Professional Documents
Culture Documents
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 3.1: Các giả thuyết nghiên cứu
Những năm 2000 của thế kỉ 21: Sự công nhận và áp dụng CSR
Xu hướng ngày càng tăng đối với CSR được thúc đẩy bởi một vài yếu tố quan
trọng (Lunt 2001, Lantos 2002). Vấn đề đạo đức xã hội nhận được sự quan tâm ngày
càng lớn của công chúng và do đó áp lực thị trường ngày càng tăng từ khách hàng,
nhân viên và các bên liên quan. Điều đó chứng tỏ mức độ quan trọng của hành vi đạo
đức và xã hội của doanh nghiệp – điều mà công chức rất quan tâm và chú ý. Thật vậy,
quy định về tiêu chuẩn và thủ tục kinh doanh đang buộc tất cả các tổ chức ở mọi quy
mô phải tuân thủ. Những tiêu chuẩn bao gồm các điều khoản về hành vi đạo đức, quy
định về an toàn, sức khoẻ; mức lương tối thiểu; giờ làm việc. (Davies, 2003). Hơn nữa,
sự ra đời kỷ nguyên mới của công nghệ hiện đại như internet và đa phương tiện đã
cung cấp một cách để người tiêu dùng và các bên liên quan quan sát được hoạt động
của doanh nghiệp. Điều này sẽ bắt buộc các tổ chức phải nhận thức được về đạo đức
xã hội. Hơn nữa, các tổ chức được coi là có trách nhiệm xã hội có thể củng cố thương
hiệu và nâng cao hiệu suất hoạt động của họ. Do đó, cam kết của các doanh nghiệp đối
với CSR sẽ làm cho họ hoạt động hiệu quả hơn và có lợi thế cạnh tranh.
2.2.2. Các học thuyết về trách nhiệm xã hội.
Lý thuyết các bên liên quan lần đầu được đưa ra bởi Freeman (1984) khi ông định
nghĩa các bên liên quan là một tổ chức hay một cá nhân có ảnh hưởng hoặc bị ảnh hưởng
16
bởi kết quả thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp. Các bên liên quan bao gồm người
lao động, khách hàng, nhà cung cấp, nhà đầu tư,... Theo quan điểm này, các nhà quản trị
không nên chỉ tập trung vào việc tối đa hóa lợi ích của các cổ đông hay chủ của doanh
nghiệp mà cần tham gia các hoạt động CSR mà các bên liên quan phi tài chính cho rằng
quan trọng, nếu không họ sẽ ngừng ủng hộ doanh nghiệp.
Lý thuyết quản lý (Waddock, Graves, 1997) chỉ ra rằng mối quan hệ tốt với nhân
viên sẽ giúp làm cải thiện tinh thần nhân viên, nâng cao năng suất lao động và sự thỏa
mãn. Quan hệ cộng đồng sẽ tạo động lực cho chính quyền địa phương tạo ra các lợi thế
cạnh tranh tốt cho doanh nghiệp như giảm thuế, nới lỏng các quy định, từ đó giúp làm
giảm chi phí và nâng cao hiệu quả tài chính. Hơn thế nữa, nhận thức của khách hàng về
chất lượng sản phẩm, nhận thức về các vấn đề môi trường của doanh nghiệp dần trở thành
cơ sở cho sự cạnh tranh như nó sẽ giúp tăng doanh thu, giảm chi phí.
2.2.3. Các phương pháp đo lường CSR
Các nhà nghiên cứu đã đo lường CSR theo nhiều cách khác nhau bao gồm việc
sử dụng khảo sát câu hỏi, phân tích nội dung thông tin CSR được tiết lộ trong các báo
cáo của công ty, phương pháp chi tiêu, xếp hạng đơn chiều và đa chiều dựa trên một số
chỉ số trách nhiệm xã hội có thể quan sát được. Mỗi phương pháp đều có điểm mạnh
và điểm yếu riêng. Sự đa dạng của các biện pháp đo lường CSR đã góp phần lớn vào
những phát hiện mâu thuẫn về bản chất của mối quan hệ giữa CSR và hiệu quả tài
chính (Soana, 2011).
2.2.3.1. Phương pháp khảo sát câu hỏi
Các câu hỏi đưa ra có thể được trả lời bởi các bên liên quan hoặc giám đốc điều
hành của công ty dựa trên nhận thức của họ về việc công ty thực hiện các trách nhiệm
xã hội của mình như thế nào. Ví dụ, trong nghiên cứu của Chen & Wang (2011), họ đã
khảo sát các nhà quản lý cấp cao trong các doanh nghiệp ở Quảng Đông, Trung Quốc.
Mustafa và cộng sự (2012) lại hướng các câu hỏi của họ đến các quản lý hàng đầu của
các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Malaysia. Phương pháp này có thể mang
đến câu trả lời, ý kiến và thông tin từ nhiều người, tuy nhiên nó mang tính chủ quan
khá lớn khi chỉ phản ánh được quan điểm và nhận thức của người trả lời.
2.2.3.2. Phương pháp chi tiêu
CSR có thể được đo bởi mức độ chi tiêu như các quỹ ủng hộ và đóng góp từ
thiện của công ty hướng đến cải thiện phúc lợi xã hội và môi trường của các bên liên
quan (Soana, 2011). Các chi tiêu xã hội tự nguyện như ủng hộ, chi cho quảng cáo, chi
17
cho việc huấn luyện có thể giúp củng cố hình ảnh của công ty, làm giảm bớt áp lực xã
hội lên công ty và nâng cao hiệu suất cạnh tranh dẫn tới sự gia tăng về lợi nhuận và lợi
ích của các cổ đông (Weshah và cộng sự 2012).
