Professional Documents
Culture Documents
Lịch sử giáo dục Tóm tắt
Lịch sử giáo dục Tóm tắt
Các đặc trưng cơ bản vừa thể hiện tính phổ biến vừa thể hiện tính đặc thù của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam như sau:
a/ Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân
b/ Quyền con người, quyền công dân là giá trị cao cả của xã hội, được công nhận,
tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật
c/ Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội
bằng Hiến pháp và pháp luật, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật
d/ Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và
kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp
e/ Hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, hiện đại, đầy đủ, kịp thời, đồng
bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện
nghiêm minh, nhất quán và hiệu quả
g/ Tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, tuân thủ pháp luật quốc tế và thực hiện các
cam kết quốc tế của Việt Nam trên cơ sở bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc
h/ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo
1. Đặc điểm tự nhiên:
a/ Vị trị địa lý:
Việt Nam nằm ở rìa đông của bán đảo Đông Dương, gần trung tâm Đông Nam Á trên
các đường hàng hải, đường bộ và đường hàng không quốc tế. Việt Nam nằm trong khu
vực châu Á – Thái Bình Dương, đây là khu vực có hoạt động kinh tế sôi động nhất thế
giới.
Lãnh thổ Việt Nam nằm hoàn toàn ở múi giờ số 7.
b/ Phạm vi lãnh thổ:
Lãnh thổ Việt Nam gồm 3 bộ phận:
- Phần đất liền: Việt Nam có diện tích đất liền là 331.212 km 2 (2006- số liệu của TCTK).
Hệ toạ độ: 8º34’B – 23º23’B và 102º10’Đ – 109º24’Đ. Phía Bắc tiếp giáp với Trung
Quốc, Phía Tây tiếp giáp Lào và Cam-pu-chia, phía Đông và phía Nam giáp Biển Đông
và vịnh Thái Lan.
- Phần biển: Biển Việt Nam có diện tích trên 1 triệu km 2 gồm 5 bộ phận: nội thủy, lãnh
hải, tiếp giáp lãnh hải, vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế. Đường bờ biển nước
ta dài 3.260 km không kể các đảo. Nếu kể cả biển, lãnh thổ nước ta kéo dài xuống tận vĩ
tuyến 6º50’B và ra tận kinh tuyến 117º20’Đ.
- Vùng trời: Vùng trời Việt Nam là khoảng không gian vô tận bao phủ lên trên lãnh thổ
Việt Nam.
c/ Khí hậu:
Khí hậu Việt Nam mang tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa. Nước ta có mùa đông lạnh
khô với gió Đông Bắc, mùa hạ nóng ẩm với gió mùa Tây Nam. Lượng mưa của năm lớn
từ 1500 – 2000 mm/năm. Độ ẩm không khí trên 80.
Khí hậu nước ta có tính chất đa dạng và thất thường
d/ Đặc điểm địa hình:
Địa hình đồi núi chiếm phần lớn diện tích đất liền Việt Nam. Tuy nhiên, chủ yếu là
đồi núi thấp. Đồi núi chiếm ¾ diện tích đất liền nước ta, đồng bằng chỉ chiếm ¼. Dãy núi
cao nhất nước ta là dãy Hoàng Liên Sơn với đỉnh Fansipan cao 3143m.
Đặc điểm chung của địa hình nước ta là có cấu trúc cổ được vận động Tân kiến tạo
làm trẻ hóa, tạo nên sự phân biệt rõ rệt theo độ cao. Địa hình nước ta thấp dần từ hướng
Tây Bắc xuống Đông Nam và phân hóa đa dạng.
Cấu trúc địa hình nước ta bao gồm 2 hướng chính:
- Hướng Tây Bắc – Đông Nam
- Hướng vòng cung
Có nhiều điểm đặc biệt khi nhắc đến đất nước Việt Nam và con người Việt Nam:
- Vẻ đẹp tự nhiên: Việt Nam có diện tích đất rộng lớn, đa dạng với nhiều cảnh quan thiên
nhiên đẹp như những bãi biển trắng, những dãy núi non hùng vĩ, những cánh rừng rậm
phong phú và những thảo nguyên bát ngát màu xanh.
- Vị trí địa lý tốt: Nằm ở trung tâm Đông Dương, Việt Nam là điểm giao thoa của nhiều
nền văn hóa và là một nơi lưu trữ nhiều giá trị văn hóa, lịch sử của nhân loại.
- Con người thân thiện, hòa đồng: Người Việt Nam được biết đến với tính tình thân
thiện, hòa đồng và luôn hoan nghênh du khách đến từ khắp mọi nơi trên thế giới.
- Ẩm thực phong phú: Với bản sắc văn hóa độc đáo, ẩm thực Việt Nam nổi tiếng với
nhiều món ăn ngon và phong phú, làm hài lòng cả những thực khách khó tính nhất.
