You are on page 1of 123

Phụ lục 3

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH


KHOA SƯ PHẠM

TÀI LIỆU GIẢNG DẠY


GIÁO DỤC HỌC

GV biên soạn: ThS Nguyễn Văn Sia

Trà Vinh, 2022


Lưu hành nội bộ
MỤC LỤC

Nội dung Trang


CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA HỌC GIÁO DỤC HỌC
1.Đối tượng, nhiệm vụ ………………………………………………………... 1
2. Các tư tưởng giáo dục chủ yếu trên thế giới và ……….…………………… 4
3.Các chức năng xã hội cơ bản của giáo dục …………………………………. 14
4.Các phạm trù cơ bản của Giáo dục học …………………………………….. 16
5.Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu giáo dục học………………. 19

CHƯƠNG II. VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
VÀ CÁ NHÂN
1. Vai trò của giáo dục đối với phát triển xã hội …………………………….. 23
2. Khái niệm về nhân cách và sự phát triển nhân cách ………………………. 25
3.Vai trò của di truyền, môi trường và hoạt động cá nhân …………………… 27
4.Vai trò của giáo dục đối với sự hình thanh và phát triển …………………… 29
5. Giáo dục và các giai đoạn phát triển nhân cách theo lứa tuổi ……………... 32

CHƯƠNG III. GIÁO DỤC TIỂU HỌC TRONG HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN
A.Khái quát về hệ thống giáo dục quốc dân ……………………………… 39
B. Khái niệm hệ thống giáo dục quốc dân .................................................. 47
C. Hoạt động sư phạm của người giáo viên trong nhà trường tiểu học…… 55

Chương IV – QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC HỌC SINH Ở TIỂU HỌC


A.Quá trình giáo dục ………… ………………………………………….. 63
B. Nguyên tắc giáo dục……………………………………………………. 75
C. Nội dung giáo dục ở cấp tiểu học…………...………………………….. 82
C. Phương pháp giáo dục …………………………………………………. 94
E. Kiểm tra, đánh giá học sinh ở tiểu học ……………………...…………. 109

2
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA HỌC GIÁO DỤC HỌC

Mục tiêu: Sau khi học xong bài này người học có thể:
- Giải thích giáo dục được xem là một hiện tượng xã hội đặc biệt.
- Xác định đối tượng và nhiệm vụ của giáo dục học
- Nhận biết các tư tưởng giáo dục chủ yếu trên thế giới và ở Việt Nam giáo
dục
- Phân tích một số khái niệm, phạm trù của giáo dục học
- Nhận biết các phương pháp nghiên cứu giáo dục học

1. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ CỦA GIÁO DỤC HỌC


1.1. Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt
Ngay từ khi xuất hiện trên trái đất, để tồn tại con người phải tiến hành hoạt
động lao động. Trong lao động và trong cuộc sống hàng ngày con người tiến hành
nhận thức thế giới xung quanh, dần dần tích luỹ được một kho tàng kinh nghiệm
phong phú bao gồm các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo cùng những giá trị văn hóa xã hội
như các chuẩn mực về đạo đức, niềm tin, các dạng hoạt động giao lưu của con
người trong xã hội… Để duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội lòai người, con
người có nhu cầu trao đổi và truyền thụ lại những kinh nghiệm đã tích lũy ấy cho
nhau. Sự truyền thụ và tiếp thu hệ thống kinh nghiệm đó chính là hiện tựơng giáo
dục.
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt vì chỉ có trong xã hội loài người
giáo dục mới nảy sinh, phát triển và tồn tại vĩnh hằng. Lúc đầu giáo dục xuất hiện
như một hiện tượng tự phát, diễn ra theo lối quan sát, bắt chước ngay trong qúa
trình lao động (săn bắt, hái lượm, chăn nuôi, trồng trọt…). Về sau giáo dục trở
thành một hoạt động tự giác có tổ chức, có mục đích, nội dung và phương
pháp… của con người. Xã hội loài người ngày càng biến đổi, phát triển, giáo dục
cũng phát triển và trở thành một hoạt động được tổ chức chuyên biệt: có chương
trình, kế hoạch, có nội dung, phương pháp khoa học… Như vậy, giáo dục là họat
động truyền thụ và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử – xã hội từ thế hệ trước cho thế hệ
sau nhằm chuẩn bị cho thế hệ sau tham gia lao động sản xuất và đời sống xã hội.
Một quy luật của sự tiến bộ xã hội là thế hệ trước phải truyền lại cho thế hệ
sau những hiểu biết, năng lực, phẩm chất cần thiết cho cuộc sống của mỗi cá nhân,
gia đình, cộng đồng. Thế hệ sau không chỉ lĩnh hội, kế thừa các tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo, giá trị… mà còn phải tìm tòi, sáng tạo và làm phong phú hơn những giá trị đó.
Nhờ lĩnh hội, tiếp thu, phát triển những kinh nghiệm mà mỗi cá nhân hình thành và
3
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
phát triển nhân cách của mình. Nhân cách mỗi người được phát triển ngày càng đầy
đủ, phong phú, đa dạng, sức mạnh về tinh thần và thể chất của mỗi con ngừơi được
phát huy sẽ tạo nên nguồn lực cơ bản đáp ứng các yêu cầu phát triển xã hội trong
những giai đọan lịch sử cụ thể. Như vậy, sự truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm
được tích lũy trong quá trình phát triển xã hội lòai người chính là nét đặc trưng cơ
bản của giáo dục với tư cách là một hiện tượng xã hội đặc biệt.
Giáo dục là họat động có ý thức, có mục đích của con người, là hệ thống các
tác động nhằm làm cho người học nắm được hệ thống các giá trị văn hoá của loài
người và tổ chức cho người học sáng tạo thêm những giá trị văn hoá đó. Giáo dục
làm nhiệm vụ chuyển giao những tinh hoa văn hoá, đạo đức, thẩm mỹ… của nhân
loại cho thế hệ sau, là cơ sở giúp các thế hệ sau nối tiếp nhau sáng tạo, nâng cao
những gì mà nhân loại đã học được. Cho nên có thể coi giáo dục như một kiểu di
truyền xã hội – giáo dục thực hiện cơ chế di sản xã hội: là cơ chế truyền đạt và lĩnh
hội kinh nghiệm đã được tích lũy trong quá trình phát triển của xã hội loài người.
Chúng ta có thể thấy nếu không có cơ chế di sản xã hội - không có giáo dục thì loài
người không tồn tại với tư cách loài người, không có tiến bộ xã hội, không có học
vấn, không có văn hoá, văn minh. Vì vậy, bất kỳ xã hội nào muốn tồn tại và phát
triển được đều phải tổ chức và thực hiện họat động giáo dục liên tục đối với các thế
hệ con người.
Tóm lại, giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt chỉ có trong xã hội loài
người, giáo dục nảy sinh, biến đổi và phát triển cùng với sự này sinh, biến đổi và
phát triển của xã hội lòai người. Bản chất của hiện tượng giáo dục là sự truyền thụ
và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử – xã hội của các thế hệ loài người, chức năng trọng
yếu của giáo dục đối với xã hội là hình thành và phát triển nhân cách con người.
Với ý nghĩa đó giáo dục là nhu cầu không thể thiếu được cho sự tồn tại và phát triển
của xã hội loài người.
1.2. Đối tượng, nhiệm vụ của Giáo dục học
1.2.1. Đối tượng của giáo dục học: Đó là quá trình giáo dục với hàm nghĩa
rộng, bao quát toàn bộ các tác động giáo dục và dạy học được định hướng theo mục
đích xác định, được tổ chức một cách hợp lí, khoa học nhằm hình thành và phát
triển nhân cách của người học.
Quá trình giáo dục (theo nghĩa rộng) còn gọi là quá trình sư phạm tổng thể
có các đặc điểm sau:
- Là một dạng vận động và phát triển liên tục của các hiện tượng, các tình
huống giáo dục và dạy học, được tổ chức thực hiện theo những quy trình xác định.
- Là một dạng vận động xã hội, có quan hệ (gián tiếp) với các quá trình khác
4
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
(kinh tế, chính trị, văn hóa.v.v..) nhưng được tổ chức một cách chuyên biệt (theo
quy luật của giáo dục).
- Trong quá trình giáo dục luôn luôn có sự tác động qua lại của các thành phần
tham gia: người dạy, người học, trong đó nhà giáo dục giữ vai trò chỉ đạo và người
học là chủ thể hoạt động độc lập, sáng tạo nhằm chiếm lĩnh các giá trị văn hóa khoa
học kĩ thuật, đạo đức thẩm mĩ phù hợp với định hướng chung của mục đích giáo
dục, đáp ứng những yêu cầu của sự phát triển tiến bộ xã hội.
Quá trình sư phạm tổng thể bao hàm nhiều quá trình sư phạm bộ phận: Quá
trình dạy học, quá trình giáo dục (nghĩa hẹp) nhưng khi xem xét chúng với tư cách
là đối tượng chung của giáo dục học, người ta không đi vào chi tiết mà chỉ phản
ánh những yếu tố thể hiện những quy luật chung của việc giáo dục của quá trình sư
phạm chung. Qúa trình sư phạm tổng thể cũng như quá trình giáo dục bộ phận đều
được tạo bởi nhiều yếu tố như mục đích giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp
giáo dục, hình thức tổ chức giáo dục, các phương tiện, thiết bị giáo dục và dạy học,
hiệu quả và chất lượng giáo dục… Để quá trình vận hành được phải có các lực
lượng: Nhà sư phạm, học sinh, các lực lượng này hoạt động trong mối tương quan
biện chứng của quá trình và trong những điều kiện không gian và thời gian xác
định. Tất cả đều bị chi phối bởi tính quy định của các quá trình kinh tế - xã hội, các
nhân tố lịch sử xã hội cụ thể. Tất cả các thành phần, các yếu tố kể trên tham gia
trong quá trình cũng đều là đối tượng nghiên cứu của giáo dục học.
1.2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của Giáo dục học
- Nghiên cứu bản chất của giáo dục và mối quan hệ giữa giáo dục với các
bộ phận khác của xã hội.
- Nghiên cứu các qui luật của giáo dục.
- Nghiên cứu các nhân tố của HĐGD (mục đích, nội dung, phương pháp,
phương tiện, hình thức tổ chức giáo dục…). Từ đó tìm tòi con đường nâng cao chất
lượng và hiệu quả HĐGD.
Cùng với sự phát triển và đổi mới giáo dục, nhiều vấn đề mới trong thực tiễn
nảy sinh, đòi hỏi sự đáp ứng của Giáo dục học trong giai đoạn mới. Vì vậy nhiệm
vụ của Giáo dục học còn thể hiện ở việc giải quyết những vấn đề sau:
- Nghiên cứu và hoàn thiện những vấn đề thuộc phạm trù phương pháp luận
khoa học giáo dục.
- Nghiên cứu góp phần giải quyết mâu thuẫn lớn giữa yêu cầu vừa phải phát
triển nhanh qui mô giáo dục, vừa phải nâng cao chất lượng trong khi khả năng và
điều kiện đáp ứng yêu cầu còn nhiều hạn chế.

5
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn giáo dục trong nội dung, phương
pháp, hình thức tổ chức giáo dục trong những điều kiện mới…
- Các vấn đề trong hệ thống giáo dục quốc dân, trong quản lý giáo dục và
đào tạo…
2. CÁC TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CHỦ YẾU TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT
NAM.
2.1. Tư tưởng giáo dục thời cổ đại
Từ thế kỷ thứ VI đến thế kỷ IV trước công nguyên, ở Hy lạp đã xuất hiện ba
nhà triết học vĩ đại, đồng thời cũng là các nhà giáo dục tiêu biểu là Xôcơrat,
Platông, Arixtôt.
a) Xôcơrat (469- 339 tr.), nhà triết học duy tâm phản đối chủ nghĩa duy vật,
khoa học tự nhiên và vô thần luận. Ông quan niệm mục đích của triết học là dạy
đức hạnh vì đức hạnh và tri thức chỉ là một. Tự biết mình là nguồn gốc của đức
hạnh mà muốn tự biết mình phải bắt đầu bằng sự nghi ngờ… nên phải tìm ra chân
lý. Xôcơrat, người đầu tiên trong lịch sử đã dùng “thuật đỡ đẻ” (phương pháp vấn
đáp, mạn đàm, trao đổi) để dẫn dắt, gợi mở môn đệ của mình tự tìm ra chân lý duy
tâm khách quan.
b) Platông (429 – 347 tr.) là học trò của Xôcơrat, người kế thừa và phát triển
xuất sắc chủ nghĩa duy tâm khách quan của ông. Về giáo dục, Platông là người đầu
tiên phân chia tuổi học tương đối hợp lý:
+ Từ 3 đến 6 tuổi, trẻ học ở trường mẫu giáo (do nhà nước bảo trợ);
+ Từ 7 đến 12 tuổi, trẻ học ở văn – đàn (Học đọc, viết, tính tóan, học nhạc);
+ Từ 12 đến 18 tuổi, học ở trường thể thao (giáo dục thể chất, học toán, địa lý,
thiên văn);
+ Từ 18 đến 20 vào học trường cao đẳng (học văn hóa, thể thao, quốc phòng).
Sau đó số đông được tuyển vào quân đội hoặc được lựa chọn để làm quan lại, số ít
có năng lực đặc biệt được đào tạo tiếp đến tuổi 30 – 35 và trở thành các nhà khoa
học.
Platông đánh giá cao vai trò của giáo dục, theo ông, xã hội có ba tầng lớp, đó
là: các triết gia (người điều hành xã hội); vệ vinh (người bảo vệ xã hội) và những
lao động, thợ thủ công (những người sản xuất của cải vật chất). Sự giáo dưỡng, theo
Platông phải là chức năng của xã hội và do nhà nước đảm nhận. Tuy nhiên, cũng

