You are on page 1of 23

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI


----------

BÀI TẬP NHÓM

MÔN: LUẬT NGÂN HÀNG


ĐỀ BÀI: 05

Đề bài 05: Vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong duy trì sự ổn định hệ

thống ngân hàng tại Việt Nam sau khủng hoảng kinh tế 2008.

LỚP : N01.TL2
NHÓM : 08

Hà Nội, 12/2023
BIÊN BẢN ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THAM GIA LÀM BÀI TẬP NHÓM
Ngày: 6/12/2023 Địa điểm: Trường Đại học Luật Hà Nội
Nhóm: 08 Lớp: N01.TL2 Khóa: 46 Khoa: Luật Kinh tế
Tổng số sinh viên của nhóm: 05
+ Có mặt: 05 + Vắng mặt: 0
Nội dung: xác định mức độ tham gia và kết quả tham gia làm bài tập nhóm
Tên bài tập: Đề bài tập 05
Môn học: Luật Ngân hàng
Xác định mức độ tham gia và kết quả tham gia của từng sinh viên trong việc thực
hiện bài tập nhóm. Kết quả như sau:
Đánh giá của
SV Đánh giá của GV
SV
STT Mã SV Họ và tên ký
Điểm Điểm GV ký
A B C tên
(số) (chữ) tên
1. 461839 Đinh Lưu Như A
Nguyễn Ngọc Phương A
2. 461841
Phương
3. 461842 Nguyễn Minh Quân A
4. 461843 Phùng Ngọc Quý A
5. 461844 Vi Ngọc Yến Quỳnh A

- Kết quả điểm bài viết:....................... Hà Nội, ngày 6 tháng 12 năm 2023

- Kết quả điếm thuyết trình:.................. TRƯỞNG NHÓM

- Giáo viên cho thuyết trình:................

- Điểm kết luận cuối cùng:................... Nguyễn Ngọc Phương


Phương

- Giáo viên đánh giá cuối cùng:..............


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Chính sách tiền tệ – CSTT


Ngân hàng nhà nước – NHNN
Tổ chức tín dụng – TCTD
Ngân hàng thương mại – NHTM
Ngân hàng trung ương – NHTW
Thương mại cổ phần – TMCP
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU........................................................................................1
B. NỘI DUNG.....................................................................................1
I. Một số khái niệm.......................................................................................1
1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam...........................................................1
1.1. Định nghĩa.......................................................................................1
1.2. Cơ cấu tổ chức.................................................................................2
1.3. Chức năng........................................................................................2
2. Ổn định hệ thống ngân hàng................................................................3
II. Vai trò của NHNN đối với sự ổn định hệ thống ngân hàng sau khủng
hoảng kinh tế................................................................................................4
1. Chính sách tiền tệ với ổn định ngân hàng...........................................4
2. Ngân hàng Nhà nước từng bước triển khai chính sách giám sát an
toàn vĩ mô...................................................................................................6
3. Thực hiện các quy định khác trong việc duy trì ổn định ngân hàng7
III. Đánh giá vai trò của NHNN đối với ổn định hệ thống ngân hàng....8
1. So sánh hoạt động của NHNN trước và sau khủng hoảng................8
2. Các kết quả đạt được hậu khủng hoảng.............................................9
3. Bài học kinh nghiệm...........................................................................10
C. KẾT LUẬN...................................................................................14
PHỤ LỤC..........................................................................................15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................17
A. MỞ ĐẦU
Trước đây, khi điều hành chính sách tiền tệ (CSTT), Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) luôn đề ra mục tiêu chính sách là ổn định giá trị đồng tiền, được biểu
hiện bằng chỉ tiêu lạm phát (Luật NHNN 2010). Tuy nhiên, từ sau khủng
hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đã chứng minh, ổn định giá trị đồng tiền,
hay ổn định giá không đủ để duy trì ổn định hệ thống tài chính, một cú sốc
dường như không quá nghiêm trọng phát sinh từ một tổ chức tài chính đơn lẻ
có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng cho hệ thống tài chính một quốc gia, thậm
chí toàn cầu. Vậy tại Việt Nam, NHNN có vai trò gì trong việc duy trì ổn
định hệ thống ngân hàng sau khủng hoảng tài chính năm 2008? Bài làm của
nhóm dưới đây sẽ làm rõ vai trò của NHNN trong duy trì sự ổn định hệ thống
ngân hàng tại Việt Nam sau khủng hoảng kinh tế 2008. Từ đó, bằng những
kiến thức đã được giảng dạy, nhóm em sẽ đưa ra đánh giá và rút ra bài học
kinh nghiệm.

B. NỘI DUNG

I. Một số khái niệm

1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

1.1. Định nghĩa

Khoản 1 và 2 Điều 2 Luật NHNN Việt Nam quy định như sau: “Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là Ngân hàng Nhà nước) là cơ quan
ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng trung ương của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.Ngân hàng Nhà nước là pháp nhân, có vốn pháp
định thuộc sở hữu nhà nước, có trụ sở chính tại Thủ đô Hà Nội.”

1
Với quy định của Luật NHNN Việt Nam hiện hành, về bản chất NHNN
chỉ được coi như là cơ quan hành chính nhà nước giống như các bộ khác chứ
không nghiêng về việc thực hiện chức năng của một NHTW.

