Professional Documents
Culture Documents
Đề tài:
“Phân tích rủi ro tín dụng tại Ngân Hàng Á Châu (ACB)
- Sử dụng mô hình : Value at Risk, Conditional Value at Risk
và các mô hình mở rộng”
Năm 2013
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
----------------------
Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang gặp nhiều khó khăn như hiện nay, thị
trường tài chính của mỗi quốc gia cũng đang đối diện với nhiều bất ổn và tiềm ẩn
nhiều rủi ro. Theo đó, các vấn đề về mặt định lượng đặc biệt trong việc quản trị rủi ro
tài chính đang là “điểm nóng” mà mỗi quốc gia, doanh nghiệp hay cá nhân quan tâm.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, những ảnh hưởng của nó vẫn còn,
biểu hiện là số lượng các doanh nghiệp vỡ nợ và phá sản đang tăng rất nhanh trong
những năm gần đây. Vì vậy việc đo lường rủi ro tín dụng là một phương pháp cần
thiết trong việc nhận diện, đánh giá và dự báo tình hình tài chính của mỗi doanh
nghiệp.
Việc đo lường rủi ro tín dụng không phải là vấn đề xa lạ ở Việt Nam, đặc biệt
trong bộ phận các định chế tài chính - ngân hàng. Phương pháp Value at Risk (VaR)
được đại bộ phận các doanh nghiệp sử dụng để tính toán và đưa ra những ngưỡng mà
các doanh nghiệp có thể chấp nhận được và dựa vào nó để điều hành, quản trị công ty.
Tuy nhiên, như đã nói bên trên, VaR chỉ cho chúng ta các ngưỡng và dựa vào nó lập
ra các quy tắc, các mức độ mang tính hệ thống để làm tiêu chuẩn khi đánh giá tình
hình hoạt động, tài chính của doanh nghiệp trong những kỳ tiếp theo nhưng lại không
cho biết được những biến động của những giá trị vượt ngưỡng chấp nhận đó như thế
nào. Conditional Value at Risk (còn gọi là Expected Shortfall) ra đời giúp cho việc đo
lường rủi ro hiệu quả hơn, nó là một thước đo rủi ro chặt chẽ với các thuộc tính như
tính đơn điệu, tính lồi là những đặc điểm rất được quan tâm hiện nay. Không những
thế CVaR còn xác định được tổn thất có thể gặp phải trong phần đuôi phân phối của
dữ liệu hay lượng hóa được rủi ro tín dụng cực biên, đặc điểm mà VaR không hề làm
được.
Do đó việc kết hợp VaR và CVaR sẽ giúp cho các nhà quản trị, nhà kinh tế có thể
quản trị rủi ro được hiệu quả hơn. Đó chính là lý do tôi chọn đề tài: “Phân tích rủi ro
tín dụng tại Ngân Hàng Á Châu (ACB) - Sử dụng mô hình : Value at Risk,
Conditional Value at Risk và các mô hình mở rộng”.
* * * LỜI CẢM ƠN * * *
-----------------------
Lời đầu tiên, em xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến ba mẹ em, người
đã sinh ra, nuôi dạy và dành hết tình thương cho đứa con này.
Em xin chân thành cảm ơn Quý Thầy, Cô ở Trường Đại Học Kinh Tế Thành
Phố Hồ Chí Minh đã trang bị cho em những kiến thức, kỹ năng quý báu giúp em có
thể vững bước trên con đường sự nghiệp sau này.
Em xin chân thành cảm ơn ThS. Trần Gia Tùng, là người thầy đã tận tình chỉ
bảo cho em trong suốt bốn năm đại học, là giáo viên hướng dẫn đã giúp đỡ em trong
quá trình nghiên cứu và viết báo cáo này.
Em xin chân thành cảm ơn bạn bè mình, và cả những đối thủ cạnh tranh nữa.
Bốn năm đại học của tôi sẽ tẻ nhạt lắm và những danh hiệu, những thành tích mà tôi
đạt được sẽ khó mà có được nếu không có các bạn.
Lời cuối cùng, cho phép em gửi lời cảm ơn chân thành tới các anh, chị trong
phòng Khách hàng Doanh nghiệp nói riêng và trong Chi Nhánh Lê Văn Sĩ của Ngân
Hàng Á Châu nói chung đã giúp đỡ em trong giai đoạn thực tập vừa qua.
Bảng 2: Số lượng chi nhánh và phòng giao dịch của một số NHTM đến cuối năm
2010
Bảng 3: Quy mô vốn của các NHTM một số quốc gia trong khu vực ASEAN
Bảng 4: Tỷ lệ thu nhập lãi trên tổng thu nhập của các ngân hàng
Bảng 9: Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng tại Ngân Hàng Á Châu
Bảng 10: Bảng tống hợp các chỉ tiêu DNNH/TDN, DNTH/TDN, và DNDH/TDN
Bảng 11, 12: Trích từ BCTC Năm 2011- Ngân Hàng Á Châu
-------------------------
Biểu đồ 2: Tổng cho vay (tổng nợ) tại Ngân Hàng Á Châu
Biểu đồ 3: Thu nhập lãi thuần và nợ xấu tại Ngân Hàng Á Châu
Biểu đồ 5: Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng tại Ngân Hàng Á Châu
Biểu đồ 6: Tình hình cho vay ngắn hạn tại Ngân Hàng Á Châu
Biểu đồ 7: Tình hình cho vay trung hạn tại Ngân Hàng Á Châu
Biểu đồ 8: Tình hình cho vay dài hạn tại Ngân Hàng Á Châu
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
Đối với mỗi NHTM khác nhau sẽ có QTTD khác nhau, tuy nhiên trên lý thuyết
QTTD sẽ bao gồm các bước như sau:
Hướng dẫn khách hàng và tiếp nhận hồ sơ.
Thẩm định tín dụng.
Ra quyết định tín dụng.
Thực hiện thủ tục ký hợp đồng tín dụng.
Tổ chức giải ngân.
, , , Kiểm tra, thu nợ, tất toán và xử lý
Trong quan hệ tín dụng có hai đối tượng tham gia là ngân hàng cho vay và người
đi vay. Nhưng người đi vay sử dụng tiền vay trong một thời gian, không gian cụ thể,
tuân theo sự chi phối của những điều kiện cụ thể nhất định mà ta gọi là môi trường
kinh doanh, và đây là đối tượng thứ ba có mặt trong quan hệ tín dụng.
Rủi ro tín dụng xuất phát từ môi trường kinh doanh gọi là rủi ro do nguyên nhân
khách quan. Rủi ro xuất phát từ người vay và ngân hàng cho vay gọi là rủi ro do
nguyên nhân chủ quan.
1.1.3.1 Rủi ro tín dụng do nguyên nhân khách quan.
1.1.3.1.1 Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định.
1.1.3.1.1.1 Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị
trường thế giới.
Nền kinh tế VN vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp và công
nghiệp phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và nguyên liệu), dầu thô,
may gia công, … vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế giới, nên dễ bị tổn
thương khi thị trường thế giới biến động xấu.
Không chỉ xuất khẩu, các mặt hàng nhập khẩu cũng dễ bị tổn thương không kém.
Mặt hàng sắt thép cũng bị ảnh hưởng lớn của giá thép thế giới. Việc tăng giá phôi thép
làm cho một số doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải ngưng sản xuất do chi phí
giá thành rất cao trong khi không tiêu thụ được sản phẩm.
1.1.3.1.1.2 Rủi ro tất yếu của quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập
quốc tế.
Quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng
khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các doanh nghiệp, những
khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật
chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bên cạnh đó, bản thân sự cạnh tranh của các ngân
hàng thương mại trong nước và quốc tế trong môi trường hội nhập kinh tế cũng khiến
cho các ngân hàng trong nước với hệ thống quản lý yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro
nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các ngân
hàng nước ngoài thu hút.
1.1.3.1.2.2 Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của NHNN
Nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát lạc hậu, chậm đựơc đổi mới. Vai trò
kiểm toán chưa đựơc phát huy và hệ thống thông tin chưa được tổ chức một cách hữu
hiệu. Thanh tra tại chỗ vẫn là phương pháp chủ yếu, khả năng kiểm soát toàn bộ thị
trường tiền tệ và giám sát rủi ro còn yếu. Thanh tra ngân hàng còn hoạt động một
cách thụ động theo kiểu xử lý vụ việc đã phát sinh, ít có khả năng ngăn chặn và
phòng ngừa rủi ro và vi phạm. Mô hình tổ chức của thanh tra ngân hàng còn nhiều
bất cập. Do vậy mà có những sai phạm của các NHTM không được thanh tra NHNN
cảnh báo, có biện pháp ngăn chặn từ đầu, để đến khi hậu quả nặng nề đã xảy ra rồi
mới can thiệp.
1.1.3.1.2.3 Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập
Hiện nay ở VN chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và
ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) của NHNN hoạt động đã
quá một thập niên và đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc
cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng nhưng chưa phải là “cơ
quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp” một cách độc lập và hiệu quả, thông tin
cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật và ngoài ra việc kết nối thông tin với trang Web
- CIC qua đường X25 của Chi cục tin học ngân hàng còn nhiều trục trặc, chưa đáp
ứng được đầy đủ yêu cầu tra cứu thông tin tại TP.HCM.
1.1.3.2 Rủi ro tín dụng do nguyên nhân chủ quan.
1.1.3.2.1 Rủi ro do các nguyên nhân từ phía khách hàng vay.
1.1.3.2.1.1 Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả
nợ vay.
Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh doanh
cụ thể, khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo
ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên những vụ việc phát sinh lại
hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đến các
doanh nghiệp khác.
1.1.3.2.1.2 Khả năng quản lý kinh doanh kém
Khi các doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa phần
là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạn đổi mới
cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo
đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so với tư duy quản lý là nguyên
nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải
thành công trên thực tế.
1.1.3.2.1.3 Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch.
Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm
chung của hầu hết các doanh nghiệp VN. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính
xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ nghiêm
chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp cho ngân
hàng nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Khi cán bộ ngân hàng
lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp
cung cấp, thường thiếu tính thực tế và xác thực.
“Đây cũng là nguyên nhân vì sao ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần tài sản
thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng.”