- Lịch sử hào hùng: Việt Nam đã trải qua hàng ngàn năm lịch sử phong phú với nhiều thế
kỷ nằm dưới sự cai trị của các triều đại và đế quốc lớn trên thế giới.
- Nền kinh tế phát triển: Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển kinh
tế rất nhanh trong thập kỷ gần đây, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư nước ngoài.
Giáo dục nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài để xây
dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
II. Các giai đoạn giáo dục của xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
THỜI KÌ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở MIỀN BẮC VÀ ĐẤU
TRANH THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (1954 - 1975).
1. Hoàn cảnh lịch sử:
Chiến thắng vĩ đại của chiến dịch Điện Biên Phủ đã kết thúc chín năm kháng chiến
trường kì gian khổ của dân tộc ta. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng nhưng cách mạng
nước ta lại đứng trước một thời kì mới, đất nước ta lại bị tạm chia làm hai miền.
Từ đầu năm 1972, phong trào cách mạng ở miền Nam dâng lên mạnh mẽ. Để đối phó
với tình hình, Mỹ đã ném bom trở lại miền Bắc, tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần
thứ hai với quy mô lớn, mức độ ác liệt và thủ đoạn hết sức tàn bạo. Cuộc chiến đấu 12
ngày đêm cuối năm 1972 của quân dân ta, tiêu biểu là quân dân Hà Nội được coi là “trận
Điện Biên Phủ trên không” đã đập tan uy thế của không lực Mỹ, buộc Mỹ phải ngồi vào
bàn hội nghị ngoại giao tại Paris, kí kết Hiệp định Paris tháng 01/1973, chấm dứt chiến
tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Chính quyền bù nhìn và quân đội Sài Gòn vẫn còn tồn tại. Nhân dân cả nước tiếp tục ra
sức chuẩn bị lực lượng mọi mặt để tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam. Tháng
03/1975, cuộc tổng tiến công và nổi dậy vĩ đại đã diễn ra với ba chiến dịch lớn: chiến
dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng và đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch
sử (trong 55 ngày đêm) đã kết thúc hoàn toàn cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam.
3. Cuộc vận động xây dựng nhà trường xã hội chủ nghĩa bắt đầu từ năm 1958.
Nhà trường xã hội chủ nghĩa có đặc trưng bởi bốn yếu tố sau:
+ Tư tưởng của giai cấp công nhân, tức chủ nghĩa Mác – Lênin phải chiếm địa vị chủ
đạo và duy nhất trong nhà trường.
+ Lao động sản xuất phải trở thành yếu tố cơ bản trong mục đích, phương châm,
phương pháp giáo dục của nhà trường.
+ Giáo viên có giác ngộ xã hội chủ nghĩa mới xây dựng thành công nhà trường xã hội
chủ nghĩa.
+ Đảm bảo sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng Cộng sản Việt Nam trong nhà trường.
Để xây dựng nhà trường xã hội chủ nghĩa theo các yêu cầu trên, từ năm học 1958 –
1959, các trường tổ chức cho học sinh tham gia lao động sản xuất trong dịp hè. Học sinh
sôi nổi tỏa về các nhà máy, xí nghiệp, hợp tác xã... Công tác giáo dục tư tưởng chính trị
cũng rất được chú trọng, Đoàn thanh niên và đội ngũ giáo viên chủ nhiệm đóng vai trò
quan trọng trong hoạt động này.
Đại hội Đảng lần thứ III (tháng 09/1960) đã chỉ rõ nhiệm vụ của giáo dục trong thời kì
này là: “Công tác giáo dục văn hóa phải được phát triển theo quy mô lớn và phải phục
vụ đường lối và nhiệm vụ cách mạng của Đảng. Sự nghiệp giáo dục của chúng ta phải
nhằm bồi dưỡng thế hệ trẻ trở thành những người làm chủ đất nước, có giác ngộ xã hội
chủ nghĩa, có văn hóa và kĩ thuật, có sức khỏe, những người phát triển toàn diện để xây
dựng xã hội mới, đồng thời phải phục vụ đắc lực cho việc đào tạo cán bộ xây dựng kinh
tế và văn hóa xã hội chủ nghĩa và việc nâng cao không ngừng trình độ văn hóa của nhân
dân lao động.”
Trong phong trào xây dựng nhà trường xã hội chủ nghĩa đã xuất hiện những điển hình
tiên tiến, tiêu biểu là lá cờ đầu Bắc Lý với phong trào thi đua “Hai tốt” (dạy thật tốt, học
thật tốt).
Bốn bài học lớn được rút ra từ thực tiễn xây dựng và phát triển giáo dục của Bắc Lý
là:
+ Trường học phải có tính Đảng cao
+ Giáo viên phải đoàn kết nhất trí thành một khối vững chắc, giác ngộ xã hội chủ nghĩa,
yêu nghề, yêu trẻ, làm chủ nhà trường.