1.2. Cơ cấu tổ chức

Căn cứ theo Điều 3 Nghị định số 102/2022/NĐ-CP quy định về cơ cấu


tổ chức của NHNN, đứng đầu bộ máy tổ chức là Thống đốc ngân hàng Việt
Nam, tiếp theo là các phó Thống đốc và cuối cùng là các đơn vị hành chính và
các đơn vị sự nghiệp. NHNN gồm: 20 đơn vị hành chính giúp Thống đốc
NHNN thực hiện chức năng quản lý nhà nước và chức năng NHTW; và 5 đơn
vị sự nghiệp phục vụ chức năng quản lý nhà nước của NHNN.

1.3. Chức năng

Căn cứ theo Điều 1 Nghị định số 102/2022/NĐ-CP quy định NHNN


Việt Nam thực hiện các chức năng sau đây: “Ngân hàng Nhà nước thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối
(sau đây gọi là tiền tệ và ngân hàng); thực hiện chức năng của Ngân hàng
trung ương về phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung
ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc
phạm vi quản lý của Ngân hàng Nhà nước.”

Như vậy, NHNN vừa có tư cách pháp lý của cơ quan quản lý nhà nước
chuyên ngành vừa có tư cách pháp lý của NHTW nên chức năng của nó cũng
được pháp luật quy định theo hai phương diện: Chức năng quản lý nhà nước
và chức năng NHTW.

Thứ nhất, với tư cách là cơ quan của Chính phủ, NHNN có chức năng
quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, khác với các
Bộ khác thì NHNN quản lý nhà nước không chỉ bằng các biện pháp hành

2
chính mà chủ yếu bằng các biện pháp kinh tế thông qua hoạt động của mình
và đem về cho ngân sách nhà nước nguồn thu.

Thứ hai, với tư cách là NHTW, NHNN còn có các chức năng sau: Là
ngân hàng duy nhất phát hành tiền của Việt Nam; Là ngân hàng của tổ chức
tín dụng thực hiện mở tài khoản nhận tiền gửi cho vay, thực hiện các giao
dịch thanh toán cho các tổ chức tín dụng hoặc cho hệ thống kho bạc; Là ngân
hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.

2. Ổn định hệ thống ngân hàng

Thông thường, ngân hàng sẽ liên kết chặt chẽ với mọi khía cạnh lĩnh
vực cuộc sống và hoạt động hằng ngày của người dân. Bất kỳ sự gián đoạn
lớn nào của hoạt động ngân hàng cũng làm ảnh hưởng đến hoạt động của
người dân. Do đó, sự ổn định của hệ thống ngân hàng là rất quan trọng để tạo
môi trường làm việc, kinh doanh thuận lợi cho nhà đầu tư, bảo vệ khách hàng
gửi tiền đồng thời giúp nền kinh tế hoạt động trơn tru và hiệu quả.

Ngoài ra, ổn định hệ thống ngân hàng cũng là tiền đề để các trung gian
tài chính phát huy sức mạnh, giảm thiểu rủi ro hệ thống và giúp hệ thống ngân
hàng hoạt động an toàn, ít biến động và có khả năng hấp thụ các cú sốc của
nền kinh tế. Khi làm được điều này, ổn định hệ thống ngân hàng sẽ góp phần
củng cố niềm tin của người dân đối với hệ thống ngân hàng nói riêng và hệ
thống tài chính nói chung; khuyến khích người dân gửi tiền tại ngân hàng và
gia tăng sử dụng các giao dịch ngân hàng.

Như vậy, có thể thấy rằng, khi hệ ngân hàng ổn định, không chỉ hoạt
động của ngân hàng mà hoạt động của tất cả các chủ thể khác trong nền kinh
tế đều có thể diễn ra trơn tru, hiệu quả. Nhà nước dễ dàng điều tiết nền kinh
tế, lạm phát duy trì ở mức thấp, nền kinh tế quốc gia được cải thiện, đời sống

3
người dân được nâng cao. Kết quả là nâng cao sức cạnh tranh quốc gia trên
trường quốc tế.

II. Vai trò của NHNN đối với sự ổn định hệ thống ngân hàng sau khủng
hoảng kinh tế

1. Chính sách tiền tệ với ổn định ngân hàng


CSTT nhằm vào hai mục tiêu là lãi suất và lượng cung tiền, tuy nhiên
thường không thể thực hiện đồng thời hai mục tiêu này. Chỉ để điều tiết chu
kỳ kinh tế ở tình trạng bình thường, thì mục tiêu lãi suất được lựa chọn. Còn
khi kinh tế quá nóng hay kinh tế quá lạnh, CSTT sẽ nhằm vào mục tiêu trực
tiếp hơn, đó là lượng cung tiền. Tùy theo mục tiêu, NHNN có thể sử dụng
CSTT mở rộng hoặc CSTT thu hẹp. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính
phủ và căn cứ vào tình hình thực tế, ngay từ đầu năm 2008, NHNN đã điều
hành CSTT theo hướng thắt chặt để kiềm chế tốc độ tăng tổng phương tiện
thanh toán và kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng nhằm đảm bảo mức tăng
tổng dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng không vượt quá 30%. Để thực
hiện mục tiêu này, NHNN đề ra những giải pháp và biện pháp cụ thể:
Thứ nhất, NHNN chỉ đạo các TCTD kiểm soát chặt chẽ những lĩnh
vực cho vay có rủi ro cao như đầu tư kinh doanh chứng khoán, bất động sản.
Trước hết là thông qua việc siết chặt lại các điều kiện được cho vay và khống
chế tổng dư nợ cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư kinh doanh chứng
khoán không được vượt quá 20% vốn điều lệ của TCTD. Tiếp theo, NHNN
yêu cầu các TCTD khống chế tỷ trọng và tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay
bất động sản ở mức hợp lý so với tổng dư nợ và nguồn vốn cho vay. Đồng
thời, NHNN còn ban hành mới cơ chế cho vay bằng ngoại tệ của TCTD theo
hướng chặt chẽ hơn nhằm hạn chế cho vay đối với nhu cầu không nhất thiết
phải sử dụng vốn ngoại tệ.1 NHNN đã can thiệp thị trường ngoại hối với mức
1
TS. Nguyễn Thị Kim Thanh (2009), Cổng thông tin Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, “Điều hành chính sách tiền tệ
năm 2008 và khuyến nghị chính sách năm 2009 (Số 1+2/2009)”, link truy cập:
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/apph/tcnh/tcnh_chitiet?
leftWidth=20%25&showFooter=false&showHeader=false&dDocName=CNTHWEBAP01162521090&rightWidth=0%2
5&centerWidth=80%25&_afrLoop=37461078679551023#%40%3F_afrLoop%3D37461078679551023%26centerWidth