6
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
như Xôcơrat, Platông cho rằng giáo dục là đặc quyênd, đặc lợi của giai cấp chủ nô,
nô lệ chỉ là những công cụ lao động biết nói mà thôi.
c) Aritốt (384- 332 tr.) là học trò của Platông và là thầy học của Alêchxăng
đại đé, ông là nhà triết học, nhà khoa học vĩ đại của Hy lạp, bộ óc bách khoa của
thời cổ đại. Về giáo dục, Arixtốt quan niệm cơ thể con người gồm ba yếu tố chính:
xương thịc, ý chí và lí trí nên giáo dục phải tác động đồng thời tới cả ba mặt: thể
dục, đức dục và trí dục. Đặc biệt về đạo đức, cần bồi dưỡng cho trẻ em lòng dũng
cảm, tính ôn hòa, khẳng khái và tiết kiệm; về trí dục, phải dạy cho trẻ biết đọc, viết
học vẽ và âm nhạc… Ông cũng phân chia độ tuổi học tập của học sinh một cách
có cơ sở khoa học để có nội dung, phương pháp giáo dục, giảng dạy sao cho phù
hợp. Arixtốt rất coi trọng giáo dục gia đình trong việc chăm sóc, nuôi dạy, bồi
dưỡng năng khiếu cho trẻ em. Những tư tưởng giáo dục của Arixtốt có ảnh hưởng
co lớn đến nền giáo dục thời đại phục hưng. Tuy nhiên, theo ông, tôn giáo phải là
nội dung giáo dục chủ yếu và phụ nữ, nô lệ không được hưởng quyền giáo dục.
2.2. Tư tưởng giáo dục thời cổ đại Trung hoa
Trung hoa xuất hiện nhiều nhà triết học vĩ đại, cũng là nhà giáo dục nổi tiếng
như Khổng tử, Mặc tử, Mạnh tử, Tuân tử,…
a) Khổng tử (551-479 tr. )
Khổng tử tên là Khâu, tự là Trọng ni, người Lỗ, nay tỉnh Sơn đông. Ông sinh
ra trong một gia đình quý tộc đã sa sút nhưng là người học cao, tài rộng nên 20 tuổi
đã đi khắp thiên hạ để mở trường dạy học và thuyết giáo. Ông đã không nhận mọi
chức quan và dành nhiều tâm trí cho giáo dục, dạy học. Quan điểm tư tưởng của
Khổng tử về giáo dục là phải dạy cho người ta thành người nhân nghĩa, trung chính,
hiểu được cái đạo của người quân tử. Ông thường nói: “…Ngọc bất trắc bất thành
khsi, nhân bất học bất trí đạo” (ngọc không mài giũa, không thành đồ dùng; người
không học không hiểu đạo lý làm người). Về nội dung giáo dục, ông dạy cho học
trò đạo Nho và theo ông, muốn trở thành người quân tử, trước hết phải rèn luyện,
trau dồi chữ “nhân”, vì nó có ý nghĩa vô cùng to lớn, nó đứng đầu trong những cái
đức của đạo làm người. Về phương pháp giáo dục, Khổng tử rất coi trọng việc phát
huy tích cực nhận thức của học sinh, chú ý dạy sát đối tượng, chú ý liên hệ lý luận
với thực tiễn và gây hứng thú học tập cho học sinh… Với tư cách như vậy, cả cuộc
đời dạy học, Khổng tử đã đào tạo được hàng ngàn học trò, trong đó có 72 người
hiền và trở thành nhà văn hóa có tên tuổi của Trung hoa như: Tăng Sâm, Mẫn Tử
Khiêm, Trọng Cung, Tử Lộ,… Những tư tưởng giáo dục của Khổng tử, cho đến

7
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
nay vẫn đang được nghiên cứu, kế thừa và vận dụng có hiệu quả trong các loại hình
trường.
b) Mặc tử (tức Mạc Địch, 479-381 tr.).
Mặc tử là người nước Lỗ, con một gia đinh làm thợ thủ công. Là nhà triết học,
Mặc tử cũng là một nhà giáo dục trứ danh, ông đã mở một trường tư lớn dạy cho
hơn ba trăm học trờ, phần nhiều là con nhà nghèo. Quan điểm tư tưởng của Mặc tử
có nhiều điểm rất tiến bộ, ông phản đối sự chuyên chế, chống chiến tranh và bênh
vựa nghèo nàn, muốn mang lại quyền lợi cho họ: “…người đói phải được ăn, người
rét phải được mặc, người làm việc nặng nhọc phải được nghỉ ngơi…” Mặc tử đánh
giá rất cao vai trò của giáo dục. Ông quan niệm bản tính của một con người giống
như một tấm lụa trắng, người thợ có thể nhuộm vào bất cứ màu nào theo ý muốn.
Con người ta cũng vậy thiện hay ác chính là do ảnh hưởng của môi trường, của bạn
tốt hay bạn xấu. Từ đó, Mặc tử tin rằng giáo dục là vũ khí để tạo nên một xã hội lý,
giáo dục là vạn năng và ông đã yêu cầu phải có một nền giáo dục bình đẳng đối với
mọi người.
Về mục đích và nội dung, Mặc tử cho rằng phải đào tạo những người khiêm ái
(có lòng nhân ái, khiêm tốn và được phát triển và nhiềi mặt). Muốn vậy giáo dục
phải phù hợp với thực tế và lợi ích của muôn dân trăm họ.
Về nguyên tắc và phương pháp giáo dục, Mặc tử coi trọng nguyên tắc tự nhiên
và nguyên tắc thực tiễn, đề cao vai trò của quan sát và rất coi trọng kinh nghiệm
thực tiễn trong quá trình giáo dục và giảng dạy.
Tóm tại, có thể nói về quan điểm triết học, Mặc tử còn duy tâm, song tư rưởng
giáo dục của ông có nhiều tiến bộ, mục đích giáo dục của ông là vì dân, phương
pháp giảng dạy của ông là rất coi trọng quan sát, coi trọng cảm giác và suy luận,
gắn liền tri thức với thực tiên
c) Mạnh tử (tức Mạnh Kha, 372-289 tr.).
Mạnh tử, người kế thừa và pr xuất sắc đạo Nho của Khổng tử. Ông đã di du
thuyết khắp nơi và mong muốn mang đạo Nho để cứu người, song vì chiến tranh
liên miên nên cuối cùng ông đã quay về với nghề dạy học. Mạnh tử cho rằng bản
chất con người là thiện, là tốt đẹp. Con người trở thành kẻ ác, thành người không
tốt, vô lương tâm… là do hoàn cảnh, do không được giáo dục. Muốn giữ được bản
tính tốt đẹp, lương thiện thì cần phải có giáo dục. Vì vậy ông đánh giá rất cao vai
trò của giáo dục, tin tưởng vào giáo dục trong việc đào tạo, cải biến tính cách con

