You are on page 1of 3

Loài này sinh sống ở đông bắc Ấn Độ, Bhutan, Nepal và Bangladesh, khắp Đông Nam Á, bao

gồm Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia, và phía tây New Guinea. Môi trường sống bản
địa của nó là rừng nhiệt đới, nơi nó sống trên cây và vách đá, và nó cũng thường thích nghi với
môi trường sống của con người ở nông thôn, đi khắp trên tường và trần nhà vào ban đêm tìm
kiếm côn trùng để ăn. Đây là loài du nhập ở một số khu vực ngoài phạm vi bản địa của nó. Nó
được thành lập ở Florida của Hoa Kỳ, Martinique, các đảo Belize và có thể là Hawaii.[2] Đô thị
hóa ngày càng tăng đang làm giảm phạm vi của nó.
Hiện vẫn chưa rõ liệu loài này có phải là loài bản địa nhưng rất không phổ biến ở Đài Loan hay
không, hay liệu các báo cáo hiếm hoi về các cá thể kể từ những năm 1920 có dựa trên sự
chuyển đổi gen do con người lặp đi lặp lại có thể dẫn đến các quần thể đã được thiết lập hay
không.[3]

Đặc điểm thể chất và hành vi[sửa | sửa mã nguồn]

Con đực trưởng thành và con non. Lưu ý phần đuôi màu

nâu, tái sinh trên con trưởng thành (trên cùng) Một con tắc
kè tokay cái. Nó được phân biệt bởi màu sắc xỉn hơn so với con đực.
Tắc kè tokay là một loài tắc kè lớn, đạt tổng chiều dài (bao gồm cả đuôi) lên đến 30 cm. Nó có
hình trụ nhưng hơi dẹt về hình dạng cơ thể. Đôi mắt có con ngươi thẳng đứng. Da mềm khi
chạm vào và nhìn chung có màu xám với những đốm đỏ, nhưng con vật có thể thay đổi màu da
để hòa vào môi trường. Loài này là loài dị hình giới tính, con đực có màu sặc sỡ hơn và kích
thước lớn hơn một chút.[4]
Tắc kè tokay nói chung là hung hăng, có tính bảo vệ lãnh thổ và có cái cắn mạnh. Tắc kè tokay
ăn côn trùng, trái cây, thảm thực vật và động vật có xương sống nhỏ.[4][5] Nó là một tay leo trèo
khỏe với các miếng đệm chân có thể nâng đỡ toàn bộ trọng lượng của cơ thể trên bề mặt thẳng
đứng trong thời gian dài. So với các loài tắc kè khác, tắc kè tokay có cơ thể khỏe mạnh, với đuôi
bán sơ sinh, đầu lớn và bộ hàm vạm vỡ. Mặc dù phổ biến trong buôn bán thú cưng, độ mạnh
của cái cắn của tắc kè tokay khiến nó không phù hợp với những người nuôi thiếu kinh nghiệm.
Ngoài ra, độ mạnh của cái cắn tùy thuộc vào kích thước của tắc kè; những con tắc kè tokay lớn
hơn (thường là đực) có khả năng cắn thủng da, thường dẫn đến chảy máu ngay lập tức.
Tiếng kêu[sửa | sửa mã nguồn]
Tiếng gọi bạn tình của tắc
kè tokay

Duration: 30 seconds.0:30

Tiếng gọi bạn tình của tắc


kè tokay đực

Trục trặc khi nghe tập tin âm thanh này?

Xem hướng dẫn.