4
tỷ giá mua vào và bán ra được điều chỉnh linh hoạt. Trong thời điểm thị
trường dư cầu, NHNN đã kịp thời bán ngoại tệ can thiệp, hạ nhiệt thị trường.
Trong thời điểm thị trường dư cung, NHNN mua ngoại tệ vào ở mức hợp lý,
bảo đảm tỷ giá không giảm sâu, nhằm thực hiện mục tiêu kiềm chế nhập siêu.
Trong hoạt động can thiệp, NHNN đã kết hợp đa dạng, linh hoạt các hình
thức can thiệp. Bên cạnh can thiệp trực tiếp, lần đầu tiên NHNN áp dụng hình
thức can thiệp gián tiếp để ổn định tâm lý thị trường. Với sự phối hợp tốt giữa
NHNN với các NHTM, hình thức can thiệp này đã nhanh chóng phát huy hiệu
quả, đưa hệ thống ngân hàng bình ổn trở lại.
Thứ hai, NHNN sử dụng các công cụ của CSTT như lãi suất, tỷ giá, dự
trữ bắt buộc, thị trường mở để điều tiết lượng vốn khả dụng của các NHTM
và từ đó tác động lên khả năng cung vốn ngân hàng ra thị trường theo mục
đích đặt ra và thu hút mạnh tiền từ lưu thông về. Để thực hiện hoạt động này,
cụ thể NHNN đã tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc (trừ Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn và các TCTD hoạt động trên địa bàn nông thôn). Bên
cạnh đó, NHNN điều chỉnh giảm dần các mức lãi suất chủ đạo (lãi suất cơ bản
giảm từ 14%/năm xuống 13%/năm hiện nay là 8,5%/năm, tương đương với
đầu năm 2008, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 15%/năm xuống 14%/năm; lãi suất
tái chiết khấu giảm từ 13%/năm xuống 12%/năm, lãi suất cho vay qua đêm
trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong
thanh toán bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng giảm từ 15%/năm xuống
14%/năm); và tiếp tục giảm các mức lãi suất trên trong tháng 12/2008 ở mức
hợp lý. Tăng lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam đối với tổ
chức tín dụng từ 5%/năm tăng lên 10%/năm. Tiếp theo, tăng khối lượng bán
tín phiếu trên nghiệp vụ thị trường mở và phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu
bắt buộc đối với các TCTD có quy mô vốn huy động bằng VND trên 1.000 tỷ
đồng (trừ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Quỹ tín dụng

%3D80%2525%26dDocName%3DCNTHWEBAP01162521090%26leftWidth%3D20%2525%26rightWidth
%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3D11jn9iin2v_120, truy cập lần
cuối ngày 2/12/2023.

5
nhân dân Trung ương); tiếp tục hỗ trợ các NHTM có khả năng đảm bảo thanh
khoản ở mức cao; điều tiết lãi suất huy động và cho vay của NHTM theo
hướng ổn định và giảm dần.

2. Ngân hàng Nhà nước từng bước triển khai chính sách giám sát an toàn
vĩ mô
Giám sát an toàn vĩ mô là hoạt động giám sát hệ thống ngân hàng nhằm
phát hiện sớm và xử lý kịp thời các rủi ro mang tính hệ thống, có thể gây ra sự
bất ổn cho toàn bộ hệ thống ngân hàng và nền kinh tế.
Do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới diễn ra trong năm 2008 và
khó có thể khắc phục trong năm 2009, xuất khẩu của Việt Nam sẽ gặp nhiều
khó khăn hơn. Bên cạnh đó, kiều hối cũng như luồng vốn đầu tư nước ngoài
cũng bị ảnh hưởng bởi suy thoái kinh tế thế giới. Tuy nhiên, NHNN đã phối
hợp với các Bộ, ngành phân tích, dự báo các kịch bản khác nhau của nền kinh
tế, kể cả các kịch bản xấu nhất. NHNN còn phối hợp với NHTM theo dõi chặt
chẽ diễn biến trên thị trường tài chính, tiền tệ thế giới, đánh giá, nhận định về
các khả năng có thể xảy ra đối với nền kinh tế và thị trường tiền tệ Việt Nam
để dự báo, có phương án và thực hiện các biện pháp để xử lý các tình huống
rủi ro có thể xảy ra, cụ thể như sau:
Trước hết, NHNN ban hành Chỉ thị số 05/2008/CT-NHNN ngày
9/10/2008 về một số biện pháp đảm bảo an toàn, hiệu quả hoạt động kinh
doanh của TCTD; trong đó, chỉ đạo các TCTD theo dõi, dự báo và chủ động
các biện pháp để ngăn ngừa rủi ro có thể xảy ra; chấp hành đúng các quy định
về tỷ lệ an toàn; kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng, chú trọng phân tích,
đánh giá, phân tích dự báo sát những biến động về cung cầu ngoại tệ trên thị
trường có thể gây áp lực lên tỷ giá, có biện pháp can thiệp kịp thời để ổn định
cung - cầu ngoại tệ và bình ổn tỷ giá trên thị trường. Ngoài ra, căn cứ Nghị
quyết số 30/2008/NQ-CP, Ngân hàng nhà nước tiếp tục ban hành thông tư
05/2009/TT-NHNN quy định chi tiết việc hỗ trợ lãi suất đối với các tổ chức,

