cảnh sắc quê hương và lịch sử dân tộc.

3. Chất trí tuệ và chất thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
* Chất trí tuệ: Hoàng Phủ Ngọc Tường vận dụng những am hiểu trong ca dao Huế vào bút kí của
mình.
“ Bốn bề núi phủ mây phong
Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên”
cho đến câu thơ của Tản Đà “ Dòng sông trắng- lá cây xanh”, thơ của Tố Hữu, Cao Bá Quát, Bà
Huyện Thanh Quan, Truyện Kiều.”
Những hiểu biết về phương diện địa lí để miêu tả vẻ đẹp của sông Hương từ thượng nguồn, đến
đồng bằng, cho đến cố đô Huế.
Những hiểu biết về lịch sử văn hoá.
Sự liên tưởng so sánh với các công trình kiến trúc của Hi Lạp, La Mã, nền văn minh Châu Âu.
Những tác phẩm văn học Châu Âu, những lời nhận xét của các nhà khoa học nước ngoài.
* Chất thơ: – Cách ví von, so sánh đầy chất thơ, mượt mà, ý vị.
“ Chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”. Và
“ giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cách cung rất nhẹ sang đến Cồn
Hiến, đường cong ấy làm cho dòng sông mền hẳn đi như một tiếng vâng không nói ra của tình
yêu. Hay “ Sông Hương là vậy, là dòng sông của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”.
Những câu văn có sự mài dũa, đẽo gọt kĩ càng, nhẹ nhàng như một câu thơ

Sông Hương nhìn từ cội nguồn là dòng chảy có mối quan hệ gắn bó sâu sắc với dãy Trường Sơn.
Sông Hương mang vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, hoang dại, bí ẩn, sâu thẳm nhưng cũng có
lúc dịu dàng, say đắm. Sự mãnh liệt, hoang dại của sông được thể hiện qua những so sánh: “Như
một bản Trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”. Khi chảy qua miền địa hình
hiểm trở, sông Hương mang vẻ đẹp dữ dội “mãnh liệt qua ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc
xoáy vào đáy vực bí ẩn”, nhưng cũng có lúc nó lại hiền lành, trữ tình “dịu dàng, say đắm giữa
những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Nhà văn đã nhân hóa dòng sông giống
như “một cô gái Digan phóng khoáng và man dại”. Con sông được rừng già hun đúc cho “một
bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”. Đó là sức mạnh bản năng của người con gái,
sức mạnh ấy được chế ngự bởi cấu trúc địa lý lãnh thổ để đi ra khỏi rừng, “nó nhanh chóng mang
một sắc đẹp nhẹ nhàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa sứ sở”. Với
vốn hiểu biết về địa lý tác giả đã miêu tả tỉ mỉ về sông Hương với hình ảnh: “Nhưng ngay từ đầu,
vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột
ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Sự chuyển dòng ấy, trong cách cảm nhận của
Hoàng Phủ Ngọc Tường giống như “một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố
trong tương lai của nó”. Vẫn những đường cong mềm mại, sông Hương lại có sự chuyển mình:
“Từ ngã ba tuần, sông Hương theo hướng Nam Bắc qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, nó
chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thêm đất bãi Ngọc Biểu, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một
đường cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”. Có lúc
cảnh sắc sông hương hiện lên như một bức tranh có đường nét, hình khối với “ sắc nước trở nên
xanh thẳm, và từ đó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách với những điểm cao đột
ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn nhìn thấy dòng sông mềm mại
như tấm lụa với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng con thoi”. Người đọc còn bắt gặp vẻ
đẹp đa màu mà biến ảo, phân quang màu sắc của nền trời Tây Nam thành phố: “sớm xanh, trưa
vàng, chiều tím”.
Ngoài ra ta còn thấy sông Hương hiện lên với vẻ đẹp trầm mặc chảy dưới những rừng thông u
tịch với những lăng mộ âm u mà kiêu hãnh của các vua chúa triều Nguyễn. Đó là vẻ đẹp mang
màu sắc triết lí, cổ thi khi đi trong âm hưởng ngân nga của tiếng chuông chùa Thiên Mụ. Có vẻ
đẹp “vui tươi” khi đi qua những bãi bờ xanh biếc vùng ngoại ô Kim Long. Có vẻ đẹp “mơ màng
trong sương khói” khi nó rời xa thành phố để đi qua những bờ tre, lũy trúc và những àng cau
thôn Vĩ Dạ.
Đoạn tả sông Hương khi đi qua thành phố đã gây được nhiều ấn tượng cho người đọc. Từ Kim
Long, sông Hương đã nhìn thấy các hình ảnh “chiếc cầu trắng in ngấn trên nền trời, nhỏ nhắn
như những vành trăng non”. Đó chính là chiếc cầu Tràng Tiền nối đôi bờ sông thơ mộng. Không
chỉ vậy, vẻ đẹp của dòng sông Hương còn được miêu tả “giáp mặt thành phố ở cồn Dã Viên,
sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến cồn Hến”. Nhà văn như thổi linh hồn vào cảnh
vật: “đường cong ấy làm cho dòng sông như mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của
tình yêu”. “Tôi nhớ sông Hương, quý điệu chảy lững lờ của nó khi ngang qua thành phố”. Cái
phút ban đầu để đến với “người tình” của sông Hương như thế đấy ! Nàng đã tự làm mới mình
để hiến tặng những gì đẹp nhất cho người yêu. Từ sông Hương xinh đẹp, nhà văn liên tưởng đến
nhiều con sông trên thế giới như sông Xen, sông Nê – va, sông Đa – nuýt,..và nhận ra những
điểm tương đồng giữa chúng là cùng chảy giữa lòng thành phố. Nhưng sông Hương khác với các
dòng sông khác là bởi vì nó vẫn giữ được những nét cổ kính và nếu sông Nê – va chảy nhanh
quá thì sông Hương lại chảy chậm buồn như điệu Slow “đấy là điệu Slow tình cảm dành riêng
cho Huế”. Tình cảm của dòng sông dành cho thành phố Huế cũng rất sâu đậm. Dường như sông
Hương không muốn xa thành phố: “rồi như sực nhớ ra một điều gì đó chưa kịp nói, nó đột ngột
đổi dòng rẽ ngoặt sang hướng Đông Tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc Bao Vinh xưa cổ”.
Nhà văn ví sông Hương như nàng Kiều chí tình trở lại tìm Kim Trọng. Vì thế nên nhìn “khúc
quanh này” thấy nó “thật bất ngờ”. Nhà văn cảm nhận khúc quanh ấy giống như “ là nỗi vẫn
vương, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Đó là sự chí tình của sông Hương trở về “để
nói một lời thề trước khi về với biển cả”. Tác giả liên hệ “lời thề ấy vang vọng khắp khu vực
sông Hương thành giọng hò dân gian, ấy là tấm lòng người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung
tình với quê hương xứ sở”. Dưới góc độ văn hóa, tác giả gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển
Huế: “Sông Hương đã trở thành một người đánh đàn tài nữ giữa đêm khuya…Qủa đúng vậy,
toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được hình thành trên mặt nước của dòng sông này”. Tác giả
liên tưởng tới việc có người nghệ nhân già gần thế kỷ chơi đàn, một đêm khuya nghe con gái đọc
Kiều “Trong như tiếng hạc bay qua/ Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”. Người nghệ nhân ấy đã
nhổm dậy, vỗ đìu chỉ vào trang sách mà nói “Đó là Tứ Đại Cảnh”. Cũng từ đó cùng với ngòi bút
tài hoa cộng với sự rung cảm mạnh mẽ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhớ tới Nguyễn Du “Nguyễn
Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này với một phiến trăng sầu. Và từ đó, những bản đàn
đã đi suốt đời Kiều”. Đây là cách liên tưởng độc đáo, tài hoa mang đến cho người đọc một sự bồi
hồi, xao xuyến.
Trong cái nhìn đa diện của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương không chỉ là một người tình
dịu dàng, thủy chung mà còn là một anh hùng ghi dấu những thế kỉ vinh quang. Từ thuở các vua
Hùng dựng nước cho đến Dự địa chí của Nguyễn Trãi với cái tên Linh Giang, dòng sông viễn
châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc. Dòng sông ấy là điểm tựa
bảo vệ biên cương thời kì Đại Việt. Thế kỉ XVIII nó mang vẻ soi bóng kinh thành Phú Xuân, gắn
liền với tên tuổi của người anh hùng Nguyễn Huệ. Nó đọng lại bầm da, tím máu, “nó sống hết
lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX”. Nó đi vào thời đại của cách mạng tháng tám bằng những chiến
công rung chuyển. Nó chứng kiến cuộc nổi dậy tổng tiến công tết Mậu Thân 1968. Sông Hương
đã gắn liền với lịch sử của Huế, lịch sử dân tộc.
Vẻ đẹp của sông Hương không được tô đậm, không hoàn hảo nếu như nhà văn quên đi một dòng
sông thi ca. Sông Hương là nguồn thi hứng bất tận, nó vẫn “mãi là nỗi hoài vọng về một cái đẹp
nào đó chưa đạt tới” để bao thế hệ lãng tử đến đây thả hồn ngụp lặn. Suy cho cùng, chính vẻ đẹp
thơ mộng của sông Hương trong thực tế đã làm nên điều kì diệu trong mỗi trang thơ. Sông
Hương sẽ còn mãi tuôn chảy ngọt ngào, dạt dào trong nguồn mạch thi ca của dân tộc
Nét đặc sắc nghệ thuật trong văn phong của Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là ở việc sử dụng
ngôn ngữ trong sáng, phong phú, uyển chuyển giàu hình ảnh, giàu chất thơ, sử dụng nhiều phép
tu từ như: so sánh, nhân hóa, ẩn dụ,..Có sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc trí tuệ, chủ quan và
khách quan. Bút kí có sức liên tưởng kì diệu, sự hiểu biết phong phú về kiến thức địa lí, lịch sử,
văn hóa, nghệ thuật và những trải nghiệm của bản thân.
Trích đoạn bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” đã gợi ra vẻ đẹp của Huế, của tâm hồn người
Huế qua sự quan sát sắc xảo của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng sông Hương. Hoàng Phủ
Ngọc Tường xứng đáng là một thi sĩ của thiên nhiên, một cây bút giàu lòng yêu nước và tinh
thần dân tộc.

222222222222222222222222222222222222222222222222222222222222222222222222222222
222222222222222222222222222222222222222222222222222222222222222222222222222222
2222222222222222222222222222222222222222