+ Trường học phải luôn có ý thức dựa vào quần chúng
+ Trường học phải luôn luôn nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh
Trong giai đoạn này, bên cạnh trường công lập giữ vị trí chủ đạo, nhiều loại hình nhà
trường như dân lập, trường phổ thông nông nghiệp, trường phổ thông công nghiệp,
trường thanh niên dân tộc ở miền núi... ra đời, góp phần mở rộng quy mô giáo dục phổ
thông các cấp. Điển hình cho trường thanh niên dân tộc vừa học vừa làm là Trường
Thanh niên lao động xã hội chủ nghĩa thị xã Hòa Bình, thành lập vào tháng 04/1958.
4. Chuyển hướng giáo dục phổ thông trong thời kì chống chiến tranh phá hoại của
Mỹ ở miền Bắc (1965 – 1975).
Từ tháng 08/1964, đế quốc Mỹ gây chiến tranh leo thang phá hoại miền Bắc.
Với quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ trên mặt trận giáo dục”, ngành giáo dục đã có
những chủ trương, biện pháp tổ chức kịp thời để chuyển hướng giáo dục.
Thứ nhất, tổ chức công tác phòng không, đảm bảo an toàn tuyệt đối cho thầy và trò.
Thứ hai, cải tiến nội dung, phương pháp giảng dạy và học tập phù hợp với tình hình
thời chiến và yêu cầu bảo đảm chất lượng.
Thứ ba, tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị và đạo đức trong nhà trường.
Thứ tư, đẩy mạnh phong trào thi đua xây dựng trường tiên tiến chống Mỹ cứu nước.
Thứ năm, giáo dục năng khiếu được chú trọng để đào tạo và chuẩn bị nhân tài cho đất
nước.
Tháng 04/1972, đế quốc Mỹ leo thang gây chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai,
trường học trở thành một trong những mục tiêu đánh phá hủy diệt của chúng.
5. Miền Bắc tích cực chi viện cho sự nghiệp giáo dục giải phóng ở miền Nam.
Trong suốt thời kì chống Mỹ cứu nước, ngành Giáo dục miền Bắc đã không ngừng chi
viện cho miền Nam về mọi mặt: tăng cường chi viện cán bộ quản lí giáo dục, đội ngũ
giáo viên, tài liệu, sách giáo khoa, đồ dùng dạy học.
Tháng 10/1962, Tiểu ban giáo dục miền Nam trực thuộc Ban Tuyên huấn Trung ương
cục thành lập. Ngày 20/11/1963, Hội Nhà giáo yêu nước miền Nam Việt Nam ra đời.
Tháng 04/1964, Đại hội giáo dục toàn miền Nam lần thứ nhất khai mạc để thống nhất
đường lối giáo dục, phương hướng, biện pháp xây dựng giáo dục trong kháng chiến
chống Mỹ.
Trung ương cục và Tiểu ban giáo dục miền Nam đã có những chỉ thị về nhiệm vụ và
phương hướng công tác giáo dục, nội dung tập trung vào những điểm sau:
+ Ra sức xây dựng, phát triển mạnh mẽ một nền giáo dục cách mạng ở vùng giải
phóng, gồm đầy đủ các ngành học
+ Ra sức tuyên truyền vận động, giáo dục, tập hợp giáo chức trong vùng tạm chiến,
xây dựng cơ sở cách mạng, đặc biệt là học sinh, sinh viên, hình thành một mặt trận đấu
tranh chống nền giáo dục nô dịch của địch, góp phần vào cuộc đấu tranh cách mạng
chung của nhân dân vùng tạm chiến.
6. Giáo dục đại học
a. Ổn định và củng cố một bước các trường đại học (1954 – 1955)
Nhiệm vụ đầu tiên của ngành giáo dục đại học sau giải phóng là tiếp quản các
trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội do Pháp xây dựng trong thời kì Hà Nội bị tạm
chiến. Đó là các trường Y dược, Luật khoa, Khoa học, Văn khoa, Sư phạm.
Năm học 1954 – 1955, năm học đầu tiên sau ngày giải phóng, chúng ta có các
trường Đại học Y dược Việt Bắc; Dự bị đại học; Trường Sư phạm cao cấp ở Khu 4
cũ; Trường Sư phạm cao cấp ở Khu học xá Trung ương.
Thực hiện chủ trương củng cố các trường, Bộ Giáo dục đã cho sắp xếp lại các
trường đại học hiện có. Năm học 1955 – 1956 chỉ còn ba trường: Đại học Y dược,
Đại học Sư phạm Văn khoa, Đại học Sư phạm khoa học.
b. Xây dựng những trường đại học đầu tiên theo mô hình mới.