6
cá nhân vay vốn trung, dài hạn ngân hàng để thực hiện đầu tư mới để phát
triển sản xuất – kinh doanh với mục đích giảm chi phí đầu tư, tăng tài sản cố
định và năng lực sản xuất – kinh doanh, khả năng cạnh tranh sản phẩm, tạo
việc làm.
Tiếp theo, NHNN đã triển khai các công cụ giám sát an toàn vĩ mô, bao
gồm: Giám sát các chỉ số rủi ro vĩ mô; Giám sát các TCTD có tầm quan trọng
hệ thống (D-SIBs); Giám sát các mối liên hệ chéo giữa các TCTD.
Đồng thời, đối với việc quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nước, ngay sau
khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ và một số nước, NHNN đã chủ
động thực hiện các biện pháp theo hướng ưu tiên cho đảm bảo an toàn và
thanh khoản ở mức cao, thứ đến là sinh lời, bằng việc điều khiển các khoản
đầu tư tiền gửi tại các ngân hàng sang NHTW các nước phát triển. 2 Sau khi
giảm (từ 16,5 tỷ USD năm 2009 xuống còn 12,5 tỷ USD năm 2010) do tác
động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu, dự trữ ngoại hối
từ năm 2011 đến nay đã tăng liên tục. Quy mô hiện nay đã cao gấp gần 8,8
lần năm 2010, gấp gần 3,9 lần năm 2015. Từ năm 2018 trở về trước, dự trữ
ngoại hối so với số tháng nhập khẩu còn ở mức thấp (2010 là 1,8 tháng, 2015
là 2,1 tháng, 2018 là 2,8 tháng), thì từ năm 2019 đã vượt qua mốc 3 tháng
(2019 là 3,7 tháng, 2020 là 4,3 tháng, 2021 là 3,8 tháng), tức là Việt Nam đã
vượt qua ranh giới an toàn về thanh toán trong quan hệ buôn bán với nước
ngoài.

3. Thực hiện các quy định khác trong việc duy trì ổn định ngân hàng
Ngoài giám sát an toàn vĩ mô, NHNN còn thực hiện các quy định khác
trong việc duy trì ổn định ngân hàng, bao gồm:
Một là, NHNN đã ban hành nhiều quy định về quản lý rủi ro, nhằm
giúp các ngân hàng nâng cao năng lực quản lý rủi ro, từ đó giảm thiểu rủi ro
2
PGS., TS. Nguyễn Đình Tự (2009), Cổng thông tin Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, “Ngành Ngân hàng Việt nam
trước diễn biến của khủng hoảng tài chính thế giới”, link truy cập:
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/fm/ddnhnn/nctd/nctd_chitiet?
leftWidth=20%25&showFooter=false&showHeader=false&dDocName=CNTHWEBAP01162524986&rightWidth=0%2
5&, truy cập lần cuối ngày 2/12/2023.

7
cho hệ thống ngân hàng, bao gồm: Quy định về quản lý rủi ro tín dụng; Quy
định về quản lý rủi ro thị trường; Quy định về quản lý rủi ro thanh khoản;
Quy định về quản lý rủi ro hoạt động; Quy định về quản lý rủi ro pháp lý.
Hai là, NHNN đã ban hành nhiều quy định về vốn và tài chính, giúp
các ngân hàng đảm bảo mức vốn và tài chính tối thiểu, từ đó tăng cường khả
năng chống chịu rủi ro, bao gồm: Quy định về tỷ lệ an toàn vốn; Quy định về
tỷ lệ dự trữ bắt buộc; Quy định về tỷ lệ an toàn thanh khoản.
Ba là, NHNN đã ban hành nhiều quy định về công bố thông tin, giúp
các nhà đầu tư và khách hàng có thể tiếp cận thông tin đầy đủ và chính xác về
các ngân hàng, từ đó đưa ra quyết định đầu tư và sử dụng dịch vụ một cách
hiệu quả bao gồm: Quy định về công bố thông tin của ngân hàng; Quy định
về công bố thông tin của tổ chức tín dụng phi ngân hàng.
Bốn là, NHNN đã ban hành nhiều quy định về xử lý ngân hàng yếu
kém, bao gồm: Quy định về xử lý nợ xấu; Quy định về tái cơ cấu ngân hàng.