1.1.3.2.2 Rủi ro do các nguyên nhân từ phía ngân hàng cho vay.
1.1.3.2.2.1 Lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ các ngân hàng.
Kiểm tra nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra NHNN ở tính thời gian vì nó nhanh
chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm tra viên,
do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh. Nhưng
trong thời gian trước đây, “công việc kiểm tra nội bộ của các ngân hàng hầu như
chỉ tồn tại trên hình thức”. Kiểm tra nội bộ cần phải được xem như hệ thống “thắng”
của cỗ xe tín dụng. Cỗ xe càng lao đi với vận tốc lớn thì hệ thống này càng phải an
toàn, hiệu quả thì mới tránh cho cỗ xe khỏi đi vào những ngã rẽ rủi ro vốn luôn luôn
tồn tại thường trực trên con đường đi tới.
1.1.3.2.2.2 Bố trí cán bộ thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp
vụ
Một số vụ án kinh tế lớn trong thời gian vừa qua có liên quan đến cán bộ NHTM
đều có sự tiếp tay của một số cán bộ ngân hàng cùng với khách hàng làm giả hồ sơ
vay, hay nâng giá tài sản thế chấp, cầm cố lên quá cao so với thực tế để rút tiền ngân
hàng.
Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố quan trọng để giải quyết vấn đề hạn
chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng “một
cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô cùng nguy hiểm”
khi được bố trí trong công tác tín dụng.
1.1.3.2.2.3 Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay
Các ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định
trước khi cho vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi cho vay.
Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý một cách chủ động
để đảm bảo sẽ đựơc hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm quan
trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung. Việc theo
dõi hoạt động của khách hàng vay nhằm tuân thủ các điều khoản đề ra trong hợp đồng
tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng nhằm tìm ra những cơ hội kinh doanh mới và
mở rộng cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên trong thời gian qua các NHTM chưa thực hiện
tốt công tác này. Điều này một phần do yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách
hàng của cán bộ ngân hàng, một phần do hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh
doanh tại các doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời, đầy đủ các
thông tin mà NHTM yêu cầu.
Trong tình hình cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng gay gắt như hiện nay, vai
trò của CIC là rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin kịp thời, chính xác để các
ngân hàng có các quyết định cho vay hợp lý. Đáng tiếc là hiện nay ngân hàng dữ liệu
của CIC chưa đầy đủ và thông tin còn quá đơn điệu, chưa được cập nhật và xử lý kịp
thời.
Tóm lại, rủi ro tín dụng có thể phát sinh do rất nhiều nguyên nhân chủ
quan hoặc khách quan. Các biện pháp phòng chống rủi ro có thể nằm trong tầm tay
của các NHTM nhưng cũng có những biện pháp vượt ngoài khả năng của riêng từng
ngân hàng, liên quan đến vấn đề nội tại của bản thân nền kinh tế đang chuyển đổi,
đang định hướng mô hình phát triển ở VN. Biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng sâu
sắc nhất vẫn là các biện pháp liên quan đến việc đào tạo, bố trí cán bộ và cơ chế kiểm
tra, giám sát hành vi của cán bộ trong quá trình xử lý công việc. Thực hiện tốt các
biện pháp này có thể cho rằng con đường quản lý rủi ro tín dụng của ngành ngân
hàng coi như đã đi được hơn một nửa.
1.1.4 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động và đo lường rủi ro tín dụng.
Tín dụng là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của NHTM. Do đó, đo lường chất
lượng tín dụng là một nội dụng quan trọng trong việc phân tích hiệu quả hoạt động
kinh doanh của NHTM. Tuỳ theo mục đích phân tích mà người ta đưa ra nhiều chỉ
tiêu khác nhau, tuy mỗi chỉ tiêu có nội dung khác nhau nhưng giữa chúng có mối liên
hệ mật thiết với nhau.
Trong phạm vi bảng báo cáo tổng hợp kết quả hoạt động kinh doanh, ta có thể áp
dụng các chỉ tiêu sau để đánh giá tình hình chất lượng tín dụng của ngân hàng.
1.1.4.1 Các chỉ tiêu định lượng.
Chỉ tiêu sử dụng vốn.
Đây là chỉ tiêu hiệu quả phản ánh chất lượng tín dụng, cho phép đánh giá tính
hiệu quả trong hoạt động tín dụng của một ngân hàng. Chỉ tiêu này càng lớn thì càng
chứng tỏ ngân hàng đã sử dụng một cách hiệu quả nguồn vốn huy động được.
Chỉ tiêu dư nợ.
Đây là một chỉ tiêu định lượng, xác định cơ cấu tín dụng trong trường hợp dư nợ
được phân theo thời hạn cho vay (ngắn, trung, dài hạn). Chỉ tiêu này còn cho thấy biến
động của tỷ trọng giữa các loại dư nợ tín dụng của một ngân hàng qua các thời kỳ
khác nhau. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ mức độ phát triển của nghiệp vụ tín dụng
càng lớn, mối quan hệ với khách hàng càng có uy tín.
Chỉ tiêu nợ quá hạn.
Chỉ tiêu nợ quá hạn là một chỉ số quan trọng để đo lường chất lượng nghiệp vụ tín
dụng. Các ngân hàng có chỉ số này thấp đã chứng minh được chất lượng tín dụng cao
của mình và ngược lại.
Thông thường thì tỷ lệ nợ quá hạn tốt nhất là ở mức ≤ 5%. Tuy nhiên, chỉ tiêu này
đôi khi cũng chưa phản ánh hết chất lượng tín dụng của một ngân hàng. Bởi vì bên
cạnh những ngân hàng có được tỷ lệ nợ quá hạn hợp lý do đã thực hiện tốt các khâu
trong qui trình tín dụng, còn có những ngân hàng có được tỷ lệ nợ quá hạn thấp thông
qua việc cho vay đảo nợ, không chuyển nợ quá hạn theo đúng qui định,…
Chỉ tiêu về tốc độ chu chuyển vốn tín dụng (Vòng quay vốn tín dụng).
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn của ngân hàng được sử dụng cho vay mất lần
trong một năm. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt, nó chứng tỏ nguồn vốn của ngân hàng
đã luân chuyển nhanh, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Chỉ tiêu lãi treo. Đó là khoản lãi tính trên nợ quá hạn mà ngân hàng chưa thu
được và như vậy chỉ số này càng thấp càng tốt.
Ngoài việc sử dụng các chỉ tiêu định lượng trên, hiện nay nhiều ngân hàng cũng
đã sử dụng các chỉ tiêu định tính để đánh giá chất lượng tín dụng như việc tuân thủ
các quy chế, chế độ thể lệ tín dụng, lập hồ sơ cho vay, phương án sản xuất kinh doanh
có hiệu quả,…
Thí dụ: Mức lỗ tối đa trong một ngày của công ty A vào khoảng 47 triệu $ tại mức
độ tin cậy là 95%.
Tính toán VaR cần trải qua 3 bước. Đầu tiên, xác xuất của việc gia tăng mức thua
lỗ VaR cần được chỉ định rõ ràng; thông thường mức xác suất được chỉ định là p=1%.
Trên lý thuyết, nó cung cấp một vài hướng dẫn về việc lựa chọn p. Phần lớn nó được
xác định bằng cách mà các nhà nghiên cứu và sử dụng hệ thống quản trị rủi ro mong
muốn giải thích con số VaR. Phải chăng nó là một mức lỗ to lớn mà xảy ra với xác
suất là 1% hay 5% hay thậm chí chỉ 0.1%. Và mức xác suất p được chọn để thực hành
là khoảng từ 1% - 5%. Lưu ý một điều đó là xác suất này không thể là 1 con số hơi
cao. (Thí dụ: 10% chẳng hạn)
Bước thứ hai là tính toán VaR phải được xác định trong 1 khoảng thời gian nhất
định. (Thí dụ là khoảng thời gian mà có thể xảy ra thua lỗ). Thường thì có thể là 1
ngày nhưng cũng tùy trường hợp cụ thể để xác định. Trong bài luận này, thời gian sẽ
được sử dụng là theo quý.
Bước thứ ba cũng là bước cuối cùng chính là xác định xem phân phối xác suất của
mức lời và lỗ của danh mục. Đây là một vấn đề khó và quan trọng nhất trong mô hình
quản trị rủi ro. Phương pháp thực hành chuẩn là ước lượng xem phân bổ là như thế
này từ các quan sát trong quá khứ và một mô hình thống kê nào đó.
VaR có nhiều cách tiếp cận để tính toán. Đó là historical - phương pháp lịch sử,
modified - phương pháp đã được điều chỉnh, gaussian - phương pháp Gauss và
phương pháp Kernel, RistMetric, Monte Carlo … Các phần mềm hỗ trợ việc tính toán
như Eview, Excel hay R …
Phương pháp lịch sử (Historical Method)
Phương pháp đơn giản này đưa ra giả thuyết rằng sự phân bố tỷ suất sinh lợi trong
quá khứ có thể tái diễn trong tương lai. Nói cụ thể, VaR được xác định như sau :
Tính giá trị hiện tại của danh mục đầu tư
Tổng hợp tất cả các tỷ suất sinh lợi quá khứ của danh mục đầu tư này theo từng
hệ số rủi ro (giá trị cổ phiếu, tỷ giá hối đoái, tỷ lệ lãi suất, …)
Xếp các tỷ suất sinh lợi theo thứ tự từ thấp nhất đến cao nhất
Tính VaR theo độ tin cậy và số liệu tỷ suất sinh lợi quá khứ.
Ví dụ: Nếu ta có một danh sách bao gồm 1400 dữ liệu quá khứ (Historical Data)
và với độ tin cậy là 95%, thì VaR là giá trị thứ 70 trong danh sách này = (1 − 0.95) ×
1400. Nếu độ tin cậy là 99% thì VaR là giá trị thứ 14. (Đã được sắp xếp theo thứ tự ở
bước 3)
Phương sai - Hiệp phương sai (Variance - Covariance Method)
Phương pháp này đưa ra giả thuyết rằng các tỷ suất sinh lợi và rủi ro tuân theo
phân bố chuẩn. Đường cong màu xanh dương ở Hình 1 dưới đây là phân bố chuẩn của
những dữ liệu trên :
Hình 1
VaR được tính cụ thể như sau :
Tính giá trị hiện tại V0 của danh mục đầu tư
Từ những dữ liệu quá khứ, tính tỷ suất sinh lợi kỳ vọng m và độ lệch chuẩn
suất sinh lợi σ của danh mục đầu tư
VaR được xác định theo biểu thức sau đây : VaR V0 x(m ( z) )
Với ( z ) bằng 1.65 nếu mức độ tin cậy là 95% và bằng 2.33 nếu độ tin cậy là
99%.