2.2.3.3. Phương pháp phân tích nội dung thông tin CSR được tiết lộ trong
các ấn phẩm của công ty.
Các nhà nghiên cứu đánh giá và đo lường CSR thông qua phân tích nội dung
tiết lộ từ các ấn phẩm của công ty liên quan đến các vấn đề xã hội và môi trường. Quá
trình này bao gồm việc đếm những từ, cụm từ, mệnh đề hoặc câu trong các ấn phẩm
mà liên quan đến chủ đề xã hội hoặc môi trường và sử dụng các giá trị nhị phân để
định lượng chúng (Ganescu, 2012). Giả sử rằng những công bố xã hội trong các ấn
phẩm công ty là một uỷ quyền tốt cho CSR, nhiều nghiên cứu đã sử dụng phương pháp
này để đánh gía mối quan hệ giữa CSR và doanh nghiệp. Rahmawati và Dianita
(2011), Uadiale và Fagbemi (2012) đã sử dụng thông tin phân tích từ các tiết lộ của
doanh nghiệp để đánh giá mối quan hệ giữa CSR và hiệu quả tài chính. Tuy nhiên,
người ta cho rằng không có nghiên cứu nào chứng thực được tính hợp lệ của các nội
dung phân tích trong các ấn phẩm của công ty (Soana, 2011). Vì vậy, phương pháp
phân tích nội dung thiếu cơ sở lý thuyết và chỉ cung cấp những giá trị thực tế hạn chế.
2.2.3.4. Phương pháp sử dụng các chỉ tiêu đơn chiều
Các chỉ tiêu đơn chiều chỉ tập trung vào một khía cạnh thực hiện trách nhiệm xã
hội như môi trường hoặc từ thiện ở cộng đồng địa phương. Do biện pháp CSR đơn
chiều bị giới hạn bởi sự thiếu tính toàn diện nên Caroll (1979) đã tán thành các khía
cạnh kinh tế, pháp lý, đạo đức và từ thiện của CSR. Để khắc phục được sự tập trung
hạn hẹp của phương pháp này, các nhà nghiên cứu đã kết hợp các biện pháp với nhau.
Ví dụ, Busch & Hoffmann (2011) đã đo lường CSR như là cường độ cacbon mà chúng
liên quan tới doanh số của công ty, và kết hợp với khảo sát câu hỏi và chỉ số đánh giá
bền vững.
2.2.3.5. Phương pháp xếp hạng đạo đức đa chiều
Sau những hạn chế mà các phép đo CSR đặt ra cho nghiên cứu thực nghiệm,
các cơ quan chuyên môn trong 3 thập kỷ trở lại đây đã đưa ra các mô hình phát minh
để định lượng các khía cạnh khác nhau của CSR (Saeidu và cộng sự, 2014). Các cơ
quan này thường xuyên thu thập dữ liệu liên quan đến nhóm các bên liên quan khác
18
nhau. Điểm số từ dữ liệu sau đó được tổng hợp bằng cách sử dụng số học hoặc số bình
quân gia quyền để xác định xếp hạng đạo đức chung cho từng tổ chức quan tâm.
Những cơ quan này tạo ra cơ sở dữ liệu về xếp hạng đạo đức mà các nhà nghiên cứu
đã sử dụng theo thời gian để nghiên cứu CSR. Với những ưu điểm như toàn diện, đa
chiều, khách quan,… hiện nay, các nhà nghiên cứu ưu tiên sử dụng xếp hạng đạo đức
đa chiều trong việc đo lường CSR cho mục đích nghiên cứu thực nghiệm. Tuy nhiên,
phương pháp này vẫn vướng phải hạn chế do thiếu sự xếp hạng về tầm quan trọng của
các yếu tố CSR (Chen và Delmas, 2011). Theo Chen và Delmas, việc gán trọng số
bằng nhau cho các yếu tố CSR là không hợp lệ vì các yếu tố đó là động và có xu
hướng thay đổi theo thời gian.
2.2.4. Hiệu quả tài chính và các biện pháp đo lường hiệu quả tài chính.
Hiệu quả tài chính (FP), không giống như CSR, đưa ra thử thách trong nghiên
cứu trong cả hai giới hạn về khái niệm và đo lường. Mô hình quản lý kinh doanh đòi
hỏi doanh nghiệp đem về lợi nhuận và tăng giá trị công ty (Friedman, 1970;
Jensen,2010). Các nhà nghiên cứu thực nghiệm nhất trí trong việc xem lợi nhuận hoặc
tạo ra giá trị từ hai quan điểm: quan điểm kế toán và quan điểm thị trường, mỗi quan
điểm này đưa ra những thử thách của riêng nó (Goss & Roberts, 2011; Wu & Shen,
2013). Mặc dù số lượng các nghiên cứu về CSR vẫn chưa đầy đủ, nhưng các nghiên
cứu về hiệu quả dựa trên biện pháp kế toán đã nhận được sự quan tâm đáng kể hơn,
trong khi nghiên cứu hiệu quả dựa trên thị trường vẫn chưa được xác định (Becchetti
và cộng sự. 2012; Ghoul và cộng sự. 2011).
