You are on page 1of 26

-------***-------

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP LỚN


HỌC PHẦN KINH TẾ HỌC CHO NGƯỜI RA
QUYẾT ĐỊNH ĐẦU TƯ

Đề tài
Phân tích chu kỳ kinh tế tại Việt Nam và ảnh hưởng của
chu kỳ kinh tế đến hoạt động đầu tư tại Việt Nam

Giảng viên hướng dẫn : TS. Phạm Văn Hùng


Nhóm sinh viên thực hiện :
Nguyễn Kim Phượng - 11206651 Nguyễn Đặng Thuỳ Dương 11204923

Đào Thị Mỹ Lệ - 11202051 Bùi Thị Mai - 11216670

Nguyễn Thị Nga - 11202715 Nguyễn Vy Uyên - 11208390

Dương Thị Vương Thi - 11203762 Nguyễn Duy Đức - 11211387

Phan Thị Ngọc Anh - 11200353 Lê Phương Huyền - 11201839

Vũ Thu Hằng - 11216651

HÀ NỘI, NĂM 2023


MỤC LỤC
Danh mục hình, biểu đồ ......................................................................................................... 2
Chương 1. Cơ sở lý thuyết về chu kỳ kinh tế ........................................................................... 3
1.1. Khái niệm chu kỳ kinh tế .............................................................................................. 3
1.2. Các pha của chu kỳ kinh tế ........................................................................................... 3
1.3. Các đặc điểm và biến động của chu kỳ kinh tế tại Việt Nam ........................................... 4
1.4. Các yếu tố chính ảnh hưởng đến chu kỳ kinh tế tại Việt Nam......................................... 5
1.4.1. Chính sách tài khóa ................................................................................................ 5
1.4.2. Chính sách tiền tệ ................................................................................................... 5
1.5. Nguyên nhân và biện pháp đối phó với chu kỳ kinh tế ................................................... 6
1.5.1. Nguyên nhân .......................................................................................................... 6
1.5.2. Biện pháp và cách ứng phó...................................................................................... 6
Chương 2. Phân tích chu kỳ của nền kinh tế Việt Nam và tác động của chu kỳ kinh tế đến hoạt
động đầu tư ........................................................................................................................... 8
2.1. Tổng quan chu kỳ kinh tế tại Việt Nam qua các giai đoạn .............................................. 8
2.1.1. Chu kỳ 1 (1989 - 1999) ............................................................................................ 8
2.1.2. Chu kỳ 2 (1999 - 2009) .......................................................................................... 10
2.1.3. Chu kỳ 3 (2009 - 2019) .......................................................................................... 11
2.2. Tác động của chu kỳ kinh tế đến hoạt động đầu tư ...................................................... 13
2.2.1. Tổng quan chung về chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa các giai đoạn ............. 13
2.2.2. Ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế đến hoạt động đầu tư tại Việt Nam ............................ 14
2.2.2.1. Sự biến đổi của hoạt động đầu tư theo giai đoạn của chu kỳ kinh tế ....................... 14
2.2.2.2. Ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế đến quyết định đầu tư ở Việt Nam .......................... 16
Chương 3. Giải pháp giúp Việt Nam vượt qua khủng hoảng chu kỳ và bài học của nhóm tác giả
........................................................................................................................................... 22
3.1. Giải pháp vượt qua khủng hoảng chu kỳ tại Việt Nam................................................. 22
3.1.1. Chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa ............................................................... 22
3.1.2. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý kinh tế ....................................... 23
3.1.3 Phát triển các ngành kinh tế chịu biến đổi tốt và đa dạng hóa kinh tế ........................ 24
3.2. Bài học của nhóm tác giả ............................................................................................ 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................... 25

1
Danh mục hình, biểu đồ
Hình 1: Chu kì kinh tế 3 pha .................................................................................................. 3
Hình 2: Chu kì kinh tế 4 pha .................................................................................................. 4
Hình 3: Biện pháp theo chủ nghĩa Keynes ............................................................................... 7
Hình 4: Biện pháp theo chủ nghĩa kinh tế tự do mới ................................................................ 7
Hình 5: Tăng trưởng GDP Việt Nam giai đoạn 1989 - 1999...................................................... 9
Hình 6: Tăng trưởng và thất nghiệp trong các chu kỳ kinh tế .................................................. 9
Hình 7: Tăng trưởng GDP Việt Nam giai đoạn 1999 - 2009.................................................... 10
Hình 8: Tốc độ tăng trưởng GDP thực của Việt Nam giai đoạn 2010-2020.............................. 11
Hình 9: GDP thực của Việt Nam theo giá so sánh 2015 giai đoạn 2010 - 2019 ......................... 12
Hình 10: GDP thực Mỹ giai đoạn 2000-2022 ......................................................................... 14
Hình 11: Tổng đầu tư tư nhân ở Mỹ giai đoạn 2000-2022 ...................................................... 14
Hình 12: Mối quan hệ tương quan giữa GDP thực và tổng đầu tư tư nhân tại Mỹ .................. 15
Hình 13: GDP thực Việt Nam giai đoạn 2008 - 2019 .............................................................. 15
Hình 14: Đầu tư tư nhân Việt Nam trên GDP giai đoạn 2010-2022......................................... 16
Hình 15: Tổng GDP và tổng đầu tư Việt Nam 2011 - 2019 ..................................................... 16

2
Chương 1. Cơ sở lý thuyết về chu kỳ kinh tế

1.1. Khái niệm chu kỳ kinh tế

Chu kỳ kinh tế là những biến động có tính chu kỳ của một nền kinh tế hay nói cách
khác là sự biến động của GDP thực tế.

Chu kỳ kinh tế thể hiện ở các chuỗi sự kiện, được lặp lại theo thời gian. Biến động
chu kỳ kinh tế thường được đặc trưng bởi những biến động và suy thoái chung trong
một loạt các biến số kinh tế vĩ mô. Thông thường, chu kỳ của chúng có phạm vi rộng
từ khoảng 2 đến 10 năm.

1.2. Các pha của chu kỳ kinh tế


Chu kỳ kinh tế gồm có 3 pha, trong đó bao gồm: suy thoái, phục hồi và hưng thịnh:
Suy thoái là pha trong đó GDP thực tế giảm là thời điểm nền kinh tế bắt đầu có
các dấu hiệu đi xuống với việc sản lượng hàng hóa suy giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng, mức
lương thấp, lãi tín dụng bị thắt chặt… Và thông thường tốc độ GDP thực tế giá trị âm
hai kỳ liên tiếp thì được coi là suy thoái.
Phục hồi là pha trong đó GDP thực tế tăng trở lại bằng mức ngay trước suy thoái.
Điểm ngoặt giữa hai pha này là đáy của chu kỳ kinh tế và là thời điểm lạm phát ở mức
vừa phải và có xu hướng giảm.
Khi GDP thực tế tiếp tục tăng và bắt đầu lớn hơn mức ngay trước lúc suy thoái,
nền kinh tế đang ở pha hưng thịnh. Điểm ngoặt từ pha hưng thịnh sang pha suy thoái
mới gọi là đỉnh của chu kỳ kinh tế.

Hình 1: Chu kì kinh tế 3 pha

Ngoài ra, chu kỳ kinh tế gồm 3 pha nhiều ý kiến cũng cho rằng chu kỳ kinh tế

3
chỉ có hai pha là suy thoái và hưng thịnh, cũng có ý kiến cho rằng chu kỳ kinh kế gồm
4 pha là:

- Giai đoạn suy thoái kinh tế.