Khi biết giá trị của độ lệch chuẩn σ là khoảng 2.64, và đồng thời tỷ suất sinh lợi
trung bình xấp xỉ là 0 (phân phối chuẩn), vậy thì với mức tin cậy 95% ta có thể tin
rằng khoản lỗ tối đa sẽ không vượt quá 1.65×2.64 = 4.36%, và với mức tin cậy 99%,
khoản lỗ tối đa sẽ không lớn hơn 2.33×2.64 = 6.16%
Phương pháp RiskMetrics
Nguyên tắc tính VaR của phương pháp RiskMetrics tương tự với nguyên tắc tính
VaR của phương pháp Phưong sai - hiệp phương sai, nhưng thay vì tính độ lệch chuẩn
σ cho tất cả các tỷ suất sinh lợi, ta tính σ theo những suất sinh lợi mới nhất. Phương
pháp này cho ta phản ứng nhanh chóng khi thị trường thay đổi đột ngột và đồng thời
cho ta quan tâm đến những sự kiện cực kỳ quan trọng có thể gây ảnh hưởng tiêu cực
đến giá trị của danh mục đầu tư. Nói cụ thể, thuật toán tính VaR là như sau :
Tính độ lệch chuẩn quá khứ 0 (Historical Volatility) của danh mục đầu tư
Dùng các tỷ suất sinh lợi xếp theo thứ tự thời gian, tính độ lệch chuẩn bằng công
thức sau đây :
n2 n21 (1 )rn21
với n1 là độ lệch chuẩn, rn 1 là tỷ suất sinh lợi ở thời điểm n-1 hằng số được cố
định là 0.94.
Dùng giá trị ước tính mới nhất của độ lệch chuẩn n , tính VaR theo biểu thức của
phương pháp Phương sai - Hiệp phương sai.
Phương pháp Monte Carlo
Sau đây là cách tiếp cận toàn cầu để tính VaR :
Mô phỏng một số lượng rất lớn N bước lặp, ví dụ N > 10.000.
Cho mỗi bước lặp i, i < N.
+ Tạo ngẫu nhiên một kịch bản được căn cứ trên một phân bố xác suất về
những hệ số rủi ro (giá trị cổ phiếu, tỷ giá hối đoái, tỷ suất, …) mà ta nghĩ rằng chúng
mô tả những dữ liệu quá khứ (Historical Data). Ví dụ ta giả sử mỗi hệ số rủi ro được
phân bố chuẩn với kỳ vọng là giá trị của hệ số rủi ro ngày hôm nay. Và từ một tập hợp
số liệu thị trường mới nhất và từ mô hình xác suất trên ta có thể tính mức biến động
của mỗi hệ số rủi ro và mối tương quan giữa các hệ số rủi ro.
+ Tái đánh giá danh mục đầu tư Vi trong kịch bản thị trường trên.
+ Ước tính tỷ suất sinh lợi (khoản lời/lỗ) ri Vi Vi 1 (giá trị danh mục đầu
tư ở bước i - 1).
Xếp các tỷ suất sinh lợi ri theo thứ tự giá trị từ thấp nhất đến cao nhất.
Tính VaR theo độ tin cậy và tỷ lệ phần trăm (Percentile) số liệu ri. Ví dụ: nếu ta mô
phỏng 5000 giá trị và nếu độ tin cậy là 95%, thì VaR là giá trị thứ 250. Nếu độ tin cậy
là 99%, VaR là giá trị thứ 50.
Đồng thời tính sai số tương ứng cho mỗi VaR, nếu số lượng N càng cao thì sai số
càng nhỏ.
Trên đây là một vài phương pháp để tính toán Value at Risk. Để hiểu rõ thêm
phần nào hãy xem xét ưu, nhược điểm của 1 vài phương pháp đó.
Bảng 1 - So sánh ưu, nhược điểm một số phương pháp tính VaR
Thời gian cố định: Giả thiết này cho rằng, điều gì đúng trong một khoảng thời
gian cũng đúng cho nhiều khoảng thời gian. Thí dụ, khoảng thời gian một tuần cũng
có thể mở rộng cho một năm.
Phân phối chuẩn: Trong đa phần các phương pháp tính VaR, thì giả thiết dữ
liệu phân tích mang quy luật phân phối chuẩn, trừ một vài phương pháp tiếp cận khác
như Monte Carlo chẳng hạn - phi tham số.
1.2.2.1.3 Khái niệm về Conditional Value at Risk (CVaR)
Kỹ năng đánh giá rủi ro thường được sử dụng để giảm thiểu xác suất mà 1 danh
mục sẽ gánh chịu mức lỗ lớn. Và nó sẽ được thực hiện bằng các đánh giá khả năng
xảy ra (mức độ tin cậy) mà một mức lỗ cụ thể sẽ vượt quá VaR. Theo lời lẽ toán học
thì CVaR được bắt nguồn từ việc lấy giá trị trung bình có trọng số giữa VaR và những
mức lỗ vượt quá giá trị VaR này.
CVaR cũng còn được nhắc đến với nhiều cái tên như Expected Shortfall (ES)
(Lưu ý: ES = CVaR+) hay Average Value at Risk (AvaR), Expected Tail Loss (ETL).
Nói chung CVaR cao cấp hơn VaR bởi tính thỏa mãn các yêu cầu đặt ra cho một
phương pháp đo lường rủi ro có tính gắn kết trong khi VaR còn những hạn chế trên cả
phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn.
Nói một cách không chính xác, CVaR là giá trị trung bình của tổn thất biết rằng
tổn thất đó vượt qua VaR (về giá trị tuyệt đối).
Cũng như VaR thì ES cũng có nhiều cách tiếp cận bằng các phương pháp tham số
hoặc phi tham số.
Phương pháp tham số dựa trên giả định về phân phối lợi suất r: chẳng hạn phân
phối chuẩn, t-student, Pareto, … Sau đó từ số liệu quá khứ của r, sử dụng các phương
pháp ước lượng trong thống kê, kinh tế lượng để ước lượng các tham số đặc trưng của
phân phối và suy ra các ước lượng của VaR.
Phương pháp phi tham số không đưa ra giả định về phân phối lợi suất r mà chỉ
dùng các phương pháp ước lượng thực nghiệm, mô phỏng và bootstraps cùng các kỹ
thuật tính toán xấp xỉ thí dụ Mô hình mạng Notron nhân tạo để ước lượng
1 VaR ( p ) 1 1 x2
p
x exp 2 2 dx
2 2
VaR ( p )
1 2 1 x2
exp 2
p 2 2 2
1 x2 2 x(VaR( p))
Với ( x) exp ta thu được ES
2 2 p
Bên cạnh đó cũng có 1 công thức tính toán ES bằng thực nghiệm. Công thức ước
lượng ES như sau: Cho mức ý nghĩa (0,1) , thông thường mức chọn là 1% hoặc
5%. Lập mẫu kích thước n: ( X1 , X 2 ,..., X n ) . Ký hiệu X i:n là thống kê thứ tự thứ I của
mẫu, tức là: X1:n X 2:n ... X i:n ... X n:n . Gọi k là phần nguyên của n , đặt
p n k . Nếu n là số nguyên thì p = 0. Ta tính thống kê trung bình mẫu của các
thống kê thứ tự từ 1 đến k:
X1:n X 2:n ... X k:n
X k:n
k
Ta có các công thức ước lượng thực nghiệm cho VaR và ES
VaR( ) X k:n
ES ( ) (1 p) X k:n p X k 1:n nếu n không nguyên và ES ( ) X k:n nếu n
nguyên.
Cách tính toán được hầu hết người sử dụng phương pháp CVaR dùng đó là trung
bình cộng có trọng số của VaR và CVaR+.
CVaR VaR (1 )CVaR
((VaR) ) / (1 ) và (VaR) là xác suất để khoảng lỗ không vượt qua
hoặc bằng giá trị VaR.
Để hiểu rõ phần nào những khái niệm, ý nghĩa cơ bản hãy xem hình dưới đây:
Hình 2
Như đã đề cập ở trên thì: “CVaR chính là trung bình của những giá trị vượt quá
giá trị VaR.”
1.2.2.2 Cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu.
Với bất kỳ doanh nghiệp nào thì khủng hoảng kinh tế toàn cầu, và bất ổn vĩ mô
trong nước đã ít nhiều khiến các doanh nghiệp trở nên “bối rối”. Song chính sự non
yếu về chiến lược, kỹ năng và kinh nghiệm quản trị rủi ro là một trong những “chân
trong” hậu thuẫn cho những điều kiện bất lợi bên ngoài xâm lấn doanh nghiệp.
“Ủy ban Chứng khoán Nhà nước nhận định, các khuyết điểm trong quản trị rủi ro
là nguyên nhân khiến nhiều Doanh nghiệp không đo lường được mức độ ảnh hưởng
của môi trường hoạt động đến hiệu quả kinh doanh, dẫn đến những hậu quả tiêu cực
như suy giảm lợi nhuận, mất khả năng thanh toán...”
Với đối tượng đang xét đến ở đây là ngân hàng cũng vậy, “nếu các nhà quản lý,
điều hành và quản trị rủi ro không đo lường được mức độ ảnh hưởng của các yếu
tố bên ngoài tác động vào thì sẽ dẫn đến nguy cơ làm các ngân hàng điêu đứng”.
Và trên thực tế, sẽ có nhiều cách để đo lường rủi ro, và cách sử dụng trong bài
luận này không quá xa lạ đối với các nhà kinh tế hiện nay, nhưng phần nào nó cũng có
thể cho chúng ta biết được khả năng và mức thua lỗ mà các ngân hàng có thể nhìn
nhận để đánh giá và phân bổ nguồn vốn cho hợp lý, …
1.2.3 Phạm vi nghiên cứu và thu thập dữ liệu.
1.2.3.1 Phạm vi nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu trong khuôn khổ bài luận này là chỉ riêng cho Ngân Hàng Á
Châu nói riêng và các Ngân hàng trong nước Việt Nam nói chung.