2.2.4.1. Các biện pháp kế toán về hiệu quả tài chính
Xác định lợi nhuận tuân theo các quy tắc kế toán chặt chẽ chung được chấp nhận bởi
nguyên tắc kế toán (GAAP), chuẩn mực kế toán, các siêu quốc gia khác và quy định
thẩm quyền. Các quy tắc và chính sách kế toán phù hợp được lựa chọn dựa trên các
mục tiêu và quyết định quản lý. Các biện pháp kế toán về hiệu quả tài chính tăng sinh
trong các tài liệu gần đây, chúng bao gồm tỉ suất lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu (EPS)
(Becchetti và cộng sự 2013; Ghoul và cộng sự 2011), tăng trưởng EPS và lợi nhuận từ
vốn chủ sở hữu / tài sản / doanh số (Becchetti và cộng sự. 2013; Chen & Wang, 2011;
Servaes & Tamayo, 2013; Wu & Shen, 2013) và tăng trưởng tài sản (Wu & Shen). Các
biện pháp khác được tìm thấy trong tài liệu gần đây bao gồm doanh thu và tăng trưởng
doanh thu (Amold & Valentine, 2012), thu nhập ròng / lãi ngoài từ khoản nợ xấu (Wu
19
& Shen, 2013), khoản vay điều khoản hợp đồng (Goss & Roberts, 2011), giá trị
thương hiệu (Torres và cộng sự. 2012), chi phí phải trả tỷ lệ thu nhập (Soana, 2011) và
lỗi dự báo tuyệt đối về EPS (Becchetti và cộng sự. 2013). Vì chỉ số kế toán tuân theo
các quy tắc kế toán chặt chẽ, được xác thực bởi kiểm toán viên độc lập bên ngoài, và
được bao gồm trong báo cáo tài chính được công bố, chúng được kỳ vọng có chất
lượng cao và chịu sự thao túng tối thiểu (Jiao, 2010). Tuy nhiên, vì các chỉ số kế toán
đã đôi phần lạc hậu, dựa trên quy ước và sự lựa chọn của công ty, họ có thể thiên vị và
mở ra sự thao túng (Gregory et al. 2014). Điều này được tiêu biểu bởi các vụ bê bối
của các công ty đã được ghi lại trong lịch sử gần đây, đặc trưng cho sự thao túng của
các nhà quản lý doanh nghiệp thường thông đồng ngầm với kiểm toán viên của họ.
2.2.4.2. Các biện pháp dựa trên thị trường về hiệu quả tài chính
Các biện pháp thực hiện dựa trên thị trường tập trung ít hơn vào số hoặc quy tắc
kế toán; vì vậy họ ít bị ảnh hưởng bởi sự chủ quan, thao túng hoặc cơ hội của người
quản lý (Hajiha & Sarfaraz, 2013). Các biện pháp dựa trên thị trường được xác định
bởi bên ngoài và đánh giá độc lập về hiệu suất của công ty, phản ánh nhận thức của
nhà đầu tư và kỳ vọng về hiệu suất trong tương lai của công ty (Gregory và cộng sự.
2014). Điều ấy cũng không phải không có giới hạn. Bởi vì các biện pháp dựa trên thị
trường sử dụng các thông số thị trường vốn chẳng hạn như giá bảo mật để đánh giá
hiệu quả tài chính, trọng tâm của doanh nghiệp chỉ tập trung vào tài chính các bên liên
quan, trong khi các bên liên quan phi tài chính cũng bị ảnh hưởng bởi hành vi xã hội
doanh nghiệp và hành vi sai trái bị bỏ qua (McWilliams và cộng sự. 2006). Các biện
pháp tập trung vào thị trường cũng có thể không phản ánh đánh giá của nhà đầu tư về
giá trị thực của thông tin bất cân xứng (Dhaliwal và cộng sự. 2014). Ngược lại, các
biện pháp dựa trên thị trường cung cấp cơ hội để xem xét điểm chuẩn thay thế và sắp
xếp các kết quả từ hiệu suất quá trình đánh giá để đảm bảo một kết luận cân bằng và
khách quan hơn (Ghoul và cộng sự. 2011). Các biện pháp dựa trên thị trường có thể
được phân thành hai loại: (1) biện pháp dựa trên giá trị cổ phiếu và (2) các biện pháp
dựa trên chi phí vốn. Mỗi biện pháp có thể liên quan riêng đến CSR để kiểm tra khả
năng liên kết, chia sẻ dựa trên giá trị của hiệu quả kinh doanh.