- Giai đoạn đáy chu kỳ.
- Giai đoạn phục hồi kinh tế.
- Giai đoạn đỉnh của chu kỳ kinh tế

Hình 2: Chu kì kinh tế 4 pha

1.3. Các đặc điểm và biến động của chu kỳ kinh tế tại Việt Nam

Một nền kinh tế điển hình thường không kéo dài thời gian ổn định quá lâu mà sẽ
xảy ra các sự thay đổi và có sự thăng trầm nhất định. Nhìn vào số liệu thống kê về tăng
trưởng và thất nghiệp ở Việt Nam từ năm 1986 đến 2009 có thể thấy sau hơn 20 năm đổi
mới nước ta đã trải qua ba giai đoạn suy thoái chu kỳ với tần suất từ 9 - 10 năm. Qua đó
có thể rút ra được một số đặc điểm của chu kỳ kinh tế Việt Nam:

- Thời kỳ suy thoái: Là thời kỳ trong đó tổng cầu giảm nhanh trong khi sản lượng
rất thấp và thất nghiệp cao. Hiện tượng suy thoái kinh tế ở nước ta rơi vào những năm
cuối của thập niên. Tuy nhiên, đây là sự kiện suy thoái kinh tế ngẫu nhiên. Chu kỳ kinh
tế Việt Nam bắt đầu bởi sự hưng phấn và tâm lý đám đông, ảnh hưởng đến hoạt động sản
xuất kinh doanh, giá trị GDP.

- Thời kỳ phục hồi: Ở thời kỳ này, sự gia tăng nhanh của tổng cầu đi kèm với sự gia
tăng nhanh chóng của sản lượng và thất nghiệp giảm.

- Thời kỳ hưng thịnh: Đây là thời kỳ tổng cầu vượt quá mức sản lượng tiềm năng
và tiếp tục tăng lên, giá cả cũng tăng do có tình trạng dư cầu.

4
1.4. Các yếu tố chính ảnh hưởng đến chu kỳ kinh tế tại Việt Nam

1.4.1. Chính sách tài khóa

Chính sách tài khóa là một bộ phận của chính sách kinh tế vĩ mô nhằm tác động vào
hoạt động kinh tế thông qua biện pháp thay đổi chi tiêu và hoặc thuế của Chính phủ. Chu
kỳ kinh tế bắt nguồn từ sự biến động của thị trường dẫn tới nền kinh tế phải trải qua các
đỉnh, đáy suy thoái. Phản ứng của chính sách tài khóa, tiền tệ trước các cú sốc của nền
kinh tế có ảnh hưởng lớn tới diễn biến tiếp theo của nền kinh tế (Keynes, 1936).

Việt Nam đã đạt được những thành tựu tích cực trong phát triển kinh tế: kinh tế vĩ
mô ổn định, lạm phát được kiểm soát. Chính sách tài khóa trong những năm qua có những
hỗ trợ tốt cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, vấn đề cơ cấu lại ngân sách Nhà nước cũng
đã trở thành yêu cầu cấp bách để đảm bảo bền vững tài khóa trong dài hạn, củng cố niềm
tin của thị trường và hỗ trợ hiệu quả hơn cho tăng trưởng kinh tế. Cũng như các quốc gia
đang phát triển khác, Việt Nam thực thi chính sách tài khóa thuận chu kỳ.

Dựa trên số liệu phía trên có thể thấy, khi nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng theo
chiều hướng tích cực, Việt Nam gia tăng nguồn lực cho sản xuất theo đà phát triển
của nền kinh tế cần nhiều tiềm lực cơ sở vật chất để tăng trưởng - Chính phủ áp dụng
chính sách tài khoá mở rộng nhằm thu hút đầu tư, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế.

1.4.2. Chính sách tiền tệ

Chính sách tiền tệ là một công cụ quản lý kinh tế vĩ mô, vì vậy trong bất cứ bối
cảnh nào thì chính sách tiền tệ cũng theo đuổi mục tiêu chung là ổn định kinh tế vĩ mô,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tùy theo tình hình cụ thể, các quốc gia đã lựa chọn khuôn
chính sách tiền tệ phù hợp nhằm đạt được mục tiêu mong muốn. Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(IMF) đã tổng kết sau khi hệ thống Bretton Woods sụp đổ thì có 3 khung chính sách tiền
tệ được phần lớn các ngân hàng trung ương sử dụng, đó là khuôn khổ chính sách tiền tệ
kiểm soát khối lượng, kiểm soát giá (lãi suất hoặc tỷ giá) và lạm phát mục tiêu. Từ năm
1992, chính sách tiền tệ bắt đầu hình thành ở Việt Nam, là thời kỳ lạm phát cao, kinh tế
tăng trưởng thấp (giai đoạn cuối của thời kỳ lạm phát siêu mã), nền kinh tế đang trong
giai đoạn chuyển đổi.

5
1.5. Nguyên nhân và biện pháp đối phó với chu kỳ kinh tế

1.5.1. Nguyên nhân

Theo nhà sử học và kinh tế chính trị Sismondi nguyên nhân dẫn đến việc hình
thành chu kỳ kinh tế là kết quả tự nhiên của các yếu tố thị trường. Sản xuất dư thừa và
tiêu dùng thấp, hay còn có thể được hiểu đơn giản hơn là cung lớn hơn cầu.

Ở giai đoạn hưng thịnh của chu kỳ trước, các doanh nghiệp phát triển và đẩy mạnh
hoạt động sản xuất. Từ đó, lượng hàng hóa sản xuất được tăng lên. Bên cạnh đó, mức thu
nhập của người lao động cũng tăng tỷ lệ thuận với khả năng sản xuất của doanh nghiệp,
mức chi tiêu cũng được nâng cao. Các yếu tố này sẽ giúp doanh nghiệp phát triển và đạt
khả năng mở rộng quy mô.

Tuy nhiên, đến một mức độ nhất định, lượng sản phẩm được sản xuất sẽ vượt quá
nhu cầu của thị trường. Lúc này, cung nhiều hơn cầu, các doanh nghiệp phải cắt giảm sản
xuất và nhân lực để giảm bớt chi phí sản xuất. Thu nhập giảm, mức chi tiêu của thị trường
cũng giảm theo tỷ lệ thuận. Đây là nhân tố dẫn đến sự suy thoái của nền kinh tế và bắt
đầu chu kỳ mới.

Với góc nhìn chủ quan thì còn nhiều yếu tố dẫn đến việc tạo ra chu kỳ kinh tế, ví
dụ:

Kinh tế tăng trưởng phát triển dẫn đến doanh nghiệp tăng lương cho nhân viên. Lúc
này, người lao động có nhiều tiền để chi tiêu, kéo theo sự tăng trưởng của sản xuất hàng
hóa đáp ứng nhu cầu. Hậu quả dẫn đến sẽ là sản xuất hàng hóa dư thừa, bắt buộc doanh
nghiệp cần giảm giá để kích cầu tiêu dùng. Hệ lụy là lợi nhuận kinh doanh giảm, các
công ty cắt giảm lương, cắt giảm lao động và cuối cùng là suy thoái kinh tế.

1.5.2. Biện pháp và cách ứng phó


Ta có hai nhóm trường phái kinh tế học vĩ mô lớn là chủ nghĩa Keynes và chủ nghĩa
kinh tế tự do mới, cùng với đó là hai hướng đối phó với việc này, cụ thể là:

Chủ nghĩa Keynes: Theo chủ nghĩa Keynes, chu kỳ này được hình thành từ thị
trường không hoàn hảo khiến tổng cầu biến động. Cách đối phó với việc này theo chủ
nghĩa Keynes là áp dụng các chính sách quản lý tổng cầu của thị trường. Khi nền kinh
tế bị thu hẹp thì áp dụng các chính sách nới lỏng và ngược lại, khi nền kinh tế khuếch
trương thì phải thắt chặt.