1.2.3.2 Nguồn dữ liệu.
Dữ liệu được lấy để đem ra nghiên cứu là các chỉ số tài chính, các chỉ số về các
loại nợ theo nhiều cách phân loại, chỉ số doanh thu, chi phí dự phòng …
1.2.3.3 Phương pháp thu thập số liệu.
Các số liệu được thu thập từ các Báo cáo thường niên theo Quý, theo Năm của
Ngân Hàng Á Châu (ACB) từ Quý IV năm 2009 đến Quý III năm 2012 tại website
chính thức của Ngân Hàng Á Châu: “www.acb.com.vn”
ABBank 85 MB 111
ACB 285 Sacombank 284
Agribank 2300 Techcombank 188
BIDV 603 Vietinbank 944
Eximbank 151 Vietcombank 328
Bảng 3: Quy mô vốn của các NHTM một số quốc gia trong khu vực ASEAN
Đơn vị: Triệu dollar
Nguồn: www.thebanker.com
Những số liệu này cho thấy có sở để xem xét lời nhận định là số lượng ngân hàng
thương mại tại Việt Nam hiện nay quá nhiều nhưng quy mô của từng ngân hàng lại
quá nhỏ, trong mối tương quan với quy mô trung bình của các ngân hàng thương mại
tại các nền kinh tế trong khu vực ASEAN.
Chính phủ cũng đã ban hành nghị định 141/2006/NĐ-CP yêu cầu tăng vốn điều lệ
lên tối thiểu 3.000 tỷ đồng vào cuối năm 2010 và dự tính sẽ ớ mức 5.000 tỷ đồng
cuối năm 2012 ở mức 10.000 tỳ đồng và cuối năm 2015 nhằm đảm bảo cho các ngân
hàng đủ vốn hoạt động, nâng cao sức cạnh tranh của hệ thống ngân hàng và đảm bảo
trên thị trường không có những ngân hàng nhỏ hoạt động không hiệu quả vì quy mô
vốn thấp.
“Chính vì thế có thể nhận thấy rằng cơ quan quản lý nhà nước cũng đã có những
bước nỗ lực để rút dần khoản cách về quy mô vốn của hệ thống ngân hàng thương
mại Việt Nam với các nước trong khu vực. Đây là dấu hiệu tích cực thúc đầy sự phát
triển của hệ thống trong tương lai.”
2.1.4 Hệ số an toàn vốn.
Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đang hướng đến mục tiêu an toàn và
lành mạnh hơn, với sự tăng cường hoạt động giám sát từ phía các cơ quan quản lý nhà
nước và sự tự nguyện giảm bớt các mục tiêu lợi nhuận để dành ưu tiên cho các mục
tiêu an toàn từ phía chủ sở hữu các ngân hàng. Nhiều động thái của cơ quan quản lý
nhà nước nhằm xác lập tính an toàn cho hệ thống ngân hàng như ban hành thông tư 13
yêu cầu tỷ lệ vốn trên tài sản có rủi ro (hệ số CAR) phải đạt tối thiểu là 9%, nhằm mục
tiêu hướng tới các chuẩn mực quản trị ngân hàng quốc tế và nhất là đáp ứng được các
yêu cầu của Basel.
“Hệ số an toàn vốn là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh năng lực tài chính
của các ngân hàng.” Chỉ tiêu này được dùng để xác định khả năng chịu đựng không
những rủi ro tín dụng mà còn rủi ro thị trường, rủi ro vận hành của các ngân hàng. Hệ
số an toàn vốn của các ngân hàng thương mại Việt Nam nhìn chung có sự cải thiện
trong những năm qua đặc biệt một số ngân hàng có hệ số CAR cao nhiều so với mức
quy định của Ủy ban Basel.
Tuy nhiên do các chuẩn mực kế toán của Việt Nam hiện nay vẫn chưa tiếp cận
hoàn toàn với các chuẩn mực kế toán quốc tế do đó các chỉ số này một phần nào đó
vẫn chưa phản ánh chính xác mức độ an toàn vốn thật sự của các ngân hàng.
2.1.5 Môi trường hoạt động.
Môi trường hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong những năm
gần đây liên tiếp chịu tác động bất lợi từ những điều kiện kinh tế vĩ mô. Cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn cầu ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các ngân hàng
Một danh mục sử dụng vốn với hơn phân nữa là cho vay và hơn 60% thu nhập từ
lãi có thể thấy rằng đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam thì hoạt động cho vay
vẫn là hoạt động quan trọng bậc nhất. Chính vì thế đòi hỏi áp dụng những kỹ thuật
quản trị rủi ro hiện đại cho hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro này là yêu cầu tất yếu đối
với các ngân hàng thương mại Việt Nam.
2.3.2 Thực trạng hoạt động đo lường rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam.
Quản trị rủi ro luôn là hoạt động trung tâm trong các ngân hàng. Trong thực tiễn,
nội dung của các hoạt động quản trị rủi ro phụ thuộc vào một số yếu tố cơ bản như:
trình độ phát triển của thị trường tài chính tiền tệ, các nguồn lực mà đặc biệt ở đây
là nguồn lực tài chính và nguồn lực con người.
So với các nước đã có thị trường tài chính phát triển hàng trăm năm thì rõ ràng
trình độ phát triển của “thị trường tài chính Việt Nam” mới đang ở “trình độ thấp”.
Quyết định
Hạng tín dụng Số điểm Độ rủi ro
cấp tín dụng
AAA > 400 Thấp Tối đa
AA 351 - 400 Thấp Tối đa
A 301 - 350 Thấp Tối đa
BBB 251 - 300 Thấp Tùy thuộc tài sản
BB 201 - 250 Trung bình đảm bảo
B 151 - 200 Trung bình Không cấp thêm
CCC 101 - 150
CC 51 - 100
Cao Không cấp tín dụng
C 0 - 50
D <0
Nguồn: Giáo trình xếp hạng tín nhiệm - TS. Lê Thị Hiệp Thương.
Bên cạnh việc trích lập dự phòng cụ thể cho từng khoản nợ ngân hàng còn phải
trích lập dự phòng chung ở mức 0.75% dư nợ. Theo định nghĩa tại khoản 2 điều 2 thì
“Dự phòng chung khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất chưa
xác định trong quá trình phân loại nợ và trích lập dự phòng cụ thể và trong các
trường hợp khó khăn về tài chính của tổ chức tín dụng khi chất lượng các khoản
nợ suy giảm”. Như vậy có thể hiểu rằng các khoản dự phòng cụ thể nêu trên chỉ được
dùng để bù đắp những tổn thất dự tính còn dự phòng chung dùng để bù đắp tổn thất
ngoài dự tính. Hay nói cách khác dự phòng chung như là hàng phòng thủ thứ hai giúp
hoạt động ngân hàng an toàn hơn.
Căn cứ vào quy định tại quyết định 493 thì ngân hàng có thể phân lọai nợ theo
tiêu chuẩn định lượng (điều 6) và định lượng (điều 7). Hiện nay thì phần lớn các ngân
hàng thương mại Việt Nam đang áp dụng điều 6 để phân loại nợ, chỉ có một số ít ngân
hàng thương mại xây dựng cho mình hệ thống đánh giá nội bộ để có thế áp dụng các
tiêu chuẩn tại điều 7. Tính đến cuối năm 2011, thì có ba ngân hàng thương mại là
Ngân hàng BIDV, Ngân hàng MB và Ngân hàng Vietcombank đã hoàn thành và
EL = PD x LGD x EAD
Chương 3. Phân tích hiệu quả hoạt động tại Ngân Hàng Á Châu.
3.1 Đôi nét về Ngân Hàng Á Châu.
Tăng trưởng cao bằng cách tạo nên sự khác biệt trên cơ sở hiểu biết nhu cầu
khách hàng và hướng tới khách hàng. Xây dựng hệ thống quản lý rủi ro đồng bộ, hiệu
quả và chuyên nghiệp để đảm bảo cho sự tăng trưởng được bền vững. Duy trì tình
trạng tài chính ở mức độ an toàn cao, tối ưu hóa việc sử dụng vốn cổ đông (ROE mục
tiêu là 30%) để xây dựng ACB trở thành một định chế tài chính vững mạnh, có khả
năng vượt qua mọi thách thức trong môi trường kinh doanh còn chưa hoàn hảo của
ngành ngân hàng Việt Nam.
Có chiến lược chuẩn bị nguồn nhân lực và đào tạo lực lượng nhân viên chuyên
nghiệp nhằm đảm bảo quá trình vận hành của hệ thống liên tục, thông suốt và hiệu
quả. Xây dựng “Văn hóa ACB” trở thành yếu tố tinh thần gắn kết toàn hệ thống một
cách xuyên suốt. ACB đang từng bước thực hiện chiến lược tăng trưởng ngang và đa
dạng hóa.
Chiến Lược Tăng Trưởng Ngang: Thể Hiện 3 Hình Thức.
o Tăng trưởng thông qua mở rộng hoạt động: Hiện nay trên phạm vi toàn
quốc, ACB đang tích cực phát triển mạng lưới kênh phân phối tại thị trường
mục tiêu, khu vực thành thị Việt Nam, đồng thời nghiên cứu và phát triển các
sản phẩm dịch vụ ngân hàng mới để cung cấp cho thị trường đang có và thị
trường mới trong tình hình yêu cầu của khách hàng ngày càng tinh tế và phức
tạp. Ngoài ra, khi điều kiện cho phép, ACB sẽ mở văn phòng đại diện tại Hoa
Kỳ.
o Tăng trưởng thông qua hợp tác, liên minh với các đối tác chiến lược:
Hiện nay, ACB đã xây dựng được mối quan hệ với các định chế tài chính khác,
ví dụ như các tổ chức thẻ quốc tế (Visa, Master Card), các công ty bảo hiểm
(Prudential, AIA, Bảo Việt, Bảo Long), chuyển tiền Western Union, các ngân
hàng bạn (Banknet), các đại lý chấp nhận thẻ, đại lý chi trả kiều hối, v.v… ACB
đang nỗ lực tham khảo kinh nghiệm, kỹ năng chuyên môn cũng như công nghệ
của các đối tác để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình cho quá trình hội
nhập.
o Tăng trưởng thông qua hợp nhất và sáp nhập: ACB ý thức là cần phải
xây dựng năng lực tiếp nhận đối với loại tăng trưởng không cơ học này và thực
hiện chiến lược hợp nhất và sáp nhập khi điều kiện cho phép.