Đầu năm 1956, với sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô, Bộ giáo dục đã nghiên
cứu và xây dựng kế hoạch phát triển giáo dục đại học và chuyên nghiệp để trình
Chính phủ. Trên cơ sở các trường đại học hiện có, sắp xếp lại để xây dựng các trường
đại học theo mô hình mới và xây dựng thêm một số trường đại học.
Kết quả là, đến tháng 10/1956, có 5 trường đại học được xây dựng theo mô hình
mới của các nước xã hội chủ nghĩa ra đời:
+ Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (được xây dựng trên cơ sở của hai trường
Đại học Sư phạm Văn khoa và Đại học Sư phạm Khoa học).
+ Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (cũng được xây dựng trên cơ sở của hai
trường Đại học Sư phạm Văn khoa và Đại học Sư phạm Khoa học).
+ Trường Đại học Bách khoa (có 9 khoa với khoảng 30 – 40 ngành học).
+ Trường Đại học Nông – Lâm (đào tạo kĩ sư cho các ngành nông nghiệp và lâm
nghiệp với khoảng 9 - 10 ngành học).
+ Trường Đại học Y dược (củng cố và cải tiến lại).
c. Phát triển quy mô giáo dục đại học, tăng cường xây dựng đội ngũ giáo viên
và cơ sở vật chất. Xác lập quan điểm giáo dục xã hội chủ nghĩa trong các
trường đại học (1958 – 1965).
Từ kinh nghiệm xây dựng 5 trường đại học đầu tiên, qua ba năm xây dựng nhà
trường xã hội chủ nghĩa, sự nghiệp giáo dục đại học của nước ta đã có bước phát
triển đáng kể về số lượng và chất lượng. Đến năm học 1959 – 1960, đã có 9 trường
đại học với 46 ngành học (thêm Trường Đại học Giao thông vận tải, Cao đẳng Mỹ
thuật, Kinh tế - Tài chính Trung ương, Đại học Sư phạm Vinh, Học viện Thủy lợi).
Đặc biệt trong thời kì 1958 – 1960 (giai đoạn cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
và xây dựng nhà trường xã hội chủ nghịa), trong các trường đại học đã diễn ra cuộc
đấu tranh gay gắt chống lại nhóm “Nhân văn giai phẩm” (có những nội dung mang
tính đả kích sự lãnh đạo của Đảng, gây hoang mang trong dư luận). Cuộc đấu tranh
ấy nhằm đảm bảo sự đoàn kết trong nhà trường, ngăn chặn những âm mưu chống lại
đường lối lãnh đạo của Đảng bởi những phần tử quá khích và khẳng định vai trò lãnh
đạo của Đảng trong trường đại học
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 – 1965), do yêu cầu tăng cường đội ngũ
cán bộ khoa học – kĩ thuật có trình độ cao đẳng, đại học, giáo dục đại học phải tiếp
tục mở rộng quy mô đào tạo, mở thêm trường lớp, tăng số lượng tuyển sinh hằng
năm, phát triển các ngành học, mở rộng các hình thức đào tạo tại chức, chuyên tu.
Cho đến năm học 1964 – 1965, số trường đại học đã tăng lên thành 17 trường, số
ngành học đã tăng lên 97 ngành. Ngoài ra, các ngành đã xúc tiến nhanh việc cử cán
bộ đi đào tạo và bồi dưỡng nghiên cứu sinh, thực tập sinh ở các nước xã hội chủ
nghĩa, nhất là ở Liên Xô. Đến năm 1950, đã cử trên 500 cán bộ giảng dạy ra nước
ngoài học tập (trong đó gần 50% là nghiên cứu sinh). Phong trào thi đua “Hai tốt”
cũng được phát động trong các trường đại học, có nhiều điển hình tốt đã được Nhà
nước tặng Huân chương Lao động và phong danh hiệu “Đơn vị tiên tiến xuất sắc”
(Đại học Sư phạm, Đại học Tổng hợp, Đại học Bách khoa, Đại học Kinh tế - Tài
chính, Cao đẳng Mỹ thuật).
d. Chuyển hướng giáo dục đại học trong thời kì cả nước có chiến tranh
(1965 – 1975).
Trong giai đoạn này, đế quốc Mỹ đã hai lần mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền
Bắc, đặt cả nước vào trong tình trạng có chiến tranh. Sự nghiệp xây dựng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc bị đảo lộn, giáo dục đại học Việt Nam bước vào giai đoạn thử
thách mới và chuyển hướng để phù hợp với tình hình mới.
Từ những năm 1964 – 1965, đế quốc Mỹ đã đưa vào miền Nam một lực lượng
quân viễn chinh lớn và mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc.
Trong tình hình khó khăn và phức tạp, công tác tư tưởng chính trị phải đi trước một
bước. Ngày 05/08/1965, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 88 TTg-VG về chuyển
hướng công tác giáo dục trước tình hình và nhiệm vụ mới.