8
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
người: “Người ta nếu chỉ ăn no, mặc ấm, ngồi dưng mà không được giáo dục thì
gần như loài cầm thú…”.
Tóm lại, trong thời cổ đại, với nền kinh tế phát triển tự nhiên; với phương thức
sản xuất đơn sơ của nền văn minh nông nghiệp… song các nhà giáo dục ở Hy lạp,
La mã, Trung hoa cổ đại, bằng hoạt động thực tiễn giáo dục, dạy học đã xây dựng
nền móng ban đầu cho lâu đài giáo dục mà sau mấy ngàn năm lịch sử chúng ta vẫn
kế thừa và phát huy những tư tưởng giáo dục bất hủ đó.
2.3. Tư tưởng giáo dục thời trung đại và cận đại
a. Giáo dục trong thời văn hóa phục hưng
Cuối thời trung cổ (khoảng thế kỷ XIV-XV), mọi lĩnh vự kinh tế - sản xuất
phát triển, đặc biệt các ngành công, thương nghiệp ở châu Âu phát triển mạnh mẽ
và các lĩnh vực khoa học, văn học, nghệ thuật đều đạt được những thành tựu rực rỡ.
Nhiều nhà khoa học lỗi lạc (như Côpecnich, Galiè, Brunô, Bê cơn,…) và các dnah
nhân nổi tiếng về các lĩnh vực văn học, nghệ thuật (như Leona Đơ Vanhxi,
Sêchxpia,…), đặc biệt là các nhà giáo dục nổi tiếng như Vichtôrinô (Ý) Eraxmơ
góp đáng kể cho sự tiến bộ xã hội và sự nghiệp giáo thế hệ trẻ. Với trào lưu chung
của thời văn hóa phục hưng, các nhà giáo dục đã lên tiếng phản đối chủh nghĩa kinh
viện, chủ nghĩa giáo điều, phê phán xã hội cũ lạc hậu, cổ vũ nền văn minh Hy lạp –
La mã, đề cao tự do cá nhân, tôn trọng phẩm giá con người… Tuy nhiên một số ý
tưởng về cải cách giáo dục cho một xã hội công bằng, văn minh… mới chỉ là ước
mơ về một nền giáo dục lý tưởng trong xã hội không tưởng mà thôi.
b. Một số nhà giáo dục tiêu biểu trong thời tiền tư bản chủ nghĩa
J.A. Commenxki (1592-1670)
Bàn về những tư tưởng giáo dục thời cận đại, trước hết phải kể tới J.A.
Commenxki, nhà giáo dục vĩ đại của Tiệp khắc(Xlôvakia), “Ông tổ của nền sư
phạm cận đại”, “một thiên tài rực rỡ, một nhà phát minh lỗi lạc, một Galilê củ giáo
dục”. Ông có những cống hiến vô cùng quý báu cho sự nghiệp giáo dục. Xuất phát
từ quan điểm: giáo dục phải thích ứng với tự nhiên, phải tuân theo quy luật phát
triển của tự nhiên, Commenxki đã tổng hợp được lý luận và kinh nghiệm thực tiễn
tiên tiến sau này. Những đóng góp to lớn của Commenxki về hệ thống các nguyên
tắc, các phương pháp dạy học; về các hình thức tổ chức dạy học (người đầu tiên
trong lịch sử giáo dục đề xuất hình thức dạy học theo lớp- bài); về sự phân chia
tuổi học; về những yêu cầu sư phạm đối với người giáo viên: muốn là người thầy,
9
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
trước hết phải là người cha tốt, cho đến nay vẫn còn có giá trị sâu sắc về lý luận và
thực tiễn.
J. Lôc-cơ (1632-1704, người Anh)
Lôc-cơ là một nhà triết học, nhà chính trị - xã hội học và cũng là nhà giáo dục
nổi tiếng. Là một nhà giáo dục thực dụng, các quan điểm của Lôc-cơ có giá trị thực
tiễn cao. Ông rất coi trọng và tin tưởng ở khả năg của giáo dục, song cũng không
phủ nhận vai trò của di truyền hoặc những “kinh nghiệm tiên tiến”. Mục đích giáo
dục của Lôc-cơ là đào tạo những con người phong nhã, có tài năng, có những phẩm
chất của một thương gia tư sản, những con người thiết thực, có đủ điều kiện thích
ứng với nhxưng đòi hỏi cấp bách của cuộc sống. Về nội dung giáo dưỡng, ông đòi
hỏi phải dạy học cho học sinh những tri thức cần thiết, có ích và ứng dụng linh
hoạt trong thực tiễn. Về phương pháp giảng dạy, Lôc-cơ đòi hỏi phải gây hứng thú
làm cho học sinh tích cực học tập.
Lôc-cơ có nhiều quan điểm tiến bộ về giáo dục, song vì đứng trên lập trường
của giai cấp tư sản nên quan điểm giáo dục của ông vẫn còn nhiều hạn chế như: sự
khinh miệt đối với giai cấp cần lao; coi giáo dục là công cụ để nô dịch hóa những
người lao động,… Tuy nhiên, với thời điểm lịch sử đó, tư tưởng giáo dục của Lôc-
cơ vẫn có ảnh hưởng sâu sắc tới các nhà sư phạm trong thời đại của ông.
J.J. Rút-Xô (1712-1778)
Rút-Xô sinh ở Giơnevơ, cha là một người thợ chữa đồng hồ, gốc Pháp. Rút-
Xô mồ côi cha mẹ từ nhỏ, với cuộc sống bần hàn, vừa học vừa kiếm sống, ông đã
vượt lên số phận và trở thành nhà văn, nhà giáo dục nổi tiếng. Với các tác phẩm bất
hủ “Khế ước xã hội”-1775, “Nàng Elidơ mới”-1761, đặc biệt là “Êmin hay vấn đề
giáo dục”-1762, đã phản ánh đậm nét các quan điểm giáo dục sâu sắc của ông.
J.J. Rút-Xô đề cao quan điểm giáo dục tự nhiên, ông đòi hỏi phải tôn trọng
sự phát triển tự do của cá nhân, tuyệt đối không được áp đặt đối với nhân cách của
trẻ. Tư tưởng dạy học của Rút xô là phát huy tính tích cực nhận thức của người
học, phải tôn trọng và hướng vào hoạt động của học sinh mà sau này người ta
thường nói là dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Rút-xô cũng đưa ra sự phân loại
tuổi học sinh một cách hợp lý. Tuy nhiên quan điểm giáo dục đối với phụ nữ của
Rut-xô còn quá ấu trĩ: phụ nữ không cần phải học mà cần “lấy ý chí của chồng làm
ý chí của mình; lấy tư tưởng của chồng làm tư tưởng của mình; lấy tôn giáo của
chồng làm tôn giáo của mình,…”