Chiến Lược Đa Dạng Hóa
Đa dạng hóa là một chiến lược tăng trưởng khác mà ACB quan tâm thực hiện,
ACB đã có Công ty chứng khoán (ACBS), Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản
(ACBA), đang chuẩn bị thành lập Công ty Cho thuê tài chính và Công ty Quản lý quỹ.
Với vị thế cạnh tranh đã được thiết lập khá vững chắc trên thị trường, trong thời gian
sắp tới, ACB có thể xem xét thực hiện chiến lược đa dạng hóa tập trung để từng bước
trở thành nhà cung cấp dịch vụ tài chính toàn diện thông qua các hoạt động sau đây:
o Cung cấp và tăng cường quan hệ hợp tác với các công ty bảo hiểm để
phối hợp cung cấp các giải pháp tài chính cho khách hàng.
o Nghiên cứu thành lập công ty thẻ (phát triển từ trung tâm thẻ hiện nay),
công ty tài trợ mua xe
o Nghiên cứu khả năng thực hiện hoạt động dịch vụ ngân hàng đầu tư.
Từ năm 2005, ACB đã bắt đầu cùng các cổ đông chiến lược xây dựng lại chiến
lược mới. Đó là chương trình Chiến lược 5 năm (2006-2011) và tầm nhìn 2015.
3.1.5 Quá trình phát triển.
Giai đoạn 1993 - 1995: Đây là giai đoạn hình thành ACB. Những người sáng
lập ACB có năng lực tài chính, học thức và kinh nghiệm thương trường, cùng chia sẻ
một nguyên tắc kinh doanh là “quản lý sự phát triển của doanh nghiệp an toàn, hiệu
quả” và đó là chất kết dính tạo sự đoàn kết bấy lâu nay.
Giai đoạn 1996 - 2000: Năm 1997, ACB bắt đầu tiếp cận nghiệp vụ ngân hàng
hiện đại theo một chương trình đào tạo toàn diện kéo dài hai năm, do các giảng viên
nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng thực hiện. Cuối năm 2001, ACB chính thức vận
hành hệ thống công nghệ ngân hàng lõi là TCBS (The Complete Banking Solution:
Giải pháp ngân hàng toàn diện), cho phép tất cả chi nhánh và phòng giao dịch nối
mạng với nhau, giao dịch tức thời, dùng chung cơ sở dữ liệu tập trung.
Giai đoạn 2001 - 2005: Năm 2003, ACB xây dựng hệ thống quản lý chất lượng
theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000. Năm 2005, ACB và Ngân hàng Standard Charterd
(SCB) ký kết thỏa thuận hỗ trợ kỹ thuật toàn diện; và SCB trở thành cổ đông chiến
lược của ACB
Giai đoạn 2006 - 2010: ACB niêm yết tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán
Hà Nội vào tháng 10/2006. Trong giai đoạn này, ACB đẩy nhanh việc mở rộng mạng
lưới hoạt động, đã thành lập mới và đưa vào hoạt động cả thảy 223 chi nhánh và
phòng giao dịch, tăng từ 58 đơn vị vào cuối năm 2005 lên 281 đơn vị vào cuối năm
2010; số lượng chi nhánh và phòng giao dịch tăng thêm lần lượt là 19 (2006), 23
(2007), 75 (2008), 51 (2009), và 45 (2010).
Năm 2011, Tháng Giêng, Định hướng Chiến lược phát triển của ACB giai đoạn
2011- 2015 và tầm nhìn 2020 được ban hành. Trong đó nhấn mạnh đến chương trình
chuyển đổi hệ thống quản trị điều hành phù hợp với các quy định pháp luật Việt Nam
và hướng đến áp dụng các thông lệ quốc tế tốt nhất. Các nội dung lớn của chương
trình này gồm có: Phân định rõ vai trò và trách nhiệm, cơ chế ra quyết định
của các cơ quan lãnh đạo của ACB; Tăng cường năng lực chỉ đạo của Hội
đồng quản trị; Tăng cường trách nhiệm và thẩm quyền điều hành hoạt động
kinh doanh của Tổng giám đốc; Tăng cường vai trò độc lập của Ban kiểm
soát, nâng cao năng lực Ban kiểm toán nội bộ, và xây dựng khung quản lý rủi ro
tích hợp.
1 - Sự kiện diễn ra lần đầu tiên đối với ngân hàng tại Việt Nam từ trước đến nay.
2 - Giải thưởng ba năm một lần.
Năm 2012, ACB sẽ tiếp tục thực hiện các chương tr.nh nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động của Hội đồng quản trị, đồng thời thực hiện kế hoạch chuyển đổi hệ thống
điều hành ACB sang mô hình hội đồng điều hành và chế độ thủ trưởng ở các cấp trong
hệ thống điều hành. Với sự tham gia tích cực của các nhân sự biệt phái từ Ngân hàng
Standard Chartered, bắt đầu từ năm 2011 và trong các năm tiếp theo, ACB đang xây
dựng mới và nâng cao năng lực quản trị điều hành trong các lĩnh vực đặc biệt quan
trọng là quản trị rủi ro, quản trị tài chính và quản trị nguồn nhân lực.
3.2 Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Ngân Hàng Á Châu.
Cơ cấu tổ chức của Ngân Hàng Á Châu bao gồm các bộ phận sau: Đại hội đồng
cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Các hội đồng : Nhân sự, ALCO, Đầu tư
và Tín dụng.
Đại hội đồng cổ đông Là cơ quan có thẩm quyền cao nhất của Ngân hàng.
Hội đồng quản trị do ĐHĐCĐ bầu ra, là cơ quan quản trị Ngân hàng, có toàn
quyền nhân danh Ngân hàng để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền
lợi của Ngân hàng, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ.
Ban kiểm soát do ĐHĐCĐ bầu ra, có nhiệm vụ kiểm tra hoạt động tài chính
của Ngân hàng; giám sát việc chấp hành chế độ hạch toán, kế toán; hoạt động của hệ
thống kiểm tra và kiểm toán nội bộ của Ngân hàng; thẩm định báo cáo tài chính hàng
năm; báo cáo cho ĐHĐCĐ tính chính xác, trung thực, hợp pháp về báo cáo tài chính
của Ngân hàng.
Các Hội đồng do HĐQT thành lập, làm tham mưu cho HĐQT trong việc quản
trị ngân hàng, thực hiện chiến lược, kế hoạch kinh doanh; đảm bảo sự phát triển hiệu
quả, an toàn và đúng mục tiêu đề ra.
Hiện nay, Ngân hàng có 4 Hội đồng, bao gồm:
o Hội đồng Nhân sự: có chức năng tư vấn cho Ngân hàng các vấn đề về chiến
lược quản lý và phát triển nguồn nhân lực để phát huy cao nhất sức mạnh của nguồn
nhân lực, phục vụ hiệu quả cho nhu cầu phát triển của Ngân hàng.
o Hội đồng ALCO: có chức năng quản lý cấu trúc bảng tổng kết tài sản của Ngân
hàng, xây dựng và giám sát các chỉ tiêu tài chính, tín dụng phù hợp với chiến lược
kinh doanh của Ngân hàng.
o Hội đồng Đầu tư: có chức năng thẩm định các dự án đầu tư và đề xuất ý kiến
cho cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư.
o Hội đồng Tín dụng: quyết định về chính sách tín dụng và quản lý rủi ro tín
dụng trên toàn hệ thống Ngân hàng, xét cấp tín dụng của Ngân hàng, phê duyệt hạn
mức tiền gửi của Ngân hàng tại các tổ chức tín dụng khác, phê duyệt việc áp dụng
biện pháp xử lý nợ và miễn giảm lãi theo Quy chế xét miễn giảm lãi.
Chương 4. Phân tích rủi ro tín dụng tại Ngân Hàng Á Châu.
4.1 Phân tích rủi ro tín dụng tại Ngân Hàng Á Châu.
Đầu tiên, ta sử dụng số liệu về Nợ xấu tại Ngân Hàng Á Châu để phân tích rủi ro.
2012Q3
2012Q2
2012Q1
2011Q4
2011Q3
2011Q2
2011Q1
2010Q4
2010Q3
2010Q2
2010Q1
2009Q4
Biểu đồ 1: Nợ xấu tại Ngân Hàng Á Châu từ Quý IV - 2009 đến Quý III - 2012
Với số liệu giới hạn trong khoảng gần 4 năm, dữ liệu “mức lỗ” theo quý, ta kết
hợp sử dụng Excel và Add-in Crystal Ball để tính toán Value at Risk và thử áp đặt bộ
dữ liệu này theo phân phối chuẩn - Normal Distribution.
Sử dụng Crystal Ball mô phỏng dữ liệu theo phân phối chuẩn chạy vòng lặp 1000
lần thử ra được kết quả ở Hình 3 dưới đây.
Hình 3
Với kết quả trên ta thấy dữ liệu phù hợp nhất với phân phối Beta. Tuy nhiên khi
xem xét dữ liệu theo phân phối chuẩn cũng có thể chấp nhận được.
Hình 4
Theo kết quả từ mô hình này, giá trị VaR tại mức ý nghĩa anpha = 5% là
1.854.048,25 triệu đồng và tại mức ý nghĩa anpha = 1% là 2.240.280,20 triệu đồng.
Hình 5
Bên cạnh đó ta còn thu được một vài kết quả khác. Đó là mức nợ xấu được dự báo
trong 1000 lần thử này được xác định trong khoảng từ -1.332.776,65 triệu đồng đến
2.643.926,28 triệu đồng.
Hình 6
Dựa vào kết quả dữ liệu chạy ngẫu nhiên phù hợp nhất với phân phối Beta, ta thử
chạy lại mô hình với giá trị từ -1.332.776,65 triệu đồng đến 2.643.926,28 triệu đồng
(từ kết quả ở trên) cùng với anpha = 2, beta = 5.
Trước khi nhìn xem kết quả, ta hãy xem hình sau:
Hình 7
Trên đây là đồ thị biểu diễn phân phối Beta với mỗi đường biểu thị cho một sự kết
hợp anpha và beta khác nhau.
Sau đây là kết quả từ phần mềm Crystal Ball chạy 1000 lần thử với dữ liệu được
áp đặt tuân theo phân phối Beta.
Hình 8
Hình 9
Kết quả ta thu được VaR (anpha = 5%) = 933.471,47 triệu đồng và VaR (anpha =
1%) = 1.560.728,55 triệu đồng.