- Các trường đại học ở các thành phố tổ chức tốt việc phòng không, sơ tán về các
vùng nông thôn hoặc vùng trung du, miền núi để tiếp tục sự nghiệp đào tạo.
- Trong điều kiện chiến tranh, Bộ Giáo dục vẫn chủ trương mở thêm một số trường
mới. Từ các khoa tách ra xây dựng thêm một số trường, tăng quy mô đào tạo, tăng
thêm chỉ tiêu tuyển sinh, cải tiến cách thi tuyển sinh đại học.
- Tổ chức huấn luyện quân sự trong các trường đại học, củng cố các đội tự vệ, sẵn
sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu (như tham gia công tác cứu thương, cứu sập
hầm, bắt sống giặc lái, bắn máy bay Mỹ...), tích cực tham gia chống lũ lụt và khắc
phục hậu quả lũ lụt năm 1971. Trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của
Mỹ lần thứ hai, tỉ lệ giáo viên, sinh viên các trường đại học tham gia phục vụ sản
xuất chiến đấu lên tới 50 – 60%, có trường lên tới 95 – 100%.
- Sau Hiệp định Paris lập lại hòa bình ở Việt Nam (tháng 01/1973) các trường đại
học từ phân tán chuyển về tập trung, bắt tay vào khôi phục và xây dựng cơ sở vật
chất.
- Mở rộng đào tạo tại chức.
“Nhiệm vụ cấp bách là tiến hành ngay một cuộc cách mạng toàn diện trong giáo
dục: cải cách triệt để, sâu sắc cả về mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học, hệ
thống giáo dục, phương thức tổ chức quản lí giáo dục – đào tạo.”
b/ Quan điểm chỉ đạo và giải pháp phát triển giáo dục – đào tạo.
Tháng 12/2001, Thủ tướng chính phủ kí Quyết định số 201/2001/QĐ-TTg phê
duyệt “Chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010”. Chiến lược này đã chỉ rõ các
quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục nước nhà, đó là:
(1) Giáo dục là quốc sách hàng đầu.
(2) Xây dưng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng.
(3) Phát triển giáo dục phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ
khoa học – công nghệ, củng cố quốc phòng, an ninh.
(4) Giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Xây dựng xã hội
học tập, tạo điều kiện cho mọi người, ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ được học
thường xuyên, học suốt đời.
“Chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010” xác định mục tiêu chung phát triển
giáo dục đến năm 2010
- Một là, tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục theo hướng tiếp cận
với trình độ tiên tiến của thế giới, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, phục vụ thiết
thực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của từng vùng, từng địa
phương; hướng tới một xã hội học tập.
- Hai là, ưu tiên nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực, đặc biệt chú trọng nhân lực
khoa học – công nghệ trình độ cao, cán bộ quản lí, kinh doanh giỏi và công nhân
kĩ thuật lành nghề.
- Ba là, đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp, chương trình giáo dục các cấp
bậc học và trình độ đào tạo; phát triển đội ngũ nhà giáo đáp ứng yêu cầu vừa tăng
quy mô, vừa nâng cao chất lượng, hiệu quả và đổi mới phương pháo dạy – học;
đổi mới quản lí giáo dục tạo cơ sở pháp lí và phát huy nội lực phát triển giáo dục.
Trong đó, đổi mới chương trình giáo dục, phát triển đội ngũ nhà giáo là các
giải pháp trọng tạm; đổi mới quản lí giáo dục là khâu đột phá.
Tháng 04/2006, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng nêu rõ: “Về giáo
dục và đào tạo, chúng ta phấn đấu để lĩnh vực này cùng với khoa học và công nghệ
thực sự là quốc sách hàng đầu thông qua việc đổi mới toàn diện giáo dục và đào
tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam.”
Những biện pháp cụ thể để phát triển giáo dục nước nhà trong giai đoạn 2006 –
2011 là:
- Đổi mới cơ cấu tổ chức, nội dung, phương pháp dạy và học theo hướng “chuẩn
hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”.
- Phát huy trí sáng tạo, khả năng vận dụng, thực hành của người học.
- Đề cao trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội.
- Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình xã
hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các
bậc học, ngành học.
c/ Tình hình giáo dục phổ thông trong thập niên đầu của thế kỉ XXI.
Trong thập niên đầu tiên của thế kỉ XXI, quy mô học sinh ở bậc trung học tiếp
tục tăng, ở bậc tiểu học giảm dần và đi vào ổn định.
Thực hiện Nghị quyết 40/2000/QH10 của Quốc hội và Chỉ thị 14/2001/CT-TTg
của Thủ tướng Chính phủ, bắt đầu từ năm học 2002 – 2003, Bộ Giáo dục và Đào
tạo cho triển khai đại trà chương trình giáo dục và sách giáo khoa mới ở cấp tiểu
học và trung học cơ sở.