III. Đánh giá vai trò của NHNN đối với ổn định hệ thống ngân hàng

1. So sánh hoạt động của NHNN trước và sau khủng hoảng


Trước khủng hoảng, hoạt động của NHNN Việt Nam chủ yếu tập trung
vào việc kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. NHNN đã thực hiện các
chính sách tiền tệ thắt chặt, bao gồm tăng lãi suất, giảm cung tiền, nhằm kiểm
soát lạm phát ở mức thấp. Các chính sách này đã giúp Việt Nam kiểm soát
được lạm phát ở mức thấp trong những năm trước khủng hoảng.
Các chính sách tiền tệ thắt chặt cũng đã làm giảm tốc độ tăng trưởng
kinh tế. Bên cạnh đó, NHNN cũng chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc
quản lý rủi ro tài chính. Điều này đã khiến cho hệ thống ngân hàng Việt Nam
có một số tồn tại, như: nợ xấu của các ngân hàng còn cao, đặc biệt là nợ xấu
của doanh nghiệp; hệ thống ngân hàng còn thiếu vốn, chưa đáp ứng được nhu
cầu tín dụng của nền kinh tế; hệ thống ngân hàng chưa có sự phân biệt rõ ràng
giữa các loại hình ngân hàng, dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh.

8
Sau khủng hoảng, NHNN đã có những thay đổi tích cực trong hoạt
động của mình, nhằm ứng phó với những thách thức mới và góp phần phát
triển ổn định và bền vững của hệ thống ngân hàng.
Thứ nhất, về kiểm soát lạm phát, NHNN đã điều chỉnh linh hoạt các
chính sách tiền tệ, nhằm đáp ứng với nhu cầu của nền kinh tế. Trong giai đoạn
nền kinh tế suy giảm, NHNN đã thực hiện các chính sách tiền tệ nới lỏng, bao
gồm giảm lãi suất, tăng cung tiền, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp và người dân
vượt qua khó khăn. Khi nền kinh tế phục hồi, NHNN đã tiếp tục thực hiện các
chính sách tiền tệ thắt chặt, nhằm kiểm soát lạm phát ở mức hợp lý.
Thứ hai, về quản lý rủi ro tài chính, NHNN đã tăng cường các biện
pháp quản lý rủi ro, nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của khủng hoảng
tài chính đến hệ thống ngân hàng. Cụ thể, NHNN đã thực hiện các biện pháp
như: Siết chặt các quy định về cấp tín dụng, đặc biệt là đối với các khoản tín
dụng lớn; tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của các ngân
hàng; thành lập các công ty quản lý tài sản (VAMC) để xử lý nợ xấu của các
ngân hàng.
Thứ ba, về phát triển hệ thống ngân hàng, NHNN đã có những biện
pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của hệ thống ngân hàng, bao
gồm: tăng cường cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng; hỗ trợ các ngân
hàng nhỏ và vừa phát triển; thúc đẩy hội nhập quốc tế của hệ thống ngân
hàng.

2. Các kết quả đạt được hậu khủng hoảng


Thứ nhất, những biện pháp của Chính phủ về đối phó với cuộc khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu được NHNN thực hiện trong giai
đoạn 2006 - 2010 đã góp phần kiềm chế lạm phát năm 2007 ở mức 12,63%;
năm 2008 là 19,9% và năm 2010 là 11,75%, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô
và ngăn chặn đà suy giảm tăng trưởng kinh tế. Kinh tế của Việt Nam trong

9
các năm 2008 - 2010 vẫn tăng trưởng dương (riêng năm 2010 tăng trưởng đạt
6,78%, vượt mục tiêu 6,5% đề ra).
Thứ hai, tuy nhiên, việc điều hành chính sách tài khóa mở rộng và
chính sách tiền tệ nới lỏng cùng với các nguyên nhân khách quan, chủ quan
khác đã đẩy giá cả tăng khá cao, ảnh hưởng không thuận lợi đối với việc kiểm
soát lạm phát các năm tiếp theo; tỉ giá diễn biến phức tạp; dự trữ ngoại tệ sụt
giảm; thị trường tiền tệ có nhiều dấu hiệu bất ổn do cạnh tranh thiếu lành
mạnh; hoạt động của các TCTD tiềm ẩn nhiều rủi ro, chất lượng tín dụng
giảm, nợ xấu tăng, thanh khoản gặp khó khăn.
Thứ ba, kkhung khổ pháp lý về hoạt động ngân hàng tiếp tục được hoàn
thiện: Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật NHNN và Luật Các
TCTD ngày 16/6/2010, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011. Hai Luật này
đã tạo nền tảng pháp lý mới, góp phần nâng cao vị thế, trách nhiệm, quyền
hạn của NHNN trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia,
bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các TCTD; đồng thời, phù
hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết và thông lệ,
chuẩn mực quốc tế về ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống ngân
hàng Việt Nam hội nhập quốc tế.

3. Bài học kinh nghiệm


Thực tế ứng phó với một năm khủng hoảng kinh tế của thế giới và Việt
Nam khẳng định vai trò can thiệp và điều tiết kinh tế, ổn định hệ thống ngân
hàng của NHNN là không thể thiếu. Thực tiễn chứng minh nhằm đáp ứng
điều kiện của từng giai đoạn, NHNN không thể áp dụng mãi một biện pháp
mà cần phải có sự thay đổi. Cụ thể, sự ứng phó linh hoạt được thể hiện qua
từng thời kì như sau:
Thứ nhất, giai đoạn từ năm 2008 - 2011.
Nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh lạm phát cơ bản đã
được kiềm chế, tỷ giá diễn biến ổn định, chính sách tiền tệ đã được NHNN