Sông Hương được gắn với điểm nhìn đầu tiên là từ góc nhìn địa lí. Đây cũng là điểm nhìn mà tác
giả tập trung khai thác hơn cả trong toàn bài bút kí đi tìm cội nguồn của cái tên: “Ai đã đặt tên
cho dòng sông?”. Sông Hương được minh chứng cho vẻ đẹp của mình ngay khi nó còn nằm
trong không gian núi rừng Trường Sơn. Sông Hương được so sánh “như một bản trường ca của
rừng già”. Dòng sông đẹp một cách hùng vĩ qua cách miêu tả của tác giả “rầm rộ giữa những
bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác và cuộn xoáy như cơn lốc vào đáy vực sâu
thẳm”. Nhưng nó cũng rất đỗi trữ tình “dịu dàng và say đắm khi đi qua những rặng dài chói loại
màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Đến một điểm nhìn khác là giữa lòng Trường Sơn, Hoàng Phủ
Ngọc Tường nhân hóa sông Hương “cô gái di gan phóng khoáng và man dại”. Hình ảnh cô gái
Di- gan đã cho thấy cái nhìn mới mẻ, độc đáo của tác giả. Sông Hương trong mắt nhà văn là một
sinh thể sống tự do, mạnh mẽ, có cá tính, tâm hồn riêng như cô gái Di- gan. Phải rất kỳ công
trong khám phá, tinh tế trong cảm nhận thì ông mới phát hiện được cái riêng biệt của người con
gái ấy. Nhưng như vậy thôi chưa đủ, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn tìm tòi và hướng ngòi hút của
mình tới cả những chỗ khuất lấp nhất của dòng sông ấy để viết lên câu chữ đặc sắc. Sông
Hương- người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở. Lúc này, con sông mang theo vẻ đẹp dịu dàng
và trí tuệ bởi lẽ “quãng sông này đã hết ghềnh thác”. Nó mang vẻ dịu hiền của người mẹ và ngày
ngày góp phần bồi đắp văn hóa cho người dân sống hai bên bờ sông và xứ Huế. Sông Hương đã
góp công to lớn để hình thành, bảo tồn và giữ gìn văn hóa xứ Huế. Dòng sông là người mẹ ngày
đêm lặng lẽ, âm thầm cống hiến tạo nên cái đẹp riêng mộng mơ của Huế.
Sông Hương tiếp tục được khám phá ở nhiều nét đẹp trong không gian cánh đồng Châu Hóa đầy
hoa dại. Trước hết, nhà văn so sánh “Nó là người gái đẹp nằm ngủ mơ màng”. Người gái đẹp ấy
mang vẻ đẹp gợi cảm và đang phô khoe nét đẹp của mình khi chuyển dòng liên tục, vòng giữa
khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm. Và những chướng ngại vật
cản trở như núi Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo đã tạo cơ hội giúp Hương Giang phô khoe
những đường cong mềm mại. Bên cạnh đó, người đọc còn được biết đến nét đẹp đa dạng của con
sông với những biến chuyển màu sắc lạ mắt. Có khi các nước trở nên xanh thẳm khi đi qua dư
vang của Trường Sơn, sự in bóng của những hàng cây đại ngàn tạo màu xanh cho mặt nước. Còn
lại những quãng sông êm đềm, nó trở nên mềm như tấm lụa. Vẻ đẹp đa dạng ấy còn được minh
chứng qua sự biến màu của mặt nước: sớm xanh, trưa vàng, chiều tím. Một loạt hình ảnh liệt kê
mang đến bao khám phá về vẻ đẹp của dòng sông. Không chỉ rực rỡ, nổi bật, Hương giang còn
quyện mình vào cái lặng tờ và trầm mặc của không gian. Nó mang vẻ đẹp trầm mặc đi qua
những lăng tẩm ở rừng thông u tịch, nhưng rồi lại bừng sáng và tươi tắn khi nghe thấy âm thanh
của thành phố, của tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia giữa những xóm làng
trung du bát ngát tiếng gà. Cuộc hành trình sông Hương thực sự trở thành hành trình đi tìm người
yêu của người gái đẹp, phô khoe và hoàn thiện vẻ đẹp của mình để đến với người yêu: tìm kiếm
và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, Thúy Kiều và Kim Trọng.
Trải qua bao chặng đường, Hương Giang đã đến được với người yêu: không gian kinh thành
Huế. Khi mới bắt đầu vào thành phố thân yêu, sông Hương được so sánh với “người tình vui tươi
và duyên dáng”. Nó rạo rực khi thấy dấu hiệu của thành phố với những bờ bãi xanh biếc và chiếc
cầu trắng như vầng trăng non. Những hình ảnh hiện ra tức khắc ấy cũng có cái e ấp của mối tình
chớm hé nơi người con gái đẹp. Và người con gái ấy cũng làm duyên, làm dáng lần cuối trước
khi gặp mặt người yêu: uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến. Và khi được ở trong vòng tay
người yêu, con sông như luyến tiếc nên dành tặng một điệu slow dành riêng cho Huế. Nó chảy
với lưu tốc chậm đến mức mà Hoàng Phủ Ngọc Tường cảm nhận “cơ hồ chỉ còn là mặt hồ yên
tĩnh”. Để nhấn mạnh độ chảy chậm rãi của Hương giang, nhà văn đã đặt nó trong thế đối sánh
với sông Nêva “chảy nhanh đến mức làm lũ hải âu muốn nói một câu với người bạn của mình
cũng không kịp”. Vì vật mà ông càng thêm yêu quý điệu chảy ngập ngừng. lặng tờ muốn đi
muốn ở của dòng sông quê mình. Chúng ta cũng đã từng bắt gặp nét riêng lặng tờ ấy của Hương
giang trong những vần thơ của Tố Hữu.
Hương giang ơi dòng sông êm
Con tim ta ngày đêm vẫn tự tình.
Đến cách mà nhà văn lí giải về sự chậm ấy của dòng sông cũng không hoàn toàn theo cái nhìn
chủ quan. Hoàng Phủ Ngọc Tường lí giải vận tốc chậm ấy trước hết là do địa lí tự nhiên: ở Huế
có nhiều chi lưu làm giảm vận tốc nước cùng với hai hòn đảo nhỏ ở giữa sông ngăn cản dòng
chảy. Nhưng theo lí lẽ của trái tim nhà văn thì sông Hương dành quá nhiều tình cảm cho Huế nên
không muốn rời xa, muốn nằm mãi trong lòng người yêu. Dù có luyến tiếc thì Hương giang vẫn
phải nói lời từ biệt người yêu, rời xa thành phố song con tim vẫn mãi là “ người tình dịu dàng và
chung thủy”. Tưởng như sẽ mãi rời xa song sự am hiểu của tác giả đã giúp người đọc biết đến
quãng đường đẩy đưa qua lại của dòng sông, rùng rằng nửa đi nửa ở. Sông Hương rời khỏi kinh
thành, chếch về hướng chính bắc rồi lại uốn mình theo hướng tây đông và gặp Huế lần cuối ở thị
trấn Bao Vinh cổ xưa. Người con gái lưu luyến người yêu và bịn rịn giờ phút chia tay.
Còn dưới góc nhìn lịch sử, dòng sông thơ mộng, người con gái đẹp ấy đã có những chuyển mình
lớn lao với vẻ đẹp kiên trì, kiên cường và anh hùng bất khuất. Vẻ đẹp của sự kiên trì, kiên cường
ấy đã được minh chứng rõ nét qua chặng đường lịch sử bốn nghìn năm của dân tộc. Từ thời các
vua Hùng, sông Hương đã là dòng sông có vị trí quan trọng. Nó là dòng sông nơi biên thùy xa
xôi có nhiệm vụ bảo vệ biên giới phía Nam. Đến những thế kỉ trung đại, dòng sông tiếp tục minh
chứng ý nghĩa to lớn của mình khi là dòng sông Viễn Châu chiến đấu anh hùng bảo vệ biên giới
phía Nam. Bước sang thế kỉ 18, nó không còn oằn mình với những nỗi đau nhưng vẫn thầm lặng
cống hiến. Sông Hương vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn
Huệ. Đến thế kỉ 19 của máu và nước mắt, dòng sông ấy cũng đã sống hết cùng lịch sử với máu
của bao cuộc khởi nghĩa. Và sang đến thế kỉ 20, nó lặng lẽ đi vào cuộc cách mạng tháng Tám vẻ
vang. Sông Hương cùng những người chiến sĩ đồng hành trong mọi khởi nghĩa chống Pháp,
chống Mĩ. Và vì vậy, mà sông Hương đã gây ấn tượng mạnh trong tác giả “hiến đời mình lập
chiến công rồi lại trở về làm người con gái dịu dàng”. Hoàng Phủ Ngọc Tường không ngoa khi
so sánh “sử thi viết giữa màu của cỏ lá xanh biếc”. Sông Hương quả thật là bản hùng ca và bản
tình ca dịu dàng, tươi mát.
Sông Hương càng thêm thi vị khi được nhà văn đặt dưới góc nhìn văn hóa. Con sông tình yêu
càng thêm lung linh bởi âm nhạc, thi ca và huyền thoại. Sông Hương được so sánh “người tài nữ
đánh đàn lúc đêm khuya” bởi điệu chảy của nó rất phù hợp với những đêm nhạc và đây cũng là
nơi sinh thành nền âm nhạc dân gian và cung đình Huế. Như một nàng Kiều, sông Hương có cả
tài và sắc. Đồng thời, dòng sông thân thương ấy còn là dòng sông của thi ca. Nó là “nàng thơ”
gợi cảm hứng cho biết bao tâm hồn thi sĩ và chưa bao giờ lặp lại mình trong những trang viết.
Với mỗi người, sông Hương lại gợi cảm, lại đẹp theo một cách riêng. Phải chăng vì lẽ đó mà nó
được biết là dòng sông của huyền thoại. Tên gọi sông Hương quả xứng tầm với nét đẹp dịu dàng
nhưng cũng rất cá tính, độc đáo. Và nhà văn đặt ra câu hỏi: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” thể
hiện nỗi niềm băn khoăn, suy ngẫm và ham thích khám phá. Từ truyền thuyết người dân hòa mùi
hương của hàng nghìn bông hoa rồi đổ xuống dòng sông mà tác giả đã gợi ra cái đẹp vĩnh hằng
cùng danh thơm muôn thuở của dòng sông thần tiên. Những dấu ấn riêng biệt của con sông quê
hương với thi, nhạc, họa sẽ không bao giờ phai tàn trong lòng độc giả.
Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? được viết bằng tất cả yêu thương của nhà văn. Lối hành văn
mượt mà ấy đã giúp sông Hương hiện lên đẹp tuyệt dưới góc nhìn địa lí, góc nhìn văn hóa nhưng
cũng rất hào hùng trong góc nhìn lịch sử. Tài năng của nhà văn chính là thành công khi dùng
ngòi bút liệt kê, so sánh, nhân hóa rất uyển chuyển, tài tình. Sông Hương hiện lên không khó
hiểu, không hề mang nét ương bướng của người gái đẹp mà nhẹ nhàng men theo dòng cảm xúc
của niềm yêu, nỗi nhớ và khắc sâu vào lòng người.
Đất nước có biết bao dòng sông đẹp nhưng có lẽ chỉ sông Hương xứ Huế mới đủ làm con người
xao xuyến đến thế. Dòng sông ấy bạn có thể chưa từng nhìn trực tiếp nhưng lại có thể hiểu, thể
cảm hơn bất kì cảnh vật thân thương nào khác. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dẫn bước tâm hồn
bạn đọc đến với trí tưởng tượng của niềm yêu, của tình thương về một Huế mộng mơ, Hương
tuyệt diệu mãi trong trái tim bạn đọc.

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ


Mở đầu thiên tùy bút, Nguyễn Tuân đã dẫn hai câu thơ làm đề từ: “đẹp vậy thay tiếng hát trên
dòng sông” và “Chúng thủy giai đông tẩu/Đà giang độc bắc lưu”. Như vậy nhà văn đã ngầm
thông báo với bạn đọc về hai đặc điểm của con sông với nét tính cách đối nghịch: dữ dội, hiểm
ác – kiều diễm, thơ mộng. Dưới con mắt của bậc du tử luôn khát tìm sự lạ hóa, thiên nhiên sông
Đà như một bản thể có tâm tính phức tạp. Thoạt tiên ta có thể nhận thấy tính chất hùng vĩ, dữ dội
hiểm ác của con sông Đà.
Theo Nguyễn Tuân có lẽ đây là con sông lắm thác ghềnh, vực xoáy, vô cùng nguy hiểm cho con
người. Mùa lũ đến, nó “ác như người dì ghẻ”, dữ dằn như con quái vật, trở thành “kẻ thù số một”
của con người. Chất hùng vĩ của con sông Đà được hiện lên trước hết ở cảnh đá bờ sông dựng
đứng vách thành. Những bức thành vách đá chẹt lấy lòng sông hẹp. Độ hẹp của lòng sông được
nhà văn xoay ngắm đủ các giác độ: “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”, “chẹt
lòng sông Đà như một cái yết hầu”,…thật thú vị. Một sức hút bình thường làm sao có nổi sự so
sánh vừa chính xác, vừa tinh tế vừa phong phú, vừa bất ngờ và lạ lùng đến thế. Nguyễn Tuân
luôn lục lọi đến kiệt cùng cái kho ngôn ngữ muôn màu sắc để đem đến cho người đọc không chỉ
cảm nhận bằng thị giác, cảm giác mà cả những tưởng tượng thú vị. Cái khủng khiếp, dữ dội và
hiểm ác của con sông Đà tiếp tục được Nguyễn Tuân đặc tả ở những quãng mặt ghềnh Hát
Loong: nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn,..rồi tiếp đến là những hút xoáy nước
“Hút nước xoáy nước tít đáy lừ lừ như cánh quạ đàn…sâu như tiếng bê tông thả xuống”, “Tiếng
nước thở và kêu như cống cái bị sặc”. Chưa dừng lại ở đó Nguyễn Tuân tiếp tục tìm cho ra cảnh
tượng gây được ấn tượng mạnh cho đọc giả. Đó là cảnh thác nước: “Tiếng thác nước nghe gần
mãi lại réo to mãi lên,…nghe như oán trách rồi lại như van xin…Thế rồi nó bỗng rống lên như
tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre, nứa nổ lửa, đang phá tuông
rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bừng bùng,..”. Nếu như ở đoạn trên nhà
văn dùng ngôn ngữ điện ảnh để diễn tả sựu khủng khiếp mà đày lí thú của những xoáy hút nước
thì ở đoạn này ta nghe như có âm thanh của bản nhạc giao hưởng, dạo đầu bằng những tiếng nỉ
non của dòng thác, rồi nghe như oán trách, van xin, rồi lại như chế nhạo, khiêu khích. Thế rồi
bỗng phóng to hết cỡ dồn dập, bừng bừng gào thét hỗn độn tất cả các loại âm thanh của núi rừng,
thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của cơn phấn khích dữ dội, man dại và cuồng loạn bởi những âm
thanh đập ầm ầm vào đá. Để nói cho tận cùng tính dữ dội, hiểm ác của con sông, Nguyễn Tuân
tiếp tục đưa người đọc đến khúc ngoặt của sông và chân trời đá: “đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai
phục hết trong lòng sông”. Chúng ngỗ ngược, đứng, ngồi, nằm tùy sở thích. Dường như từ ngàn
xưa, sông đã giao việc cho chúng phải bày binh bố trận, có hàng tiền vệ, tuyết giữa và hậu vệ, có
cửa sinh, cửa tử, biết dụ biết lừa, biết đánh, biết đá, biết hỏi và biết cả thách thức. Phối hợp với
đá là thác nước, chúng hò la vang động làm thanh viện cho đá, có khi liều mạng sóng nước ùa
vào làm “bẻ gãy cán chèo, đá trái, thúc gối, túm thắt lưng lật ngửa đánh đờn hiểm…”. Nguyễn
Tuân đã sử dụng ngôn ngữ của nhiều ngành khác nhau: võ thuật, thể thao, quân sự để làm sống
dậy một con sông. Nhà văn xoay ngắm ở nhiều chiều, nhiều bề: cao – rộng, trên bề mặt – dưới
lòng sâu, đào xới đến tận cùng bản chất dữ dằn, hiểm ác để chứng tỏ sông Đà – con thủy quái –
kẻ thù số một của con người.Sông Đà làm một bản thể chính vì vậy mà bên cạnh sự hùng vĩ, dữ
dằn của con sông, sông Đà còn hiện lên với vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình.
Viết về vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông Đà, Nguyễn Tuân không bằng lòng với những tri
thức hời hợt, quen nhàm mà luôn dồn hết tâm huyết, dựng công khó nhọc tìm tòi mang đến cho
người đọc sự hiểu biết phong phú, toàn diện về một con sông, một vùng đất giàu giá trị vàng với
những trang văn dạt dào cảm xúc. Đây là đoạn văn không còn sự hiện diện của thác, ghềnh, đá,
sông Đà ở đoạn này hiền hòa và thơ mộng. Lời văn của Nguyễn Tuân bỗng đổi giọng dạt dào,
tha thiết, ngôn ngữ giàu chất thơ, chất nhạc, chất họa. Người đọc có cảm giác như đang được
cùng Nguyễn Tuân bồng bềnh trên máy bay rà “từng nét sông tã ra trên đại dương đá lờ lờ bóng
mây dưới chân mình”, thấy Tổ quốc thật bao la. Để từ đó bậc du tử vảy bút vẽ một bức tranh
thủy mặc chỉ trong một câu văn: “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân
tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mùi khói
núi Mèo đốt nương xuân”. Thật không còn so sánh nào đẹp hơn dòng chảy của sông Đà với áng
tóc của một mĩ nữ.
Trữ tình và đáng yêu hơn nữa là màu sắc của con sông Đà. Nguyễn Tuân cũng đã nhận ra những
sắc màu khác nhau của sông Đà theo từng mùa mang vẻ đẹp riêng “mùa xuân dòng xanh màu
xanh ngọc bích”, qua ánh nắng mùa thu “sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bần đi vì rượu
bữa”. Cách nhân hóa và so sánh này cho thấy sự tài hoa của bậc du tử khi miêu tả sắc nước sông
Đà.
Là cây bút suốt đời tìm kiếm và khám phá cái đẹp, Nguyễn Tuân cùng với các đồng nghiệp của
mình không quản khó khăn gian khổ băng đèo, lội suối đến với miền Tây Bắc xa xôi của Tổ
quốc để tìm cho ra “cái thứ vàng mười” của núi sông Tây Bắc.Trên sông Đà, người lái đò xuôi
ngược cả trăm lần. Dòng sông đối với ông “như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc
đến cả những cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Ông hiểu quy luật của dòng
nước, đóng đinh vào trí nhớ của mình từng con thác, xoáy nước, luồng lành, luồng dữ, luồng tử
luồng sinh, thông minh gan dạ, hoạt bát tự tin như một dũng tướng trong trận đồ bát quái. Vẻ đẹp
ngoại hình của người lái đò được Nguyễn Tuân khắc họa đã ngoài bảy mươi, đàu tóc bạc trắng,
thân hình như một pho tượng được tạc bằng đá cẩm thạch. Nước da ánh lên chất sừng chất mun.
Cánh tay rắn chắc trẻ tráng “lêu nghêu như cái sào”. Cặp mắt tinh anh với nhãn lực nhìn xa vời
vợi. Trên ngực nổi lên một số thương tích trên “chiến trường Sông Đà” mà Nguyễn Tuân ngưỡng
mộ gọi đó là “thứ Huân chương lao động siêu hạng”. Ông lái đò là một “tay lái tài hoa” từng
vượt qua bao trùng vây thạch trận, giao phong sinh tử với “lũ đá nơi ải nước”. Ông là một nhân
vật không tên bởi ông là đại diện cho bao con người trên khắp đất nước Việt Nam ngày đêm âm
thầm cần mẫn trong lao động, không ngừng đối mặt với những thiên tai, địch họa để giành lấy sự
sống và bảo vệ quê hương đất nước. Chính bởi vậy mà hình tượng người lái đò càng trở lên lớn
lao và kì vĩ. Vẻ đẹp hình tượng người lái đò sông Đà được Nguyễn Tuân khắc họa trong ba lần
thủy chiến. Cuộc giao tranh giữa một bên là chiếc thuyền con én cùng một con người nhỏ bé,
mong manh đơn độc với một bên là gần trăm con thác dữ lớn nhỏ được ví như con quái vật
khổng lồ tâm địa hiểm ác đại diện cho sức mạnh kì vĩ, dữ dội của thiên nhiên. Cuộc chiến diễn ra
không cân sức nhưng hình ảnh người lái đò tay vẫn giữ chặt mái chèo, chân kẹp chặt cuống lái,
hiên ngang, ngoan cường, bình tâm xử lí tình huống một cách dũng cảm, mưu trí, quyết liệt, táo
bạo trước con quái vật nanh ác và giành được chiến thắng. Để miêu tả cuộc giao tranh đầy cam
go, quyết liệt giữa người lái đò và con sông Đà hung bạo, Nguyễn Tuân đã tung ra vốn kiến thức
uyên bác về địa lí, lịch sử và vốn ngôn ngữ thuộc các lĩnh vực thể thao, võ thuật, quân sự kết hợp
với các thủ pháp nhân hóa, so sánh liên tưởng khôn lường, bất ngờ để cống hiến cho người đọc
những trang văn, những bức tranh thủy chiến, những cảnh quay sống động bằng nghệ thuật ngôn
từ đầy tài hoa, kì thú và hấp dẫn.
Cuộc giao chiến lần một sông Đà hiện lên như một kẻ thù nham hiểm, xảo quyệt, đó là chân trời
đá. Đá ở con thác này mai phục hàng ngàn năm, chúng ngỗ ngược đứng, nằm, ngồi tùy sở thích,
biết bày binh bố trận như binh pháp Tôn Tử. Gồm 5 cửa trận, trong đó có 4 cửa tử, một cửa sinh
chia làm ba tuyến: tiến, trung, hậu vệ…đòi ăn chết con thuyền đơn độc nhưng ông lái vẫn nhớ
mặt từng đứa. Khi thạch trận bày xong, có sự phối hợp của nước thác, sóng thác. Nước hò la
vang dậy làm thanh viện cho đá. Đá oai phong lẫm liệt, tiến lùi thách thức. Sóng nước như quân
liều mạng đá trái, thúc gối vào bụng, vào hông thuyền, lại như đòi túm lấy thắt lưng ông lái dò
mà lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt đánh đòn hiểm độc nhất. Song ông
lái đò vẫn giữ chặt mái chèo để khỏi bị hất tung ra khỏi trận địa sóng. Sóng đánh hồi lùng, đánh
đòn tỉa, đánh đòn âm vô cùng thâm hiểm nhưng ông đò cố nén những vết thương, kiên cường
vượt qua cơn hỗn chiến. guyễn Tuân đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ truyền hồn sống
vào từng khối đá, biến chúng thành bày thạch tinh hung hãn trong cuộc giao chiến với con người.
Miêu tả thiên nhiên dữ dội nguy hiểm chẳng qua là để tôn vinh sức mạnh, lòng quả cảm của con
người trong cuộc chinh phục thiên nhiên. Đoạn văn thật đặc sắc, đem lại cho người đọc những
cảm xúc thẩm mĩ mới mẻ, lo âu và đầy kiêu hãnh như chính mình là người trong cuộc.
Để tô đậm hình ảnh người lái đò tài hoa, trí dũng, Nguyễn Tuân tiếp tục miêu tả cuộc giao tranh
lần hai. Dưới cây bút tài hoa, phóng túng, con sông Đà tiếp tục được dựng dậy như “kẻ thù số
một” của con người với tâm địa còn độc ác và xảo quyệt hơn. Khúc sông này nhiều cửa tử chỉ có
một cửa sinh. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Ông lái đò cùng chiếc thuyền
cưỡi trên con sông như cưỡi trên lưng hổ, ông nắm chắc bờm sóng, ghì cương bám chắc vào
dòng nước, phóng nhanh vào cửa sinh, lái miết. Bốn năm bọn thủ quân cửa ải nước liền xô ra
định níu thuyền vào cửa tử. Dòng sông như con thú hoang lồng lộn đòi ăn chết con thuyền. Nó là
hiện thân của sức mạnh thiên nhiên khó chế ngự. Ông lái đò nắm chắc quy luật của thần sông
thần đá, không hề nao núng, luôn tỉnh táo, sáng tạo, thay đổi chiến thuật, ứng phó kịp thời. Mặc
cho Đà giang hung dữ, hiểm ác ông vẫn bám chặt dòng nước, ghì cương lái như bám chặt vào sự
sống. Nguyễn Tuân thật tài hoa trong cách dùng từ, ông không dùng “ghì tay lái” mà “ghì cương
lái” khiến dòng sông như con hổ, dòng thác là hùm beo và con thuyền là chiến mã, còn ông lái
vụt lớn cao như kị sĩ anh hùng điều khiển con chiến mã tung hoành trên chiến trận sông Đà. Để
chiến thắng, ông lái đò không chỉ dũng cảm mà còn mưu trí trong cách đối phó. Thông qua nghệ
thuật ngôn từ của Nguyễn Tuân hình ảnh con người hiện lên thật oanh liệt, hào hùng.
Cuộc giao tranh thứ ba kịch tính được đẩy lên đỉnh điểm. Ngòi bút của Nguyễn Tuân trở nên bay
bổng, linh hoạt bởi nhiều liên tưởng tạt ngang đầy thú vị. Trong trùng vi thạch trận thứ ba này,
dòng thác càng trở nên điên cuồng, dữ dội hơn, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là cửa tử. Cái
luồng sống ở ngay giữa bọn đá hậu nên sự sống của ông đò càng hết sức mong manh. Chính giữa
ranh giới cửa sự sống và cái chết, người đọc càng thấy tài nghệ chèo đò vượt thác thật tuyệt của
ông lái. Ông cứ phóng thẳng, chọc thủng, vút qua cổng đá để rồi chiến thắng vinh quang. Thác
dữ không chặn bắt được con thuyền, cuối cùng vẫn là con người chiến thắng. Sức mạnh thần
thánh của tự nhiên cũng phải cúi đầu. Con người cưỡi lên thác ghềnh, xé toang hết hớp này đến
lớp khác trùng vi thạch trận, biểu lộ sức mạnh phi thường trong quá trình thuần phục sự hung
hãn của dòng sông. Ngôn ngữ miêu tả nhanh, gọn mà nhẹ nhàng như chính ông lái đò đang lướt
đi trên băng khiến người đọc vô cùng cảm phục những con người lao độ động bình thường giản
dị mà rất đỗi phi thường.
Con sông Đà hung dữ là vậy ông lái đò chỉ coi nó như một chiếc lá thu. Ông đến với nó như đến
với một người lắm chứng nhiều tật nhưng đằm thắm như một cố nhân. Ông hiểu nó, lắng nghe
âm vang của nó, thủy chung với nó. Qua mỗi lần chinh phục, mọi nguy hiểm đều tan biến: “Sóng
thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Họ lại đốt lửa nướng cơm lam, bàn chuyện về cá anh vũ, cá dầm
xanh như không hề có chuyện gì xảy ra, mặc dù ngày nào họ cũng phải vật lộn, đối mặt với thác
dữ. Đó thực là vẻ đẹp của một tâm hồn nghệ sĩ.
Có thể nói, thiên tùy bút Người lái đò sông Đà là tác phẩm mang đậm phong cách nghệ thuật độc
đáo của Nguyễn Tuân. Độc đáo, tài hoa, uyên bác trong cách tiếp cận và khai thác đối tượng từ
nhiều khía cạnh, phương diện thẩm mĩ, văn hóa. Dòng sông được miêu tả như một công trình mĩ
thuật tuyệt vời của tạo hóa, người lái đò được khắc họa với tư chất trí dũng tài hoa, nghệ sĩ. Tác
giả vận dụng ngôn ngữ điêu luyện của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau như: hội họa, âm nhạc,
điện ảnh, điêu khắc,…huy động kiến thức nhiều lĩnh vực: địa lí, lịch sử, thể thao, võ thuật,..Tât
cả đã tổng hợp, tựu chung lại làm nổi bật vẻ đẹp một dòng sông Đà hùng vĩ, dữ dội và thơ mộng
cùng với đó là vẻ đẹp hình tượng người lao động rất đỗi bình dị mà kì vĩ, lớn lao.
Khép lại tùy bút sông Đà, Nguyễn Tuân đã đem đến cho độc giả bức tranh về thiên nhiên sông
nước hùng vĩ, dội nhưng cũng không kém phần thơ mộng trữ tình. Hiện lên trong bức tranh đó là
hình ảnh con người lao động trí dũng tài hoa của thời đại mới – thời đại Hồ Chí Minh.
VỢ CHỒNG A PHỦ