Đội ngũ giáo viên tăng nhanh về số lượng, nâng dần về chất lượng, từng bước
khắc phục một phần bất hợp lí về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu phổ cập giáo dục và
phát triển giáo dục phổ thông.
d/ Tình hình giáo dục đại học và sau đại học trong thập niên đầu của
thế kỉ XXI.
Quy mô giáo dục đại học và sau đại học những năm đầu của thế kỷ XXI đã tăng
đáng kể. Chính phủ đã thông qua quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng làm
cơ sở để phát triển thêm một số trường công lập và ngoài công lập ở Tây Bắc, miền
Trung và đồng bằng sông Cửu Long nên đã khắc phục được một bước sự bất hợp lý trong
việc phân bố các cơ sở giáo dục đại học giữa các vùng, miền.
Đa số sinh viên có ý thức chính trị tốt, có lối sống lành mạnh, tích cực tham gia
các hoạt động xã hội như phong trào thanh niên tự nguyện, an toàn giao thông... số sinh
viên được kết nạp vào Đảng ngày càng nhiều. Ở một số ngành nghề trong một số trường
trọng điểm có truyền thống như hai đại học quốc gia( trường Đại học Bách khoa Hà Nội,
trường Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh), trình độ của sinh viên tốt nghiệp đã
tiếp cận trình độ của các trường đại học trong khu vực.
Mặc dù có chuyển biến nhưng cơ cấu đào tạo giữa giáo dục đại học với giáo dục
nghề nghiệp vẫn chưa hợp lí, chưa đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ cao của thị trường
lao động. Số học viên cao học và nghiên cứu sinh tăng quá nhanh, trong khi chưa đủ điều
kiện bảo đảm chất lượng. Tình trạng đáng lo ngại là còn nhiều sinh viên thiếu trung thực
trong học tập và thi cử; một bộ phận chưa có hoài bão, lí tưởng; một số vi phạm nội quy,
quy chế, có biểu hiện của lối sống hưởng thụ, đua đòi. Tệ nạn xã hội, nhất là ma túy, cờ
bạc, mê tín, vi phạm pháp luật trong sinh viên tuy ít nhưng chưa ngăn chặn được, gây
nhiều lo lắng trong xã hội.
Việc xây dựng chương trình khung và công tác biên soạn chương trình, giáo trình
của các trường đại học, cao đẳng chưa được quan tâm đúng mức. Giáo trình đại học còn
thiếu, nội dung còn lạc hậu, tài liệu tham khảo còn nghèo nàn. Chương trình chưa được
thiết kế liên thông giữa các cấp, bậc, trình độ đào tạo.
Tỉ lệ nhà giáo có trình độ sau đại học trong giáo dục đại học còn thấp. Hầu hết các
trường đại học, cao đẳng đều thiếu giảng viên. Hoạt động nghiên cứu khoa học của các
trường đại học chưa được quan tâm đúng mức. Đa số giảng viên chỉ tập trung vào giảng
dạy, ít tham gia nghiên cứu khoa học.
Ngoài ra, tình trạng chung là cơ sở vật chất kỹ thuật của các trường đại học, cao
đẳng còn thiếu và lạc hậu; diện tích sử dụng của các trường chỉ mới đáp ứng khoảng 1/3
chuẩn quy định, đây là bất cập lớn của giáo dục đại học nước ta. Tiến độ triển khai xây
dựng cơ sở vật chất của hai đại học quốc gia, hai trường Đại học Sư Phạm trọng điểm còn
rất chậm.
e/ Tình hình giáo dục nghề nghiệp trong thập niên đầu của thế kỉ XXI.
Dạy nghề đã được phục hồi sau nhiều năm suy giảm. Hầu hết các tỉnh đều có
trường dạy nghề, bước đầu phát triển các trường dạy nghề thuộc một số ngành kinh tế
mũi nhọn. Kiến thức, kỹ năng của học sinh ở một số trường được đầu tư, trang bị tốt như
Trường Cao đẳng Công Nghiệp 4 và một số trường thuộc ngành dầu khí, bưu chính viễn
thông... tương đương trình độ tiên tiến trong khu vực. Tuy nhiên, nhìn chung chất lượng
đại trà của giáo dục nghề nghiệp còn thấp . Ngoài ra, xã hội chưa thực sự coi trọng giáo
dục nghề nghiệp, nhiều học sinh chỉ coi trường dạy nghề, trường trung học chuyên
nghiệp là nơi trú chân để chờ thi vào đại học, cao đẳng.
Đội ngũ giáo viên các trường dạy nghề và trung học chuyên nghiệp tăng chậm. Đa
số giáo viên còn hạn chế về kỹ năng thực hành, khả năng tiếp cận với công nghệ mới và
phương pháp dạy học tiên tiến.
f/ Tình hình giáo dục không chính quy trong thập niên đầu của thế kỉ XXI.