6
Hình 3: Biện pháp theo chủ nghĩa Keynes
Chủ nghĩa kinh tế tự do mới: Trường phái chủ nghĩa kinh tế mới quan điểm rằng
chu kỳ kinh tế xảy ra do sự can thiệp của chính phủ hoặc do các cú sốc cung ngoài dự
tính. Vì thế, cách đối phó của chủ nghĩa kinh tế mới là điều chỉnh cú sốc cung và hạn
chế sự can thiệp của chính phủ.

Hình 4: Biện pháp theo chủ nghĩa kinh tế tự do mới

7
Chương 2. Phân tích chu kỳ của nền kinh tế Việt Nam và tác động của chu
kỳ kinh tế đến hoạt động đầu tư

2.1. Tổng quan chu kỳ kinh tế tại Việt Nam qua các giai đoạn

2.1.1. Chu kỳ 1 (1989 - 1999)

Hai biến vĩ mô chính được sử dụng để xác định chu kỳ kinh tế là tốc độ tăng trưởng
GDP và tỷ lệ thất nghiệp.

Nhìn vào số liệu thống kê về tăng trưởng và thất nghiệp ở Việt Nam từ năm 1986
đến 2009 có thể thấy sau hơn 20 năm đổi mới nước ta đã trải qua ba giai đoạn suy thoái
chu kỳ với tần suất từ 9 - 10 năm.

Lần đầu tiên là năm 1989 - 1990 khi tăng trưởng GDP trung bình chỉ đạt 4,9% trong
khi tỷ lệ thất nghiệp lên đến 13% năm 1989 và 9% năm 1990. Nhờ đổi mới kinh tế, trong
đó đặc biệt sản xuất lương thực năm 1989 đã có xuất khẩu, Luật Đầu tư nước ngoài được
ban hành, những tấn dầu thô đầu tiên đã được khai thác, xuất khẩu, phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần, xóa bỏ tem phiếu, đổi mới quản lý tiền tệ... tạo khả năng để thoát ra
khỏi cuộc khủng hoảng này.

Từ năm 1990, sau khi tư duy cải cách thực sự được chuyển hóa thành các chính
sách kinh tế và đi vào cuộc sống, cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội đã cơ bản được khắc
phục và chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nền
kinh tế đã nhanh chóng vượt qua giai đoạn khó khăn và bước vào thời kỳ phát triển mạnh
với tốc độ tăng GDP bình quân 8,2%/năm trong giai đoạn 1991 - 1995, đạt mức cao nhất
trong chu kỳ là 9,5% năm 1994, thất nghiệp chỉ còn 5,8%. Tăng trưởng kinh tế cao lên,
đạt đỉnh cao nhất vào năm 1995 (9,54%) và tính chung thời kỳ 1991 - 1995 đã đạt
8,2%/năm. Tỷ lệ thất nghiệp giảm nhanh. Xuất khẩu tăng với tốc độ cao... Đầu tư trực
tiếp nước ngoài gia tăng mạnh, nếu năm 1988 mới có 322 triệu USD thì năm 1996 đạt
tới 8.979 triệu USD.

8
Hình 5: Tăng trưởng GDP Việt Nam giai đoạn 1989 - 1999
Nguồn: Ngân hàng Thế giới

Hình 6: Tăng trưởng và thất nghiệp trong các chu kỳ kinh tế


Nguồn: Ngân hàng Thế giới

Tuy nhiên, do cú sốc của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á nên nước ta lại
nhanh chóng đi vào thời kỳ suy thoái 1998 - 1999. Tốc độ tăng trưởng chỉ còn 5,8% năm
1998 và xuống đáy 4,8% năm 1999. Cũng trong năm 1999, thất nghiệp tăng lên 6,7% và
tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn ở mức rất cao 28,9%.

Khủng hoảng năm 1989 là do nhà nước cho người dân muốn làm gì thì làm (ít nhất
là ở khía cạnh tài chính tín dụng). Hậu quả của nó là tháp Ponzi mà ở đó tiền của người
gửi sau dùng để trả lãi cho người gửi trước đó chứ làm gì có thể kinh doanh mức sinh lời
lên đến 24%/tháng và tháp này sụp đổ khi không còn người gửi tiền nữa. Nhân tố gây ra
khủng hoảng là hằng hà vô số các hợp tác xã tín dụng (hơn 7.000).

Việt Nam đang trên đà phát triển thì bắt đầu từ năm 1997, các nước trong khu vực
gặp khủng hoảng tài chính - tiền tệ, cú sốc của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á khiến

9
nước ta lại nhanh chóng đi vào thời kỳ suy thoái 1998-1999. Cụ thể là do việc lơi lỏng
các ngân hàng thương mại cổ phần để một số doanh nghiệp biến chúng thành sân sau hay
bộ phận huy động vốn để đầu cơ. Hoặc một số doanh nghiệp câu kết với các ngân hàng
để dùng vốn vay ngắn hạn đầu cơ vào bất động sản.

Cuộc khủng hoảng thứ ba năm 1999 đã ảnh hưởng không nhỏ tới kinh tế Việt Nam.
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam bị sụt giảm: năm 1998 chỉ còn 5,76%, năm 1999 chỉ còn
4,77%. Tỷ lệ thất nghiệp 6,9%, tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn lên đến 28,9%. Vốn đầu
tư nước ngoài giảm liên tục chỉ còn 1.568 triệu USD năm 1999. Xuất khẩu năm 1999 chỉ
còn tăng 1,9%. Giá USD năm 1997 tăng tới 14,2%, năm 1998 tăng 9,6%.

2.1.2. Chu kỳ 2 (1999 - 2009)

Từ năm 2000 - 2008, việc tiếp tục kiên trì đường lối đổi mới với nhiều cải cách
mạnh mẽ, đặc biệt là sự ra đời Luật Doanh nghiệp đã giải phóng nguồn lực dồi dào trong
khu vực dân doanh. GDP liên tục tăng qua các năm và đạt 8,5% năm 2007, thất nghiệp
giảm xuống chỉ còn 4,2%. Tuy nhiên, để đạt được kết quả đó, trong giai đoạn 2003 -
2007 cung tiền cũng tăng cao trung bình 25%/năm, tín dụng nội địa tăng trên 35%/năm
và đạt mức cao nhất thế giới là 53% trong năm 2007.

Bên cạnh đó, khủng hoảng kinh tế – tài chính thế giới cũng là một cú sốc mạnh từ
bên ngoài đã cộng hưởng và nhanh chóng đưa nước ta vào pha suy thoái của chu kỳ.
Tăng trưởng GDP giảm xuống chỉ còn 6,18% năm 2008, thất nghiệp tăng lên 4,6%.

Theo đà suy giảm kinh tế những tháng cuối năm 2008, năm 2009 Việt Nam có Tổng
sản phẩm trong nước (GDP) cả năm tăng 5,2% thấp nhất trong vòng 10 năm (năm 2008
tăng 6,18%, năm 2007 tăng 8,46%, 2006 tăng 8,23%...). Kinh tế Việt Nam 2009 chịu tác
động chủ yếu thông qua 02 kênh: Xuất khẩu giảm cả về lượng lẫn giá do kinh tế thế giới
suy thoái; nhu cầu giảm sút và đầu tư nước ngoài sụt giảm.

Hình 7: Tăng trưởng GDP Việt Nam giai đoạn 1999 - 2009
Nguồn: Ngân hàng Thế giới

10
Khủng hoảng năm 2009 xảy ra cũng là kịch bản tương tự năm 1999, nhưng mức
độ trầm trọng hơn. Tình trạng sở hữu chéo đã hết sức trầm trọng và cũng là do dùng tiền
huy động để đầu cơ vào các tài sản (bất động sản, vàng và một số tài sản tài chính rủi ro
khác).