2.2.4.3. Các biện pháp dựa trên giá trị cổ phiếu về hiệu quả tài chính
Giá trị cổ phiếu được sử dụng rộng rãi để đo lường hiệu quả tài chính doanh nghiệp
(Tafti và cộng sự. 2012). Các biện pháp phổ biến nhất được dựa trên giá cổ phiếu bao
20
gồm: (1) giá cổ phiếu (Baird và cộng sự. 2012). (2) hệ số giá trên tỷ lệ một cổ phiếu
(tỷ số P/E) (Soana. 2011). (3) Tỷ lệ MTB (Deng và cộng sự 2013; Soana, 2011) và (4)
tỉ số giữa giá thị trường và giá trị thay thế một tài sản hữu hình - hệ số q của Tobin
(Tobin's q) (Busch & Hoffmann, 2011; Inoue & Lee, 2011; Jo & Harjoto, 2011; Kang
và cộng sự; Lioui & Sharma, 2012: Phục vụ & Tamayo, 2013). Trong số này, việc sử
dụng Tobin's q là nổi bật hơn. Lợi nhuận thị trường cũng đã được các nhà nghiên cứu
sử dụng để đo lường hiệu quả tài chính trong các tài liệu hiện nay. Điều này liên quan
đến việc tính toán vượt quá hoặc bất thường của lợi nhuận thị trường (Becchetti và
cộng sự. 2012; Deng và cộng sự. 2013). Chỉ có số ít đã sử dụng sự biến động của lợi
nhuận thị trường (Deng và cộng sự.) hoặc phương pháp định giá tài sản được thông
qua trong mô hình thực nghiệm của họ (Becchetti và cộng sự. 2012). Việc sử dụng
biến động và phương pháp định giá tài sản tiếp cận nghiên cứu mối quan hệ hiệu quả
tài chính đối với CSR là một lĩnh vực xứng đáng được khai thác rộng rãi bởi các nhà
nghiên cứu.
2.2.5. Xu hướng hiện nay trong hiệu quả của hoạt động tài chính
Quan sát từ các tài liệu gần đây cho thấy rằng hiệu quả tài chính là các
hoạt động khác nhau, mặc dù vẫn dựa trên kế toán và kích thước thị trường. Trong hầu
hết các nghiên cứu, các định nghĩa truyền thống về FP như ROE, ROA, tăng trưởng
doanh số, lợi nhuận thị trường và hệ số q của Tobin không được sử dụng. Trong một
số nghiên cứu, hiệu quả tài chính được vận hành theo cách thức độc đáo như thu nhập
ròng, doanh thu ngoài lãi và nợ xấu (Wu & Shen, 2013), điều khoản hợp đồng cho vay
(Goss & Roberts, 2011), giá trị thương hiệu (Torres và cộng sự. 2012), tỷ lệ chi phí
trên thu nhập (Soana, 2011), lỗi dự báo tuyệt đối về EPS (Becchetti và cộng sự. 2013),
chi phí của vốn chủ sở hữu (Ghoul và cộng sự. 2011), sự biến động của lợi nhuận thị
trường và điều chỉnh rủi ro hiệu quả thị trường (Baird và cộng sự. 2012). Trong một
vài nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đã kiểm tra hiệu quả tài chính từ quan điểm kỳ
vọng thị trường. Điều này phù hợp với yêu cầu của Becchetti và cộng sự. (2012) và
Ghoul và cộng sự. (2011) rằng các tài liệu tài chính bị thiếu nghiên cứu về mối quan
hệ CSR-FP từ quan điểm của các nhà đầu tư. (Deng và cộng sự. 2013) Sử dụng mô
hình ba yếu tố Fama-French và mô hình bốn yếu tố Carhart để khẳng định hiệu quả xã
hội đã được kết hợp trong lợi nhuận chứng khoán. Becchetti và cộng sự cũng đã thử
phản ứng của thị trường đối với hoạt động ra vào của doanh nghiệp. Chỉ số xã hội
21
Domino 400 của KLD sử dụng mô hình ba yếu tố Fama-French cũng tìm thấy tác động
đáng kể của việc công bố CSR trên tích lũy lợi nhuận bất thường. Tương tự, Ghoul và
cộng sự, người đã thử nghiệm chi phí vốn chủ sở hữu trên các thành phần CSR khác
nhau, thấy rằng một số các yếu tố CSR được kết hợp với chi phí vốn cổ phần thấp hơn,
ngụ ý mối quan hệ tích cực giữa CSR-FP.
Trong nỗ lực làm phong phú thêm sự hiểu biết về tác động của CSR đối với FP
từ quan điểm thị trường, FP đã được thử nghiệm trong nhiều nghiên cứu dựa trên các
biện pháp thị trường khác nhau. Từ 30 nghiên cứu được xem xét, thấy rằng hệ số q của
Tobin đã được sử dụng bởi sáu nhà nghiên cứu (Busch & Hoffmann, 2011; Inoue &
Lee, 2011; Jo & Harjoto, 2011; Lioui & Sharma, 2012; Moura-Leite và cộng sự. 2014;
Servaes & Tamayo, 2013), chia sẻ giá trị của ba nhà nghiên cứu (Becchetti và cộng sự
2013; Baird và cộng sự 2012; Tafti, Hosseini, & Emami. 2012; Gregory và cộng sự.
2014), lợi nhuận vượt mức trong chín nghiên cứu (Becchetti và cộng sự 2012; Deng và
cộng sự. 2013), và cuối cùng, chi phí vốn trong bốn nghiên cứu (Cajias và cộng sự.
2014; Ghoul và cộng sự. 2011; Gregory và cộng sự. 2014; Hajiha & Sarfaraz, 2013).
Trong đó hệ số q của Tobin và lợi nhuận vượt mức là phổ biến hơn, giá trị chia sẻ và
chi phí vốn là kém phổ biến trong các biện pháp về FP. Trong các nghiên cứu CSR, sử
dụng các biện pháp FP không dựa trên động lực thị trường dẫn đến mô hình sai và
thiết kế bị lỗi (McWilliams và cộng sự. 2006). Một cách tiếp cận toàn diện hơn sẽ là
kiểm tra chi phí vốn dựa trên thị trường mỗi yếu tố CSR, kết quả sẽ phản ánh kỳ vọng
của các bên liên quan (Becchetti và cộng sự 2012; Ghoul và cộng sự (2011).