10
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
Cùng với sự hình thành và phát triển các tư tưởng giáo dục tiến bộ của các nhà
giáo dục thời tiền tư bản chủ nghĩa như J.Lôc-cơ, J.J. Rút-Xô, C.A. Hen-vê- xi-uýt
(1715-1771), D.Đi-đơ-rô (1713-1784), các nhà giáo dục trong thế kỷ thứ XIX như
A.Đixtévéc (1790-7866), I.G. Petxtalôgi (1746-1827), K.Đ.Usinxki (1824-1870),
A. Xanhximông (1760-1825), S.Phuriê (1772-1837), R.Owen (1771-1558),… Các
nhà giáo dục này không những phát huy các tư tưởng giáo dục tiến bộ mà còn phát
triển, làm phong phú, hoàn thiện thêm những quan giáo dục cơ bản về mục đích,
nội dung và các phương pháp, hình thức tổ chức quá trình giáo dục. Có thể nói trong
suốt thời gian dài từ cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX, do nền kinh tế xã hội và
khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển, sự nghiệp giáo dục đã có những bước
tiến rõ rệt. Đó là cơ sở lý luận và những kinh nghiệm thực tiễn quý báu để hình
thành và phát triển các quan điểm giáo dục trong xã hội hiện đại.
2.4. Các nhà tư tưởng giáo dục Việt Nam
Chu Văn An (1292 - 1370)
Chu Văn An người ở xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội.
Ông đã làm tới chức Tư nghiệp Quốc tử giám đời nhà Trần. Trước khi vào làm Tư
nghiệp Quốc tử giám ông đã mở một ngôi trường làng bên bờ sông Tô Lịch, thu hút
nhiều học trò bốn phương đến học. Đến đời Trần Dụ Tông, triều Trần lâm vào tình
trạng suy sụp, bọn gian thần trong triều ra sức đục khoét, tham ô vô độ, gây ra nhiều
tội ác. Ông đã dâng lên nhà vua một bản sớ, gọi là "Sớ Thất trảm" đòi chém bảy tên
gian thần (là cận thần của nhà vua), nhưng không được chấp thuận. Ông đã cáo quan
lui về ở ẩn.
Hiện nay không có đầy đủ tài liệu để biết một cách cụ thề về quan niệm học
thuật và phương pháp giảng dạy của ông. Nhưng các chi tiết về tiểu sử và thơ văn
của ông đã lưu lại cho hậu thế về một tấm gương lẫm liệt, tiết tháo thanh cao của một
vị tôn sư khảng khái về uy tín cao thượng để lại cho nhiều thế hệ học trò, được người
đời mãi mãi ngợi ca. Khi ông ra phụ trách trường Quốc tử giám, Trần Nguyên Đán
đã nói về ông: "Bể học xoay triều sóng, phong tục trở về thuần hậu, trường học lớn
trong nước có vị thần như sao Bắc Đẩu, như núi Thái Sơn ". Còn Phan Huy Chú, nhà
sử học lớn Việt Nam đã ca ngợi "Làng nho nước Việt, trước sau chỉ có một ông, các
người khác không ai so sánh được".
Hồ Quý Ly (1330 - 1407)
Ông người làng Đại La, tỉnh Thanh Hoá, làm quan đời nhà Trần và lập ra nhà
Hồ (lên ngôi năm 1400), sau bị quân Minh bắt đưa về Trung Quốc.