Trước khi bị bắt về làm dâu nhà thống lí, Mị là người con gái đẹp, chăm chỉ, hiếu thảo, tâm hồn
ăm ắp những khá vọng hạnh phúc. Mị thổi sáo và kèn lá rất giỏi nên có nhiều chàng trai say mê,
đêm theo về nhà đứng nhẵn cả đầu vách. Khi bị bắt về nhà thống lí, Mị bị bắt làm con dâu gạt
nợ, thực chất là nô lệ. Mị bị vùi dập, chà đạp, cướp đoạt tất cả mọi quyền, sống như kiếp vật. Mở
đầu tác phẩm nhà văn đã mô tả hai nghịch cảnh: Mị ngồi quay sợi gai bên tảng đá, cạnh tàu
ngựa. Suốt ngày làm lụng vất vả, dù quay sợi, thái cỏ, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước, Mị cũng
cúi mặt, buồn rười rượi. Với cảnh nhà thống lí quyền thế, giàu có, người ra vào tấp nập “nhiều
nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng”. Đây chính là thủ pháp tạo tình huống “có vấn
đề” trong lối kể chuyện truyền thống giúp nhà văn mở lối dẫn người đọc cùng tham gia vào hành
trình tìm hiểu những bí ẩn của số phận nhân vật.
Sống trong nhà thống lí, Mị bị cướp đoạt sức lao động, sống như một kiếp vật. Mị sống trong tủi
cực đúng nghĩa với một kẻ nô lệ khổ sai. Có đến mấy tháng trời đêm nào Mị cũng khóc, suy
ngẫm ấm ức, Mị tìm đến nắm lá ngón để giải thoát, nhưng trước những lời thống thiết của người
cha già suốt đời nghèo khổ, lòng hiếu thảo trào dâng khôn xiết. Mị nén nỗi đau, chấp nhận quay
về chịu kiếp ngựa trâu. Với thủ pháp so sánh tương đồng, nhà văn làm nổi bật cuộc đời cơ cực
của Mị. Mị nghĩ mình cũng là con trâu con ngựa vì “là con ngựa phải đổi ở tàu ngựa nhà nà đến
ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết ăn cỏ, biế đi làm mà thôi”. Nhà văn nhấn mạnh hậm chí
Mị không bằng con râu, con ngựa vì “con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng
gãi chân, đứng nhai cỏ”, còn kiếp đàn bà con gái trong cái nhà này thì làm quần quật cả đêm lẫn
ngày, tới mức Mị nghĩ “ở lâu trong cái khổ, Mị quen rồi”. Công việc tuần tự ngày này qua tháng
khác đơn điệu, tẻ nhạt,.. Mị chỉ biết cúi mặt làm không muốn nghĩ nữa, vật vờ tồn tại như cái xác
không hồn. Mỗi ngày Mị càng không nói “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Hình ảnh con
rùa lùi lũi gợi ta nhớ đến câu ca dao “Thương thay thân phận con rùa/ Ở đình đội hạc, ở chùa đội
bia”, đó là ẩn dụ về thân phận phụ thuộc, cơ cực của người phụ nữ trong xã hội phong kiến mà
Mị là số phận tiêu biểu. Căn buồng Mị ở tù túng, âm u, lạnh lẽo “kín mít, có một chiếc cửa sổ,
một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay
là nắng”. Rõ ràng đời sống tủi nhục, tăm tối đã lấn át, vùi dập con người Mị, con người trẻ trung
ham yêu, ham sống ngày trước, đến nỗi chính Mị cũng không nhận ra. Đó là sự tha hoá của đời
Mị mà do chính xã hội gây nên. Mị bị đọa đày cả thể xác lẫn tâm hồn. Chi tiết “một lỗ vuông”
gây ám ảnh ngột ngạt, bức bối về một địa ngục trần gian, ẩn dụ cho một cuộc đời bế tắc. Nhà văn
đã cất lên tiếng nói nhân quyền của con người để vạch trần, tố các tội ác của bọ chúa đất ở miền
núi đã làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi niềm vui sống của con người.
Mùa xuân về, Mị muốn đi chơi. Ước muốn của Mị vừa lóe lên đã bị A Sử dập tắt. A Sử trói Mị
đứng suốt đêm trong căn buồng u tối. Dây trói xiết chặt làm da thịt Mị đau nhức như bị đứt ra
từng mảng. Đau đớn, xót xa, Mị nghĩ kiếp mình không bằng kiếp ngựa. Kể từ đó tinh thần Mị
càng rơi vào vô vọng. Mị đã phải sống với người chồng mình không yêu, không được yêu, Mị
còn bị A Sử đánh đập, hành hạ tàn bạo. Khi A Sử bị A Phủ đánh, Mị phải vào rừng hái thuốc về
xoa cho hắn. Vậy mà lúc đau mỏi quá thiếp đi, hắn co chân đạp thẳng vào mặt Mị – hành động
đó chỉ có ở ác thú. Thật đau đớn và xót xa. Những đêm đông giá lạnh trên núi, nếu không có bếp
lửa sưởi ấm làm bạn thì Mị đã chết tàn chết héo. Hằng đêm, Mị dậy thổi lửa, hơ tay không biết
bap nhiêu lần. Có đêm A Sử chợt về, thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp.
Hành động thật dã man, đó không phải là mối quan hệ vợ chồng mà là quan hệ chủ – tớ. Một
trong những thành công của tác phẩm chính là nghệ thuật mô tả tâm lí và phân tích tâm lí của
nhân vật. Ngòi bút nhà văn thật tinh tê và sâu sắc khi mô tả diễn biến tâm lí, sức sống tiềm tàng
và sự biến đổi số phận của nhân vật. Mị – người phụ nữ tưởng chừng như cam chịu số phận,
không còn đủ sức vượt thoát nhưng trong hoàn cảnh có thể, Mị vẫn bật lên làm chủ cuộc đời.
Điều đó được biểu hiện ở chính đêm tình mùa xuân trên rẻo cao.
Đêm tình mùa xuân đã đánh thức niềm yêu sống và khát vọng tự do trong Mị. Ngoài đầu núi,
tiếng sáo gọi bạn đi chơi mà lòng Mị thấy bồi hồi xao xuyến. Hòn than bị vùi lấp dưới lớp tro tàn
bấy lâu nay giờ được cơn gió xuân thổi tới làm bùng lên ngọn lửa yêu sống và khát khao tự do.
Mị nhẩm theo bài hát, Mị uống rượu ừng ực từng bát như muốn quên đi bao nỗi đời cay đắng.
Tiếng sáo và hơi men nồng của rượu đã đưa Mị trở về với quá khứ tươi đẹp, Mị nhớ lại khi xưa,
Mị muốn được đi chơi, thổi kèn thổi sáo, nhảy múa cùng đám bạn. Mị thấy mình còn trẻ lắm.
Cuộc sống trâu ngựa ở nhà thống lí bỗng vụt biến, Mị thấy không còn đáng sợ nữa. Kí ức tưởng
như bị nhấn chìm, vùi dập đột nhiên bừng sáng, thôi thúc bao ước vọng trong Mị. Qúa khứ đẹp
đẽ, thực tại phũ phàng khiến Mị lại muốn ăn lá ngón mà chết ngay đi để khỏi phải nghĩ, khỏi
phải dằn vặt, đau khổ. Nhưng tiếng sáo gọi bạn vẫn réo rắt ngoài đường, xoáy sâu vào trái tim
đầy thổn thức của Mị. Tiếng sáo như một ma lực cứ rập rờn, bay bổng, mê hoặc dẫn dụ Mị đi
chơi. Mị không còn biết gì khác nữa, tinh thần Mị thăng hoa thoát hẳn đời sống thực tại. Mị xắn
thêm mỡ vào đĩa đèn khơi cho ngọn đèn thêm sáng, búi lại mái tóc, với tay lấy cái váy hoa,
chẳng cần biết A Sử đã bước vào buồng và hỏi “Mày muốn đi chơi à” trong lòng Mị khi ấy chỉ
còn tiếng sáo và khát vọng tự do.
Tô Hoài cảm nhận được ý thức đang sống dậy mạnh mẽ trong Mị. Mị nhận ra mình còn trẻ đẹp,
nhận ra được thực trạng mất tự do, bị đè nén bấy lâu nay, nhận ra quyền làm người của mình đã
đẩy Mị tới một hành động quyết liệt: đi chơi. Thoát khỏi chốn địa ngục tối tăm để được tự do
đón gió trời xuân, hơi xuân, tìm lại những tháng ngày tươi đẹp đã mất. Nhưng khát vọng không
thể cứu được số phận. Tấm thân mềm yếu của Mị bị sợi dây tàn bạo A Sử cuốn chặn vào cây cột
trong căn buồng u tối cho tới sáng hôm sau. Bước chân vùng đi đã đánh thức Mị trở lại với hiện
tại, sợi dây siết chặt vào da thịt đau nhức, Mị nhận ra sự thật tàn khốc. Giấc mơ đẹp vụt tan biến.
Mị “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Hai biểu tượng của ước mơ tụ do và thực tại
hiện ra qua hai âm thanh đối nghịch: tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết và tiếng chân ngựa đạp vào
vách, tiếng chân ngựa đã bóp nghẹt trái tim Mị. Đau đớn, xót xa Mị nhận ra kiếp con người
chẳng bằng kiếp con vật “Đời người đàn bà lấy chồng ở Hồng Ngài một đời chỉ biết đi theo đuôi
con ngựa của chồng”. Khép lại khát vọng được đi chơi, được sống tự do trong những đêm tình
mùa xuân, Mị lại rơi vào tình cảnh bi đát hơn trước đó. Mị bị dìm xuống sâu hơn kiếp ngựa trâu,
bị tước đoạt quyền làm người. Cảnh ngộ ấy cũng là lời lên án tố cáo đối với hành động tàn độc
của cha con thống lí – đại diện cho giai cấp thống trị ở miền núi. Khát vọng tự do của Mị trong
đêm tình mùa xuân năm trước chưa được thực hiện thì trong đêm đông lạnh giá này, Mị quyết
định cắt dây trói cứu A Phủ và giải phóng cho chính mình. Đây là bước đột biến quyết liệt làm
thay đổi cả cuộc đời Mị. Xây dựng nhân vật Mị, nhà văn luôn đặt nhân vật vào thế đối lập giữa
hoàn cảnh và số phận, giữa ngoại hình là nội tâm để từ đó đem đến cho người đọc những bất ngờ
trong cách giải quyết. Từ sau cái đêm tình mùa xuân đầy nghiệt ngã ấy, Mị ngày càng trở nên
chai lì, vô cảm, vô vọng. Cuộc đời Mị có lẽ cứ thế tiếp diễn nếu như không có sự xuất hiện của A
Phủ. Cảnh A Phủ bị cha con thống thí trói đứng vào cột giữa những ngày Hồng Ngài rét buốt, bị
bỏ đói khát đã làm thức dậy tinh thần phản kháng của người đàn bà yếu đuối tưởng như không
còn sức sống này.
Cảnh A Phủ bị trói trong đêm mùa đông làm một sự kiện làm thức tỉnh ý thức sống của Mị. Lại
một đêm nữa Mị trở dậy, ngọn lửa sáng bừng lên cùng lúc, Mị lóe mắt trông sang thấy hai mắt A
Phủ mở trừng trừng mới biết là A Phủ vẫn còn sống “một dòng nước mắt bò xuống hai hõm má
đã sạm đen lại”. Đây là chi tiết đàu mối trong sự đột biến tâm lí của Mị. Mị chợt nhớ lại năm
trước Mị cũng bị A Sử trói đứng trong cái nhà này, tóc bị quấn ngang cổ, nước mắt chảy xuống
không lau được, đau đớn, bất lực chẳng khác gì A Phủ bây giờ. Trái tim đầy thương tích của Mị
bỗng thấy thương người, thương thân. Mị quyết định cắt dây trói cứu A Phủ. Cắt dây trói, A Phủ
quật sức vùng chạy, Mị đứng lặng trong bóng tối nhìn chiếc cột bỏ không, hoảng hốt, bàng
hoàng nhận ra sự nổi loạn của mình. Cái chết chập chờn trước mắt. Với bản năng, Mị vụt chạy
theo A Phủ và thổn thức “A Phủ cho tôi đi ! Ở đây thì chết mất”. Tình huống diễn ra mau lẹ, bất
ngờ, tự nhiên nhưng rất logic, phù hợp với sự phát triển tính cách của nhân vật. Hành động cắt
dây trói cho A Phủ là hành động cắt đứt, đoạn tuyệt với quá khứ khổ đau cho cả hai người. Như
cánh chim sổ lồng tăm tối, họ băng băng xuống dốc núi, bay về phía tự do. Không như chị Dậu
trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố, chị Dậu bơi trong đem tối như tiền đồ không lối thoát,
không như Chí Phèo của Nam Cao, rút dao giết chết kẻ thù rồi kết liễu cuộc đời mình. Trong ngõ
cùng bế tắc nhất, ý thức sống đã hóa thành một hành động phản kháng mãnh liệt, táo bạo, Mị
vùng lên chống lại cường quyền, chống lại mọi sự áp bức, chà đạp, lăng nhục, vật hóa con người,
cứu lấy cuộc đời, giành lại hạnh phúc mà Mị bị cướp đoạt và A Phủ đã từng khao khát. Từ đây
cuộc đời của hai con người khổ đau đã được hồi sinh, mở ra một trang mới. Xây dựng nhân vật
A Phủ trong tác phẩm, Tô Hoài muốn tô đậm thêm bức tranh hiện thực về đời sống cơ cực, tăm
tối của đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao dưới ách thống trị của bọn thực dân, chúa đất A
Phủ xuất hiện khá đột ngột gây ấn tượng mạnh cho người đọc, đó là cảnh A Phủ đánh A Sử. A
Phủ cũng như Mị, họ đều là nhũng người dân nghèo bị gia đình thống lí Pá Tra áp bức, bóc lột và
trở thành con nợ – nô lệ. Song ở họ đều có tình yêu và khát vọng giải phóng. A Phủ mồ côi cha
mẹ khi mới lên mười tuổi trong một trận dịch khủng khiếp. A Phủ trở thành đứa trẻ bơ vơ bị
người làng bán để đổi láy thóc ăn. A Phủ không chịu đã trốn lên vùng cao, làm thuê làm mướn
kiếm sống và lưu lạc tới Hồng Ngài. Ngay từ nhỏ, A Phủ đã có cá tính rất đặc biệt: gan góc, có ý
thức phản kháng mỗi khi không chịu nổi điều gì. A Sử phá đám chơi của A Phủ và bạn bè, A Phủ
đánh “xộc tới nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp”. Sau hành động
nhanh, mạnh, dứt khoát của ý thức phản kháng đó A Phủ bị nhà thống lí trói, đánh đập, chửi bới
rất dã man trong cuộc xử kiện. A Phủ phải quỳ chịu trận trong làn mưa roi và khói thuốc phiện,
không được nói, không được thanh minh. Cảnh xử kiện kết thúc, từ đây A Phủ phải làm nô lệ
suốt đời cho nhà thống lí để trả nợ. Qua cuộc đời và số phận của A Phủ, Tô Hoài đã tố cáo tội ác
dã man của giai cấp thống trị ở miền núi, tiêu biểu là cha con thống lí Pá Tra. Chúng đã cấu kết
với bọn thực dân đẩy những con người hiền lành, chất phác vào tình trạng thảm hại, bị cướp đoạt
sức lao động và quyền làm người, trở thành nô lệ không hơn không kém.
Truyện “Vợ chồng A Phủ” là một sự thật về cuộc đời của những người lao động ở vùng cao Tây
Bắc. Câu chuyện hấp dẫn và lôi cuốn người đọc qua cách kể truyện rất riêng của Tô Hoài. Mở
đầu như một câu chuyện cổ tích nhưng lại là một mảnh đời, một số phận bằng xương, bằng thịt.
Nhà văn đan xen giữa quá khứ và hiện tại gợi lên nhiều cung bậc cảm xúc cho người đọc. Nghệ
thuật xây dựng và phân tích tâm lí nhân vật cũng là một thành công trong ngòi bút của Tô Hoài.
Thông qua việc xây dựng hai hình tượng Mị và A Phủ nhà văn lên tiếng tố cáo thế lực thực dân
phong kiến miền núi đã áp bức, đọa đày, cướp đoạt quyền sống và quyền hạnh phúc của con
người
Khép lại tác phẩm, Vợ chồng A Phủ đã để lại trong lòng người đọc vẻ đẹp của lòng nhân đạo,
tình yêu thương, đồng cảm sâu sắc với những kiếp người nghèo khổ. Qua hai nhân vật Mị và A
Phủ nhà văn đã làm hiện lên sức sống tiềm tàng, tinh thần phản kháng của những người dân lao
động nghèo khổ, luôn đấu tranh để tìm đến ánh sáng của tự do.