2.1.3. Chu kỳ 3 (2009 - 2019)

Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới vào năm 2008, nền kinh tế Việt Nam đã có
sự phục hồi nhanh chóng, thương mại đã bắt đầu thặng dư, GDP của nền kinh tế và thu
nhập bình quân đầu người tăng mạnh. Kinh tế tư nhân đóng góp vai trò quan trọng trong
phát triển kinh tế và Hoạt động xuất nhập khẩu đạt mức tăng trưởng cao và thặng dư. Từ
một quốc gia nghèo nhất trong khu vực, hiện nay Việt Nam trở thành quốc gia đang phát
triển với nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa khá ổn định.

Kể từ năm 2010 nền kinh tế Việt Nam tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá và đạt
tốc độ tăng trưởng bình quân 5,96%/năm trong giai đoạn 2010-2020. Và đặc biệt năm
2020 trước những khó khăn và thách thức chung của tình hình dịch bệnh covid nhưng
nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng dương và đạt 2,91%. Đây là
những kết quả đáng ghi nhận của nền kinh tế Việt Nam kể từ năm 2010 đến nay. Bên
cạnh kết quả tăng trưởng đạt được trong giai đoạn 2010- 2020 và đặc biệt là năm 2020,
nền kinh tế Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần phải giải quyết, nền kinh tế Việt
Nam vẫn còn phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp, xuất khẩu thô, du lịch và các nguồn đầu
tư vốn của nước ngoài.

Hình 8: Tốc độ tăng trưởng GDP thực của Việt Nam giai đoạn 2010-2020
Nguồn: Ngân hàng Thế giới

Cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế thì GDP thực bình quân đầu người của Việt Nam
cũng có sự gia tăng đáng ghi nhận.

11
Theo số liệu công bố của Ngân hàng Thế giới được trình bày ở (Bảng 3) thì GDP thực
bình quân đầu người của Việt Nam theo giá so sánh năm 2015 của năm 2010 đạt 1.648
USD/người/năm. Đến năm 2015, GDP thực bình quân đầu người của Việt Nam đạt 2.085
USD/người/năm và đến năm 2020 GDP thực bình quân đầu người của Việt Nam đạt
2.655 USD/người/năm.

So với năm 2010, GDP thực bình quân đầu người của Việt Nam năm 2020 tăng 1.007
USD/người/năm, tương ứng với mức tăng là 61,1%. So với năm 2015, GDP thực bình
quân đầu người của Việt Nam tăng 570 USD/người/năm, tương ứng với mức tăng
27,33%. Đặc biệt năm 2020, GDP thực bình quân đầu người của Việt Nam tăng 51
USD/người/năm so với năm 2019, tương ứng với mức tăng 1,95%. Đây là mức tăng
trưởng khá, trong khi nhiều quốc gia phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức của
tình hình dịch bệnh và GDP bình quân đầu người trong năm 2020 đều giảm so với năm
2019.

Hình 9: GDP thực của Việt Nam theo giá so sánh 2015 giai đoạn 2010 - 2019
Nguồn: Tổng cục Thống kê

Trong giai đoạn 2010-2020 nền kinh tế Việt Nam đạt và duy trì tốc độ tăng trưởng
khá với tổng GDP thực của toàn nền kinh tế tăng trưởng ổn định và GDP thực bình quân
đầu người duy trì mức tăng trưởng ổn định trong giai đoạn này.

Tuy nhiên, quy mô nền kinh tế Việt Nam cũng như GDP thực bình quân đầu người và
đặc biệt thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam vẫn còn khá thấp so với các quốc gia
trong khu vực và trên thế giới. Do đó, Việt Nam cần nhiều sự nỗ lực hơn nữa và khai
thác tốt những lợi thế vốn có nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế trong giai
đoạn tiếp theo.

12
2.2. Tác động của chu kỳ kinh tế đến hoạt động đầu tư

2.2.1. Tổng quan chung về chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa các giai đoạn

- Chu kỳ 1 (1989 - 1999):

Lạm phát phi mã lên tới 774,7% vào năm 1986 và kéo dài ở mức 3 rồi hai chữ số
cho đến 1990 - 1991. Chính phủ đưa ra đường lối đổi mới, cùng với sản xuất lương thực
đạt kết quả thần kỳ, dầu thô được khai thác… các biện pháp chống lạm phát được thực
hiện quyết liệt đưa lãi suất huy động lên đến 13%/tháng để hút tiền về.

Sau thời kỳ này, tăng trưởng kinh tế đã cao lên. Nếu thời kỳ 1986 - 1991 tăng
trưởng kinh tế đạt 4,67%/năm, thì từ 1992 đến 1997 đã tăng 8,77%/năm. Lạm phát giảm
mạnh, từ mức trên 67% năm 1990 - 1991, thì năm 1992 còn 17,5%, 1993 còn 5,2%. Tỷ
lệ thất nghiệp còn dưới 10%. Năm 1992 lần đầu tiên đã xuất siêu… Việt Nam chuyển
sang giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và mở cửa hội nhập.
Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ xảy ra năm 1997 - 1998 ở khu vực, Việt Nam do bắt
đầu mở cửa hội nhập, nên cũng bị tác động nhất định. Tăng trưởng kinh tế đang ở mức
9,54% năm 1995, đến 1998 chỉ tăng 5,76%, lạm phát năm 1998 lên mức 9,2%.

- Chu kỳ 2 (1999 - 2009):

Năm 2008, nền kinh tế Việt Nam chịu tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính
toàn cầu, nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng
trưởng bền vững, trong đó kiềm chế lạm phát là ưu tiên hàng đầu, chính sách tiền tệ đã
được điều hành theo xu hướng thắt chặt hơn thông qua các biện pháp:

(i) Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc

(ii) Phát hành 20.300 tỷ đồng trái phiếu cho các ngân hàng thương mại nhằm hút
bớt tiền trong lưu thông;

(iii) Khống chế tốc độ tăng trưởng tín dụng ở mức 30% năm.

Chính sách tiền tệ thắt chặt đã đưa mức lạm phát từ 19,89% năm 2008 xuống còn
6,52% năm 2009, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, việc thắt chặt chính sách
tiền tệ cũng khiến tổng cầu suy giảm, dẫn đến tăng trưởng kinh tế năm 2008 chỉ đạt
5,66%. Giai đoạn tháng 10/2008 - 10/2010, Vì thế Chính phủ bắt đầu nới lỏng chính sách
tiền tệ chính sách tiền tệ mở rộng nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế.

Trong giai đoạn từ 1999 đến 2009, chính sách tài khóa có xu hướng mở rộng trong
khi chính sách tiền tệ được thắt chặt. Chính sách tài khóa mở rộng khi chính phủ Việt
Nam trong giai đoạn này đã tăng cường đầu tư công và phát triển các lĩnh vực quan trọng
như giáo dục, y tế, hạ tầng và phát triển nông nghiệp. Điều này được thực hiện thông qua

13
việc tăng ngân sách, tăng cường đầu tư công và cải thiện các dịch vụ công cộng để nâng
cao chất lượng cuộc sống của người dân; chính sách tiền tệ thắt chặt: Đồng thời, chính
sách tiền tệ trong giai đoạn này tập trung vào việc thắt chặt kiểm soát lạm phát và ổn định
tài chính qua việc tiến hành định giá đồng tiền và tạo sự ổn định cho nền kinh tế.

- Chu kỳ 3 (giai đoạn sau năm 2009):

Giai đoạn tháng 3/2012 - 6/2016, Chính phủ từng bước nới lỏng chính sách tiền tệ
nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh lạm phát được kiểm soát. Theo đó, lãi
suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu đã được Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh giảm 9
lần (từ tháng 3/2012 đến tháng 3/2014), đồng thời giảm trần lãi suất huy động tiền gửi
ngắn hạn 7 lần, từ 14%/năm xuống 7%/ năm. Theo đó, lãi suất cho vay cũng được điều
chỉnh giảm đã phần nào giúp các doanh nghiệp giảm được chi phí vay vốn.