11
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
Hồ Quý Ly không hẳn là một nhà giáo, mặc dầu khi làm quan trong triều Trần
ông đã đảm nhiệm việc dạy các hoàng tử và người trong cung. Khi tham gia vào công
việc chính trị, ông đã có những chủ trương cải cách, thi hành nhiều chính sách mới
về kinh tế, chính trị, xã hội. Về mặt giáo dục ông cũng đã có những ý kiến táo bạo
và sắc sảo sửa đổi và đề ra một số chính sách mới như: sửa đổi phép thi, buộc thí
sinh phải thi môn Toán và Chính tả; mở thư viện quốc gia; lập trường học ở các phủ
huyện; lấy ruộng công để làm học điền; cho sưu tầm gia phả các họ trong nước để
đưa về Kinh đô.
Ông còn vạch ra những chỗ đáng nghi ngờ trong sách kinh điển, dịch một số
đoạn trong Kinh Thi ra chữ Nôm để làm tài liệu giảng dạy cho vua và cung nữ.
Trong hoàn cảnh xã hội phong kiến lúc đó có thể thấy rằng, Hồ Quý Ly là một
trí thức phong kiến đã có nhiều tư tưởng tiến bộ và độc lập trong học thuật cũng như
trong giáo dục.
Nguyễn Trãi (1380 - 1442)
Nguyễn Trãi là một nhà văn, nhà thơ, nhà tư tưởng lớn của Việt Nam thế kỉ
XV, được coi là danh nhân văn hoá thế giới. Các tài liệu không cho biết rõ ông có
học trò không, song ông cũng đã là chủ khảo kì thi Tiến sĩ đầu đời Lê. Trong các tác
phẩm của ông, chúng ta thấy dường như Nguyễn Trãi là người phát ngôn của quần
chúng lao động Việt Nam về nội dung giáo dục. Đó là những nội dung rất thiết thực,
lành mạnh của truyền thống Việt Nam về đạo lí làm người và về phép ứng xử trong
thực tiễn. Ông chú trọng đến đạo đức nhân dân, nhắc nhở sự cần cù trong lao động,
sự giản dị tiết kiệm, chú trọng tình gia tộc, nghĩa đồng bào, tình cha con, vợ chồng,
tình bè bạn, công ơn đối với người lao động, coi trọng vai trò của nhân dân, coi trọng
sức dân, mưu cầu đem lại quyền lợi cho dân, trừ tham tàn, bạo ngược.
Lê Quý Đôn (1726 - 1784)
Lê Quý Đôn là nhà bác học lớn của Việt Nam thế kỉ XVIII, người làng Diều
Hạ, tỉnh Thái Bình. Ông đỗ Bảng nhãn năm 1752, đã từng làm quan đến Công bộ
Thượng thư, là tác giả của nhiều bộ sách lớn nhiều thể loại. Ông đã từng làm quan
văn, làm tướng võ, phụ trách nhiều lĩnh vực hình sự, tố tụng, hộ khẩu, quân sự, lịch
sử, văn chương, giáo dục... và đã từng là một thầy giáo. Ông có những quan điểm
giáo dục rất rõ ràng, trình bày rải rác trong các tác phẩm, bàn đến nhiều vấn đề dạy
và học. Ông phê phán cái học đương thời trong những thế kỉ rối ren suy nhược đã
làm cho người hiền và những lời sáng suốt bị che mờ đi. Triều đình không nghe lời
can gián, người có chức vị không giữ được đức độ thanh liêm. Ông mong muốn có
12
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
một nền học thuật đúng đắn với nội dung học tập toàn diện chứ không chỉ nhồi nhét
những lí luận kinh điển xa xôi, bao gồm dạy "lục nghệ", văn học và võ bị pháp luật,
coi trọng những tác phẩm dân gian của người lao động.
Ông nêu ý kiến tiến bộ về phương châm học tập: Học nhiều nhưng phải biết
nắm lấy cái chính; học phải có óc suy luận, không chỉ câu nệ vào sách vở; học phải
hành, học phải giúp cho con người có năng lực để làm những việc có ích cho xã hội;
phải chú ý việc tự học.
Nguyễn Thiếp (1723 - 1804)
Nguyễn Thiếp người làng Nguyệt Ao, Đức Thọ, Hà Tĩnh, đã đỗ Hương cống
đời Lê. Ông không có địa vị khoa bảng cao nhưng tiếng tăm của ông được người
đương thời biết đến và được truyền lại cho người đời sau là do phẩm chất cao thượng
và công trình tu dưỡng của ông.
Trước thời Quang Trung, ông lui về ở ẩn và sau đó có mở trường dạy học. Học
trò theo học ông rất đông và ông được tôn làm La Sơn Phu Tử. Khi vua Quang Trung
lên ngôi đã thực hiện chính sách chiêu hiền đãi sĩ và Nguyễn Thiếp được vua vời ra
giúp nước. Ông được cử giữ chức Viện trưởng Viện Sùng chính, trông nom việc dạy
học và học thuật của triều đình. Về quan điểm giáo dục, ông chú trọng việc học tập
nhằm mục đích giúp cho dân nước thịnh cường: Học rộng rồi ước lượng cho gọn,
học mười để làm một, coi trọng cái Đạo là những lẽ thường mà người ta theo để làm
người.
Nguyễn Trường Tộ (1828 - 1871)
Sinh năm 1828 tại làng Bùi Chu, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An trong
một gia đình nho học nghèo, theo đạo Thiên Chúa. Thân sinh ông là một thầy thuốc
bắc có danh tiếng, thân mẫu là một người tần tảo thờ chồng nuôi con và rất mộ đạo.
Nguyễn Trường Tộ là một nhà Nho có hiểu biết sâu rộng về các mặt. Ông đã
chứng kiến mọi sự biến động từ đầu thế kỉ XIX của chế độ phong kiến nhà Nguyễn
đang thời kì suy đồi. Ông nhận thấy một trong những nguyên nhân làm cho nước ta
rơi vào tình trạng đó là do nền phong kiến lỗi thời, lạc hậu, bảo thủ, không đủ sinh
khí thúc đẩy xã hội tiến lên. Ông phê phán mục đích của nền học cũ là chạy theo lối
khoa cử. Người đi học lúc bấy giờ chỉ say sưa với lối tầm chương trích cú, thuộc làu
kiến thức trong "Tứ thư, ngũ kinh" để rồi thi cử cho đậu để được, làm quan với triều
đình. Ông đã khẳng định vai trò to lớn của giáo dục đối với thực tế xã hội lúc đó như
sau: "Một nước mà học thuật không sáng tỏ thì phong tục ngày càng đồi bại, nhân