Sự trỗi dậy sức sống của Mị trong đêm tình mùa xuân
Ngoại cảnh: không khí mùa xuân ở Hồng Ngài rất tưng bừng, rộn rã với hình ảnh những chiếc
váy hoa phơi trên mỏm đá, xòa như những con bướm sặc sỡ. Đám trẻ đợi Tết chơi con quay cười
ầm ĩ trước sân nhà. Ngoài đầu núi lấp ló tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi…
Diễn biến của sự trỗi dậy sức sống:
+ Mị uống rượu – hành động vừa bình thường, vừa bất thường. Dấu hiệu đầu tiên của sự “nổi
loạn”.
+ Khi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người “nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước”.
Kí ức sống dậy với một cô Mị trẻ trung, xinh đẹp thổi sáo hay, có nhiều người mê.
+ A Sử về: cũng như mọi lần, Mị không nói. Cô đến góc nhà lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ thêm
vào đĩa đèn cho sáng. Một việc làm ý thức ở trong vô thức.
+ Khi Mị muốn đi chơi: A Sử phát hiện ra, hắn trói Mị vào cột nhà, quấn tóc Mị lên cột rồi tắt
đèn đi ra khép cửa buồng lại. Hành động tàn ác đo của hắn như một gáo nước lạnh dội vào ngọn
lửa sức sống vừa bừng lên dữ dội ở Mị.
+ A Sử đi rồi, còn lại một mình Mị đứng lặng im trong bóng tối. Cô như không biết mình đang bị
trói. Hơi rượu vẫn còn nồng nàn. Tiếng sao gọi bạn ngoài đường vẫn đưa Mị đi theo những cuộc
chơi. Suốt đêm hôm đó, Mị bị trói đứng như vậy.
Tâm hồn chai sạn của Mị bỗng dưng thức tỉnh: Sức sống mãnh liệt, tiềm ẩn đằng sau vẻ bề ngoài
cam chịu, câm nín của Mị đã trỗi dậy mạnh mẽ khi gặp điều kiện thuận lợi. Nhưng nó đã bị vùi
dập một cách phũ phàng bởi hành động tàn ác, lạnh lùng của A Sử.

Sự trỗi dậy sức sống của Mị trong mùa đông


Ngoại cảnh: đêm mùa đông trên núi cao dài và đượm buồn. Mị có thói quen đến bên bếp lửa để
sưởi lửa, hơ tay. Đã mấy đêm, A Phủ bị trói ở gần bếp lửa nhưng Mị vẫn thản nhiên ngồi thổi
lửa, hơ tay.
Diễn biến:
+ Đêm ấy, cũng như mọi đêm, Mị ra bếp hơ tay, sưởi lửa khi ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé
mắt trông sang thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A
Phủ. Mị nhớ lại tình cảnh tương tự của mình.
+ Trong trạng thái tỉnh táo, Mị đã có một nhận thức quan trọng về căn nguyên nỗi khổ của mình
và những người cũng cảnh ngộ “chúng nó thật độc ác”.
+ Từ chỗ thương mình Mị đã chuyển sang thương cho A Phủ. So sánh mình với A Phủ Mị thấy
anh có ít ràng buộc hơn.
+ Hành động cắt dây trói cho A Phủ: Một hành động mạnh mẽ, dứt khoát đến bất ngờ.
Quyết định cởi trói cho A Phủ và giải phóng đời mình của Mị thể hiện: tình yêu thương, sự đồng
cảm, đấu tranh giai cấp bảo vệ lấy chính cuộc sống của mình.