Giáo dục không chính quy phát triển mạnh, thể hiện trước hết ở quy mô: mạng
lưới cơ sở giáo dục không chính quy đã phủ khắp các địa phương . Các chương trình bổ
túc văn hóa, phổ cập kiến thức, kỹ năng các ngành nghề đơn giản về cơ bản đã đáp ứng
được yêu cầu. Mặc dù vậy, giáo dục không chính quy trong giai đoạn này đứng trước
nhiều bất cập và khó khăn. Công tác quản lý giáo dục không chính quy còn yếu kém và
điều kiện bảo đảm chất lượng còn rất thấp. Việc quản lý lỏng lẻo đối với các hệ liên kết
đào tạo có cấp văn bằng (từ xa, tại chức...) đã dẫn đến tình trạng “học giả, bằng thật”. Có
thể nói đây là khâu yếu nghiêm trọng của giáo dục không chính quy ở nước ta. Bên cạnh
đó, các chương trình giáo dục từ xa vẫn đang trong quá trình xây dựng, tiến độ còn chậm,
chất lượng còn thấp. Đội ngũ giáo viên không chính quy nhìn chung còn thiếu và trình độ
thấp; cơ sở vật chất còn nghèo nàn, điều kiện để tổ chức thực hành, thực nghiệm còn rất
hạn chế.
1.3. Giáo dục Việt Nam thời kì đổi mới căn bản, toàn diện (từ năm 2011
đến nay).
a/ Bối cảnh đổi mới
Sau hơn hai thập kỉ đầu của thế kỉ XXI thực hiện các định hướng chiến lược phát
triển giáo dục – đào tạo trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lĩnh vực giáo
dục và đào tạo nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bước sang thời kì mới, nền giáo dục
Việt Nam bước vào quỹ đạo được định danh là “đổi mới căn bản và toàn diện giáo
dục.”
b/ Quan điểm và nội dung đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Tháng 01/2011, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã diễn ra. Nghị
quyết Đại hội đã khẳng định: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới
căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã
hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo
dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then chốt.”
Thể chế hóa chủ trương của Đảng, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 88
ngày 28/11/2014 về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Nội
dung đổi mới của Nghị quyết thể hiện các vấn đề sau:
a) Mục tiêu giáo dục phổ thông là tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành
phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề
nghiệp cho học sinh.
b) Giáo dục phổ thông 12 năm, gồm hai giai đoạn giáo dục: giai đoạn giáo dục cơ
bản (gồm cấp tiểu học 5 năm và cấp trung học cơ sở 4 năm) và giai đoạn giáo dục
định hướng nghề nghiệp (cấp trung học phổ thông 3 năm).
c) Đổi mới nội dung giáo dục phổ thông theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực,
phù hợp với lứa tuổi, trình độ và định hướng nghề nghiệp; tăng thực hành, vận dụng
kiến thức vào thực tiễn; tích hợp cao ở các lớp học dưới và phân hóa dần ở các lớp
học...
d) Chương trình giáo dục phổ thông phải phù hợp với điều kiện thực tiễn về đội ngũ
giáo viên, cơ sở vật chất, kĩ thuật của nhà trường và khả năng tiếp thu của học sinh.
e) Tiếp tục đổi mới phương pháp giáo dục theo hướng: phát triển toàn diện năng lực
và phẩm chất của người học; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, bồi dưỡng
phương pháp tự học, hứng thú học tập, kĩ năng hợp tác, làm việc nhóm và khả năng
tư duy độc lập, đa dạng hóa hình thức tổ chức học tập...
f) Đổi mới căn bản phương pháp đánh giá chất lượng giáo dục theo hướng hỗ trợ
phát triển phẩm chất và năng lực học sinh.
g) Sách giáo khoa cụ thể hóa các yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thông về
nội dung giáo dục, yêu cầu về phẩm chất và năng lực học sinh.
Như vậy, ở lần đổi mới này, lần đầu tiên Việt Nam thực hiện mục tiêu giáo dục
định hướng phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh. Nghị quyết 88 quy định cả
nước thực hiện một chương trình giáo dục phổ thông thống nhất nhưng mềm dẻo,
linh hoạt; chương trình là gốc, sách giáo khoa chỉ có vai trò là tài liệu dạy – học và có
nhiều sách cho mỗi môn học. Nghị quyết 88 có mục tiêu rất rõ, đó là chuyển đổi cơ
bản, phương thức, mục tiêu từ dạy kiến thức sang phát triển năng lực của học sinh, từ
dạy chữ sang dạy người.
III. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN ĐỔI MỚI CĂN BẢN, TOÀN DIỆN GIÁO DỤC
VÀ ĐÀO TẠO.
Theo tinh thần của Nghị quyết số 88/2014/QH13, ngày 26/12/2018, Bộ Giáo dục và
Đào tạo ban hành Chương trình giáo dục phổ thông mới.