13
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
dân tiến dần đến chỗ phù hoa xảo trá. Nhân tâm đã hỏng thì tìm cho được những kẻ
nhiệt tình đối với sự nghiệp là điều cũng khó lắm vậy"
Nguyễn Trường Tộ đã suy nghĩ rất nhiều về thực trạng nền giáo dục của nhà
nước phong kiến triều Nguyễn. Ông đã phê phán một cách sâu sắc sự lụn bại và lạc
hậu của nền giáo dục đó và đưa ra những đề nghị cải cách rất tiến bộ. Ông tin vào
sức mạnh cải tạo của giáo dục và đặt hi vọng nhiều vào một nền giáo dục dân tộc
mới có thể giảm bớt cho mọi sự trì trệ trong xã hội. Theo ông, học là một nhu cầu
thiết yếu của mỗi dân tộc. Ông tin tưởng với mục đích học đúng đắn, nền giáo dục
mới có thể phát huy được phẩm chất và năng lực tốt đẹp của con người, trả lại cho
con người giá trị chính đáng để thúc đẩy xã hội thoát khỏi sự bế tắc. Ông quan niệm
việc học không phải là từ chương khoa cử mà là học cái chưa biết để giúp cho con
người biết làm việc có ích cho thực tế nước nhà. Ông định nghĩa: "Học tức là học cái
chưa biết, biết để mà làm. Mà làm việc gì? Và làm ở đâu? Làm tức là làm công việc
thực tế trong nước hiện nay và để lại việc làm hữu dụng đó cho đời sau nữa". (Tế cấp
bát điều)
Nguyễn Trường Tộ đã nêu lên phương châm giáo dục học gắn liền với hành,
học thực dụng, học khoa học, học để phục vụ thực tế. Đây là một phương châm học
mới tiếp cận với tư tưởng giáo dục dân chủ tư sản, là tư tưởng giáo dục tiến bộ. Ông
liên hệ học với việc làm cho nước giàu dân mạnh, đủ sức chống xâm lược.
Ông đề nghị đưa vào nội dung giáo dục những môn khoa học mới như: Thiên
văn, Toán học, Kĩ xảo, Chính trị, Lịch sử, Địa lí, Địa chất, Pháp lí, Ngoại ngữ. Đó là
những quan điểm giáo dục thể hiện tinh thần dân tộc: trong nội dung dạy học và giáo
dục, quan điểm giáo dục đó được bổ sung kết hợp với kiến thức văn hoá thế giới:
"Phải chú trọng những điều thực tiễn của nước nhà những không có nghĩa là không
học những điều hay của thiên hạ, không học lịch sử các nước và các danh nhân thế
giới... không phải bỏ hết cái cũ và mở cầu cái mới mà phải lấy cái hay của mình có
sẵn, gộp với cái hay của thiên hạ mới sáng tạo, như thêm thì những cái hay cái mới
của thiên hạ có, mình cũng có, mà những cái mình sẵn có thì thiên hạ chưa có. Như
thế thì ai dám khinh rẻ nước mình".
Ông đề xuất việc dạy và học ngoại ngữ. Theo ông, ngoại ngữ là một phương
tiện, là cái chìa khoá mở ra kho tàng tri thức của thế giới để hiểu biết tri thức khoa
học tiên tiến của các nước trên thế giới. Ông đề nghị triều đình đưa ngoại ngữ làm
một môn học chính thức. Lúc bấy giờ ở triều đình, Tự Đức cũng đã tổ chức cho các
quan chức và các công tử trong hoàng tộc phải học tiếng Pháp và định lệ thưởng phạt
cho những người học chữ Tây để khuyến khích việc học. Nguyễn Trường Tộ đề nghị
14
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
ngoài tiếng Pháp còn học thêm nhiều ngoại ngữ nữa: tiếng Anh, tiếng Iphanho (Tây
Ban Nha), Inđônêxia, Miên, Lào. Đó là những nước thường xuyên tiếp xúc với chúng
ta. Ông đề nghị cho dịch sách nước ngoài, thâu tóm lấy cái nào quan trọng nhất, rồi
cho in để ban hành. Ai dịch được sách nước ngoài cần được khen thưởng ưu đãi.
Nguyễn Trường Tộ còn đề nghị với triều đình Tự Đức thành lập các trường
quốc học, tỉnh học và đặc biệt là xây dựng một số trường theo kiểu Tây phương có
phòng thí nghiệm, có kí túc xá cho học sinh ăn ở, học tập mời các giáo sư người
phương Tây về dạy và lấy các môn khoa học hiện đại làm nội dung chủ yếu cho
chương trình học. Lấy thời văn làm trọng, còn cổ văn chỉ là thứ yếu.
Bên cạnh những trường dạy các môn khoa học cơ bản phổ thông, ông đề nghị
mở một hệ thống các trường chuyên nghiệp về nông nghiệp, khai khoáng, cơ xảo,
sơn lợi (lâm nghiệp), địa chất.
+ Khoa thiên văn và khoa địa lí:
Ông quan niệm hai khoa này là gốc của mọi việc. Cần sưu tầm những sách
thiên văn địa lí cũ của ta, chọn lấy những phần thích hợp với thiên thời địa lợi của
nước ta, tước bỏ những phần duy tâm như phong thuỷ thuật số, rồi tham khảo thêm
những sách của người phương Tây để biên soạn thành những bộ sách hoàn hảo.
+ Khoa cơ xảo: Sưu tầm trong sách nho cũ, rút ra những phần nói về cơ xảo,
rồi đối chiếu với khoa học mới chỉnh lí, bổ sung thêm. Đây là khoa giảng dạy, phổ
biến kiến thức khoa học mới, khoa học thực dụng.
+ Khoa luật học: Luật là gồm cả kỉ cương, uy quyền và chính lệnh của quốc
gia, luật là đạo đức của xã hội, người nào trái luật cũng là trái với đức. Quan cai trị
dân phải bằng luật, dân không biết luật thì sẽ ngang tàng trái phép. Vì vậy quan và
dân đều phải tinh thông luật lệ cho nên phải xây dựng khoa luật học.
+ Khoa nông chính: Ông đề nghị thu thập và rút kinh nghiệm về phương pháp
trồng trọt và chăn nuôi ở các địa phương, sau đó đem đối chiếu so sánh với các sách
nông chính của ta và của các nước phương Tây để xây dựng khoa nông chính thích
hợp với ta.
Song song với việc đào tạo trong nước, Nguyễn Trường Tộ đề nghị triều đình
phải cử người xuất dương du học. Số người du học, ông đề nghị chia thành 2 loại:
- Loại đi học nghề phải khéo tay, hơi lớn tuổi cũng được.
- Loại đi học văn hóa phải lấy người thông minh trẻ tuổi.