2.2.2. Ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế đến hoạt động đầu tư tại Việt Nam

2.2.2.1. Sự biến đổi của hoạt động đầu tư theo giai đoạn của chu kỳ kinh tế

Hình 10: GDP thực Mỹ giai đoạn 2000-2022


Nguồn: Cục phân tích Kinh tế Hoa Kỳ

Hình 11: Tổng đầu tư tư nhân ở Mỹ giai đoạn 2000-2022


Nguồn: Cục phân tích Kinh tế Hoa Kỳ

14
Có thể thấy, tại Mỹ, trong các giai đoạn của nền kinh tế, tổng mức đầu tư khu vực
tư nhân có xu hướng biến động khá tương tự với GDP thực.

Hình 12: Mối quan hệ tương quan giữa GDP thực và tổng đầu tư tư nhân tại Mỹ
Nguồn: Cục phân tích Kinh tế Hoa Kỳ

Như vậy, giữa GDP thực và tổng đầu tư tư nhân có mối quan hệ tương quan dương,
hay có nghĩa là biến động cùng chiều. Cụ thể, trong giai đoạn suy thoái, GDP thực sụt
giảm kéo theo sự biến động tiêu cực trong đầu tư tư nhân; tương tự trong giai đoạn phục
hồi và hưng thịnh, GDP thực và tổng đầu tư tư nhân cũng đồng thời có xu hướng tăng trở
lại.

Ở Việt Nam, sự biến động tương quan giữa GDP thực và mức đầu tư cũng tương
tự.

Hình 13: GDP thực Việt Nam giai đoạn 2008 - 2019
Nguồn: Tổng cục Thống kê

15
Hình 14: Đầu tư tư nhân Việt Nam trên GDP giai đoạn 2010-2022
Nguồn: Tổng cục Thống kê

Hình 15: Tổng GDP và tổng đầu tư Việt Nam 2011 - 2019
Nguồn: Tổng cục Thống kê

Bên cạnh đó, các cuộc khủng hoảng 30 năm trở lại đây đều là kết quả của việc quá
tin tưởng và kỳ vọng đầu cơ quá nhiều vào thị trường tài sản.

Thị trường tài sản phản ánh kỳ vọng tương lai của doanh nghiệp và nền kinh tế. Khi
nền kinh tế được kỳ vọng sẽ hoặc đang phát triển, tâm lý của nhà đầu tư lạc quan, họ sẽ
có xu hướng đổ tiền nhiều hơn vào tài sản. Ngược lại, khi nền kinh tế được dự đoán chuẩn
bị đi xuống hoặc đã vào giai đoạn suy thoái, các doanh nghiệp hoạt động khó khăn, thì
nhà đầu tư cũng sẽ lựa chọn các hình thức an toàn hơn.

2.2.2.2. Ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế đến quyết định đầu tư ở Việt Nam

* Ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế đối với doanh nghiệp:

16
Ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu dùng: trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế, khi nhu cầu
tiêu dùng tăng cao, các doanh nghiệp có xu hướng đầu tư để mở rộng sản xuất và cung
cấp đủ hàng hóa và dịch vụ cho thị trường. Tuy nhiên, trong giai đoạn suy thoái kinh tế,
nhu cầu tiêu dùng giảm, doanh nghiệp có thể giảm quy mô sản xuất hoặc tạm dừng các
kế hoạch đầu tư mới.

Ảnh hưởng đến tình hình tài chính: chu kỳ kinh tế có thể gây ảnh hưởng đến tình
hình tài chính của doanh nghiệp. Trong giai đoạn suy thoái, doanh nghiệp thường gặp
khó khăn trong việc tiếp cận vốn vay và đầu tư mới. Ngược lại, trong giai đoạn phục hồi,
doanh nghiệp có thể dễ dàng huy động vốn và có động lực đầu tư mới.

Ảnh hưởng rủi ro và lợi nhuận: chu kỳ kinh tế cũng có thể tác động đến mức độ rủi
ro và lợi nhuận của các quyết định đầu tư. Trong giai đoạn tăng trưởng, doanh nghiệp
thường có cơ hội tăng lợi nhuận và thúc đẩy sự phát triển. Tuy nhiên, trong giai đoạn suy
thoái, rủi ro tăng lên và lợi nhuận có thể bị ảnh hưởng.

Ảnh hưởng đến tâm lý và sự tin tưởng: tâm lý và sự tin tưởng của các nhà đầu tư và
doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong quyết định đầu tư. Trong giai đoạn suy thoái,
sự không chắc chắn và lo ngại về tương lai kinh tế có thể làm giảm sự tin tưởng của các
doanh nghiệp và làm giảm động lực đầu tư. Ngược lại, trong giai đoạn phục hồi, sự tin
tưởng tăng lên và doanh nghiệp có thể tự tin hơn.

Một số ví dụ qua các chu kỳ

- Chu kỳ 1 (1989 - 1999): Giai đoạn này tỷ lệ lạm phát tương đối cao, tăng
trưởng không quá cao

Chính sách đổi mới nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế và tiến bộ công nghệ thông
qua cải cách và mở cửa thị trường. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát khá cao do có khủng hoảng
tài chính khu vực, tăng chi tiêu chính sách dẫn đến tăng cung tiền, tăng trưởng tín dụng
nhanh chưa kiểm soát. Về tăng trưởng kinh tế và cơ cấu kinh tế thì Việt Nam đã chuyển
từ một nền kinh tế tập trung vào nông nghiệp sang một nền kinh tế có sự đa dạng hóa
ngành nghề. Trong giai đoạn này, các ngành công nghiệp như công nghiệp chế biến, xây
dựng và dịch vụ đã phát triển mạnh mẽ.

Một ví dụ về một doanh nghiệp ở Việt Nam ra quyết định đầu tư trong giai đoạn
trước năm 1999 đến năm 1999 là Tập đoàn FPT (FPT Corporation).

Vào năm 1999, FPT đã đưa ra quyết định đầu tư vào viễn thông và thành lập FPT
Telecom - một đơn vị hoạt động trong lĩnh vực viễn thông.

Năm 1997 là thời điểm xảy ra khủng hoảng tài chính châu Á, bao gồm cả khu vực
Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Trong giai đoạn này, nền kinh tế của Việt Nam và
nhiều nước trong khu vực gặp nhiều khó khăn, và năm 1999 vẫn là một giai đoạn khá

17
khó khăn sau khủng hoảng. Việc FPT ra quyết định đầu tư vào lĩnh vực viễn thông vào
năm 1999 có thể liên quan đến mục tiêu tận dụng cơ hội tăng trưởng sau giai đoạn khủng
hoảng tài chính bởi vì đây có thể là pha phục hồi. Quyết định này đã giúp FPT mở rộng
hoạt động kinh doanh, tăng trưởng doanh thu và tạo ra một lợi thế cạnh tranh trong ngành
công nghệ thông tin và viễn thông tại Việt Nam.

Tuy nhiên, cũng có doanh nghiệp khôn khéo “né tránh” việc ra quyết định đầu tư
vào năm 1997 do đoán trước ảnh hưởng của những năm cuối một chu kỳ kinh tế. Đó có
thể là Tập đoàn xăng dầu quốc gia Việt Nam (Vietnam National Oil and Gas Group) -
còn được biết đến với tên gọi PetroVietnam. Trước và sau khủng hoảng tài chính châu Á
năm 1997, PetroVietnam đã tập trung vào hoạt động khai thác dầu mỏ và khí tự nhiên.
PetroVietnam đã quyết định không tiến hành một dự án mới hoặc mở rộng hoạt động đầu
tư vào năm 1997. Thay vào đó, công ty có thể tập trung vào việc tối ưu hóa hoạt động
hiện có, củng cố tài chính và đảm bảo ổn định trong bối cảnh khó khăn của thị trường tài
chính và kinh tế.