10
nới lỏng thông qua việc giảm các mức lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu bắt
đầu từ tháng 10/2008. Lãi suất tái chiết khấu giảm nhiều lần từ 13% trong
tháng 6/2008 xuống còn 6% trong tháng 12/2009 và giữ nguyên cho hết tháng
11/2010. Lãi suất tái cấp vốn cũng giảm nhiều lần, từ 15% trong tháng 6/2008
xuống còn 8% vào tháng 12/2009 và giữ nguyên đến hết tháng 12/2010. Tỷ lệ
dự trữ bắt buộc VND đối với tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi dưới 12 tháng
đã giảm từ 11% xuống 10% (ngày 05/11/2008), 8% (ngày 20/11/2008), 6%
(ngày 05/12/2008), 5% (tháng 01/2009) và 3% (tháng 03/2009).3
Bên cạnh kết quả đạt được, việc nới lỏng chính sách tiền tệ khiến cho
tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng đang ở mức cao, ảnh hưởng
không thuận lợi đối với việc kiểm soát lạm phát, ổn định lãi suất thị trường
trong năm 2009 và kéo dài sang năm 2010. Mặt khác, tốc độ tăng của nguồn
vốn huy động từ các TCTD thấp hơn tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng đã
gây khó khăn cho các TCTD trong việc cân đối vốn. Do tác động của các giải
pháp kích thích kinh tế, nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp, hộ sản xuất
tăng cao, kéo theo tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng ở mức cao,
trong khi huy động vốn gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến khả năng cân đối
vốn của các TCTD. Lãi suất huy động tăng cao trong khi trần lãi suất cho vay
bị khống chế bởi lãi suất cơ bản làm chênh lệch giữa lãi suất huy động và cho
vay bị thu hẹp, gây khó khăn cho việc trích lập dự phòng rủi ro và ảnh hưởng
đến kết quả kinh doanh của các TCTD. Trong khi thị trường ngoại hối, thị
trường vàng và cán cân thanh toán quốc tế còn nhiều diễn biến không thuận
lợi, nhất là vấn đề cân đối cung - cầu ngoại tệ.
Do đó, NHNN phải thắt chặt chính sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô từ tháng 11/2010 thông qua các biện pháp như: Tăng lãi
suất tái cấp vốn, tái chiết khấu, tăng cường hút ròng trên thị trường mở, kiểm
soát tốc độ tăng trưởng tín dụng qua công cụ hạn mức tín dụng khi ban hành

3
Hồ Ngọc Tú (2016), Cổng thông tin điện tử Bộ Tài chính, “Chính sách tiền tệ nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế hậu
khủng hoảng tài chính năm 2008”, link truy cập: https://mof.gov.vn/webcenter/portal/btcvn/pages_r/l/tin-bo-tai-chinh?
dDocName=MOFUCM092172, truy cập lần cuối ngày 1/12/2023.

11
Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 01/3/2011 và Thông tư số 28/2011/TT-NHNN
ngày 01/9/2011.
Thứ hai, giai đoạn từ năm 2012 - 2015.
Bước sang năm 2012, lạm phát cơ bản được kiểm soát nhưng tăng
trưởng kinh tế có dấu hiệu giảm sút. Theo đó, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái
chiết khấu đã được NHNN điều chỉnh giảm 9 lần (từ tháng 3/2012 đến tháng
3/2014), đồng thời giảm trần lãi suất huy động tiền gửi ngắn hạn 7 lần, từ
14%/năm xuống 7%/ năm. Theo đó, lãi suất cho vay cũng được điều chỉnh
giảm. Bên cạnh đó, NHNN cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xử lý các
ngân hàng yếu kém trong giai đoạn này. NHNN Việt Nam có chức năng bảo
đảm an toàn hệ thống trên cơ sở an toàn của từng ngân hàng. Khi một ngân
hàng rơi vào các điều kiện theo quy định như nguy cơ mất khả năng chi trả,
mất khả năng thanh toán thì NHNN Việt Nam đặt ngân hàng đó vào tình trạng
kiểm soát đặc biệt. Trong giai đoạn tái cơ cấu hệ thống ngân hàng giai đoạn
2011 - 2015, NHNN Việt Nam lựa chọn phương án mua 03 ngân hàng, bao
gồm Ngân hàng TMCP Xây dựng (VNCB), Ngân hàng TMCP Dầu khí Toàn
cầu (GP Bank), Ngân hàng TMCP Đại Dương (Ocean Bank) với giá 0 đồng
và khuyến khích hoạt động mua bán và sáp nhập giữa các NHTM. Bên cạnh
mục đích tạo ra một hệ thống ngân hàng lành mạnh thông qua việc ngầm “xóa
sổ” ngân hàng yếu kém bởi hoạt động mua bán sáp nhập, NHNN còn muốn
loại bỏ sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng. Kết thúc năm 2015, hệ thống
NHTM Việt Nam đã giảm 6 ngân hàng. Việc giảm số lượng ngân hàng trong
hệ thống, đặc biệt là các NHTM nhỏ, yếu kém có thể làm giảm bớt các hành
vi cạnh tranh không lành mạnh trong hệ thống thường bắt nguồn từ các
NHTM nhỏ, giúp giảm nguy cơ rủi ro hệ thống.
Thứ ba, giai đoạn từ năm 2016 - nay.
Sau hai giai đoạn tái cơ cấu các TCTD, mặc dù mục tiêu chưa hoàn
toàn đạt như theo kế hoạch, nhất là các mục tiêu về xử lý nợ xấu, tuy nhiên,
điểm sáng trong hai lần thực hiện đề án tái cơ cấu hệ thống ngân hàng nằm ở