22
Mục tiêu của Chương 3 là phân tích mối quan hệ giữa CSR và hiệu quả tài
chính bằng việc sử dụng các phương pháp phân tích hồi quy đa biến để đánh giá các
ảnh hưởng.
3.1. Mô hình nghiên cứu.
3.1.1 Biến độc lập.
3.1.1.1. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là một biến độc lập.
Vào năm 1987, Ủy Ban Môi trường và Phát triển Thế giới định nghĩa mục tiêu
phát triển bền vững là “ sự phát triển đáp ứng nhu cầu của hiện tại mà không ảnh hưởng
đến khả năng của các thế hệ tương lai đáp ứng nhu cầu của chính họ”. Thông qua các hoạt
động và mối quan hệ của mình, doanh nghiệp có những đóng góp tích cực và tiêu cực đến
việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững. Từ đó, các phương pháp đánh giá trách
nhiệm xã hội được nghiên cứu và phát triển nhằm đánh giá việc thực hiện mục tiêu này.
Trong rất nhiều nghiên trước đây, danh tiếng của doanh nghiệp được sử dụng như
là một tiêu chí nhằm đo lường CSR. Chúng ta có thể kể đến các nghiên cứu của McGuire
(1988); Fombrun & Shanley (1990). Danh tiếng doanh nghiệp được dựa trên xếp hạng
Danh tiếng Doanh nghiệp của tạp chí Fortune công bố thường niên . Trong các nghiên cứu
gần đây hơn, các tác giả không chỉ dựa vào 1 chỉ tiêu để đo lường CSR mà còn dựa vào
các khía cạnh khác nhau của việc áp dụng trách nhiệm trong doanh nghiệp để đánh giá.
Chỉ số KLD, được phát triển vào năm 1991 bởi Kinder, Lynderberg và Domini, đánh giá
doanh nghiệp trên 7 khía cạnh liên quan đến CSR.
Trong thời gian gần đây, Bộ tiêu chuẩn GRI về đánh giá Trách nhiệm xã hội được
sử dụng ngày càng rộng rãi trong các nghiên cứu: Tạ Thị Thúy Hằng & Trần Văn Thuận
(2018), Dilvin Taşkın (2015). Đây là một bản báo cáo công khai các tác động của doanh
nghiệp tới môi trường, nền kinh tế và tới xã hội, giúp cho các cá nhân bên trong và ngoài
doanh nghiệp đưa ra các quyết định về việc đóng góp của tổ chức đến mục tiêu phát triển
bền vững. Đây là một chuẩn mực chung được chấp nhận trên toàn cầu tạo ra ngôn ngữ
chung cho những bên liên quan và tổ chức mà thông tin qua đó, được công bố và đánh
giá.
Bộ chuẩn mực GRI bao gồm 3 phần: 3 chuẩn mực toàn cầu, 33 chuẩn mực liên
quan đến các nội dung cụ thể và được chia làm 3 nhóm: Kinh tế, xã hội, môi trường. Các
23
tổ chức chỉ lựa chọn và sử dụng các chuẩn mực có liên quan đến các lĩnh vực trọng yếu.
Đây cũng là phương pháp đo lường CSR được nhiều nghiên cứu sử dụng để phân tích mối
quan hệ với hiệu quả tài chính .
Nghiên cứu đánh giá TNXH bằng việc dựa vào các tiêu chí đánh giá Báo cáo
TNXH trong hướng dẫn đánh giá của Sáng kiến báo cáo toàn cầu (GRI). Dựa vào bảng
tuân thủ GRI Standards năm 2019, nghiên cứu này tập trung vào 2 khía cạnh chủ yếu:
ảnh hưởng đến môi trường và ảnh hưởng xã hội. Trong đó, ảnh hưởng tới môi trường
được chia thành hai chỉ tiêu nhỏ là Năng lượng và Tuân thủ môi trường. Trong khi đó,
ảnh hưởng xã hội được chia thành năm chỉ tiêu: Việc làm, Quan hệ nhân viên, An toàn
và Sức khỏe nghề nghiệp, Giáo dục và đào tạo, Sự đa dạng và cơ hội bình đẳng, và
Cộng đồng địa phương.
GRI 300: CÔNG BỐ THÔNG TIN THEO TIÊU CHUẨN MÔI TRƯỜNG
( 10 điểm)
GRI 302: NĂNG LƯỢNG
307-1: Không tuân thủ pháp luật và các quy định về môi trường
401-2: Phúc lợi cung cấp cho các nhân viên toàn thời gian không dành cho
nhân viên tạm thời hoặc bán thời gian
402-1: Thời gian thông báo tối thiểu cho nhân viên về sự thay đổi của tổ
24
chức
403-1: Đại diện của người lao động trong các liên ủy ban an toàn và sức
khỏe nghề nghiệp chính thức giữa ban lãnh đạo và người lao động
403-4: Các chủ đề về sức khỏe và an toàn được đề cập với người lao động
trong thỏa thuận chính thức với công đoàn
404-1: Số giờ đào tạo trung bình mỗi năm cho mỗi nhân viên
404-2: Các chương trình nâng cao kỹ năng cho nhân viên và chương trình
hỗ trợ chuyển tiếp
405-2: Tỷ lệ lương cơ bản và thù lao của phụ nữ so với nam giới
413-1: Những hoạt động có sự tham gia của cộng đồng địa phương, đánh
giá tác động và các chương trình phát triển
Bảng 3.1: Các tiêu chí đánh giá Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp
Tổng điểm CSR cho ngân hàng thứ i được tính bằng tổng điểm các tiêu chí trên. Điểm
tối đa cho mỗi ngân hàng là 30 điểm.