- Chu kỳ 2 (1999 - 2009): Lạm phát ở mức cao, tăng trưởng nóng và tăng
trưởng tín dụng

Giai đoạn tỷ lệ lạm phát cao nhất là khoảng năm 2005 đến 2008, một số chính sách
tiền tệ chủ yếu như tăng lãi suất để kiểm soát lạm phát và tăng cung tiền tệ thông qua
tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc.

Một ví dụ cụ thể về quyết định đầu tư lớn trong giai đoạn từ trước năm 2009 đến
năm 2009 mà cụ thể là vào chính năm 2009 là quyết định của Tập đoàn Vingroup - một
trong những tập đoàn kinh doanh đa ngành hàng đầu tại Việt Nam. Quyết định đầu tư lớn
vào lĩnh vực bất động sản của Vingroup trong giai đoạn này có thể được giải thích bằng
một số yếu tố:

Tăng trưởng kinh tế: trong giai đoạn này, Việt Nam đã trải qua một thời kỳ tăng
trưởng kinh tế đáng kể, đặc biệt là trong lĩnh vực bất động sản. Sự tăng trưởng này tạo ra
nhiều cơ hội đầu tư và thu hút sự quan tâm của các doanh nghiệp như Vingroup.

Tăng nhu cầu nhà ở: Trong giai đoạn này, với sự tăng trưởng dân số và tăng thu
nhập của người dân, nhu cầu về nhà ở cao cấp và trung cấp tăng lên. Vingroup nhận thấy
tiềm năng và nhu cầu này và quyết định tập trung vào phân khúc nhà ở cao cấp, nhằm
đáp ứng nhu cầu của thị trường.

Đáy chu kỳ sau đó đến pha phục hồi có thể là tín hiệu để Vingroup đẩy mạnh đầu
tư, sau khủng hoảng năm 2007 - 2008 thì chính phủ Việt Nam tung ra một loạt các gói
“kích cầu” nhưng phải 2 năm sau thì nền kinh tế mới được hưởng lợi, việc kích cầu này
thông qua việc giảm lãi suất để khuyến khích vay vốn và đầu tư. Ngoài ra, đối với chính
sách thuế, chính phủ đã áp dụng các chính sách thuế ưu đãi và khuyến khích đầu tư. Điều

18
này bao gồm giảm thuế, miễn thuế hoặc tạo ra các chính sách khác nhằm thu hút vốn đầu
tư và thúc đẩy các ngành công nghiệp chiến lược.

Tuy nhiên, 2007 - 2008 vẫn là hai năm đại khủng hoảng tài chính toàn cầu và nó
cũng gây ra ảnh hưởng tiêu cực ở Việt Nam, cụ thể là việc đầu tư vào cổ phiếu của các
công ty xây dựng:

Một số nhà đầu tư đã quyết định mua cổ phiếu của một công ty xây dựng lớn với
kỳ vọng rằng giá cổ phiếu sẽ tiếp tục tăng và mang lại lợi nhuận. Tuy nhiên, khi cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu bùng phát, thị trường chứng khoán ở Việt Nam cũng chịu
ảnh hưởng nghiêm trọng. Giá trị cổ phiếu của nhiều công ty trong ngành xây dựng giảm
sút, thị trường chứng khoán chao đảo và đầy biến động. Những nhà đầu tư liên quan đến
cổ phiếu công ty xây dựng đã chứng kiến sự mất giá đáng kể của tài sản đầu tư của họ.
Đây cũng có thể là quyết định đầu tư không mấy đúng đắn vì thông thường những năm
cuối của một chu kỳ kinh tế là “trough” - đáy chu kỳ. Một số người có thể xem năm
2007 và 2008 là giai đoạn đỉnh suy thoái, trong khi người khác có thể coi chúng là
“trough”.

- Chu kỳ 3 (2009 - 2019): kiểm soát lạm phát tương đối tốt và chính sách tiền
tệ ổn định

Quyết định đầu tư vào công nghiệp: Trong thời kỳ này, nhiều khu công nghiệp và
khu liên hợp công nghệ đã được xây dựng để thu hút các doanh nghiệp đầu tư và tạo việc
làm.

Quyết định đầu tư vào năng lượng tái tạo: Trong nỗ lực chuyển đổi sang năng lượng
sạch và bảo vệ môi trường, Việt Nam đã đầu tư vào các dự án năng lượng tái tạo như
điện gió, điện mặt trời và điện sinh khối.

Một ví dụ về doanh nghiệp Việt Nam có quyết định đầu tư vào giai đoạn trước năm
2019 đến năm 2019 là Công ty CP Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco).

Sabeco là một doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh bia,
rượu và nước giải khát tại Việt Nam. Trong giai đoạn này, Sabeco đã đưa ra quyết định
đầu tư để mở rộng hoạt động kinh doanh và nâng cao năng lực sản xuất. Cụ thể là việc
doanh nghiệp này muốn vươn mình đạt chuẩn quốc tế thông qua thương vụ M&A gây
chấn động năm 2017 với ThaiBev của Thái Lan, xác lập kỷ lục M&A mới với 5 tỷ USD.

2017 là một năm kinh tế đan xen cơ hội và thách thức, thuận lợi và khó khăn có thể
kể đến như kinh tế Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức: vấn đề nợ xấu của hệ
thống ngân hàng, nợ công tăng cao hay sức ép lạm phát quay trở lại cùng với sự phục hồi
của giá dầu. Đây có thể là việc nền kinh tế vận hành theo chu kỳ và đây là năm nằm trong
pha suy thoái dẫn đến nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh.

19
* Ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế đến lĩnh vực đầu tư công và đầu tư nước ngoài

Đối với lĩnh vực đầu tư công

- Giai đoạn suy thoái: Trong giai đoạn này, chính phủ thường tăng cường đầu tư
công để thúc đẩy nền kinh tế và tạo việc làm từ đó giúp khôi phục và tăng trưởng kinh
tế.

Trong giai đoạn suy thoái năm 2008, chính phủ Việt Nam đã tăng đầu tư công để
kích thích hoạt động kinh tế và giảm tác động của suy thoái. Vào năm 2009, tỷ lệ tăng
trưởng GDP của Việt Nam giảm xuống còn 5,32% so với mức 8,48% năm trước đó, chính
phủ đã thực hiện gói kích thích kinh tế với tổng giá trị ước tính khoảng 17.200 tỷ đồng,
tương đương 5,95% GDP. Các khoản đầu tư công trong gói kích thích kinh tế này đã tập
trung vào các dự án hạ tầng cơ bản như xây dựng đường, cầu, cải thiện hệ thống giao
thông và các công trình công cộng. Nhờ các biện pháp kích thích kinh tế và tăng đầu tư
công mà Việt Nam đã vượt qua được giai đoạn suy thoái.

- Giai đoạn phục hồi: Trong giai đoạn này, chính phủ và các nhà chính sách kinh tế
vẫn duy trì các quyết định tăng cường đầu tư công để thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế.

Nhờ những nỗ lực của chính phủ, năm 2010 GDP của Việt Nam đã tăng 6,78% so
với năm trước đó lên 1.057 tỷ USD và trong năm 2011, GDP của Việt Nam tiếp tục tăng
5,89%, đạt tổng cộng 1.220 tỷ USD.

- Giai đoạn hưng thịnh: Trong giai đoạn này, nền kinh tế đạt mức tăng trưởng cao,
sản xuất và doanh số tiêu thụ tăng, chính phủ vẫn duy trì đầu tư công nhằm thúc đẩy tăng
trưởng và cải thiện hạ tầng, tuy nhiên chính phủ cũng có những biện pháp điều chỉnh về
quyết định đầu tư công để kiềm chế lạm phát và giảm thiểu rủi ro.