Mở đầu tác phẩm, Tô Hoài đã đưa người đọc tới một không gian mà ở đó có hình dáng của một
người con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Nhưng lạ thay “lúc nào
cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy
cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi…”. Hóa ra đó là cô Mị, con dâu của một gia đình quyền thế
nhất vùng – thống lí Pá Tra, vợ của A Sử. Sống trong khung cảnh đông đúc, tấp nập của nhà
quan thống lí nhưng Mị luôn cô độc, gần như lẫn vào các sự vật vô tri “cái quay sợi, tảng đá, tàu
ngựa”. Cách giới thiệu nhân vật Mị như vậy là có chủ đích của tác giả. Ông đã tạo ra tình huống
có vấn đề để dẫn dắt người đọc cùng tìm hiểu số phận của nhân vật Mị trong những phần tiếp
theo.
Tìm về quá khứ của Mị trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra. Hồi ấy, Mị là một cô gái trẻ
trung, xinh đẹp, một bông hoa của núi rừng và nàng đã làm say lòng biết bao chàng trai Tây Bắc
“Suốt đêm. Con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách …đứng nhẵn cả
chân vách đầu buồng Mị”. Không những xinh đẹp mà nàng còn có tài thổi sáo rất hay. Mị thổi
sáo bằng lá, thổi khiến cho trai làng “ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Tài sắc vẹn toàn là vậy,
lẽ ra Mị phải được hưởng một cuộc sống hạnh phúc. Nhưng vì hoàn cảnh nhà nghèo, vì món nợ
truyền kiếp từ đời cha mẹ để lại, cô bị đẩy vào hoàn cảnh bi đát, phải sống triền miên trong đau
khổ mang danh phận vợ A Sử. Nhưng thực chất là một “con nợ” nàng chấp nhận cuộc sống như
vậy cũng chỉ vì thương cha, thương mẹ.
Từ lúc về làm con dâu trừ nợ nhà thống lí “đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc” và có ý
định ăn lá ngona tự tử. Cuộc sống nơi đây khiến nàng không chỉ bị bóc lột sức lao động một cách
dã man mà còn bị kìm hãm về tinh thần. Cứ như vậy Mị dần tê liệt cảm xúc hệt như một cái xác
không hồn vậy. “Ngày càng không nói, lúc nào cũng cúi đầu và mặt buồn rười rượi” Mị sống
lặng lẽ, cô đơn lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Nhưng trong con người tưởng chừng vô
cảm ấy vẫn tiềm tàng về sức sống, nó đã thức dậy và giúp Mị có hành động táo bạo giải thoát
cho cuộc đời mình. Tuy bề ngoài cam chịu nhưng sức sống của Mị vẫn luôn tiềm tàng, chỉ cần có
điều kiện là nó sẽ lại bùng lên mạnh mẽ. Điều này thể hiện qua diễn biến tâm trạng của nhân vật
Mị trong đêm tình mùa xuân và trong đêm đông giá buốt.
Không khí mùa xuân ở Hồng Ngài thật tưng bừng, rộn rã với hình ảnh những chiếc váy hoa phơi
trên mỏm đá, xòa như những con bướm sặc sỡ. Đám trẻ đợi Tết chơi con quay cười ầm ĩ trước
sân nhà. Ngoài đầu núi đang thấp thoáng tiếng sáo rủ bạn đi chơi. Mị uống rượu – hành động vừa
bình thường, vừa bất thường. Có thể coi đây là biểu hiện đầu tiên của sự “nổi loạn” trong tâm
hồn Mị. Trong đêm mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình đã làm Mị thiết tha bồi hồi, đánh thức tâm
hồn cô làm trỗi dậy lòng ham sống, khát vọng tự do, tình yêu và hạnh phúc.
Khi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người “nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước”. Kí
ức sống dậy với một cô Mị trẻ trung, xinh đẹp thổi sáo hay, có nhiều người mê. Rồi Mị đứng dậy
đi vào buồng, ngồi xuống giường rồi chỉ biết nhìn với ánh mắt vô vọng ra bên ngoài qua cái lỗ
cửa chỉ nhỏ bằng bàn tay. Lúc này, Mị ý thức được sâu sắc hơn bao giờ hết tình cảnh đau khổ
của mình. Mị không được đi chơi tết như những người phụ nữ trẻ khác. Mị với A Sử không có
lòng nhưng vẫn phải ở ví nhau. Sự đối lập giữa quá khứ tươi đẹp đẽ và hiện tại đau buồn khiến
Mị nghĩ nếu có nắm lá ngón trong tay, cô sẽ ăn cho hết ngay “chứ không buồn nhớ lại nữa”.
Nước mắt Mị ứa ra. Tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn bay lơ lửng ngoài đường.Cũng như mọi lần, khi
A Sử đi chơi về, Mị không nói. Cô lặng lẽ đến góc nhà lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ thêm vào
đĩa đèn cho sáng. Một hành động ý thức diễn ra trong vô thức thể hiện niềm khát khao được thắp
sáng cuộc đời và cả tâm hồn của Mị nữa. Tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn rập rờn trong đầu Mị. Mị
muốn đi chơi và đang chuẩn bị đi chơi. Mị quấn tóc lại, với lấy chiếc váy hoa. Ý định đi chơi sắp
sửa biến thành hiện thực thì bị A Sử phát hiện, hắn trói Mị vào cột nhà, quấn tóc Mị lên cột rồi
tắt đèn đi ra khép cửa buồng lại. Hành động tàn ác đó của gã chồng vũ phu như một gáo nước
lạnh dội vào ngọn lửa sức sống vừa bừng lên dữ dội ở Mị. A Sử đi rồi, còn lại một mình Mị đứng
lặng im trong bóng tối. Hơi rượu vẫn còn nồng nàn. Tiếng sao gọi bạn ngoài đường vẫn đưa Mị
đi theo những cuộc chơi. Điều này chứng tỏ Mị vẫn còn sống với những khát khao cháy bỏng,
vẫn dõi theo những cuộc chơi, vẫn bồi hồi theo tiếng sao … Khi Mị vùng bước đi, chân tay đau
không cựa được. Nhưng bây giờ đã hết tiếng sáo rồi, Mị chỉ còn nghe thấy tiếng chân ngựa đạp
vào vách. Cô thổn thức nghĩ mình còn không bằng con trâu, con ngựa.
Suốt đêm hôm đó, Mị bị trói đứng như vậy. Cô cứ ở trong trạng thái chập chờn lúc tỉnh, lúc mê
cho đến sáng. Rồi đến tận khi A Sử bị thương Mị mới được người nhà thống lí cởi trói để đi hái
thuốc cho chồng.
Diễn biền tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân khiến ta cảm nhận được một điều rằng.
Tâm hồn chai sạn của Mị bỗng dưng thức tỉnh một sức sống mãnh liệt, tiềm ẩn đằng sau vẻ bề
ngoài cam chịu, câm nín của Mị đã trỗi dậy mạnh mẽ khi gặp điều kiện thuận lợi. Nhưng nó đã
bị vùi dập một cách phũ phàng bởi hành động tàn ác, lạnh lùng của A Sử.
Tiếp đó , Tô Hoài đã dẫn dắt người đọc đi tới những diễn biến tâm lí của Mị trong đêm mùa
đông trên núi cao dài và đượm buồn. Mùa đông đến, Mị thường có thói quen đến bên bếp lửa để
sưởi lửa, hơ tay. Chứng tỏ người phụ nữ có vẻ bề ngoài nguội lạnh ấy luôn có nhu cầu tìm đến
ánh sáng và hơi ấm. Đã mấy đêm, A Phủ bị trói ở gần bếp lửa nhưng Mị vẫn thản nhiên ngồi thổi
lửa, hơ tay. Có lẽ do chuyện có người bị đánh, bị trói đã là chuyện thường tình ở nhà Thống Lý,
nó không hề gây cho Mị sự chú ý. Mặt khác, cảm xúc của Mị cũng đã chai lì, vô cảm vì quá đa
khổ. Đêm hôm đó cũng như mọi đêm trước, Mị vẫn ra bếp để hơ tay, sưởi lửa Nhưng khi ngọn
lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai
hõm má đã xám đen lại” của A Phủ. Trước tình cảnh đó, Mị chợt nhớ lại cuộc sống của mình. Cô
thấy đau xót cho chính bản thân mình. Trong trạng thái tỉnh táo, Mị đã có một nhận thức quan
trọng về căn nguyên nỗi khổ của mình và những người cũng cảnh ngộ “chúng nó thật độc ác”.
Từ chỗ thương mình Mị đã chuyển sang thương cho A Phủ sẽ phải chết “chết đau, chết đói, chết
rét”. So sánh mình với A Phủ Mị thấy anh có ít ràng buộc hơn, khác với cô “là thân đàn bà, nó đã
bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi”, nếu A Phủ phải chết
thì đó là một điều vô lí, bất công. Lòng thương người từ đây đã lớn dần lên trong Mị. Nghĩ đến
chuyện phải chết thay A Phủ trên cái cọc kia Mị cũng không còn thấy sợ nữa rồi.
Sức sống mãnh liệt như bừng tỉnh một lần nữa với chi tiết Mị cởi trói giải thoát cho A Phủ. Cô
rút con dao nhỏ, cắt nút dây mây cởi trói cho anh. Đây là một hành động dứt khoát đầy bất ngờ.
Chứng tỏ lòng thương người, niềm ham sống thôi thúc Mị phải giành lấy sự sống kể cả không
phải cho mình.Đến khi A Phủ đi rồi, Mị đứng lặng trong bóng tối cô phải lựa chọn giưa hai con
đường: ở lại hay đi. Trong khoảnh khắc đó, lòng ham sống như bừng lên mãnh liệt và đã đưa Mị
đến quyết định bỏ chạy theo A Phủ. Quyết định cởi trói cho A Phủ và giải phóng đời mình của
Mị thể hiện: tình yêu thương, sự đồng cảm, đấu tranh giai cấp bảo vệ lấy chính cuộc sống của
mình.
Qua đó ta thấy, rõ ràng trong bất hạnh, người lao động vẫn luôn có một sức sống bền bỉ, một
khát vọng hạnh phúc lớn lao. Chỉ cần có cơ hội thuận lợi thì sức sống đó, khát vọng đó lại trỗi
dậy mạnh mẽ để chiến thắng cái ác, cái tàn bạo. Và rồi cuối cùng, khát vọng hạnh phúc đã chiến
thắng con ác quỷ mang tên “giai cấp thống trị”.Để xây dựng hình tượng nhân vật Mị gây nhiều
ấn tượng trong lòng người đọc thì Tô Hoài đã phải thể hiện hết tài năng của một cây bút văn xuôi
tâm lí. Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân độc đáo vật kết hợp với nghệ thuật tạo tình huống
truyện, miêu tả sinh hoạt, phong tục và tâm lí nhân vật. Từ đặc sắc nghệ thuật ấy, tác giả như
muốn gửi gắm tới người đọc một thông điệp mang giá trị nhân đạo sâu sắc: lên án, tố cáo tội ác
của giai cấp thống trị. Đồng thời đồng cảm với nỗi khổ nhọc của người dân lao động vùng núi
Tây Bắc. Họ không chịu khuất phục trước cái ác mà quyết tâm đấu tranh để bảo vệ lấy khát vọng
tự do.
Qua truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã khắc họa sinh động một bức tranh hiện thực về
đời sống của đồng bào dân tộc miền núi Tây Bắc qua hình tượng nhân vật Mị. Đồng thời nhà văn
nhấn mạnh rằng dân ta muốn tự do, muốn sống trong hạnh phúc thì có một con đường duy nhất –
đó chính là vùng lên đấu tranh, giải phóng. Ta đều nhận thấy từ đêm tình mùa xuân đến đêm
đông ở Hồng Ngài là một quá trình phát triển tâm lý, tính cách của Mị để quyết định giải phóng
cuộc đời mình. Một tác phẩm giá trị như vậy, mỗi chúng ta cần phải ý thức được trách nhiệm của
bạn thân làm sao để gìn giữ những tinh hoa văn hóa của dân tộc ta từ ngàn đời

2.2. Sức sống tiềm tàng của Mị cũng như diễn biến tâm trạng của nhân vật
này bắt đầu đến từ những tín hiệu mùa xuân, tín hiệu đêm tình:
– Thiên nhiên mùa xuân tác động đến Mị: đó là một mùa xuân rộn rã âm thanh, sắc màu của
“váy hoa xoè như con bướm sặc sỡ” hoà trong “gió rét thổi vào cỏ gianh vàng ửng”; tiếng trẻ đợi
tết chơi quay cười ầm trên sân trước nhà. Chính cái náo nức của đất trời cũng là cái náo nức của
lòng người.
– Khi nghe tiếng sáo gọi bạn “lấp ló ngoài đầu núi”: Mị thấy trái tim mình “thiết tha, bổi hổi”,
Mị ngồi “nhẩm thầm” lời bài hát của người đang thổi sáo. Tiếng sáo ấy đã lâu rồi không thổi, bài
hát ấy từ lâu cũng đã quên. Nhưng hôm nay Mị vẫn nhớ, vẫn thuộc, vẫn nhẩm thầm. Vậy là Mị
chưa có nghĩa đã hoàn toàn vô cảm. Hay nói đúng hơn, chính tiếng sáo là tác nhân đã lay động
sâu xa tâm hồn Mị và đánh thức quá khứ cùng hiện tại của Mị. Tiếng sáo là một ẩn dụ cho tự do,
cho tuổi trẻ và ký ức đẹp tươi của cô gái trẻ người Mèo. Tiếng sáo cũng chính là men tình đã
đánh thức tâm hồn và lý trí của Mị.
2.2. Sau khi nghe tiếng sáo: “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Đây thực chất là một
“cuộc nổi loạn nhân tính” của Mị. Cách uống ấy là sự dồn nén của những ẩn ức, phẫn uất nên
uống rượu mà cứ như nuốt cay nuốt hận vào lòng. Rượu làm Mị say “ngồi trơ một mình giữa
nhà”. Nhưng “lòng Mị thì đang sống về ngày trước”. Mị đi đi về về giữa hai thế giới: quá khứ và
hiện tại; tỉnh và say…. Mị nhớ về thời con gái của mình “ngày trước Mị thổi sáo giỏi, thổi lá
cũng hay như thổi sáo, có biết bao người mê ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Nhưng đối lập
với ký ức tươi đẹp ấy là hiện tại đầy tủi nhục của Mị “A Sử chẳng bao giờ cho Mị đi chơi tết”.
2.3. Khát vọng tự do, hạnh phúc còn được thể hiện qua tâm trạng của Mị khi ở trong buồng.
Căn buồng là địa ngục, ngoài kia là thiên đường. Thiên đường và địa ngục chỉ cách nhau có
một ô cửa bằng bàn tay. Nhưng sự tủi nhục không ngăn được lòng yêu tự do của Mị. Bởi: “đã từ
nãy Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”.
Những từ ngữ như “phơi phới”, “đột nhiên vui sướng”… như diễn tả tận sâu thẳm niềm khao
khát của Mị. Mị nhận ra “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Câu văn sử dụng phép
điệp: trẻ lắm, còn trẻ,…kết hợp kiểu câu đơn ngắn làm nhịp điệu câu văn dồn dập, góp phần cho
thấy tình yêu tự do và ý thức về bản thân chưa bao giờ bị dập tắt trong Mị. Nó giống như hòn
than âm ỉ cháy trong lớp tàn tro giờ có dịp bùng cháy.
– Mị lại tủi thân khi nghĩ về A Sử: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết
ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra”. Như vậy, khi linh hồn đã
trở về, Mị không chỉ ý thức được giá trị của tinh thần mà còn ý thức được hoàn cảnh sống nghiệt
ngã. Muốn chết cũng là sự thể hiện rất mãnh liệt sức sống tiềm tàng ẩn chứa trong tâm hồn cô
gái Mèo. Nhưng trong cảm xúc đầy bi kịch và sự tuyệt vọng ấy, tiếng sáo lại đến: “tiếng sáo gọi
bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường”. Tiếng sáo đầy mê hoặc, quyến rũ, như lôi kéo Mị, đưa Mị
từ vực sâu của tuyệt vọng thăng hoa trở lại cùng khát vọng tự do. Có thể nói: chính tiếng sáo làm
Mị ý thức sâu sắc hơn bi kịch của mình, từ đó tự đánh thức mình bằng khát vọng tự do.
2.4. Khát vọng tự do không chỉ tồn tại trong suy nghĩ mà còn thể hiện trong hành động: “Mị đến
góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào dĩa đèn cho sáng… Mị muốn đi chơi, Mị cũng
sắp đi chơi…Mị cuốn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách… Mị rút thêm cái
áo”. Đây chính là sự “nổi loạn” trong Mị với khát vọng tự do trào sôi, mãnh liệt. Câu văn được
ngắt bởi nhiều dấu phẩy, nhịp gấp, nhiều động từ được huy động: lấy, xắn, bỏ, đi chơi, cuốn lại
tóc, lấy váy hoa, rút thêm cái áo… làm cho những hành động của nhân vật trở nên mạnh mẽ,
cương quyết, táo bạo. Đó là lúc ngọn lửa khao khát tự do đang cháy lên trong Mị, bất chấp sự
hiện diện của A Sử. Giờ đây, bóng đêm của cường quyền bạo ngược và thần quyền đã không thể
nào vùi dập được Mị. Bởi khát vọng tự do trong Mị đang lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi.
– Kể cả lúc bị trói. Mị cũng không biết mình đang bị trói. Dù bị vùi dập phũ phàng, khát vọng tự
do trong Mị không hề mất đi. Thể xác Mị nằm đây giữa bốn bức tường lạnh lẽo, nhưng tâm hồn
Mị đã đi theo tiếng sáo mênh mang gọi bạn tình, Mị vẫn “đi theo những cuộc chơi, những đám
chơi”. Bởi vậy khi tiếng sáo nhập vào hồn Mị – “vùng bước đi”. Là lúc dây trói siết lại đau nhức.
Cơn đau thể xác đã đánh thức Mị, rồi Mị tỉnh. Tiếng sáo vụt biến mất, chỉ còn “tiếng chân ngựa
đạp vào vách”. Tô Hoài đã khéo léo lồng vào chi tiết này âm thanh của tiếng chân ngựa. Tiếng
sáo là âm thanh của giấc mơ; tiếng chân ngựa là âm thanh đau buồn của thực tại. Thực tại đập vỡ
giấc mộng làm tiêu tan tiếng sáo. Âm thanh tiếng chân ngựa đánh thức Mị, đập vỡ cả giấc mơ
của Mị, kéo Mị từ thiên đường trở về địa ngục. Nỗi đau thể xác ngay lập tức chuyển hoá thành
nỗi đau tinh thần vì Mị chợt nhận ra: “Mình không bằng con ngựa”.
Như vậy, cuộc trỗi dậy thứ nhất của Mị không thành, Mị không thoát khỏi cảnh ngục tù trần gian
nhưng ít ra Mị cũng đã sống lại những thời khắc tươi đẹp của tuổi trẻ. Sức sống của Mị, sự hồi
sinh của Mị được đặt trong một thử thách khắc nghiệt, một hiện thực phũ phàng nhưng qua đó lại
càng khẳng định một chân lí rằng: sức sống của con người dù bị dẫm đạp, bị trói chặt nhưng nó
không chết mà luôn âm ỉ cháy, chỉ gặp dịp là bùng lên mạnh mẽ. Đúng như Lỗ Tấn đã từng nói:
“Một tia lửa nhỏ hôm nay báo hiệu đám cháy ngày mai”. Hành động của Mị tuy bột phát nhưng
sẽ hứa hẹn một tương lai bừng cháy ở phía trước. Đây cũng chính là giá trị nhân đạo sâu sắc của
nhà văn Tô Hoài.