Score CSR = i=1nScore ( Ảnh hưởng môi trường, ảnh hưởng xã hội)
Trong đó:
Score môi trường = i=1nScore (Năng lượng, tuân thủ môi trường).
ROE đánh giá mức độ hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Về mặt lý
thuyết, ROE càng cao thì khả năng sử dụng vốn càng có hiệu quả. Những cổ phiếu có
ROE cao thường được nhà đầu tư ưa chuộng hơn. Và tất yếu những cổ phiếu có chỉ số
ROE cao cũng có giá cổ phiếu cao hơn. Một trong những tiêu chí đánh giá công ty có
đủ năng lực tài chính theo chuẩn quốc tế, thì chỉ số ROE phải đạt mức tối thiểu 15%.
𝐿ợ𝑖 𝑛ℎ𝑢ậ𝑛 𝑠𝑎𝑢 𝑡ℎ𝑢ế
ROE = x 100
𝑇ổ𝑛𝑔 𝑣ố𝑛 𝑐ℎủ 𝑠ở ℎữ𝑢
Bên cạnh đó, một số chỉ số tài chính cũng được sử dụng trong các nghiên cứu
như chỉ số Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu (ROS): Tsoutsoura (2004), Brine (2007),
Ghelli (2013),.. Chỉ số này đánh giá lợi nhuận chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng
doanh thu của công ty. ROS càng lớn thì lợi nhuận của công ty càng lớn. Tuy nhiên
ROS phụ thuộc vào đặc tính của từng ngành nghề, muốn đánh giá công ty thì nên đánh
dựa trên mặt bằng trung bình ngành, nếu ROS > ROS trung bình ngành, công ty tốt
hơn so với trung bình ngành, cũng như so sánh với giai đoạn phát triển của doanh
nghiệp.
Hệ số q của Tobin cũng là một chỉ số được sử dụng trong nhiều nghiên cứu:
Ghelli (2013), Singh (2014), Inoue & Lee (2011), Choi (2010), Saleh (2008),... Ý
tưởng của Tobin là nếu giá trị thị trường (được đo lường trên thị trường chứng khoán)
của một doanh nghiệp cao hơn giá trị sổ sách của doanh nghiệp đó thì đấy là tín hiệu
26
thị trường cho rằng doanh nghiệp này có triển vọng phát triển. Nếu q lớn hơn 1, công
ty sẽ đẩy mạnh tăng trưởng để đầu tư và ngược lại, nếu q nhỏ hơn 1 thì công ty sẽ bán
bớt cổ phần hoặc giảm đầu tư xuống thấp hơn mức khấu hao để giá trị sổ sách tự động
giảm dần. Và như vậy, các nhà đầu tư sẽ lựa chọn các công ty có q lớn hơn 1 để đưa
vào danh mục đầu tư. Đây là phương pháp để xem xét hiệu quả đầu tư dựa trên sự
phản chiếu của lợi nhuận kỳ vọng trong tương lai cũng như lợi nhuận hiện tại. Lý
thuyết q của Tobin nhấn mạnh rằng, các quyết định đầu tư không chỉ phụ thuộc vào
các chính sách kinh tế hiện hành mà còn phụ thuộc vào kỳ vọng chính sách trong
tương lai.
Trong nghiên cứu này sử dụng phương pháp đo lường tỷ suất lợi nhuận trên tài
sản bình quân (ROAA), tỷ suất trên vốn chủ sở hữu bình quân (ROEA) như các biến
phụ thuộc.
𝐿ợ𝑖 𝑛ℎ𝑢ậ𝑛 𝑠𝑎𝑢 𝑡ℎ𝑢ế
ROAA = x 100%
𝑇ổ𝑛𝑔 𝑡à𝑖 𝑠ả𝑛 𝑏ì𝑛ℎ 𝑞𝑢â𝑛
Trong nghiên cứu này sử dụng chỉ số Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu làm một
biến kiểm soát. Đây là một trong những hệ số đòn bẩy tài chính được sử dụng thông
dụng nhất, phản ánh tỷ lệ nợ và nguồn vốn doanh nghiệp sử dụng để chi trả cho hoạt
động kinh doanh của mình. Nếu chỉ số này lớn hơn 1 có nghĩa doanh nghiệp đang đi
vay nhiều hơn nguồn vốn mình có, có thể gặp rủi ro trong việc trả nợ và biến động lãi
suất.
Hệ số đòn bẩy tài chính được sử dụng trong một số nghiên cứu về trách nhiệm
xã hội và hiệu quả tài chính như: Nguyễn Thị Minh Huệ & Đặng Tùng Lâm (2017);
Tạ Thị Thúy Hằng, Trần Văn Thuận & Nguyễn Thị Thu Hằng (2019),...
3.1.3.3. Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận trước thuế
Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận trước thuế cho biết mức độ lợi nhuận của năm sau
so với năm trước, là tiêu chí đánh giá doanh nghiệp kinh doanh tốt hơn hay kém hơn
so với năm trước đo.