Đối với lĩnh vực đầu tư nước ngoài

- Giai đoạn suy thoái: Trong giai đoạn này, nền kinh tế gặp khó khăn và các yếu tố
kinh doanh không thuận lợi, từ đó làm giảm đáng kể động lực và niềm tin của các nhà
đầu tư nước ngoài.

Do đó các doanh nghiệp nước ngoài thường có xu hướng cẩn trọng hơn trong việc
đầu tư và mở rộng hoạt động kinh doanh ở giai đoạn này.

Một số doanh nghiệp nước ngoài có thể đối mặt với khó khăn về tài chính và rủi ro
trong duy trì hoạt động kinh doanh. Sự không chắc chắn và bất ổn trong môi trường kinh
doanh có thể khiến các nhà đầu tư nước ngoài lưỡng lự hoặc rút lui khỏi thị trường.

Vào năm 2009, lượng vốn FDI đổ vào Việt Nam giảm mạnh so với năm trước. Theo
Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tổng giá trị vốn FDI mới đăng ký trong năm 2009
chỉ đạt khoảng 21,5 tỷ USD, giảm 70% so với năm 2008 (khi đạt khoảng 71,72 tỷ USD).

20
Đây là một mức giảm đáng kể và cho thấy tác động tiêu cực của suy thoái kinh tế đến
quyết định đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

- Giai đoạn phục hồi: Giai đoạn này thường đem lại những tác động tích cực đối
với lĩnh vực đầu tư nước ngoài

Trong giai đoạn phục hồi, môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện và có triển
vọng kinh tế tốt hơn, kèm theo đó là sự ổn định chính trị và pháp lý từ đó tạo niềm tin và
động lực cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư tại Việt Nam.

Chính phủ thường áp dụng các biện pháp kích thích kinh tế và chính sách hỗ trợ
nhằm thu hút đầu tư nước ngoài như chính sách ưu đãi thuế, cung cấp đất và hạ tầng,
quyền sở hữu đất lâu dài, giảm thủ tục hành chính và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh
nghiệp nước ngoài.

Giai đoạn phục hồi thường đi đôi với sự tăng trưởng kinh tế và tăng cường sức mua
của người dân từ đó tạo ra một thị trường tiêu thụ lớn và tiềm năng cho các doanh nghiệp
nước ngoài.

Theo Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tổng giá trị vốn FDI mới đăng ký trong
năm 2010 đạt khoảng 18,1 tỷ USD, tăng 27% so với năm trước. Đây là một tín hiệu tích
cực cho thấy sự hồi phục và sự tin tưởng của các nhà đầu tư nước ngoài đối với thị trường
Việt Nam sau suy thoái kinh tế.

- Giai đoạn hưng thịnh: Giai đoạn này có tác động tích cực đến đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam

Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao cùng với môi trường kinh doanh ổn định giúp Việt
Nam trở thành một điểm đến hấp dẫn với nhà đầu tư nước ngoài.

Sự phát triển mạnh mẽ của thị trường tiêu thụ và các ngành công nghiệp đã tạo ra
cơ hội mở rộng quy mô và phạm vi đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài. Các doanh
nghiệp nước ngoài có thể quyết định mở rộng nhà máy sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng,
mở chi nhánh hoặc đầu tư vào các ngành công nghiệp tiềm năng tại Việt Nam.

Trong giai đoạn hưng thịnh kinh tế từ năm 2016 đến năm 2019, Việt Nam đã thu
hút một lượng lớn vốn FDI và các dự án đầu tư nước ngoài. Theo Báo cáo của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, vào năm 2019, tổng giá trị vốn FDI mới đăng ký đạt mức 38 tỷ USD,
tăng 7,2% so với năm trước đó. Bên cạnh đó, ngành công nghiệp chế biến và sản xuất đã
thu hút ưu đãi đầu tư lớn, với tổng số dự án mới đăng ký đạt 1.383 dự án và vốn đầu tư
đạt 13,8 tỷ USD. Ngành công nghệ thông tin và truyền thông cũng đã thu hút sự quan
tâm của các doanh nghiệp nước ngoài, với tổng số dự án mới đăng ký đạt 1.014 dự án và
vốn đầu tư đạt 5,47 tỷ USD.

21
Chương 3. Giải pháp giúp Việt Nam vượt qua khủng hoảng chu kỳ và bài
học của nhóm tác giả

3.1. Giải pháp vượt qua khủng hoảng chu kỳ tại Việt Nam

3.1.1. Chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa

Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, khủng hoảng nợ công châu Âu năm
2009 cho đến đại dịch COVID-19 và mới đây là diễn biến căng thẳng từ cuộc xung đột
tại Ukraine đã làm chậm lại xu thế tăng trưởng của kinh tế toàn cầu so với giai đoạn
trước, trong đó có những đối tác kinh tế quan trọng của Việt Nam.

Cùng với tăng trưởng chậm lại, hoạt động thương mại toàn cầu vài năm gần đây
cũng đã chững lại đáng kể, trong khi chủ nghĩa bảo hộ có xu hướng gia tăng. Toàn cầu
hóa tuy vẫn là xu hướng chủ đạo nhưng sự thay đổi của khoa học, công nghệ và tương
quan lực lượng giữa các cường quốc đã tác động mạnh mẽ đến xu hướng hội nhập kinh
tế quốc tế theo hướng tăng cường các liên kết kinh tế song phương.

Để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ phải có 2 yếu tố cơ bản. Thứ nhất, quốc
gia phải độc lập, tự chủ trong việc xây dựng đường lối, chính sách về phát triển kinh tế-
xã hội. Thứ hai, để một nền kinh tế có tính độc lập, tự chủ thì cần phải đảm bảo có nội
lực đủ mạnh về năng lực sản xuất của nền kinh tế; có cơ cấu kinh tế hợp lý cũng như đảm
bảo về việc duy trì khu vực tài chính lành mạnh, hiệu quả, có khả năng chống chịu các
cú sốc từ bên ngoài, bao gồm cả khu vực tài chính công.

Linh hoạt các công cụ của chính sách tài khóa – tiền tệ để ổn định vĩ mô cho nền
kinh tế cần tập trung vào những vấn đề sau.

Một là, tiếp tục điều hành chính sách tài khóa chủ động, phối hợp chặt chẽ, hiệu
quả với chính sách tiền tệ và các chính sách khác nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát
lạm phát theo mục tiêu đề ra, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế.

Hai là, cần tiếp tục lựa chọn vừa thúc đẩy phục hồi, vừa ổn định kinh tế vĩ mô dựa
trên chính sách tài khóa linh hoạt. Tình hình kinh tế thế giới năm 2023 được dự báo sẽ
tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường. Việt Nam có thể lựa chọn chính sách
tài khóa làm vai trò trụ cột để thực hiện “mục tiêu kép”- vừa thúc đẩy phục hồi, vừa ổn
định kinh tế vĩ mô. Đây là lựa chọn hợp lý do chính sách tài khóa thường ít gây áp lực
cho lạm phát hơn và có dư địa lớn hơn so với chính sách tiền tệ.

Ba là, cần tiếp tục giữ vững nguyên tắc điều hành chính sách tài khóa chủ động,
linh hoạt trong ứng biến về ngắn hạn nhưng phải tuân thủ các nguyên tắc cân đối ngân
sách và kỷ luật tài chính về dài hạn.

22
Bốn là, thực hiện chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm, tập
trung tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân. Bên cạnh mục tiêu thúc đẩy phục
hồi kinh tế, chính sách tài khóa cần hướng đến mục tiêu bình đẳng, vực dậy niềm tin của
doanh nghiệp và người dân. Tính chất linh hoạt của chính sách tài khóa cho phép “bơm”
tiền trực tiếp đến người dân và doanh nghiệp.