12
chỗ không để xảy ra đổ vỡ hệ thống, dần tạo dựng lại niềm tin cho người gửi
tiền và nâng cao hệ thống quản trị trong ngân hàng. Ngoài ra, để kiểm soát nợ
xấu, giai đoạn 2016-2020 đã có một bước tiến bộ vượt bậc so với thời gian
trước đó, chính là việc xuất hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14. Nghị quyết
này đã tạo ra một cơ chế từ pháp lý tới tài chính thông thoáng hơn đối với quá
trình xử lý nợ xấu và TSBĐ. NHNN đóng vai trò quan trọng trong quá trình
này khi ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện cũng như kiểm soát tăng
trưởng tín dụng thông qua công cụ hạn mức tín dụng. Mặc dù công cụ hạn
mức tín dụng đang bị phê phán là công cụ mang tính phi thị trường hay còn
gọi là áp chế tài chính nhưng trong giai đoạn tái cơ cấu gắn với xử lý nợ xấu,
cụ thể là bảo đảm chỉ tiêu về tỷ lệ nợ xấu thì ngoài việc xử lý khoản nợ xấu
còn phải chú trọng kiểm soát tốc độ tăng trưởng của dư nợ.
Tuy vậy, giai đoạn 2021 đến nay, nợ xấu tiềm ẩn gia tăng cũng do điều
kiện khách quan như dịch bệnh COVID-19, biến động địa chính trị như xung
đột Nga - Ukraine khiến tỷ lệ nợ xấu khó về đích khi kết thúc thời gian thực
hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14. Chính vì vậy, ngay trong mục tiêu đưa ra
trong Quyết định số 689/2022/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống
TCTD giai đoạn 2021 – 2025” nhấn mạnh phấn đấu đến năm 2025 tỷ lệ nợ
xấu nội bảng, nợ xấu đã bán cho công ty quản lý nợ, thu hồi và nợ tiềm ẩn trở
thành nợ xấu dưới 3% (không bao gồm các NHTM yếu kém). 4 Không những
thế, hạ lãi suất điều hành; tạo thanh khoản cho tổ chức tín dụng; tái cấu trúc
nợ, lãi đến hạn;... là những chính sách tiền tệ mạnh mẽ, linh hoạt, hiệu quả và
phù hợp mà NHNN đã triển khai trong 9 tháng đầu năm và tiếp tục duy trì
trong những tháng còn lại của năm 2023. Thực tế 9 tháng đầu năm 2023,
trong khi các ngân hàng trung ương khác tiếp tục tăng lãi suất hoặc phát tín
hiệu sẽ còn tăng, duy trì chính sách thắt chặt thì NHNN lại đảo ngược chính
4
TS. Trần Huy Tùng - TS. Lê Thị Minh Ngọc (2023), Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ, “Nhìn lại quá trình tái cơ
cấu hệ thống ngân hàng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2011 – 2022 và một số khuyến nghị”, link truy cập:
https://thitruongtaichinhtiente.vn/nhin-lai-qua-trinh-tai-co-cau-he-thong-ngan-hang-gan-voi-xu-ly-no-xau-giai-doan-
2011-2022-va-mot-so-khuyen-nghi-46666.html, truy cập lần cuối ngày 1/12/2023.

13
sách tiền tệ khi quyết định nới lỏng với 4 lần hạ lãi suất trong năm 2023. 5
Theo đại diện NHNN, trong thời gian qua, chính sách tiền tệ và hoạt động
ngân hàng đã được điều hành chắc chắn, chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu
quả, phối hợp hài hòa, hợp lý, chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính
sách kinh tế vĩ mô khác.

C. KẾT LUẬN
NHNN Việt Nam đã trải qua những thăng trầm, vượt qua nhiều khó
khăn cũng như tận dụng được những cơ hội quý báu và đạt được nhiều thành
tựu quan trọng: NHNN đã đổi mới mạnh mẽ về cơ cấu tổ chức, thực hiện tốt
vai trò quản lý nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng, tạo nền tảng pháp lý
tương đối đồng bộ cho các tổ chức tín dụng hoạt động an toàn và hiệu quả;
Bên cạnh đó, NHNN đã thực hiện tốt chức năng của NHTW, điều hành chính
sách tiền tề, chính sách tỷ giá và chính sách ngoại hối theo thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, NHNN thực hiện tốt vai trò
trung tâm thanh toán quốc gia, tạo được lòng tin của dân chúng đối với hệ
thống tiền tệ quốc gia; Và ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, góp phấn thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Mặc dù, phải đối mặt với
những yếu tố bất ổn định trên cả thị trường quốc tế và thị trường trong nước
(thị trường quốc tế giai đoạn từ 2004-2008: lạm phát tăng cao kéo theo sự
tăng giá của nhiều mặt hàng nguyên, nhiên vật liệu. Từ 2008-2009: khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu bắt nguồn từ Mỹ. Mặt khác, thị
trường trong nước tồn tại những khó khăn của sự yếu kém trong nhiều lĩnh
vực kinh tế - xã hội chậm được khắc phục, sự chống đối của các thế lực thù
địch, thiên tai dịch bệnh liên tiếp xảy ra) nhưng ngành Ngân hàng vẫn vượt
qua “sóng gió” và thực hiện tốt vai trò của mình trong việc duy trì ổn định hệ
thống ngân hàng.