Tiếng gọi bạn tình của con đực, một tiếng kêu lớn, được mô tả theo nhiều cách khác nhau như
nghe giống như tắc-kè mà từ đó có cả tên chung và tên khoa học (bắt nguồn từ các tên tượng
thanh trong tiếng Mã Lai, Sundan, Tagalog, Thái, hay tiếng Java), cũng như tên
họ Gekkonidae và thuật ngữ chung là tắc kè. Hầu hết thời gian, tiếng kêu thường đi trước một
tiếng "cạch cạch" nhanh, tương tự như tiếng kêu của tắc kè nhà mặc dù âm vực thấp hơn nhiều.
Khi bị đe dọa hoặc báo động, tắc kè tokay thường "sủa" trong khi há miệng ở tư thế phòng thủ.
Cách gọi của tắc kè tokay cũng là nguyên nhân cho một cái tên lóng được lính Mỹ đặt cho nó
trong cuộc Chiến tranh Việt Nam: thằn lằn khốn kiếp.[6][7]

Sinh sản[sửa | sửa mã nguồn]


Tắc kè tokay là loài đẻ trứng. Con cái đẻ một hoặc hai quả trứng và bảo vệ chúng cho đến khi
chúng nở. Trứng của chúng có đường kính từ 5 cm đến 8 cm, trứng mới đẻ ra có vỏ mềm dính
được trên bề mặt phẳng, sau 30 phút tới 1 giờ vỏ trứng sẽ cứng dần, trứng sẽ giữ nguyên trạng
thái như vậy từ 2 đến 3 tháng hoặc hơn rồi nở thành con. Con con có chiều dài cơ thể từ 4 cm
đến 10 cm, ăn các loài sâu gạo, dế nhỏ, thằn lằn nhỏ,... đuôi chúng trong độ tuổi này rất dễ bị
đứt.

Bảo tồn[sửa | sửa mã nguồn]


Rượu ngâm thuốc sẵn sàng để uống với quả goji, tắc kè
tokay và nhân sâm, được bán tại một chợ thuốc cổ truyền ở Tây An, Trung Quốc.
Con tắc kè tokay có ý nghĩa văn hóa ở nhiều nước Đông Á. Văn hóa dân gian trong vùng đã gán
cho con tắc kè sức mạnh siêu nhiên. Ở Đông Nam Á, nó là biểu tượng của sự may mắn và khả
năng sinh sản.[4] Nó được cho là hậu duệ của rồng.[8]
Loài này bị săn trộm để làm thuốc ở các vùng của châu Á.[9] Tắc kè tokay là một thành phần
trong y học cổ truyền Trung Quốc được gọi là Ge Jie (蛤蚧). Nó được cho là có tác dụng nuôi
dưỡng thận và phổi, những niềm tin không được chứng minh bởi khoa học y tế. Loài vật này vẫn
được săn lùng ráo riết ở Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Việt Nam, Malaysia, Singapore và
các khu vực khác của châu Á có cộng đồng người Hoa, đến mức những người buôn bán vô
lương tâm đã bắt các loài kỳ đà, biến dạng và chỉnh hình cơ thể chúng bằng những bộ phận
nhân tạo để giả chúng thành các con tắc kè tokay khổng lồ.[8]
Tắc kè tokay đang nhanh chóng trở thành loài bị đe dọa ở Philippines do nạn săn bắn bừa bãi.
Thu thập, vận chuyển và buôn bán tắc kè mà không có giấy phép có thể bị phạt tù lên đến 12
năm và phạt tiền lên tới 1.000.000 Php theo Đạo luật Cộng hòa 9147 cùng với các luật quốc tế
hiện hành khác.[10] Tuy nhiên, hoạt động giao dịch không được kiểm soát do số lượng lớn những
người buôn bán bất hợp pháp và các báo cáo về các giao dịch sinh lợi. Người mua Trung Quốc
và các công dân nước ngoài khác được đồn đại sẽ trả hàng nghìn đô la cho các mẫu vật lớn, do
giá trị thuốc của chúng hoặc là do nhu cầu trong thị trường buôn bán động vật hoang dã trái
phép.[11]
Cuộc họp lần thứ 18 của Hội nghị các bên tham gia Công ước về buôn bán quốc tế các loài
động, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES) diễn ra tại Geneva, lần đầu tiên tắc kè được đưa vào
Phụ lục II, có nghĩa là các loài thuộc Phụ lục II không nhất thiết bị đe dọa tuyệt chủng, nhưng
trong đó việc buôn bán phải được kiểm soát để tránh việc sử dụng không phù hợp với sự tồn tại
của chúng.

You might also like