Professional Documents
Culture Documents
44 ngôn ngữ
Bài viết
Thảo luận
Đọc
Sửa đổi
Sửa mã nguồn
Xem lịch sử
Công cụ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cỏ
C
P
Pg
N
[1]
Giới: Plantae
nhánh: Tracheophyta
nhánh: Angiospermae
nhánh: Monocots
nhánh: Commelinids
Bộ: Poales
Họ: Poaceae
BARNHART [2]
Poa
L.
Subfamilies
Anomochlooideae
Aristidoideae
Arundinoideae
Bambusoideae
Chloridoideae
Danthonioideae
Ehrhartoideae
Micrairoideae
Panicoideae
Pharoideae
Pooideae
Puelioideae
Các đồng nghĩa[3]
Gramineae Juss.
Cỏ hay còn gọi là đám cỏ, bụi cỏ là những loại thực vật thuộc bộ Hòa thảo mọc dại hoặc được
trồng cấy. Chúng thường có lá hẹp mọc hoặc được trồng nên một nền giá thể. Chúng bao gồm cỏ
thực sự gồm họ Poaceae (Gramineae), cũng như những họ Cyperaceae và Juncaceae. Các loại
cỏ thật sự bao gồm các cây ngũ cốc, tre, nứa và các loại cỏ của những bãi cỏ (trồng ở sân)
và đồng cỏ. Sedges bao gồm nhiều loại cỏ mọc ở đầm lầy hoang dã và đồng cỏ thực vật, và một
số những người canh tác và giấy cói...
Họ cỏ (Poaceae) là họ cây có khoảng 780 chi và khoảng 12.000 loài, xếp thứ năm trong các họ
cây theo số lượng.[4] Họ cỏ là họ cây quan trọng nhất về kinh tế, cung cấp ngô, lúa, gạo, lúa mạch,
kê và thức ăn cho động vật chăn nuôi. Chúng đóng góp hơn một nửa (51%) năng lượng dinh
dưỡng trong khẩu phần ăn. Gạo chiếm 20%, lúa mạch chiếm 20%, ngô chiếm 5,5% và các loại
ngũ cốc khác chiếm 6%. Một số loài cỏ được sử dụng làm vật liệu xây dựng (như tre, mái lá và
rơm), và một số loài khác có thể cung cấp nguồn nhiên liệu sinh học, chủ yếu từ việc chuyển đổi
ngô thành ethanol.[5] Cỏ cũng là một phần quan trọng của thực vật trong nhiều môi trường sống
khác, bao gồm đầm lầy, rừng và đài nguyên.
Mặc dù thường gọi là "cỏ", nhưng rong biển, bông gạo và sậy không thuộc họ cỏ. Rong biển và
sậy thuộc bộ Rìa cỏ (Poales), trong khi bông gạo thuộc bộ Diên kim (Alismatales). Tuy nhiên, tất
cả đều là cây thuộc nhóm một lá mầm (monocot).
Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]
Sơ đồ về một cây cỏ cỏ thường
Cỏ có thể là cây thân thảo một năm hoặc lâu năm. Thân cỏ thường có hình trụ, rỗng, và cắm ở các
đốt.[6] Lá cỏ mọc xen kẽ, có gân song song. Mỗi lá có cuống dưới ôm lấy thân và lá mảnh có mép
nhẵn. Một số loại cỏ có lá cứng bằng phytoliths silica, ngăn động vật ăn cỏ. Dây chằng nằm ở chỗ
nối giữa cuống và lá, ngăn nước và côn trùng xâm nhập.[6][7]
Hoa cỏ
Phiến cỏ mọc từ gốc của cây chứ không phải từ phần thân cao và thon dài. Đặc điểm này đã phát
triển để đối phó với việc bị động vật ăn cỏ và cho phép cỏ được chăn thả hoặc cắt tỉnh táo mà
không gây hại đáng kể cho sự sinh trưởng của cây.[9]:113–114
Có ba phân loại chung về thói quen sinh trưởng của các loại cỏ: loại tạo bụi (caespitose), loại có
thân rễ và loại leo trèo.[10] Sự thành công của cỏ phụ thuộc vào hình dạng và quá trình sinh trưởng
của chúng, cũng như đa dạng sinh học của chúng. Có hai loại cỏ chính là C3 và C4, dựa trên cách
chúng sử dụng quá trình quang hợp để hấp thụ carbon. Cỏ C4 có cấu trúc lá đặc biệt gọi là lá
Kranz, giúp chúng sử dụng nước hiệu quả hơn và thích nghi tốt hơn với môi trường khô và nhiệt
đới.[11]
Cỏ loại C3 được gọi là "cỏ mùa lạnh", trong khi các loài thực vật C4 được coi là "cỏ mùa nóng". [6]:18–
19
Cỏ mùa lạnh hàng năm - lúa mì, lúa mạch, cây cỏ xanh hàng năm (cỏ đồng, Poa annua), và yến mạch
Cỏ mùa lạnh vĩnh cửu - cỏ đuôi gà (cocksfoot, Dactylis glomerata), cây bìa (Festuca spp.), cỏ xanh
Kentucky và cây cỏ lúa vĩnh cửu (Lolium perenne)
Cỏ mùa nóng hàng năm - ngô, cây cỏ Sudan và cây cỏ millet
Cỏ mùa nóng vĩnh cửu - cỏ blue bluestem, cỏ Indiangrass, cỏ Bermuda và cây cỏ switchgrass.