- Yêu cầu cần đạt về phẩm chất: Chương trình giáo dục phổ thông 2018 nhằm hình
thành và phát triển cho học sinh những phẩm chất chủ yếu sau: yêu nước, nhân ái,
chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm.
- Yêu cầu cần đạt về năng lực:
+ Những năng lực chung bao gồm năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và
hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo.
+ Những năng lực đặc thù bao gồm năng lực ngôn ngữ, năng lực tính toán, năng lực
khoa học, năng lực công nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mĩ, năng lực thể chất.
Bên cạnh việc hình thành và phát triển các năng lực cốt lõi, Chương trình giáo dục
phổ thông 2018 còn góp phần phát hiện, bồi dưỡng năng khiếu của học sinh.
Nhìn một cách tổng thể, những điểm mới cơ bản của Chương trình giáo dục phổ thông
2018 là:
- Chương trình giáo dục phổ thông 2018 được xây dựng theo mô hình phát triển
năng lực.
- Chương trình giáo dục phổ thông 2018 được thiết kế thành hai giai đoạn (giáo
dục cơ bản và giáo dục định hướng nghề nghiệp); tích hợp cao ở các lớp học dưới,
phân hóa dần ở các lớp học trên.
- Phát triển phẩm chất và năng lực người học thông qua các phương pháp, hình
thức tổ chức giáo dục nhằm phát huy tính chủ động và tiềm năng của mỗi học sinh.
- Thực hiện một chương trình thống nhất, linh hoạt, mở, nhiều sách giáo khoa.
- Đẩy mạnh phân cấp, nâng cao trách nhiệm, tạo động lực và tính chủ động, sáng
tạo của các cơ sở giáo dục, cán bộ quản lí, giáo viên thông qua phát triển chương
trình giáo dục phổ thông (xây dựng kế hoạch giáo dục).
Việc triển khai thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đã có nhiều kết quả
tích cực, cụ thể như sau:
Thứ nhất, kết quả học tập và rèn luyện của học sinh học theo Chương trình giáo
dục phổ thông 2018 đã có những chuyển biến tích cực, bước đầu đã được khẳng
định, tạo niềm tin trong giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh và xã hội.
Thứ hai, các nhà trường đã chú trọng đổi mới công tác quản trị trường học theo
hướng phát huy tính chủ động, linh hoạt của nhà trường và năng lực tự chủ, sáng tạo
của tổ chuyên môn, giáo viên.
Thứ ba, việc khai thác, sử dụng sách giáo khoa, các nguồn học liệu, thiết bị giáo
dục hiệu quả, phù hợp với thực tiễn; vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức
tổ chức dạy học, kiểm tra, đánh giá.
Nhìn một cách tổng quát, những lần đổi mới và cải cách giáo dục trước đây dù đã đưa
nền giáo dục nước ta có nhiều tiến bộ hơn so với trước đó nhưng đối chiếu với những yêu
cầu của thời đại và của nhân loại thì nền giáo dục nước ta vẫn chậm bước. Công cuộc đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục hiện nay đã hướng tới mục tiêu lớn lao: Phát triển giáo
dục không ngừng nhằm đáp ứng nhu cầu của con người, nâng cao khả năng lựa chọn cho
con người và mở rộng cơ hội lựa chọn cho con người với mục tiêu nhất quán: Hạnh phúc
của người học, phồn vinh của cộng đồng, tiến bộ của đất nước
*Nhận diện và khai thông các “điểm nghẽn” để giáo dục và đào tạo trở thành động
lực quan trọng cho sự phát triển bền vững.
Nhận diện:
Thứ hai, chất lượng giáo dục không đều giữa các vùng miền; việc thực hiện
quan điểm phát triển giáo dục – đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội và những tiến bộ khoa học – công nghệ chưa đạt hiệu quả cao.
Thứ ba, vấn để đa dạng hóa các loại hình trường lớp và hiệu quả quản lí các
loại hình trường lớp và hình thức đào tạo.
Thứ tư, nguồn lực và cơ chế tài chính cho giáo dục và đạo tạo vẫn đang là
“điểm nghẽn” lớn nhất.
Khai thông và chuyển hóa “điểm nghẽn” thành động lực của sự phát triển
bền vững giáo dục và đào tạo.
Đây là một nhiệm vụ quan trọng của giáo dục và đào tạo trong giai đoạn 2021 –
2030, tầm nhìn đến năm 2050.
- Một là, đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực
hiện có hiệu quả nền giáo dục phát triển năng lực.
- Hai là, huy động tổng lực các nguồn lực để đầu tư có trọng điểm, tạo bước đột
phá cho phát triển giáo dục và đào tạo.
- Ba là, có giải pháp đột phá để thúc đẩy phát triển giáo dục và đào tạo gắn kết
chặt chẽ với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.