Với bộ dữ liệu 1000 số đạt được này phù hợp với phân phối Beta chúng ta đã áp
đặt ban đầu.
Hình 10
Như đã đề cập ở những phần trên, VaR có rất nhiều hướng tiếp cận để tính toán
nó. Đơn giản nhất phải kể đến Phương pháp lịch sử (Historical Method). Nhưng
phương pháp này muốn có độ chính xác cao thì đòi hỏi số liệu cực lớn. Trong trường
hợp này số mẫu quan sát n = 12. Giả sử bỏ qua yêu cầu đó ta có thể tính toán ra được
mức lỗ tối đa hay nói cách khác trong trường hợp này là mức nợ xấu tối đa mà ACB
có thể gặp phải ở mức ý nghĩa anpha = 5% chẳng hạn là 1.839.586 triệu đồng.
VaR obs11 0.4 x(obs12 obs11)
1620049 0.4 x(2168892 1620049) 1839586
Còn với mức ý nghĩa anpha = 1% thì VaR (1%) = 1.685.910 triệu đồng
Với cách tiếp cận bằng Phương pháp Gauss
Ta thống kê được các giá trị kỳ vọng =798601, 4 và độ lệch chuẩn 633161.6
ta sử dụng công thức tính ra VaR:
Với độ tin cậy 95% mức ý nghĩa anpha = 5% ta có VaR(5%) = 1,96*633.161,6
= 1.240.997 triệu đồng
Với độ tin cậy 99% mức ý nghĩa anpha = 1% ta có VaR(1%) = 2,33*633.161,6
= 1.475.267 triệu đồng
Với cách tiếp cận bằng Phương sai - Hiệp phương sai (Variance - Covariance
method) thì ta sử dụng thống kê mô tả để xác định các giá trị kỳ vọng =798601, 4 và
độ lệch chuẩn 633161.6 ta sử dụng công thức tính ra VaR:
VaR V0 x(m ( z) ) .
Lưu ý do dữ liệu đang xét là dữ liệu về nợ xấu cho nên trước khi tính ta thêm
trước các giá trị dấu (-).
Tính ra được VaR (anpha = 5%) = 1.843.318 (triệu đồng).
VaR (anpha = 1%) = 2.273.868 (triệu đồng).
Phương pháp RiskMetrics và Monte Carlo không thể sử dụng trong trường hợp
này bởi vì 2 phương pháp này đều cần phải biết những giá trị thống kê ở hiện tại, hầu
hết phù hợp cho việc tính toán rủi ro của các danh mục chứng khoán …
Chúng ta cũng biết rằng những hạn chế của VaR là việc chúng không đưa ra
được ước lượng của tổn thất (lớn hơn VaR về giá trị tuyệt đối) khi xảy ra. CVaR đã
khắc phục nhưng yếu điểm đó, và cũng đã có đề cập ở phần cơ sở khoa học 1.2.2
Bình thường thì giá trị CVaR không khác nhiều so với VaR, tuy nhiên trong một
số trường hợp đặc biệt như giá trị quan sát có phân bố rời rạc chẳng hạn, giá trị CVaR
có thể sẽ rất khác so với VaR.
Kết hợp dữ liệu sử dụng gói Performance Analytics trong R-project ta tính toán
các giá trị VaR và ES.
Với phương pháp Historical cùng độ tin cậy 95% tính ra được VaR = 186 triệu
đồng và ES = 2.168 triệu đồng.
Giá trị ES này có nghĩa là trường hợp xấu nhất nếu mức lỗ vượt quá giá trị VaR
thì giá trị được dự báo sẽ chính là con số ES tính được. Tuy nhiên trong trường hợp
này số liệu VaR và ES tính được bằng cách sử dụng phần mềm tích hợp sẵn đã đưa ra
các giá trị lệch quá nhiều so với các phương pháp bên trên. Nguyên nhân chính gây
nên điều này là do mẫu dữ liệu khá nhỏ.
Với một lượng mẫu như thế này thì khó mà có thể dự báo chính xác bằng các
phần mềm tích hợp sẵn hay các phương pháp tiếp cận đến nó.
4.2 Đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng tại Ngân Hàng Á Châu trong thời
gian gần đây.
120000000
100000000
80000000
60000000
Tổng Nợ
40000000
20000000
Biểu đồ 2: Tổng cho vay (tổng nợ) tại Ngân Hàng Á Châu
Qua biểu đồ trên, nhận xét tổng lượng cho vay tại ACB giai đoạn cuối năm 2009
đến đầu năm 2010 giảm mạnh. Cụ thể giảm từ 62.357.978 triệu đồng chỉ còn
58.436.400 triệu đồng. Giai đoạn tiếp theo đến giữa năm 2011, tổng lượng cho vay
tăng rất nhanh và đạt mức cao nhất trong những năm trở lại đây 102.422.423 triệu
đồng. Trên đà tăng trưởng cao như vậy giai đoạn cuối năm 2011 đến đầu 2012 tăng
thêm chút nữa và giữ số lượng cho vay xoay quanh mức 103.000.000 triệu đồng.
Nhìn chung sau giai đoạn kinh tế suy thoái cuối năm 2007 - đầu năm 2008 thì
kinh tế thế giới dần phục hồi và ngân hàng trên đà phục hồi và phát triển.
Và ta cũng biết cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đó bắt nguồn từ khủng hoảng
tín dụng và nhà đất tại Mỹ. Cho vay dưới chuẩn tăng mạnh là khởi điểm cho quả bong
bóng tại thị trường nhà đất. Các ngân hàng cho vay cầm cố bất động sản mà không
quan tâm tới khả năng chi trả của khách hàng.
Ta có thể xem qua biểu đồ về thu nhập lãi thuần kết hợp nợ xấu tại Ngân hàng Á
Châu dưới đây :
4000000
3500000
3000000
2500000
2000000
Nợ xấu
1500000 Thu nhập lãi thuần
1000000
500000
Biểu đồ 3: Thu nhập lãi thuần và nợ xấu tại Ngân Hàng Á Châu
Ta thấy thu nhập lãi thuần có sự tương quan với tổng lượng cho vay. Cũng giống
như những gì đã nhận xét ở trên, thì thu nhập lãi thuần tại Ngân hàng Á Châu trong 4
năm trở lại đây trải qua giai đoạn đầu tăng trưởng và dần ổn định. Cụ thể thu nhập lãi
thuần của ACB vào Quý III Năm 2012 vừa rồi đạt mức 1.604.740 triệu đồng.
Nếu xét về tổng lượng cho vay tại ACB Quý III đó là 102.855.419 triệu đồng
nhưng thu nhập lãi thuần của ACB chỉ đạt 1.604.740 triệu đồng mà thôi. Tình hình
kinh tế thế giới nói chung hay Việt Nam nói riêng đều như vậy. Cá nhân hay các
doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn để thực hiện các công trình, dự án rất nhiều. Tuy
nhiên số lượng trả đúng cả nợ lẫn gốc đúng hạn không nhiều, chưa kể đến tình trạng
mà các Ngân hàng hiện nay phải chuyển một lượng vốn đã cho vay sang Nợ loại V -
Nợ có khả năng mất vốn.
900000
800000
700000
600000
500000
400000 Nợ có khả năng
300000 mất vốn
200000
100000
0
Biểu đồ trên cho ta thấy con số nợ có khả năng mất vốn tăng rất nhanh và với tốc
độ cao trong năm 2012. Cụ thể con số tính đến Quý III - Năm 2012 là 829.141 triệu
đồng trong khi Quý IV Năm 2009 chỉ là 141.402 triệu đồng, Quý I - Năm 2012 là
421.150 triệu đồng và Quý II - Năm 2012 là 607.077 triệu đồng.
Với tình hình kinh tế đang giai đoạn phục hồi như vậy, cùng với khả năng mất vốn
như hiện tại, Ngân Hàng Á Châu đã tốn một lượng chi phí cũng không nhỏ trong việc
dự phòng rủi ro tín dụng.
Bảng 9: Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng tại Ngân Hàng Á Châu
Đơn vị: Triệu đồng
Để có thể hình dung một cách rõ ràng những con số trên, hãy xem biểu đồ sau đây
300000
250000
200000
150000
Chi phí dự phòng
rủi ro tín dụng
100000
50000
-50000
Biểu đồ 5: Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng tại Ngân Hàng Á Châu
Từ cuối năm 2011 đến Quý III Năm 2012, chi phí dự phòng cho rủi ro tín dụng
tăng rất nhanh, dựa vào biểu đồ có thể thấy độ dốc rất cao và hình biểu diễn của nó
như 1 đường thẳng hướng lên.
Để hiểu rõ hơn phần nào các khoản cho vay tại Ngân Hàng Á Châu, hãy theo dõi
nhưng biểu đồ tình hình cho vay phân loại theo khoảng thời gian: ngắn hạn, trung hạn
và dài hạn.
2012Q3
2012Q2
2012Q1
2011Q4
2011Q3
2011Q2
2011Q1 Cho vay ngắn hạn
2010Q4
2010Q3
2010Q2
2010Q1
2009Q4
0 20000000 40000000 60000000
Biểu đồ 6: Tình hình cho vay ngắn hạn tại Ngân Hàng Á Châu
2012Q3
2012Q2
2012Q1
2011Q4
2011Q3
2011Q2
2011Q1 Cho vay trung hạn
2010Q4
2010Q3
2010Q2
2010Q1
2009Q4
0 10000000 20000000 30000000
Biểu đồ 7: Tình hình cho vay trung hạn tại Ngân Hàng Á Châu
2012Q3
2012Q2
2012Q1
2011Q4
2011Q3
2011Q2
2011Q1 Cho vay dài hạn
2010Q4
2010Q3
2010Q2
2010Q1
2009Q4
0 10000000 20000000 30000000
Biểu đồ 8: Tình hình cho vay dài hạn tại Ngân Hàng Á Châu
Nhìn vào 3 biểu đồ về những con số cho vay: ngắn hạn, trung hạn và dài hạn ta có
thể thấy rằng để dự phòng rủi ro tín dụng, ACB đã giảm mức cho vay trung và dài hạn
xuống và cho vay ngắn hạn đang giữ ở mức tầm trung. Nhìn chung, tình hình về hoạt
động cho vay tín dụng có thể xem như đang trong giai đoạn ổn định.