5
Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ (2023), “11 giải pháp mở rộng tín dụng của Ngân hàng Nhà nước năm 2023”,
link truy cập: https://thitruongtaichinhtiente.vn/11-giai-phap-mo-rong-tin-dung-cua-ngan-hang-nha-nuoc-nam-2023-
50423.html, truy cập lần cuối ngày 1/12/2023.

14
15
PHỤ LỤC
1.

Diễn biến lãi suất cơ bản từ cuối năm 2005 đến cuối năm 2010 (đơn vị: %).
2.

Chính sách tiền tệ NHNN Việt Nam so với nước ngoài giai đoạn 2010 – 2023.

16
3.

Lãi suất tái cấp vốn giai đoạn cuối năm 2011 đến cuối năm 2019 (đơn vị %).

17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam / Trường Đại học Luật Hà Nội; Võ
Đình Toàn chủ biên; NXB Công an nhân dân.
2. TS. Nguyễn Thị Kim Thanh (2009), Cổng thông tin Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam, “Điều hành chính sách tiền tệ năm 2008 và khuyến nghị chính
sách năm 2009 (Số 1+2/2009)”, link truy cập:
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/apph/tcnh/tcnh_chitiet?
leftWidth=20%25&showFooter=false&showHeader=false&dDocName=CNT
HWEBAP01162521090&rightWidth=0%25&centerWidth=80%25&_afrLoo
p=37461078679551023#%40%3F_afrLoop
%3D37461078679551023%26centerWidth%3D80%2525%26dDocName
%3DCNTHWEBAP01162521090%26leftWidth
%3D20%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse
%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3D11jn9iin2v_120, truy cập
lần cuối ngày 2/12/2023.
3. PGS., TS. Nguyễn Đình Tự (2009), Cổng thông tin Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam, “Ngành Ngân hàng Việt nam trước diễn biến của khủng hoảng tài
chính thế giới”, link truy cập:
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/fm/ddnhnn/nctd/nctd_chiti
et?
leftWidth=20%25&showFooter=false&showHeader=false&dDocName=CNT
HWEBAP01162524986&rightWidth=0%25&, truy cập lần cuối ngày
2/12/2023.
4. Hồ Ngọc Tú (2016), Cổng thông tin điện tử Bộ Tài chính, “Chính sách tiền
tệ nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế hậu khủng hoảng tài chính năm 2008”,
link truy cập: https://mof.gov.vn/webcenter/portal/btcvn/pages_r/l/tin-bo-tai-
chinh?dDocName=MOFUCM092172, truy cập lần cuối ngày 1/12/2023.
5. TS. Trần Huy Tùng - TS. Lê Thị Minh Ngọc (2023), Tạp chí Thị trường
Tài chính Tiền tệ, “Nhìn lại quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng gắn với
xử lý nợ xấu giai đoạn 2011 – 2022 và một số khuyến nghị”, link truy cập:
https://thitruongtaichinhtiente.vn/nhin-lai-qua-trinh-tai-co-cau-he-thong-ngan-
hang-gan-voi-xu-ly-no-xau-giai-doan-2011-2022-va-mot-so-khuyen-nghi-
46666.html, truy cập lần cuối ngày 1/12/2023.
6. Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ (2023), “11 giải pháp mở rộng tín
dụng của Ngân hàng Nhà nước năm 2023”, link truy cập:
https://thitruongtaichinhtiente.vn/11-giai-phap-mo-rong-tin-dung-cua-ngan-
hang-nha-nuoc-nam-2023-50423.html, truy cập lần cuối ngày 1/12/2023.

18
7. Hoàng Vũ (2011), Tạp chí điện tử VN ECONOMY, “Lãi suất cơ bản:
Tăng cũng không ngại?, link truy cập: https://vneconomy.vn/lai-suat-co-ban-
tang-cung-khong-ngai.htm, truy cập lần cuối ngày 4/12/2023.
8. Thanh Thủy (2019), Diễn đàn Đầu tư – Kinh doanh online, “Lãi suất điều
hành được Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh ra sao 8 năm qua?”, link truy
cập: https://baodautu.vn/lai-suat-dieu-hanh-duoc-ngan-hang-nha-nuoc-dieu-
chinh-ra-sao-8-nam-qua-d111254.html, truy cập lần cuối ngày 4/12/2023.
9. Trương Hoàng Diệp Hương - Lê Hoài Ân (2023), Kinh tế Sài Gòn Online –
Tạp chí của UBND TP HCM, “Những trở ngại đối với triển vọng tiếp tục
giảm lãi suất”, truy cập lần cuối ngày 4/12/2023.
10. Báo Đầu tư VN – Uỷ ban giám sát Tài chính Quốc gia (2023), “KỲ
VỌNG DỰ TRỮ NGOẠI HỐI TIẾP TỤC TĂNG”, link truy cập:
https://nfsc.gov.vn/vi/nghien-cuu-trao-doi/ky-vong-du-tru-ngoai-hoi-tiep-tuc-
tang/, truy cập lần cuối ngày 4/12/2023.
11. Nguyễn Đức Long (2021), Tạp chí Ngân hàng – Cơ quan của NHNN Việt
Nam, “Nhìn lại 35 năm đổi mới chính sách tiền tệ và hoạt động của hệ thống
ngân hàng Việt Nam”, link truy cập: https://tapchinganhang.gov.vn/nhin-lai-
35-nam-doi-moi-chinh-sach-tien-te-va-hoat-dong-cua-he-thong-ngan-hang-
viet-nam.htm, truy cập lần cuối ngày 4/12/2023.

19

You might also like