* Mị trước đêm tình ngày đông giá rét


Trước đêm tình ngày đông giá rét ấy, Mị đã phải chịu biết bao tủi nhục, bao đầy đọa áp chế. Bởi
đã từng có những khi nàng muốn ăn lá ngón để kết thúc cuộc sống tù tùng này. Những nỗi khổ
đau mà nàng đã trải qua khiến người phụ nữ này trở thành người “vô hồn” không còn cảm quan
về thời gian cũng như không gian. Kiếp sống này, với Mị, có khác chị với con trâu, con ngựa?
Tuy nhiên, sức sống bất tử của niềm tin và khao khát niềm sung sướng trong Mị vẫn chưa hoàn
toàn bị dập tắt. Khi phân tích nhân vật Mị trong đêm tình ngày đông giá rét, tất cả chúng ta
không thể quên hình ảnh trước đó Mị vẫn thường ngồi xuống giường và trông ra hành lang cửa
số. Hành động nhỏ ấy chứng tỏ tâm hồn Mị vẫn luôn hướng về những điều tốt đẹp, vẫn luôn ẩn
chứa khát khao sống thực sự dù nó là mong manh vô định.

* Mị với cuộc trỗi dậy lần thứ nhất


Sức sống và hi vọng nhỏ nhoi ấy có thể bị dập tắt vĩnh viễn, nhưng cũng luôn có thể bùng lên
mạnh mẽ bất tử. Dưới những tác động phía ngoài trong đêm xuân cùng với tiếng sao đã thôi thức
con người Mị của thời xưa… Ngày xuân năm ấy đẹp lắm. Dưới ngòi bút tài hoa của Tô Hoài,
không gian ấy thật gợi cảm biết bao. Khi phân tích nhân vật Mị trong đêm tình ngày xuân, tất cả
chúng ta không thể quên tâm hồn tưởng chừng cằn cỗi ấy đã thức tỉnh như nào.
Một đêm tình ngày xuân với không gian rộn rã sắc màu, tiếng sao réo rắt tha thiết những âm
thanh du dương xưa đã thức tỉnh cô Mị của thời xưa. Từng cung bậc tâm trạng của nhân vật cứ
tiến triển mỗi lúc một lên rất cao. Ban đầu Mị nhâm nhẩm bài hát cũ khi nghe đến tiếng sáo Mèo
quen thuộc, rồi Mị lại uống rượu rồi hoài niệm về những kí ức xa xưa, thời con gái tươi đẹp của
tự do và yêu đương ấy…
Mị lại ý thức được cuộc sống hiện tại, rồi bỗng dưng cô gái ấy lại muốn được đi chơi. Ấy vậy mà
sợi dây trói vô tình của A Sử đã khiến thân xác Mị đau đớn không thể ra đi. Tuy nhiên, A Sử,
nhà thống lý Pá Tra hay sợi dây trói có thể gò bó thân xác của Mị chứ không thể “trói” được tâm
hồn phơi phới trong đêm tình ngày xuân
Chất men rượu đã thức tỉnh phần kí ức đã từng có của Mị. Lúc ấy Mị đã vui sướng biết bao khi
được sống với về những ngày trước, quãng thời gian của tuổi thanh xuân, của tự do, của yêu
thương với những tiếng sáo tình duyên. Mị uống rượu và thổi sáo. Bỗng chợt cô gái của năm ấy
đã trỗi dậy và nhận ra mình vẫn còn rất trẻ.
Khi phân tích nhân vật Mị trong đêm tình ngày xuân, tất cả chúng ta thấy được sự tương phản
và đối lập giữa vẻ đẹp nên thơ của khung cảnh đêm xuân với hiện thực tàn khốc, với kiếp sống
đọa đầy của người con dâu hờ đã khiến Mị đau khổ ứa nước mắt. Người phụ nữ ấy muốn đi chơi,
muốn được tự do, muốn thoát thoát khỏi cái ô cửa tủi nhục này!.
Ban đầu ý định giải thoát của nàng không thành do chính tay người chồng hờ kết thúc. A Sử trói
nàng lại một cách đầy đau đớn với một thúng sợi đay và bằng chính mái tóc của nàng khiến nàng
không cựa quậy được. Nhưng A Sử chỉ có thể trói buộc thể xác chứ không làm gì được tinh thần
và sức sống của nàng. Cuộc trỗi dậy lần thứ nhất của Mị không thành.
Dù lần này chưa thoát thoát khỏi địa ngục trần gian ấy, nhưng Mị dường như không còn là một
con trâu con ngựa lùi lũi trong xó cửa nữa. Những khoảnh khắc tươi đẹp của thanh xuân đã trở
về trỗi dậy mãi trong tâm hồn Mị. Và bất chợt, Mị nhớ lại hình ảnh người đàn bà từng bị trói cho
tới chết trong ngôi nhà này. Hơn bao giờ hết, Mị cảm thấy muốn sống và tiếp tục sống với niềm
sung sướng từng có của mình.
Ở đoạn văn này, hành động của nhân vật rất ít, chủ yếu là những diễn biến tâm trạng của Mị. Tuy
nhiên người đọc vẫn bị cuốn hút bởi một người con gái với tâm hồn cằn cồi già nua đang từ từ
trỗi dậy mạnh mẽ. Khi người đọc phân tích nhân vật mị trong đêm tình ngày đông giá rét sẽ thấy
được diễn biến phức tạp trong tâm trạng của người con gái Tây Bắc này.

* Mị với cuộc trỗi dậy lần hai khi cởi trói cho A Phủ
Càng phẫn uất trước tình cảnh thực tại, khát vọng sống của người con gái sơn cước ấy lại càng
mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Khi phân tích nhân vật Mị trong đêm tình ngày xuân, tất cả chúng ta
không thể quên diễn biến tâm trạng của Mị theo từng tình tiết của thiên truyện.
Mị và A Sử không có lòng với nhau, không có tình yêu trai gái mà vẫn phải ở với nhau để nàng
thành người con dâu hờ. Để rồi trong đêm xuân với những âm thanh tươi đẹp ấy, quá khứ và hiện
tại cứ xen kẹt trong tâm hồn Mị. Nhà văn dường như đã nhập thân vào nhân vật của mình để mà
để mà khắc họa nên những cụ thể cực kì đắt giá. Phân tích nhân vật mị trong đêm tình ngày đông
giá rét đã cho tất cả những người đọc thấy được sự hóa thân của nhà văn trong từng dòng tâm
trạng nhân vật…
A Phủ vốn là chàng trai nghèo mồ côi cả cha mẹ, chỉ vì đánh A Sử mà bị tóm gọn về làm nộ lệ
nhà thống lý Pá Tra để rồi phải chịu cuộc sống tủi nhục của kiếp trâu ngựa. Chỉ vì một lần để hổ
vồ mất bò mà bị tóm gọn trói bỏ đối mấy ngày liền trong đêm lạnh lẽo. Khi thổi lửa hơ tay, đã
mấy lần Mị thấy tình cảnh của A Phủ nhưng vẫn thản nhiên dửng dưng.
Có lẽ tâm hồn của Mị sẽ mãi là tảng băng lạnh lùng vô cảm nếu như không phát giác giọt nước
mắt của A Phủ. Nước mắt có lẽ đã gọi nước mắt, đã kết nối hai tâm hồn đồng điệu giữa họ. Mị
nhớ lại đêm tình bị A Sử trói. Để rồi thương thân phận mình bao nhiêu, Mị lại thương A Phủ. Sự
đồng cảm giữa họ là chính vì sự tương thân trong những con người dân có cùng số phận. Niềm
căm phẫn cha con thống lý Pá Trá lại sục sôi hơn bao giờ hết.
“A Phủ” tiếng gọi cất lên đó chính là tiếng nấc nghẹn ngào. Tâm lý của nhân vật Mị được Tô
Hoài khắc họa thật tài tình bởi từng cung bậc cảm xúc đều vô cùng chân thực làm thế nào. Mị
từng nghĩ có thể mình sẽ lại bị trói lại và phải chết thay trên cái cọc này nếu như nàng cởi trói
cho A Phủ và bị cha con A Sử bắt. Nghĩ đến đó nàng sợ, một nỗi sợ miên man. Ấy vậy mà tình
thương người, khát khao giải phóng cuộc sống tủi nhục này to thêm bất luận điều gì khác. Để rồi,
Mị hành động quyết liệt và đầy táo bạo : cởi trói cho A Phủ.
Mị bỗng chợt hốt hoảng khi cắt dây trói cho A Phủ và chỉ kịp thều thào “đi ngay”. Lặng đi trong
bóng tối một lúc, nàng cũng bất chợt chạy đuổi theo A Phủ. Hành động đột ngột này thực ra là
rất hợp lý bởi đó là lựa chọn duy nhất của nàng lúc này. Nếu không, chính nàng sẽ phải thay thế
A Phủ chết ở cái cọc khô ấy. Khi phân tích nhân vật Mị trong đêm tình ngày xuân, người đọc
đơn giản dễ dàng dàng nhận ra tâm trạng lo sợ này của Mị khi giải cứu cho A Phủ.
Là cô gái khát khao sống mãnh liệt, mong ước tự do và mơ ước niềm sung sướng nên nàng
không thể đồng ý chấp thuận cúi đầu chờ chết ở nơi địa ngục trần gian này. Mị đã cùng A Phủ
trốn khỏi Hồng Ngài ngay trong đêm tình ngày xuân ấy. Cái đêm “định mệnh” ấy đó chính là
nguồn động lực vô song giúp nàng chiến thắng tất cả mọi nỗi lo sợ, mọi cường quyền và thần
quyền tàn bạo áp bức. Sức mạnh mãnh liệt ấy đã giải cứu cho Mị và A Phủ, thay đổi cuộc sống
của họ những ngày về sau.
Từ một cô gái bị chà đạp không thương tiếc, lầm lũi sống vô cảm như kiếp trâu ngựa thì Mị đã
dám đứng lên làm chủ cuộc đời của mình. Việc phân tích nhân vật Mị trong đêm tình ngày đông
giá rét khiến người đọc thêm trân trọng ước mơ và khát khao sống của khá nhiều nhân vật.
Nhưng có lẽ, điều chạm đến trái tim của tất cả chúng ta sâu đậm nhất đó chính là sức sống tiềm
tàng bất tử, âm thầm đầy mãnh liệt của Mị.

* Nhận xét khi phân tích nhân vật Mị trong đêm tình ngày đông giá rét
Hình ảnh Mị với những vẻ đẹp tâm hồn cùng với diễn biến tâm trạng theo từng giai đoạn đã
được nhà văn Tô Hoài miêu tả một cách sống động và chân thực như từng hơi thở. Phải là người
dân có tấm lòng nhân đạo thâm thúy đến độ hóa thân thành nhân vật của mình mới giành được
những lời văn thấm thía và xúc động đến thế! Là một cô gái vốn xinh đẹp có tài năng, ấy vậy mà
sự xấu số lại bủa vây Mị. Thế nhưng, chính trong hoàn cảnh ấy, trong từng hồi diễn biến tâm
trạng của Mị mà người đọc dần nhận ra tính cách đáng trân trọng của nhân vật.
Nói theo một cách, tác phẩm Vợ chồng A Phủ là thành quả thẩm mỹ và làm đẹp mà nhà văn Tô
Hoài hình thành trong chuyến du ngoạn lính trên Tây Bắc. Người nghệ sĩ từng bộc bạch “đất
nước và con người miền Tây Bắc để thương để nhớ cho tôi nhiều quá” Chính tâm sự này đã cho
tất cả chúng ta thấy tại sao tác phẩm lại thành công đến vậy…
Khi phân tích nhân vật Mị trong đêm tình ngày đông giá rét cũng đó chính là lời tri ân thâm thúy
mà Tô Hoài dành tặng cho mảnh đất nền và con người Tây Bắc. Hơn hết, nhân vật Mị và A Phủ
nói riêng, tác phẩm Vợ chồng A Phủ và tập truyện Tây Bắc nói chung là một bức tranh chân thực
đầy cảm động về cuộc sống tủi nhục, tối tâm và sức mạnh vươn đến tự do niềm sung sướng của
đồng bào nơi đây.
Nói theo một cách, giá trị của tác phẩm một phần đã được kết tinh thâm thúy ở hình tượng các
nhân vật, đặc biệt quan trọng khi nhà văn phân tích nhân vật Mị trong đêm tình ngày đông giá
rét. Những nhà văn trong trào lưu hiện thực phê phán, thông thường, chỉ thấy sự bất lực và đầy
cam chịu của con người. Thì những nhà văn Cách mệnh, tiêu biểu là Tô Hoài lại phát hiện ra sự
hồi sinh mãnh liệt trong tâm hồn họ ngay trong hoàn cảnh cùng cực nhất.