Để xác minh rõ ràng, cụ thể hơn hãy xem bảng tổng hợp về tỉ lệ Dư nợ ngắn hạn,
Dư nợ trung hạn và Dư nợ dài hạn / Tổng dư nợ dưới đây.
Bảng 10: Bảng tống hợp các chỉ tiêu DNNH/TDN, DNTH/TDN, và DNDH/TDN
4.3 Các chính sách về quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân Hàng Á Châu.
Bên cạnh số liệu về những con số như dư nợ, nợ xấu, lợi nhuận …hãy xem các
chính sách và một vài thống kê cuối năm 2011 như thế nào.
Ngân Hàng Á Châu xác định “Rủi ro tín dụng là rủi ro lớn nhất cho hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng; do đó Ban lãnh đạo quản lý rủi ro tín dụng cho Ngân hàng
một cách rất cẩn trọng. Việc quản lý và kiểm soát rủi ro tín dụng được tập trung vào
một bộ phận quản lý rủi ro tín dụng chịu trách nhiệm báo cáo thường xuyên cho Ban
Tổng Giám Đốc và người đứng đầu mỗi đơn vị kinh doanh.” - Trích BCTC Năm
2011.
4.3.1 Đo lường rủi ro tín dụng xác định tổn thất và lập dự phòng.
4.3.1.1 Cho vay và bão lãnh.
Việc đo lường rủi ro tín dụng được thực hiện trước và trong thời gian cho vay,
Ngân hàng đã xây dựng các mô hình hỗ trợ việc định lượng rủi ro tín dụng. Các mô
hình xếp hạng và chấm điểm này được sử dụng cho mọi danh mục tín dụng trọng yếu
và hình thành cơ sở cho việc đo lường các rủi ro vi phạm thanh toán trước và trong khi
cho vay. Dựa trên việc đo lường trên, Ngân hàng phân loại các khoản vay và trích lập
dự phòng theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 04 năm 2005 và
Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25 tháng 04 năm 2007 của Ngân hàng nhà nước
để đo lường và phân loại các khoản cho vay và bảo lãnh như đã trình bày trong Thuyết
minh 2.7 và 2.8 ở BCTC Năm 2011.
4.3.1.2 Chứng khoán nợ.
Các khoản đầu tư của Ngân hàng vào chứng khoán nợ là các công cụ nợ do Chính
phủ và các tổ chức tín dụng và kinh tế có uy tín phát hành. Rủi ro tín dụng được ước
tính theo từng khoản nợ cụ thể khi Ngân hàng đánh giá có sự thay đổi về rủi ro tín
dụng của bên đối tác. Các khoản đầu tư vào các chứng khoán này được xem là cách để
đảm bảo hoạch định chất lượng tín dụng tốt hơn và đồng thời duy trì nguồn tín dụng
sẵn sàng để đáp ứng yêu cầu cấp vốn.
4.3.2 Các chính sách kiểm soát và giảm thiểu rủi ro tín dụng.
Ngân hàng kiểm soát rủi ro tín dụng bằng việc áp dụng các hạn mức đối với các
rủi ro (cho cả rủi ro nội bảng và rủi ro ngoại bảng) liên quan đến từng khách hàng vay
vốn, hoặc nhóm khách hàng vay vốn theo đúng các quy định của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam. Thêm vào đó, rủi ro tín dụng cũng được kiểm soát thông qua việc rà soát
định kỳ các nhóm tài sản thế chấp và phân tích khả năng trả nợ lãi và vốn của các
khách hàng vay vốn và các khách hàng tiềm năng.
Ngân hàng có một số các chính sách và cách thức thực hành để giảm thiểu rủi ro
tín dụng. Cách thức truyền thống nhất là nắm giữ các tài sản đảm bảo cho các khoản
tạm ứng vốn, một cách thức phổ biến. Các loại tài sản đảm bảo cho các khoản cho vay
và ứng trước gồm có:
Thế chấp đối với các bất động sản là nhà ở;
Quyền đối với các tài sản hoạt động như trụ sở, máy móc thiết bị, hàng tồn
kho, các khoản phải thu;
Quyền đối với các công cụ tài chính như chứng khoán nợ và chứng khoán vốn.
Đối với các khoản cho vay có đảm bảo, tài sản thế chấp được định giá một cách
độc lập bởi Ngân hàng với việc áp dụng các tỷ lệ chiết khấu cụ thể để xác định giá trị
có thể cho vay tối đa. Tỷ lệ chiết khấu cho mỗi loại tài sản thế chấp được hướng dẫn
trong Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 4 năm 2005 và Quyết định
18/2007/QĐ-NHNN ngày 25 tháng 4 năm 2007 của Ngân hàng Nhà nước và được
Ngân hàng điều chỉnh cho từng trường hợp cụ thể. Khi giá trị hợp lý của các tài sản
thế chấp bị giảm, Ngân hàng sẽ yêu cầu khách hàng vay vốn phải thế chấp thêm tài
sản để duy trì mức độ an toàn đối với rủi ro của khoản cho vay.
Rủi ro tín dụng đối với các cam kết chủ yếu bao gồm thư tín dụng và các hợp
đồng bảo lãnh tài chính có tính chất tương tự như rủi ro tín dụng đối với các khoản
cho vay. Thư tín dụng kèm chứng từ và thư tín dụng thương mại - là các cam kết bằng
văn bản của Ngân hàng thay mặt cho khách hàng thanh toán cho bên thứ ba lên đến số
tiền quy định theo các điều khoản và điều kiện cụ thể - được đảm bảo bằng chính hàng
hóa liên quan và do đó rủi ro thấp hơn so với các khoản cho vay trực tiếp. Việc phát
hành thư tín dụng và các hợp đồng bảo lãnh tài chính được thực hiện theo các quy
trình đánh giá và phê duyệt tín dụng như đối với các khoản cho vay và tạm ứng cho
khách hàng trừ khi khách hàng ký quỹ 100% cho các cam kết có liên quan.
4.3.3 Tổng mức tối đa có rủi ro tín dụng chưa tính đến tài sản thế chấp hoặc các
biện pháp giảm thiểu rủi ro tín dụng.
Tổng mức tối đa
31.12.2011 31.12.2010
Bảng 11
(Trích từ BCTC Năm 2011 - Ngân Hàng Á Châu)
31.12.2011
Tiền gửi
tại các tổ
Các khoản
chức tín Các công
cho vay và Chứng
dụng và cụ tài Tài sản tài
ứng trước khoán đầu
cho vay chính phái chính khác
khách hàng tư
các tổ chức sinh
(*)
tín dụng
khác
Triệu đồng Triệu đồng Triệu đồng Triệu đồng Triệu đồng
Nợ đủ tiêu chuẩn và
không phải lập dự 99.704.397 81.644.712 1.016.447 25.838.314 47.320.427
phòng cụ thể
Nợ không đủ tiêu
chuẩn nhưng không
230.020 190.700 - 225.850 -
phải lập dự phòng cụ
thể
Các khoản phải lập dự
1.963.216 - - - -
phòng cụ thể
Giá trị gộp 101.897.633 81.835.412 1.016.447 26.064.164 47.320.427
Trừ: Dự phòng rủi ro (967.760) (9.639) - - -
Giá trị ròng 100.929.873 81.825.773 1.016.447 26.064.164 47.320.427
Dự phòng rủi ro
Dự phòng cụ thể (224.399) - - - -
Dự phòng chung (743.361) (9.639) - - -
(967.760) (9.639) - - -
Bảng 12
(Trích từ BCTC Năm 2011 - Ngân Hàng Á Châu)
Chương 5. Giảm thiểu rủi ro tín dụng theo Hiệp ước Basel II.
Các quy định giảm thiểu rủi ro tín dụng giống nhau với mọi cách tiếp cận và bao
gồm một số lựa chọn. Các công cụ giảm thiểu rủi ro tín dụng được gọi là CRM theo
thuật ngữ Basel II. CRM nói về những đặc điểm của từng giao dịch có thể làm giảm
rủi ro tín dụng của giao dịch đó.
Những đảm bảo hợp lệ bao gồm:
Thế chấp hợp lệ: tiền mặt, cổ phiếu
Đảm bảo của bên thứ ba
Phái sinh tín dụng
Các cách tiếp cận khác nhau:
Tiêu chuẩn: trọng số rủi ro tiêu chuẩn
Cơ sở: tỷ lệ phục hồi tiêu chuẩn là 55% với nợ cao cấp và 25% với nợ cấp thấp
Cao cấp: tỷ lệ hồi phục được ngân hàng quyết định
Các quy định áp đặt những tiêu chuẩn hoạt động tối thiểu bởi vì quản lý yếu kém
những rủi ro hoạt động bao gồm rủi ro pháp lý có thể làm giảm độ tin cậy của những
công cụ giảm rủi ro đó. Để việc giảm thiểu rủi ro được công nhận cần phải đáp ứng
một số tiêu chuẩn: giao dịch phải được ghi chép đầy đủ, các đảm bảo và phái sinh tín
dụng phải mang tính ràng buộc và có thể thi hành pháp lý. Hơn nữa, các ngân hàng
phải nắm giữ tài sản để đối phó với những rủi ro do sự chênh lệch giữa phòng hộ rủi
ro tín dụng và nguy cơ tương ứng. Đó có thể là chênh lệch trong giá trị, kỳ hạn hay
tiền tệ giữa nguy cơ và công cụ phòng hộ.
5.1 Giảm rủi ro tín dụng: đảm bảo và phái sinh tín dụng.
Để một ngân hàng có thể được cứu trợ bằng phái sinh tín dụng hay đảm bảo,
phòng hộ tín dụng phải trực tiếp, rõ ràng, không thể hủy bỏ và vô điều kiện.
Cách tiếp cận thay thế trong Hiệp Ước 1988 áp dụng với đảm bảo và phái sinh tín
dụng nhưng có một sàn vốn . Nếu công nhận hoàn toàn khả năng thưc thi của đảm
bảo, cách tiếp cận này thay thế rủi ro của người đi vay bằng thay thế của người đảm
bảo.
Hiệp Ước mới công nhận rằng các ngân hàng chỉ chịu thua lỗ trong các giao dịch
được đảm bảo khi cả người đi vay và người đảm bảo đều vỡ nợ. Cách tiếp cận “vỡ nợ
kép” này làm giảm rủi ro tín dụng nếu sự tương quan giữa xác suất vỡ nợ của người
mang nợ và người đảm bảo là thấp.