Năm là, bên cạnh ngân sách Nhà nước, cần đẩy mạnh huy động nguồn vốn tư nhân
để đầu tư cho cơ sở hạ tầng; đẩy mạnh hơn nữa việc công khai, minh bạch và tăng cường
trách nhiệm giải trình nhằm phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn lực cho phát triển; giảm
mặt bằng lãi suất, là nền tảng cho tăng trưởng kinh tế, ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát,
ổn định tỷ giá.

Sáu là, cần tập trung chủ động theo dõi sát tình hình thế giới, khu vực và trong
nước, đặc biệt là diễn biến lạm phát, giá cả để kịp thời ứng phó linh hoạt với các biến
động vĩ mô nhằm bảo đảm mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát. Đồng
thời đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, tạo động lực cho phục hồi và thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế.

Bảy là, phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ một cách
hợp lý, hiệu quả nhất. Sang năm 2023, cần tiếp tục thực hiện chính sách gia hạn, hoãn
thời gian nộp thuế, đồng thời giảm tiền thuê đất,… để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp
và hộ gia đình.

Là một nền kinh tế có độ mở lớn, Việt Nam không thể tránh khỏi ảnh hưởng mạnh
từ những biến động bên ngoài cộng với những áp lực từ bên trong. Do đó, việc triển khai
thực hiện có hiệu quả các giải pháp chính sách tài khóa, tiền tệ, hỗ trợ tháo gỡ khó khăn
cho doanh nghiệp và người dân sẽ góp phần quyết định vào việc thực hiện mục tiêu ổn
định, duy trì đà phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

3.1.2. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý kinh tế

Nhà nước là cơ quan đầu não, định hướng và điều tiết hoạt động của toàn bộ nền
kinh tế. Chính vì vậy để duy trì được một nền kinh tế “khỏe mạnh” ứng phó với mọi cuộc
khủng hoảng, biến động kinh tế thế giới, các cơ quan trong bộ máy nhà nước nói chung
và cơ quan hành chính nhà nước nói riêng phải đề cao tinh thần đoàn kết, hỗ trợ, phối
hợp lẫn nhau.

Các doanh nghiệp, các lĩnh vực, ngành nghề trong nền kinh tế được ví như các mắt
xích nhỏ và các cơ quan quản lý kinh tế chính các mắc nối quan trọng, chất xúc tác thúc
đẩy sự phát triển của từng mắt xích đó. Khi các cơ quan quản lý này hoạt động một cách
nhịp nhàng, phối hợp chặt chẽ thì sẽ tạo ra một vòng tròn kinh tế bền vững, khó bị đứt
gãy trước các tác động bên ngoài và giảm được tác động to lớn trong giai đoạn chu kỳ
kinh tế suy thoái, khủng hoảng kinh tế toàn cầu.

23
3.1.3 Phát triển các ngành kinh tế chịu biến đổi tốt và đa dạng hóa kinh tế

Trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế toàn cầu nói chung và giai đoạn suy thoái
trong chu kỳ kinh tế của Việt Nam nói riêng, đa số các ngành đều phải đối mặt với các
ảnh hưởng tiêu cực, không có lợi.

Song, bên cạnh đó, vẫn tồn tại một số nhóm ngành được đánh giá là có triển vọng
phát triển. Bốn nhóm ngành chính bao gồm: Chăm sóc sức khoẻ, Chính quyền, Máy tính
- Công nghệ thông tin, Giáo dục. Để đảm bảo được sự phát triển bền vững cũng như tăng
trưởng ổn định, Việt Nam cần đẩy mạnh đầu tư theo chiều sâu đồng thời mở rộng quy
mô theo chiều rộng một cách hợp lý để mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội tốt nhất.

Đa dạng hóa nền kinh tế sẽ giúp đa dạng hóa nguồn thu, hạn chế được sự rủi ro khi
kinh tế thế giới gặp suy thoái hoặc có biến động lớn. Bởi một nền kinh tế đa dạng hoá
cao sẽ có được sự tự chủ về nhiều mặt, hạn chế được sự phụ thuộc vào các nền kinh tế
khác trong khu vực và trên thế giới. Song việc đa dạng hoá cũng cần phải đi đôi với hội
nhập kinh tế thế giới với mục đích vừa đón đầu các xu thế mới, đưa ra các chính sách
phù hợp với bối cảnh kinh tế thế giới.

3.2. Bài học của nhóm tác giả

Thật khó để nhóm sinh viên như chúng em né tránh những tác động tiêu cực từ
khủng hoảng chu kỳ kinh tế khi nó xảy ra; dẫu vậy nhóm sinh viên chúng em có thể rút
ra một vài kinh nghiệm,sự đúc rút qua việc tìm hiểu về chu kỳ kinh tế ở Việt Nam cũng
như ảnh hưởng của nó đến hoạt động đầu tư của nước nhà. Cụ thể là:

Thứ nhất, học tập và nghiên cứu tốt kiến thức kinh tế nói chung và môn “Kinh tế
học cho người ra quyết định đầu tư” nói riêng. Việc nắm rõ các kiến thức kinh tế, quy
luật cung - cầu, vận dụng được các lý thuyết, học thuyết làm hành trang để có thể vững
tâm hơn khi đối diện với các tình huống khó lường xảy ra và tình hình kinh tế đầy biến
động. Khi có kiến thức nền tảng thì tâm ký sẽ không quá bị dao động và hoang mang từ
đó thì có thể có những quyết định đầu tư đúng đắn.

Thứ hai, phải nhìn nhận rằng chu kỳ kinh tế là điều tự nhiên và không thể tránh khỏi
và nắm bắt những dấu hiệu của một chu kỳ kinh tế. Một số nhà đầu tư coi đó là thách
thức khi những năm cuối của chu kỳ kinh tế đến nhưng nó cũng có thể biến thành cơ hội
với những ai nhìn ra được cơ hội đó. Nhóm tác giả không đánh giá chu kỳ kinh tế quá bi
quan hay là một cái “dớp” không thể vượt qua mà chúng ta càng phải thích ứng nhanh
chóng với bối cảnh kinh tế và các chính sách kinh tế của Nhà nước Việt Nam và toàn thế
giới.

Thứ ba, hiểu được và vận dụng được chính sách tiền tệ cũng như chính sách tài
khóa cũng như tác động của nó đến thị trường và hoạt động đầu tư. Lý giải được cách

24
nền kinh tế và các chính sách này vận hành thì đưa ra quyết định đầu tư chính xác, đúng
đắn. Đồng thời, chúng ta cũng nên nhìn vào những thành tựu, hạn chế từ những chu kỳ
kinh tế trước đó để khắc phục điểm yếu, phát huy điểm mạnh và chuẩn bị cho những hoạt
động đầu tư mới ở hiện tại và tương lai.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. PGS.TS Phạm Thị Thanh Bình (2022) “Đầu tư công Việt Nam năm 2022 và gợi
ý một số giải pháp cho thời gian tới”
2. GS.TSKH Nguyễn Mại (2016) “Làn sóng đầu tư trực tiếp nước ngoài thứ ba”
3. Tổng cục Thống kê, 21/5/2002, TÌNH HÌNH KINH TẾ – XÃ HỘI 10 NĂM
1991-2000
4. Cổng giao tiếp điện tử UBND Thành phố Hà Nội, 12/3/2010, “Một số vấn đề
chủ yếu của kinh tế Việt Nam năm 2009”
5. Nguyễn Đình Long - Nguyễn Hoài Nam“Tác động của chính sách tài khóa đối
với sự phát triển kinh tế Việt Nam”
6. Bộ Tài Chính, 06/09/2016, “Chính sách tiền tệ nhằm kích thích tăng trưởng kinh
tế hậu khủng hoảng tài chính năm 2008”
7. ThS Phan Ngọc Yến Xuân, Ths Lê Trường Giang (tháng 4, 2023) “Ảnh hưởng
của chu kỳ kinh tế đến Việt Nam”

25

You might also like