28
𝐿𝑁 𝑡𝑟ướ𝑐 𝑡ℎ𝑢ế 𝑛ă𝑚 𝑡− 𝐿𝑁 𝑡𝑟ướ𝑐 𝑡ℎ𝑢ế 𝑛ă𝑚 (𝑡−1)
Tốc độ tăng trưởng = x 100
𝐿𝑁 𝑡𝑟ướ𝑐 𝑡ℎ𝑢ế 𝑛ă𝑚 𝑡−1
3.4.3. Mô hình phân tích ảnh hưởng của CSR lên hiệu quả tài chính
Mô hình hồi quy được sử dụng để phân tích mối quan hệ giữa CSR và hiệu quả
tài chính của các ngân hàng được niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam.
ROAAi= 1+ 2CSRi + 3Sizei + 4LEVi+ 5GRi+i
ROEAi= 1+ 2CSRi + 3Sizei + 4LEVi+ 5GRi+i
Trong đó:
1: Hệ số chặn
2,...,5: Hệ số góc của các biến độc lập và kiểm soát tương ứng.
CSRi: Tổng điểm trách nhiệm xã hội
Sizei: Quy mô của doanh nghiệp
LEVi: Hệ số đòn bẩy tài chính
GRi: Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận trước thuế.
31
32
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Các biến số Biến phụ thuộc ROAA Biến phụ thuộc ROEA
VIF VIF
GR 1.072 1.072
Bảng 4.2. Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến với biến độc lập
Qua bảng trên, ta thấy các giá trị VIF của các biến đều nhỏ hơn 4, do đó không
xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến.
4.2.2. Kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi
Một trong những giả định khi thực hiện hồi quy tuyến tính đa biến là giả định
phương sai không thay đổi. Nếu xảy ra hiện tượng phương sai thay đổi, kết quả của
phương trình hồi quy không chính xác, từ đó khiến người nghiên cứu đánh giá nhầm
chất lượng của phương trình hồi quy tuyến tính.
Ta có giả thiết:
H0: Không xảy ra hiện tượng phương sai thay đổi.
H1: Xảy ra hiện tượng phương sai thay đổi.
Thực hiện phân tích tương quan hạng Spearman để kiểm định giả thiết. Nếu Sig
(2-tailed) < = 0.05 thì H0 bị bác bỏ, H1 được chấp nhận.
Kết quả của kiểm định được trình bày dưới bảng sau:
SIZE LEV GR
Bảng 4.3. Kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi
Như vậy, tất cả các giá trị Sig trong tương quan hạng giữa ABSRES và các biến
độc lập đều lớn hơn 0.05, do đó phương sai phần dư là đồng nhất, giả định không đổi
không bị vi phạm.
4.2.3. Kiểm định mối quan hệ giữa Hiệu quả tài chính và CSR.
Ta có giả thiết đã được thiết lập:
Giả thiết 1:
H0: Trách nhiệm xã hội có ảnh hưởng tích cực đến chỉ số ROAA của các ngân
hàng được nghiên cứu.
35
H1: Trách nhiệm xã hội không có tác động đến chỉ số ROAA của các ngân hàng
được nghiên cứu.
Giả thiết 2:
H0: Trách nhiệm xã hội có ảnh hưởng tích cực đến chỉ số ROEA của các ngân
hàng được nghiên cứu.
H2: Trách nhiệm xã hội không có tác động đến chỉ số ROEA của các ngân hàng
được nghiên cứu.
Bằng phương pháp phân tích hồi quy đa biến, chúng ta có các kết quả sau:
ROAA ROEA
R2 0.636 0.587
Bảng 4.4: Tóm tắt mô hình nghiên cứu với biến phụ thuộc
Qua bảng trên ta thấy, sự thay đổi của ROAA có thể được giải thích bởi 56.4%
sự thay đổi của các biến độc lập. Tương tự, sự thay đổi của ROEA được giải thích bởi
50.4% sự thay đổi của biến độc lập. Giá trị Sig của 2 kiểm định đều nhỏ hơn 0.05
chứng tỏ mô hình hồi quy được xây dựng phù hợp với tổng thể.
ROAA ROEA
Bảng 4.5: Kết quả phân tích hồi quy với các biến phụ thuộc
Hai giá trị Sig trong 2 kiểm định đều có giá trị lớn hơn 0.05, do đó ta có thể kết
luận CSR không có ảnh hưởng đến ROAA và ROEA của các ngân hàng được nghiên
cứu.
37
38
CHƯƠNG 5: THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, CÁC
KHUYẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT
1. Châu Thị Lệ Duyên & Nguyễn Minh Cảnh (2013). ‘Phân tích những nhân tố thúc
đẩy các doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở
thành phố Cần Thơ’. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. Đại học Cần Thơ.
25 (2013).
2. Hồ Thị Vân Anh (2018). ‘Trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính: Bằng chứng từ
công ty niêm yết Việt Nam’. Luận án tiến sĩ kinh tế. Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí
Minh.
3. Trần Anh Phương (2009). Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và thực tiễn vận
dụng ở Việt Nam hiện nay. Trang web Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Tài liệu Tiếng Anh
http://www.accountingforsustainability.org/en/about-us/overview.html
2. Abbott, W. F., & Monsen, R. J. (1979). On the measurement of corporate social
responsibility: Self-reported disclosures as a method of measuring corporate social
involvement. Academy of Management Journal, 22(3), 501-515.