VỢ NHẶT

Nhân vật đầu tiên trong truyện để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc chính là hình ảnh
người mẹ Việt Nam: bà cụ Tứ. Xây dựng bà cụ Tứ, phương diện đầu tiên mà nhà văn muốn bạn
đọc nhìn thấy là thân phân cùng cảnh ngộ của bà lão. Bà cụ Tứ được nhà văn khắc họa dưới ngòi
bút của mình là bà lão già nua, ốm yếu thể hiện rõ nét qua vẻ ngoài. Bà hiện ra với dáng đi lọng
khọng, vừa đi vừa húng hắng ho, miệng thì lẩm bẩm tính toán gì đó trong miệng, đôi mắt lèm
nhèm..Gia cảnh nghèo khổ, bất hạnh. Chồng con đều mất sớm, chỉ còn mẹ góa con côi nương tựa
nhau trong một xóm ngụ cư. Gia tài cả đời của bà chỉ có một túp lều rách rưới đứng rúm ró nơi
góc vườn mọc đầy cỏ dại. Nhưng có lẽ nỗi bất hạnh lớn nhất với người mẹ ấy chính là không thể
lo nổi vợ cho con dù con đã đến tuổi trưởng thành. Dù trong tình huống truyện, anh cu Tràng-
con trai bà cụ Tứ đã có được vợ dễ dàng, nhanh chóng nhưng lại là trong hoàn cảnh trớ trêu, éo
le.
Sau một số phận khổ đau, sau vẻ ngoài lam lũ là vẻ đẹp tâm hồn rất đỗi cao quý. Bà là người có
tấm lòng nhân hậu, giàu tình yêu thương. Với lòng thương con vô hạn thì ngay sau phút giây bất
ngờ khi thấy người phụ nữ xa lạ bà đã chợt hiểu ra mọi sự. Lòng người mẹ ấy ngổn ngang, bề
bộn trăm mối: ai oán, xót xa, lo lắng tủi hờn cho số kiếp của con trai: “Chao ôi, người ta dựng vợ
gả chồng cho con lúc người ta ăn nên làm ra còn mình thì..”. Tình thương con như nghẹn đắng
trong lòng và tuôn trào thành dòng nước mắt đau xót cho số phận của đứa con khi cái đói, cái
chết đang cận kề: “Biết rằng có nuôi nổi nhau sống qua cơn đói khát này”.
Nhưng điều đáng quý ở bà cụ Tứ là càng thương con trai mình bao nhiêu thì bà càng thưowng
nàng dâu mới bấy nhiêu. Với sự thấu hiểu của moọt người mẹ già từng trải, bà cụ Tứ chắc chắn
nhận ra một điều rằng: con trai mình lấy vợ giữa lúc này là một nghịch cảnh. Vì lòng thương con
trai và lo lắng cho con, bà cụ Tứ có thể và hoàn toàn có quyền không chấp nhận nàng dâu mới.
Nhưng bà cụ Tứ đã đón nhận nàng dâu mới với cả tấm lòng thấu hiểu, cảm thông sâu sắc của
những con người cùng cảnh ngộ: “người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này người ta mới lấy
đến con mình…”. Bà sẵn sàng cưu mang, đùm bọc người phụ nữ ấy trong cơn hoạn nạn, và hơn
nữa, bà còn coi chị như là một ân nhân “mà con mình mới có vợ được”. Bởi vậy bà cụ Tứ đã kìm
nén và gạt bỏ moị nỗi niềm để chấp thuận cuộc hôn nhân của đôi trẻ với niềm vui chân thành,
giản dị: “các con đã phải duyên, phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”.
Bà cụ đã dành cho nàng dâu mới- người vợ nhặt rẻ rúng của đứa con trai mình bao tình cảm yêu
thương đôn hậu qua ánh nhìn âu yếm, qua cử chỉ ân cần, thân mật, qua lời khuyên bảo chân tình
và cả những giọt nước mắt nghẹn ngào của tấm lòng thương xót: “Chúng mày lấy nhau lúc này u
thương quá”. Chính tấm lòng vị tha, nhân hậu của bà cụ Tứ đã xua đi bao nỗi mặc cảm, tủi hờn,
lo âu của nàng dâu mới. Chị đã tự nguyện ở lại gắn bó với gia đình ấy, mang cả tấm lòng của
mình để trả nghĩa cho những tấm lòng, trở thành người vợ hiền, nàng dâu thảo.
Sự kiện Tràng đột nhiên có được vợ, bà cụ Tứ bất ngờ có được nàng dâu mới dường như đã làm
trỗi dậy và hồi sinh niềm khao khát về một tổ ấm gia đình hạnh phúc và niềm lạc quan, tin tưởng
vào cuộc sống, tương lai trong tâm hồn người mẹ đã gần đất xa trời, bị cuộc sống vắt đi đến kiệt
cùng sinh lực. Sự thay đổi rõ rệt của bà cụ Tứ là vào buổi sáng hôm sau, bà đã dậy sớm cùng
nàng dâu mới quét dọn, thu vén nhà cửa cho ngăn nắp, sạch sẽ, phong quang. Cái mặt bủng beo,
u ám hàng ngày của bà rạng rỡ hẳn lên. Dường như bà đã thắp lên ngọn lửa của sự sống, niềm tin
yêu vào cuộc sống trong chính ngôi nhà mà mấy hôm trước đaay còn lạnh lẽo, hoang tàn. Đặc
biệt là trong bữa cơn đón nàng dâu mới vô cùng thiếu thốn và thảm hại, nhưng bà cụ Tứ lại vui
vẻ vô cùng. Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện và toàn truyện vui vẻ, sung sướng sau này. Điều thật lạ
là người mẹ già đã gần đất xa trơi mà lại nói nhiều nhất về tương lai. Ấn tượng nhất là thái độ
của bà cụ Tứ khi bưng lên nồi cháo cám- một thứ đồ ăn dường như không phải để cho người, bà
cụ tươi cười đon đả múc cháo mời các con cùng với giọng nói đầy vui vẻ, hồ hởi: “Chè đây…
Chè khoán đây ngon đáo để cơ”.
Đó có phải niềm vui thực sự trong lòng bà cụ Tứ? Đành rằng hôm nay bà được đón nàng dâu
mới và nhà vẫn còn cháo cám để mà ăn nhưng niềm vui ấy không đủ để cất cánh khi bữa cơm
ngày cưới lại phải thêm một nồi cháo cám chát xít và nghẹ bứ trong cổ họng. Phải chăng người
mẹ già ấy đã gắng gượn giấu đi nỗi tủi hờn, xót xa, tạo nên một không khí gia đình đầm ấm, vui
vẻ, xua đi hiện thực phũ phàng, để mang đến cho các con niềm vui, niềm tin tưởng hi vọng vào
tương lai tươi sáng hơn rồi sẽ đến.

Nhân vật Tràng là nhân vật trung tâm của truyện ngắn Vợ nhặt. Tràng được Kim Lân khắc họa
một cách toàn diện từ thân phận, cảnh ngộ đến số phận, phẩm chất.Tràng là chàng trai nghèo khổ
với hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh sống éo le. Bố và em đều mất, chỉ còn một người thân duy
nhất là người mẹ nay đã già yếu, bệnh tật. Công việc cuả Tràng là việc làm thuê, làm mướn.
Thêm vào đó ngoại hình của nhân vật thuộc diện xấu xí, thô kệch, đầu óc ngờ nghệch. Việc chỉ
là một dân ngụ cư với cuộc sống phiêu bạt càng làm tình cảnh của Tràng thêm đáng thương. Và
tất yếu dẫn đến hệ quả là anh không thể lấy nổi vợ. Trong tình huống truyện, tuy Tràng lấy được
vợ nhanh chóng nhưng điều đó chưa hẳn là may mắn với Tràng. Để lấy người vợ ấy, anh phải
đánh liều với cái đói, cái chết: “Chậc ! Kệ”. Bởi vậy nó trở thành một tình huống éo le, trớ trêu
không biết nên mừng hay lo, buồn hay vui.
Sau sự khổ cực ấy là một chàng trai với tấm lòng hào hiệp thương người. Giữa nạn đói, miếng ăn
quý biết nhường nào vậy mà Tràng sẵn lòng mở hầu bao để mời người phụ nữ xa lạ ăn một bữa
bánh đúc dù chính anh cũng chẳng dư dả gì. Có lẽ Tràng đã nhìn thấy sự túng quẫn, sự đói khát
của người phụ nữ ấy. Rồi khi người phụ nữ ấy sẵn sàng theo không Tràng về nhà, Tràng cũng
sẵn lòng cưu mang chị ta. Cưu mang một người phụ nữ xa lạ, tự đèo bòng trong khốn khó đâu
phải vì anh Tràng ngờ nghệch, ngốc nghếch. Anh thiện lương và giàu lòng thương người vô
cùng.
Dù có thể anh hội tụ đủ yếu tố không tốt để có được hạnh phúc gia đình trọn vẹn nhưng sâu trong
nhân vật vẫn là sự khao khát mãnh liệt về hạnh phúc lứa đôi. Và đặc biệt, ngay trong tình cảnh bi
thảm, bị cái đói đẩy đến bên bờ vực sâu, Tràng vẫn âm thầm khao khát về một hạnh phúc lứa
đôi. Lúc gặp lại người phụ nữ ở cổng chợ, sau khi mời chị ta ăn một bữa bánh đúc, Tràng cũng
chỉ định nói một câu tầm phào cho vui “Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi
cùng về”. Nhưng không ngờ rằng thị theo Tràng về thật. Trước quyết định bất ngờ, táo bạo của
người phụ nữ, thoạt đầu Tràng cảm thấu hơi chợn: “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết
có nuôi nổi không lại còn đèo bòng”. Nhưng nỗi lo sợ ấy thoáng qua rất nhanh và Tràng tặc lưỡi
đánh liều: “Chậc, kệ!”. Quyết định lấy vợ có nghĩa là anh đã sẵn sàng bất chấp tất cả cái đói, cái
chết để có được hạnh phúc lứa đôi.
Trên đường dẫn người vợ nhặt về nhà, Tràng sống trong tâm trạng vui sướng đến tột đỉnh. Niềm
vui bỗng dưng có được vợ dường như không thể kìm nén nổi trong lòng mà cứ dâng trào, ngập
tràn với tất cả những biểu hiện bên ngoài: mặt hắn thì phơ phớ khác thường, miệng cười tủm tỉm,
hai con mắt sáng lên lấp lánh, tay nọ xoa vào tay kia một cách ngượng ngùng. Một cảm giác mới
lạ chưa từng có ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ vào sống
lưng… Niềm vui sướng ngập đầy trong tâm trí Tràng đến mức “hắn quên hết cảnh sống ê trề,
tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát, tăm tối đang đến, quên cả tháng ngày trước mắt. Trong
lòng hắn lúc này chỉ có tình nghĩa với người đàn bà đi bên cạnh.
Tuy chỉ là vợ nhặt, vợ theo nhưng Tràng vẫn rất trân tọng hạnh phúc của mình. Với người ngoài,
anh đã có vợ một các dễ dàng, rẻ rúng. Nhưng có lẽ đối với Tràng, đó là ước mơ, khát vọng âm
thầm bấy lâu. Tràng vào chợ mua hai xu dầu thắp sáng đêm tân hôn. Trước con mắt tò mò của
người dân xóm ngụ cư khi chứng kiến Tràng dẫn người đàn bà lạ mặt về xóm: “cái mặt anh ta cứ
vênh vênh tự đắc”. Khi về tới nhà, Tràng sốt ruột, nóng lòng chờ đợi bà cụ Tứ, chờ phút giây
được mẹ công nhận cho Tràng và người phụ nữ kia nên vợ nên chồng.
Sự kiện nhặt được vợ không chỉ mang đến cho Tràng niềm vui sướng tột cùng mà còn đánh thức
trong tâm hồn người đàn ông tưởng như ngờ nghệch ấy bao tình cảm và suy nghĩ đáng quý. Đó
là ý thức vun đắp cho gia đình, niềm tin tưởng vào tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn. Sự thay đổi
rõ rệt của Tràng là vào buổi sáng hôm sau, khi tỉnh dậy, chứng kiến cảnh vợ dọn dẹp, thu vén
vườn tược nhà cửa, phong quang sạch sẽ, Tràng vô cùng thấm thía và cảm động: “Bỗng nhiên
hắn thấy thương yêu và gắn bó với cái nhà của hắn đến lạ lùng…hắn thấy hắn có bổn phận phải
lo cho vợ con sau này”.
Trong phần kết thúc truyện, tuy cuộc sống của gia đình Tràng vẫn chưa thoát khỏi đói khổ nhưng
hìn hảnh đám người đi phá kho thóc Nhật và lá cờ đỏ sao vàng phấp phới bay trong óc Tràng đã
thể hiện niềm tin của nhân vật về một tương lai tươi sáng. Tuy chưa được giác ngộ cách mạng
nhưng Tràng đã ý thức một cách mơ hồ rằng: không thể ngồi yên chờ chết. Con đường đấu tranh
để giành quyền sống từ tay kẻ thù là con đường tất yếu của người dân lao động nghèo khổ. Nó đã
trở thành nguồn sức mạnh và niềm tin hướng Tràng cùng biết bao người dân nghèo khổ khác
vươn tới sự sống ,tin vào tương lai phía trước.

Góp phần làm nên thành công bức tranh thảm khốc của nạn đói là tình cảnh người vợ nhặt.
Trong tác phẩm của mình, Kim Lân không đi miêu tả thật nhiều về nhân vật người vợ nhặt. Thị
cũng không có tên gọi cụ thể, khi thì gọi là thị, khi thì là cô ả, lúc là người đàn bà nhưng người
vợ nhặt vẫn là một trong ba nhân vật quan trọng của tác phẩm . Nhân vật này được khắc hoạ
sống động, theo lối đối lập giữa bề ngoài và bên trong, ban đầu và về sau.Và ở thị, chúng ta thấy
được những vẻ đẹp phẩm hạnh đáng trân, đáng quý nhưng bị chìm khuất sau vẻ chao chát, chua
ngoa, chỏng lỏn, xấu xí.Trước khi nạn đói tràn về, thị là một người phụ nữ hết sức nhanh nhẹn,
khỏe mạnh. Nghe được câu hò của Tràng, thị liền vùng đứng dậy, lon ton đẩy xe cho Tràng.
Không chỉ vậy, Thị còn liếc mắt cười tít đầy tình tứ khiến Tràng “thích lắm”. Trong lời nói thì
tếu táo, vui đùa: “Có khối cơm trắng mấy giò đấy! Này nhà tôi ơi, nói thật hay khoác lác đấy?..
Đã thật thì thật chứ sợ gì, đằng ấy nhỉ?” Có thể thấy, Thị cũng là một người vui vẻ, thích đùa và
biết đùa.
Thế nhưng sau khi nạn đói tràn về, từ ngoại hình đến hành động, lời nói của Thị đều có sự thay
đổi. Dáng vẻ “rách quá”, “quần áo rách như tổ đỉa”, “thị gầy sọp hẳn đi”, “khuôn mặt lưỡi cày
xám xịt chỉ thấy hai con mắt”. Thị chịu tác động sâu sắc của nạn đói. Sự sống lúc này chỉ còn
thoi thóp, leo lét như ngọn đèn trước gió. Thị tiêu biêu cho hình ảnh đau thương ấy, là nạn nhân
của nạn đói khủng khiếp. Từ một cô gái có chút gì đó tình tứ, thích bông đùa thì nay thị trở nên
đanh đá, chua chát, chỏng lỏn với những câu nói chống không. “Sầm sập chạy đến”, gợi ý được
ăn, “sà xuống,cắm đầu ăn, chẳng trò chuyện gì,..” đầy thô tục. Người đàn bà bị cái đói làm cho
mất cả lòng tự trọng, sự xấu hổ, ý thức về danh dự, tế nhị của một người phụ nữ. Người vợ trở
thành “cái nợ đời”, trở thành gánh nặng để đèo bòng. Nạn đói như một cơn lũ lớn và bản năng
sống mạnh hơn tất cả, lấn át cả danh dự. Để bảo toàn sự sống người ta sẵn sàng bám vào tất cả
những gì có thể bám. Người vợ nhặt bám và câu bông đùa, vì bốn bát bánh đúc mà theo không
Tràng về làm vợ. Như vậy, nạn đói không chỉ hủy hoại ngoại hình mà cả nhân cách. Thực sự giá
trị của thị lúc này đã bị hạ thấp, rẻ rúng.
Nhưng ở thị, chúng ta còn thấy sự tự trọng và phẩm giá. Điều đó được thể hiện qua từ “sợ” được
lặp lại hai lần trong lời nói. Lần thứ nhất “Đã thật thì đẩy chứ sợ gì”. Lúc này, thị hi vọng đẩy xe
bò sẽ được ăn khi nạn đói chưa thực sự hoành hành, hi vọng của Thị khỏa lấp trong một câu
bông đùa. Lần thứ hai “Ăn thì ăn chứ sợ gì” như một câu chữa ngượng mà thị nói với chính
mình, để thêm sức mạnh cho mình. Tuy nhiên, thị còn biết “sợ” là còn biết xấu hổ, còn là “con
người một cách tối thiểu” để không bị kéo tuột theo miếng ăn và cái đói. Hơn thế, thị còn biết
chữa ngượng “Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”. Từ việc gợi ý được ăn, thị tỏ vẻ quan tâm, lo
lắng cho Tràng theo phép lịch sự của người được mời ăn. Khi người ta biết ngượng và chữa
ngượng nghĩa là người ta còn ý thức được về lòng tự trọng của mình.
Ở thị còn tồn tại bản năng sinh tồn mãnh liệt. Gặp Tràng có một bận mà thị đã nhớ để hôm sau
gặp lại thị “sầm sập” chạy đến như bám lấy phao cứu sinh. Thị gợi ý được ăn với mục đích đầu
tiên là chống lại cái đói, duy trì sự sống. Chính bản năng sinh tồn mãnh liệt khiến người đàn bà
này vượt lên phẩm giá, lễ giáo để theo không một người đàn ông xa lạ về làm vợ, để được sống.
Chính thị là hiện thân của sự sống diệu kì. Sự sống không bao giờ chán nản, nó vươn lên trên
mọi sự hủy diệt, bóng tối và cái chết. Hành động của thị chính là hành động bám víu, bám riết
vào sự sống.
Thị cũng là người đàn bà rất mực tình nghĩa. Ban đầu thị cứ chao chát, trơ trẽn, bám riết lấy
chàng chỉ vì đói. Nhìn thấy túp lều đứng rúm ró trong mảnh vườn lổn nhổn những bụi cỏ dại chị
ta “nén một tiếng thở dài”. Ẩn trong tiếng thở dài ấy có một chút thất vọng. Nhưng ẩn chứa cả
niềm xúc động vì những con người nghèo khổ như thế họ vẫn sẵn sàng mở rộng lòng cưu mang
mình bằng tấm lòng nhân hậu. Mục đích ban đầu là trốn cái đói, kiếm miếng ăn. Nhưng đến cổng
nhà Tràng cái thị tìm thì không có, cái thị muốn trốn tránh thì hiện ra rõ ràng. Thị hoàn toàn có
thể quay gót bỏ đi bởi thị theo Tràng cũng chỉ bởi một câu bông đùa, thị hoàn toàn có thể biến
câu nói đùa thành thật, thật thành đùa. Đến với những con người nhân hậu ấy, thị đã tìm thấy cái
thị không định tìm. Đó là “tình người”. Chính điều đó đã níu giữ bước chân thị, giúp thị bước
qua cổng nhà Tràng. Như vậy, sâu thẳm trong người đàn bà ấy là khao khát tình người, khao
khát hạnh phúc. Chi tiết thị điềm nhiên và miếng cháo cám vào miệng cũng gợi mở ra trong ta
bao suy nghĩ về thị- một người tình nghĩa. Dường như hiểu được nỗi khổ của người mẹ già cố
gắng bao nhiêu dào trước đón sau, cố vơi đi nỗi tủi hổ trong lòng các con. Mặc dù thị phát hiện
ra ngay đây là bát cháo cám, hai con mắt đã tối lại ít nhiều sự chua xót, thất vọng nhưng Thị vẫn
điềm nhiên. Đó là sự dũng cảm, sẻ chia của con người biết trân trọng tình nghĩa, không lỡ làm
đau thêm, tủi thêm tấm lòng nhân hậu của người mẹ kia. Đây cũng là hành động thể hiện sự chấp
nhận cuộc sống lâu dài trong gia đình Tràng. Hành động đó là thông điệp mà Thị lặng lẽ gửi đến
mẹ con Tràng: Từ nay, thị cũng sẽ là một thành viên trong gia đình này và cùng đồng cam cộng
khổ với gia đình Tràng.
Trên đường theo Tràng về nhà, thị đi cách Tràng mấy bước, cái nón rách tàng che nửa mặt. Khi
về nhà, Tràng bảo đến hai lần Thị mới ngồi mớm mép giường. Đứng trước mẹ chồng Thị e sợ,
ngại ngùng và lúng túng. Những hành động của Thị giống như hành động của bao cô gái bình
thường khác khi về nhà chồng. Sáng hôm sau, Thị xông xáo quét dọn, vun vén cho tổ ấm của
mình. Lúc này, thị đã trở thành một người vợ thực thụ, người phụ nữu hiền hậu và đúng mực.
Cách ứng xử của người vợ nhặt qua lời kể của Kim Lân trong bữa cơm đón nàng dâu mới đã cho
thấy thị hết mực nâng niu, trân trọng hạnh phúc đang có.
Vợ nhặt được ngòi bút tinh tế của nhà văn xây dựng bằng những trải nghiệm, những hiểu biết
phong phú. Kim Lân hướng ngòi bút của mình vào từng nhân vật để thấu hiểu mỗi nhân vật. Xây
dựng một tình huống truyện độc đáo, một cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, nghệ thuật miêu tả
tâm lí nhân vật chân thực, sâu sắc…Kim Lân đã đem đến cho bạn đọc những giá trị, những bài
học đắt giá về sự sống và tình thương. Trong cuộc sống đói nghèo, lay lắt ấy, con người vẫn luôn
ngập tràn hi vọng và tin tưởng. Và càng trong nghịch cảnh, mỗi người lại càng thêm trân trọng,
gìn giữ ngọn lửa hạnh phúc dù nó nhỏ nhoi, lay lắt.