Mặc dù tất cả các loài C4 thuộc nhánh PACMAD (xem sơ đồ trên), nhưng có vẻ như C4 đã xuất
hiện độc lập nhiều lần, khoảng 20 lần trở lên, trong các phân họ và chi khác nhau. Ví dụ, trong chi
Aristida, có một loài (A. longifolia) sử dụng quá trình C3, trong khi khoảng 300 loài khác trong chi
này sử dụng quá trình C4. Một ví dụ khác là bộ tộc Andropogoneae, bao gồm ngô, lúa miến, mía,
hạt Job và cỏ bluestem, đều là cây C4. Khoảng 46% số loài cỏ là cây C4.[12] Around 46 percent of
grass species are C4 plants.[13]
Phân loại học[sửa | sửa mã nguồn]
Tên Poaceae được đặt bởi John Hendley Barnhart vào năm 1895,[14]:7 dựa trên bộ tộc Poeae được
mô tả vào năm 1814 bởi Robert Brown, và chi đại diện Poa được mô tả vào năm 1753 bởi Carl
Linnaeus. Thuật ngữ này bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ πόα (póa, "thức ăn gia súc").
Lịch sử tiến hóa[sửa | sửa mã nguồn]
Cỏ bao gồm một số loại hình thái cây linh hoạt nhất. Chúng trở nên phổ biến vào cuối kỷ Creta, và
các hóa thạch phân bón khủng long (coprolite) đã được tìm thấy chứa phytolith của một loại cỏ liên
quan đến lúa và tre hiện đại.[15] Cỏ đã thích nghi với điều kiện trong rừng mưa nhiệt đới phong phú,
sa mạc khô cằn, dãy núi lạnh và thậm chí các môi trường đầm lầy triều, và hiện đang là loại cây
phổ biến nhất; cỏ là nguồn thực phẩm và năng lượng quý giá cho mọi loại động vật hoang dã.
Một biểu đồ phân loại cho thấy các phân họ và số lượng loài xấp xỉ trong dấu ngoặc: [12]
PACMAD clade
Chloridoideae (1600)
Danthonioideae (300)
Micrairoideae (200)
Arundinoideae (50)
Panicoideae (3250)
Aristidoideae (350)
BOP clade
Oryzoideae (110)
Pooideae (3850)
Puelioideae (11)
Pharoideae (13)
Anomochlooideae (4)
Anomochlooideae Pilg. ex Potztal, một nhóm cỏ có lá rộng nhỏ gồm hai chi
(Anomochloa, Streptochaeta)
Pharoideae L.G.Clark & Judz., một nhóm cỏ nhỏ gồm ba chi, bao gồm Pharus và Leptaspis
Puelioideae L.G.Clark, M.Kobay., S.Mathews, Spangler & E.A.Kellogg, một nhóm cỏ nhỏ của chi cỏ
châu Phi Puelia
Pooideae, bao gồm lúa, lúa mì, yến mạch, cỏ muồng (Bromus), cỏ lau (Calamagrostis) và nhiều loại cỏ
sân vườn và cỏ chăn nuôi như cỏ xanh (Poa)