7. Arshad, R., Mansor, S. M., & Othman, R. (2012). Market orientation, firm
performance and the mediating effect of corporate social responsibility. Journal of
Applied Business Research, 28(5), 851.
9. Becchetti, L., Ciciretti, R. (2009). Corporate social responsibility and stock market
performance. Applied Financial Economics, 19(16), 1283-1293.
10. Becchetti, L., Ciciretti, R., & Giovannelli, A. (2013). Corporate social
responsibility and earnings forecasting unbiasedness. Journal of Banking and Finance,
37
11. Berman, S. L., Wicks, A. C., & Jones, T. M. (1999). Does stakeholder orientation
matter? The relationship between stakeholder management models and firm financial
performance. Academy of Management Journal, 42(5), 488-506.
12. Bettis, R. A. (1983). Modern financial theory, corporate strategy and public policy:
Three conundrums. Academy of Management Review, 8(3), 406-415.
14. Brine, M., Brown, R. & Hackett, G. (2007). Corporate social responsibility and
financial performance in the Australian context, Economic Round-up, 3(4), 47-58.
17. Chen, H., & Wang, X. (2011). Corporate social responsibility and corporate
financial performance in China: An empirical research from Chinese firms. Corporate
Governance, 11(4), 361-370.
18. Chih, H., Chih, H. & Chen, T. (2010). On the determinants of corporate social
responsibility: International evidence on the finance industry. Journal of Business
Ethics, 93,115-135.
19. Choi. J., Kwak, Y., & Choe, C. (2010). Corporate social responsibility and
corporate financial performance: Evidence from Korea. Australian Journal of
Management, 35, 291-311.
23. Deng, X., Kang, J., & Low, B. S. (2013). Corporate social responsibility and
stakeholder value maximization: Evidence from mergers. Journal of Financial
Economics, 110, 87-109.
24. Doh. J., Howton, S., Howton S., & Siegel, D. (2010). Does the market respond to
an endorsement of social responsibility? The role of institutions, information, and
legitimacy. Journal of Management, 36(6), 1461-1485.
25. Fauzi, H. (2009). Corporate social and financial performance: Empirical evidence
from American companies. Globsyn Management Journal. 3(1), 2534.
26. Flammer, C. (2013). Does corporate social responsibility lead to superior financial
performance? A regression discontinuity approach, MIT Sloan School of Management
Working Paper Series.
28. Friedman, M. (1970). The social responsibility of business is to increase its profits.
The New York Times Magazine, 122-126.
30. Harrison, J. S., & Freeman, R. E. (1999). Stakeholders, social responsibility, and
performance: Empirical evidence and theoretical perspectives. Academy of
management Journal, 42(5), 479-485.
31. Henderson, D. (2001). The case against corporate social responsibility. A Journal
of Public Policy and Ideas, 17(2), 28.
32. Inoue, Y., & Lee, S. (2011). Effects of different dimensions of corporate social
responsibility on corporate financial performance in tourism-related industries.
Tourism Management, 32(4), 790-804.
34. Lee, S., & Park, S. (2010). Financial impacts of socially responsible activities on
airline companies. Journal of Hospitality and Tourism Research, 34(2), 185-203.
35. Margolis, J. D., Elfenbein, H. A., & Walsh, J. P. (2007). Does it pay to be good? A
meta-analysis and redirection of research on the relationship between corporate social
and financial performance.
36. Margolis, J. D., & Walsh, J. P. (2003). Misery loves companies: Rethinking social
initiatives by business. Administrative science quarterly, 48(2), 268-305.
37. McGuire, J., Schneeweis, T., & Hill, J. (1986). An analysis of alternative measures
of strategic performance. Advances in strategic management, 4(2).
41. Saleh, M., Zulkifli, N., & Muhamad, R. (2008). An empirical examination of the
relationship between corporate social responsibility disclosure and financial
performance in an emerging market. International Journal of Productivity and
Performance Management,59(3), 229-254.
42. Siegel, D. S. (2009). Green management matters only if it yields more green: An
economic/strategic perspective. Academy of Management Perspectives, 23(3), 5-16.
43. Soloman, R., & Hansen, K. (1985).It's good business. New York: Atheneum.
44. Spicer, B. H. (1978). Investors, corporate social performance and information
disclosure: An empirical study. Accounting Review, 94-111.
45. Ta Thi Thuy Hang, Tran Van Thuan, Nguyen Thi Thu Hang (2019). Impact of
Corporate Social Responsibility Disclosures on the Financial Performance of company
listed on Vietnam Stock market.
47. Waddock, S., & Rasche, A. (2012).Building the responsible enterprise: Where
vision and values add value. Stanford: CA: Stanford University Press.
48. Wang, H., & Choi, J. (2013). A new look at the corporate social financial
performance relationship: The moderating roles of temporal and interdomain
consistency in corporate social performance. Journal of Management, 39(2), 416-441.
49. Wang, W., Lu, W., Kweh, Q. L., & Lai, H. (2014). Does corporate social
responsibility influence corporate performance of the U.S. telecommunication
industry? Telecommunications Policy, 38, 580-591.
51. Yang, F., Lin, C. & Chang, Y. (2010). The linkage between corporate social
performance and corporate financial performance. African Journal of Business
Management, 4(4), 406-413.