Tìm hiểu vào tác phẩm ta thấy Tràng là người dân ngụ cư nghèo khổ, có phẩm chất hiền lành, tốt
bụng, sẵn lòng cưu mang người đồng cảnh ngộ trong nạn đói khủng khiếp. Tràng là dân ngụ cư
nghèo khổ, làm nghề đẩy xe bò thuê. Anh sống với mẹ già, gia cảnh nghèo túng. Cái được gọi là
“nhà” thì luôn “vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhộn những búi cỏ dại”. Đã vậy
Tràng lại có ngoại hình xấu xí, thô kệch. Ngay đến cả tên gọi cũng là tên gọi của một loại đồ vật
dùng trong nghề mộc. Với vài nét bút phác họa đơn giản, Tràng hiện lên có phần giống với
những thằng đần, thằng ngốc trong truyện cổ tích. Nhưng Kim Lân không có ý định viết truyện
cổ tích với thằng đần, thằng ngốc mà ông đang kể về một sự thật, một sự thật đắng lòng về cái
đói và tình người năm đói. Thật ra hôm đầu Tràng không chủ tâm tìm vợ. Tràng cũng biết, người
như hắn thì không thể có vợ. Khi đẩy xe bò mệt mỏi anh chỉ hò một câu cho vui “Muốn ăn cơm
trắng mấy giò/ Lại đây mà đẩy xe bò cùng anh”. Tràng hò để xua đi nỗi mệt nhọc trong người và
chẳng có ý trêu ghẹo ai cả. Ai ngờ có người đàn bà đói đến xông xáo đẩy xe thật. Nhưng vì đùa
vui nên Tràng đã không giữ đúng thỏa thuận với câu hò. Nhưng Tràng cảm thấy hạnh phúc biết
bao khi gặp lại cái “cười tít mắt của Thị” bởi “từ xưa đến giờ có ai cười với hắn một cách tình tứ
như vậy đâu”. Hôm sau gặp lại khi Tràng đang ngồi nghỉ trước cổng chợ tỉnh thì bất ngờ có
người đàn bà sầm sập chạy đến, cong cớn, sưng xỉa với hắn “điêu, người thế mà điêu”. Tràng
không nhận ra người đàn bà ngày trước đẩy xe cho mình. Trước mặt hắn là một người đàn bà
thảm hại đã bị cái đói tàn hại cả nhan sắc lẫn nhân cách: “Thị gầy sọp hẳn đi, ngực gầy lép,
khuôn mặt lưỡi cày hốc hác, quần áo rách như tổ đỉa”. Thấy người đàn bà rách rưới thảm hại,
Tràng động lòng thương. Có ai ngờ được rằng trong con người thô kệch ấy lại có một tấm lòng
thương người cao cả. Thế rồi Tràng cho người đàn bà kia ăn, không chỉ ăn mà còn ăn rất nhiều
“bốn bát bánh đúc”. Vốn tính hay đùa, Tràng lại tầm phơ tầm phào “Nói đùa chứ có về với tớ thì
ra khuôn đồ lên xe rồi về”. Nói đùa thế thôi ai ngờ Thị về thật. Lúc đầu Tràng phảng phất lo sợ
về cái đói và cái chết “thóc gạo này đến cái thân mình chẳng biết có nuôi nổi không, lại còn đèo
bòng”. Đó là nỗi sợ hãi có thật nhất tại thời điểm đói kém như thế này. Nhưng có lẽ tình thương
người và khát vọng hạnh phúc đã lớn hơn nỗi sợ hãi nên sau đó anh chặc lưỡi “Chậc kệ”. Chỉ
một từ “kệ” thôi, Tràng như đã bỏ sau lưng mình tất cả nỗi sợ hãi, mọi lo nghĩ để vun vén cho
hạnh phúc gia đình.
Trong hoàn cảnh khốn cùng, Tràng vẫn khát khao hạnh phúc và có ý thức tạo dựng mái ấm gia
đình. Khi người phụ nữ chấp nhận làm vợ, Tràng đã có ý thức chăm sóc “bỏ tiển ra mua cho thị
cáo thúng con để đựng vài thứ lặt vặt”, Tràng con hào phóng “mua hai hào dầu để thắp sáng”.
Trên đường về, hôm nay Tràng có niềm vui lạ, một niềm hạnh phúc tràn ngập khiến mặt Tràng
cứ “phớn phở khác thường”. Thỉnh thoảng lại còn cười nụ một mình. Lúc thì hắn đi sát người
đàn bà, lúc lại lùi ra sau một tí, hai tay cứ xoa vào vai nọ vai kia, lại muốn nói đùa một câu, lại
cứ thấy ngường ngượng. Kim Lân đã cho người đọc thấy được sự biến chuyển tâm lí của Tràng.
Khi về đến nhà, lúc đầu Tràng thấy “ngượng nghịu” rồi cứ thế “đứng tây ngây ra giữa nhà, chợt
hắn thấy sờ sợ”. Nhưng lúc đó chỉ là cảm giác thoáng qua thôi. Hạnh phúc lớn lao quá khiến
Tràng lấy lại được thăng bằng nhanh chóng. Lúc sau tràng lại tủm tỉm cười một mình với ý nghĩ
có phần ngạc nhiên sửng sốt, không dám tin đó là sự thật “hắn đã có vợ rồi đấy ư?”. Đó là sự
ngạc nhiên trong sung sướng.
Trong lúc chờ mẹ về, tràng nóng ruột đi đi lại lại. Chưa bao giờ người ta thấy hắn nôn nóng như
thế. Khi mẹ về hắn mừng rỡ ríu rít như trẻ con, Tràng nóng lòng thưa chuyện với mẹ, bắt mẹ
ngồi lên giường để thư chuyện. Đến đây ta thấy Tràng hiện lên không còn nông cạn nữa, Tràng
đã ý thức được việc lấy vợ là việc hệ trọn của cả một đời. Với hắn đây là giây phút thiêng liêng
và trọng đại. Khi được mẹ đồng ý Tràng thở đánh phào một cái nhẹ nhõm người. Thế là Tràng đã
có gia đình, có vợ, không tốn tiền cưới hỏi, Tràng lấy vợ thật hiển hách. Tràng có khát vọng sống
mãnh liệt, có niềm tin vào tương lai tươi sáng. Từ một anh phu xe cục mịch, sống vô tư, chỉ biết
trước mắt, Tràng đã là người quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời.
Sau khi lấy vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm, biết suy nghĩ chín chắn. Nhà văn
đã mang đến cho người đọc hơi thở mới của Tràng vào sau cái đêm tân hôn. Tràng thức dậy,
thoạt tiên đó là cảm giác dễ chịu “trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi
ra”. Đó là tâm trạng hạnh phúc. Tràng cảm động khi thấy vợ và mẹ dọn dẹp lại nhà cửa, nhất là
khi nghe tiếng chổi tre quét từng nhát sàn sạt trên sân. Một nỗi lòng yêu thương, một niềm vui
sướng, phấn trấn đột ngột tràn ngập trong lòng “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với
cái nhà của nhà lạ lùng”. Khi tiếng trống thuế ngoài đình vang lên rộn rã, thúc giục, Tràng thần
mặt ra nghĩ ngợi và phút chốc trong đầu Tràng vụt lên suy nghĩ “Cảnh những người nghèo đói
ầm ầm kéo nhau đi trên con đê Sộp” cùng hình ảnh “lá cờ đỏ bay phấp phới” đi phá kho thóc của
Nhật như dẫn Tràng mở đường vào một bước ngoặt mới trong cả nhận thức tưởng tượng và con
đường đi lên. Xây dựng nhân vật Tràng, nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống truyện độc đáo
để từ đó toát lên vẻ đẹp tâm hồn và tính cách của nhân vật. Đó là tình thương yêu, niềm khát
khao hạnh phúc, niềm lạc quan tin tường vào tương lai tươi sáng.

Người “vợ nhặt” là nạn nhân của nạn đói với số phận trôi nổi, bấp bênh. Dưới ngòi bút của Kim
Lân thị là người phụ nữ không tên không tuổi, không quê hương, không quá khứ. Thị xuất hiện
vừa bằng ngoại hình vừa bằng tính cách của một con người năm đói. Lần thứ nhất Thị xuất hiện
là khi ngồi lẫn trong đám con gái chờ nhặt hạt rơi hạt vãi trước cổng chợ tỉnh. Khi nghe Tràng hò
một câu chơi cho đỡ nhọc, Thị “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng”. Thị đẩy xe với hi vọng được
ăn, anh Tràng lại không giữ đúng lời thỏa thuận của câu hò. Lần thứ hai Thị xuất hiện với ngoại
hình kém hấp dẫn, nếu như không muốn nói là xấu. Chân dung của thị được gợi lên bởi những
nét “không dễ nhìn”. Đó là một người phụ nữ gầy vêu vao, “quần áo tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn
mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai con mắt trũng hoáy”. Có thể nói cái đói đã khiến thị ngày
càng trở nên nhếch nhác và tội nghiệp. Cái đói không chỉ tàn hại dung nhan của thị mà nó còn
tàn hại cả tính cách, nhân phẩm. Vì đói mà thị trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “chua ngoa,
đanh đá”. Thị “cong cớn, xưng xỉa” khi giao tiếp. cái đói khiến thị quên đi cả viễ giữ ý tứ, lòng
tự trọng của người con gái. Được cho ăn, thị sẵn sàng “sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát
bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Thị đã đặt sự tồn tại của mình, đặt miếng ăn lên trên nhân
cách.
Phía sau cảnh trôi dạt vất vưởng, người vợ nhặt lại có một lòng ham sống mãnh liệt. Thị đồng ý
theo Tràng là để sống chứ chẳng phải lẳng lơ. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại.
Đó là ý thức bám lấy sự sống, khao khát được sống. Cận kề bên cái chết, người đàn bà không hề
buông xuôi sự sống, trái lại thị vượt lên trên cái thảm cảnh để dựng xây mái ấm gia đình. Niềm
lạc quan yêu sống của thị chính là một phẩm chất đáng quý. Nói như Kim Lân “Khi viết về con
người năm đói người ta hay nghĩ đến con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết về một
truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con
người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, vẫn tin tưởng vào
tương lai.”
Kim Lân đã miêu tả thật tinh tế và cảm động những bước chân ngượng ngập, e thẹn trên đường
về nhà chồng của Thị. Cái dáng điệu khép nép trước mẹ chồng, rồi tiếng chào “u” lúng túng và
cả những lời đối đáp. Cái hạnh phúc ấy đã đem lại sự đổi thay thật sựu trong tính cách của thị.
Thị dậy sớm, cùng mẹ chồng nấu nướng, thu dọn quét tước nhà cửa. Ngôi nhà sạch sẽ, quang
đãng, Thị trở thành người phụ nữ hiền hậu chăm chỉ đến nỗi làm cho Tràng phải ngạc nhiên:
“Tràng nom Thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì
chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ngoài tỉnh”. Thật kì diệu, hạnh phúc, lòng nhân ái đã
làm cho người ta đổi thay, tự tin vượt lên tắm tối của thực tại, vươn tới những ngày tươi sáng.
Trong bữa cơm đầu đón nàng dâu, dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi người được lưng
hai bát cháo đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám nhưng thị vẫn vui vẻ bằng lòng. Thị đã đem sinh
khí mới trong gia đình.
Thân phận vợ nhặt nhưng không bị khinh bạc, ngược lại Thị được đón nhận trong vòng tay yêu
thương của những con người cùng khổ. Thị đã đem đến âm thanh, màu sắc, hơi ấm cho ngôi nhà
vẹo vọ, hoang vắng, giá lạnh của hai mẹ con Tràng. Hình ảnh của Thị trong tác phẩm đã đem
đến một ý nghĩa: bên bờ vực của cái đói và chết chóc, con người chỉ có thể vươn lên, vượt qua
khi được sống trong tình yêu thương của đồng loại. Chỉ có tình yêu thương mới đem lại hạnh
phúc cho con người.“Vợ nhặt” là một trong những truyện ngắn đặc sắc của Kim Lân. Thành
công đó được thể hiện trong cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn và cảm động.
Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, giản dị mà chặt chẽ, khéo léo làm nổi bật sự nổi bật
giữa hoàn cảnh và tính cách nhân vật.

You might also like