5.2 Giảm rủi ro tín dụng: xử lý thế chấp.
Những quy định CRM đối với thế chấp phức tạp hơn đối với đảm bảo bên thứ ba
bởi vì một nguy cơ được chia thành phần có thế chấp và phần còn lại. Hơn nữa, cự
phân tách này phụ thuộc vào “haircuts” để đo lường số lượng được thế chấp quá cao.
Phép tính haircuts bị chi phối bởi một số quy tắc. Cuối cùng, trọng số rủi ro và LGD
cho phần có thế chấp khác với cho phần không có thế chấp.
Sau đây là những nguyên tắc chung cho thế chấp CRM
Hội đồng đã áp dụng một định nghĩa thế chấp hợp lệ rộng hơn so với Hiệp Ước
năm 1988 trong cách tiếp cận tiêu chuẩn của Basel II. Ngân hàng có thể công nhận
những tài sản sau là thế chấp:
Tiền mặt.
Những cổ phiếu nợ nhất định được phát hành bởi quốc gia, những tổ chức
trong khu vực công, ngân hàng, công ty chứng khoán và doanh nghiệp.
Những cổ phiếu nhất định được trao đổi trên các sàn được công nhận.
Những cổ phần trong quỹ tương hỗ.
Vàng.
Có một sàn vốn ký hiệu là , bởi vì giao dịch có thế chấp không bao giờ không
có rủi ro. Giá trị thông thường của là 0,15.
Basel II công nhận thế chấp chỉ nếu giá trị của nó không phụ thuộc vào uy tín tín
dụng của đối tượng. “Chất lượng tín dụng của người đi vay và giá trị của vật thế
chấp không thể có tương quan dương.”. Ví dụ: cổ phiếu phát hành bởi chính người
đi vay sẽ tạo ra rất ít sự bảo hộ và không hợp lệ.
Trong vay mượn cổ phiếu, người cho vay tiền mặt nắm giữ cổ phiếu làm thế chấp,
giá trị của cổ phiếu có thể làm giảm xuống dưới khoản tiền cho vay ngay cả nếu bao
đầu, giao dịch có thế chấp quá cao.
Những luật giám sát cho phép bù trừ nguy cơ với giá trị vật thế chấp, chịu chi
phối bởi haircuts. Haircuts là phần trăm giá trị do những thay đổi thời gian của nguy
cơ và thế chấp và do chênh lệch kỳ hạn và tiền tệ giữa nguy cơ và thế chấp. Có hai
loại haircuts: haircuts giám sát tiêu chuẩn và những ước lượng của các ngân hàng về
độ biến động của vật thế chấp.
Như một quy luật chung, phần được đảm bảo bởi giá trị điều chỉnh theo haircut
của vật thế chấp có trọng số rủi ro ứng với công cụ thế chấp. Trọng số rủi ro này có
sàn 20% trừ trong một số trường hợp nhất định, ví dụ khi thế chấp là tiền mặt hay khi
nó là khoản vay của một quốc gia hay cổ phiếu PSE (tổ chức khu vực công), khi đó
trọng số rủi ro là 0%.
Phần còn lại của khoản nợ không có đảm bảo và được chỉ định trọng số rủi ro của
đối tượng đó. Khi có nhiều thế chấp, nguy cơ được chia thành nhiều phần, mỗi phần
được chỉ định một loại CRM.
Giảm thiểu rủi ro tín dụng bị điều phối bởi hai cách tiếp cận: “đơn giản” và “toàn
diện”. Theo cách tiếp cận đơn giản, ngân hàng thay thế trọng số rủi ro của vật thế chấp
bằng trong số rủi ro của đối tượng, đối với phần có thế chấp của nguy cơ (với sàn
20%). Điều này tương tự như Hiệp Ước 1988.
Cách tiếp cận toàn diện cho phét bù trừ nguy cơ bằng thế chấp. Các ngân hàng có
thể giảm nguy cơ bằng giá trị của thế chấp. Họ có thể dùng một trong hai cách tiếp
cận trên trong sổ ngân hàng, những sổ giao dịch thì chỉ dùng cách tiếp cận toàn diện.
Thế chấp một phần cũng được công nhận. Chỉ có cách tiếp cận toàn diện cho phép
chênh lệch lỳ hạn giữa nguy cơ cơ sở và vật thế chấp.
Để đảm bảo độ thận trọng, các quy định cực đại hóa chênh lệch giữa giá trị nguy
cơ và giá trị thế chấp để đề phòng những biến động thị trường tiêu cực, sử dụng nhiều
haircuts kết hợp ứng với những thay đổi giá trị có thể xảy ra.
Giá trị của một cổ phiếu tùy vào độ biến động thị trường, độ nhạy với các biến
động thị trường và độ dài của khoảng thời gian trước khi vật thế chấp có thể được điều
chỉnh. Basel II đòi hỏi các giá trị phải được điều chỉnh theo độ biến động thông qua
haircuts.
Sử dụng haircut, các ngân hàng phải điều chỉnh cả lượng nguy cơ lẫn giá trị của
vật thế chấp phòng hộ cho những giao động giá trị tương lai của cả hai. Trừ với tiền
mặt, lượng tiền điều chỉnh theo độ biến động sẽ cao hơn nguy cơ và với vật tín dụng,
nó sẽ thấp hơn. Những haircuts bổ sung là cần thiết để đề phòng rủi ro còn lại từ
chênh lệch tiền tệ và kỳ hạn giữa vật thế chấp và nguy cơ. Độ chênh lệch dương giữa
nguy cơ và giá trị thế chấp điều chỉnh theo độ biến động được chỉ định trọng số rủi ro
của đối tác.
Công thức chung để tính nguy cơ thực mang trọng số rủi ro của bên đối tác là:
E* max{0,[ E (1 H e ) C (1 H c H fx )]}
Với E * : giá trị nguy cơ sau khi giảm thiểu rủi ro.
E : giá trị hiện tại của nguy cơ.
H e : haircut thích hợp với nguy cơ.
C : giá trị hiện tại của khoản thế chấp đã nhận.
H c : haircut phù hợp với vật thế chấp.
H fx : haircut phù hợp với chênh lệch tiền tệ giữa vật thế chấp và nguy cơ.
Công thức trên có thể được viết là:
E* max{0,[( E C ) EH e CH c CH fx ]}
Công thức cho thấy nguy cơ phải chịu chi phí vốn là độ chênh lệch giữa giá trị
nguy cơ và giá trị thế chấp. Một phần bổ sung sẽ áp dụng với giá trị thế chấp. Phần bổ
sung tổng hợp những haircut khác nhau. Nó giả định là giá trị nguy cơ sẽ tăng cùng
một lượng với haircut và giá trị thế chấp có thể giảm cùng lượng với haircut. Hệ quả
kết hợp là cực đại hóa khoảng cách giữa giá trị nguy cơ và vật thế chấp.
Các ngân hàng phải tiếp tục tính EAD3 mà không tính tới vật thế chấp trừ khi
được chỉ định khác. Do đó, nguy cơ luôn được ghi chép đầy đủ trong hệ thống và
không được phép chỉ lưu lại nguy cơ thực sau khi tính tới vật thế chấp.
5.3 Thế chấp: tính toán haircut.
Thế chấp chịu ảnh hưởng bởi một yêu cầu tăng đặt cọc - nghĩa vụ phải tăng thêm
vật thế chấp khi nó thấp hơn yêu cầu. Sự thay đổi trong giá trị vật thế chấp tùy thuộc
vào thời gian vật thế chấp được cho phép dao động trước khi có lệnh tăng đặt cọc.
Những người giám sát cho phép ngân hàng tính toán haircut sử dụng ước lượng
độ biến động giá thị trường và tỷ giá của họ.
Haircut là độ chênh lệch giữa giá trị hiện tại của nguy cơ và cận dưới của vật thế
chấp. Cận dưới được xác lập bởi mức độ tin cậy 99%. Nói cách khác, xác suất giá trị
thế chấp thấp hơn cận dưới này là ít hơn 1%. Theo định nghĩa VaR và một số giả định
đơn giản, độ lệch từ giá trị hiện tại xuống cận dưới là một bối số của độ biến động. Độ
biến động cao hơn trong những khoảng thời gian dài hơn. Nếu độ biến động hằng
ngày là 1 thì độ biến động cho t ngày sẽ là 1 t . Nếu haircut là bội số của độ biến
động, chúng cũng sẽ tuân theo quy tắc căn bậc hai thời gian.
3 - EAD: Nguy cơ khi vỡ nợ đo lường lượng tiền tối đa có thể bị mất khi vỡ nợ.
1. Th.S Lê Đức Thọ (2011), Lý thuyết cực trị và ứng dụng trong đo lường rủi ro
tài chính.
2. Nhóm Tác Giả: Huỳnh Thanh Điền, Trần Nguyễn Nguyên Trinh, Trần Thị Bảo
Lộc (2012), Ứng dụng mô hình Value At Risk vào quản trị rủi ro tín dụng cho
hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
3. Trần Mạnh Hà (2010), “ Ứng dụng Value at Risk trong việc cảnh báo và giám
sát rủi ro tín dụng đối với hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam “, khoa
Ngân Hàng - Học Viện Ngân Hàng.
4. Th.S Trần Gia Tùng (2009), Giáo trình: Lý thuyết Xác suất và Thống kê toán
học.
5. PGS. TS. Trầm Thị Xuân Hương, ThS. Hoàng Thị Minh Ngọc (2012), Giáo
trình Nghiệp vụ Ngân Hàng Thương Mại.
6. Nhóm dịch giả: Trần Hoàng Ngân, Đinh Thế Hiển, Nguyễn Thanh Huyền
(2012), Quản trị rủi ro trong Ngân Hàng.
1. Acerbi, Nordio, Sirtori (2001), Expected Shortfall as a Tool for Financial Risk
Management, AbaxBank - Working Paper.
2. Joel Bessis (2002), Risk Management in Banking, 2nd Edition.
3. Paul Wilmott (2007), Introduces Quantitative Finance 2nd Edition.
4. Jon Danielsson (2011), Financial Risk Forecasting.
5. Edited By Greg N. Gregoriou, The VAR Implementation Handbook.
1. www.wikipedia.com.vn
2. www.thebanker.com
3. www.acb.com.vn, vneconomy.vn, cafef.vn và một vài website tương tự.