15
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
Nên sang Anh, sang Pháp du học vì đó là những nước tiên tiến nhất. Chính
Nguyễn Trường Tộ đã có lần được triều đình Tự Đức phái dẫn đoàn học sinh đi du
học. Những đề nghị cải cách giáo dục của Nguyễn Trường Tộ còn được thể hiện ở
việc đề nghị dùng quốc âm “Theo chữ riêng của nước mình trong việc day, việc học,
làm sách và các giấy tờ”. Ông chỉ trích những điều bất tiện của nước ta khi việc học
phải phụ thuộc vào văn tự nước ngoài. Ông nhận thấy tiếng nói và chữ viết của ta
không thống nhất với nhau là do nước ta không có văn tự riêng. Do đó người học rất
vất vả và mất nhiều thì giờ vì: “Khi mới bắt đầu học phải nhìn nét chữ bằng mắt, lại
phải nhớ tiếng bằng óc. Tiếng lạ tai ấy chỉ có người học rồi mới biết, còn người
không học thì nghe cũng như tiếng chim, tiếng quạ vậy. Thế có phải phí hơn phần
nửa công phu trí óc không?” (Tế cấp bát điều).
3. CÁC CHỨC NĂNG XÃ HỘI CƠ BẢN CỦA GIÁO DỤC
Trong quá trình tồn tại và phát triển, giáo dục và xã hội có một mối quan hệ
ràng buộc, tất yếu, hữu cơ mang tính quy luật. Chính sự phát triển của mối quan hệ
đó làm cho xã hội và giáo dục đều phát triển. Đặc biệt trong thời đại ngày nay giáo
dục được xem không chỉ là sản phẩm của xã hội mà đã trở thành nhân tố tích cực -
động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội loài người.
3.1. Chức năng kinh tế – sản xuất
- Các nhà nghiên cứu kinh tế học giáo dục đã chỉ ra rằng: Khoa học – Giáo
dục – Sản xuất là ba bộ phận hợp thành một cơ cấu thống nhất và trở thành nhân tố
quyết định đối với kết quả của nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện phát triển của
cách mạng khoa học kỹ thuật, không chỉ tăng cường mối liên hệ giữa khoa học với
sản xuất để biến khoa học thành một lực lượng sản xuất trực tiếp mà phải thực hiện
sự tác động qua lại giữa khoa học giáo dục và sản xuất. Mắt xích quan trọng trong
mối quan hệ này là quan hệ giữa giáo dục và sản xuất.
- Lao động sản xuất dù có đơn giản đến đâu cũng cần phải có sự huấn luyện
để người lao động biết lao động, có kinh nghiệm lao động. Lao động càng phức tạp,
càng hiện đại càng cần phải có sự đầu tư vào việc huấn luyện nhiều hơn.
- Hiệu quả của nền sản xuất vất chất phụ thuộc trực tiếp vào sự phát triển
chung về mặt nhận thức và trình độ chuyên môn của người lao động. Trình độ học
vấn và chuyên môn giúp cho người lao động có khả năng tiếp cận và vận dụng
những thành tựu của khoa học kỹ thuật vào lao động để tác động đến việc hoàn
thiện công cụ lao động, biến lao động thành hoạt động sáng tạo. Cho nên, quan hệ
giữa trình độ của người lao động với năng xuất lao động đã được coi là quy luật cơ
bản của nền sản xuất hiện đại. Trình độ chuyên môn của người lao động càng cao
thì năng xuất lao động càng cao. K. Mác đã từng làm rõ mối quan hệ giữa giáo dục
16
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
với sản xuất trên nền tảng của sức lao động. Sức lao động xã hội, theo K. Mác chỉ
tồn tại trong nhân cách sống của con người. Giáo dục tái tạo nên sức mạnh bản chất
của con người cho nên giáo dục được coi là phương thức tái sản xuất sức lao động
xã hội. Sức lao động đó có thể là những thành phẩm như kỹ sư, công nhân vv…hay
bán thành phẩm như học sinh.
- Giáo dục luôn luôn phải làm nhiệm vụ bù đắp kịp thời nhân lực thiết hụt
(do nhiều nguyên nhân) trong sức sản xuất xã hội. Với sự giáo dục thường xuyên
người lao động nhanh chóng thích ứng với thay đổi, phát triển mạnh và liên tục của
nền sản xuất. Vì vậy có thể nói: Đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho cho sản
xuất, là thứ đầu tư khôn ngoan và có lợi nhất. Đây là chiến lược quan trọng của các
nước phát triển và đang phát triển hiện nay.
Tóm lại: Muốn nền sản xuất phát triển xã hội phát triển thì đòi hỏi giáo dục
phải phát triển. Giáo dục phải đào tạo được một đội ngũ nhân lục lao động có trình
độ đáp ứng kịp thời với yêu cầu của nền sản xuất đó.
3.2. Chức năng chính trị – xã hội
- Chức năng này thể hiện vai trò của giáo dục đối với sự phát triển xã hội về
mặt chính trị. Giáo dục tác động đến cấu trúc xã hội, tức là tác động đến các bộ
phận của xã hội bao gồm các giai cấp, các tầng lớp, các nhóm xã hội, các mối quan
hệ giữa các bộ phận đó.
- Giáo dục tác động đến cấu trúc xã hội nhằm góp phần biến đổi cấu trúc xã
hội theo mục đích mong muốn. Giáo dục Xã hội chủ nghĩa góp phần làm cho cấu
trúc xã hội trở nên thuần nhất, nghĩa là góp phần xoá bỏ sự phân chia xã hội thành
giai cấp, làm cho các tầng lớp xã hội xích lại gần nhau bằng cách nâng cao trình độ
văn hoá, nhận thức cho toàn thể nhân dân lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
lựa chọn nghề nghiệp vv…
- Giáo dục góp phần thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu xã hội : Giáo dục
dân số và kế hoạch hoá gia đình góp phần thực hiện mục tiêu về phát triển dân số
của xã hội, giáo dục giới tính góp phần tiến tới đảm bảo sự bình đẳng nam nữ vv…
- Chính sách ưu tiên theo vùng trong chế độ tuyển sinh hiện nay nhằm góp
phần đảm bảo nguồn nhân lực có trình độ cho các vùng ít có điều kiện phát triển
kinh tế, xã hội .
3.3. Chức năng tư tưởng – văn hóa
- Giáo dục có tác dụng to lớn đến việc xây dựng một hệ tư tưởng chi phối
toàn xã hội, hình thành ở mỗi cá nhân thế giới quan, tư tưởng chính trị, ý thức, tình
cảm và hành vi đạo đức phù hợp với các chuẩn mực xã hội. “Nền giáo dục
Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học,
17
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng” (Điều
3, chương I, Luật giáo dục 2005). Nền giáo dục Việt Nam phải phục vụ mục đích
chính trị tốt đẹp và tư tưởng cao quý của Đảng Cộng sản Việt Nam, hướng tới mục
tiêu xây dựng và phát triển đất nước giàu mạnh.
- Giáo dục là quá trình truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử – xã hội
của các thế hệ, quá trình này giúp cho mỗi cá nhân tích lũy kiến thức, mở mang trí
tuệ, hình thành và nâng cao trình độ văn hóa, đạo đức, thẩm mỹ cho mỗi cá nhân
và cho toàn xã hội. Một quốc gia giàu mạnh là một quốc gia có nền kinh tế vững
mạnh, khoa học công nghệ tiên tiến, chính trị bền vững và trình độ dân trí cao. Giáo
dục góp phần xây dựng và nâng cao trình độ dân trí – trình độ văn hóa chung cho
toàn xã hội. Nền giáo dục không chỉ hướng vào việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực mà còn hướng vào quá trình phát hiện và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
- Giáo dục không chỉ thực hiện sứ mệnh lịch sử là chuyển tải nền văn hóa
của thế hệ này cho thế hệ kia mà còn là phương thức đặc trưng cơ bản để bảo tồn
và phát triển nền văn hóa của dân tộc và nhân loại. Giáo dục bảo tồn, phát triển nền
văn hoá dân tộc và nhân loại thông qua các con đường giáo dục, trong đó dạy học
là con đường cơ bản nhất. Thông qua các con đường giáo dục học sinh không chỉ
biết gìn giữ mà còn có khả năng làm phong phú, sáng tạo thêm những giá trị văn
hóa, những loại hình văn hóa đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc…
Tóm lại, thông qua ba chức năng xã hội, giáo dục đã góp phần vào sự phát
triển của xã hội, đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao về sự phát triển của lực
lượng sản xuất, quan hệ xã hội, ý thức xã hội… Đặc biệt, trong thời đại ngày nay,
giáo dục được quan niệm không chỉ là một bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng,
mà nó còn là một bộ phận thuộc hạ tầng cơ sở, “Giáo dục không chỉ là sự phản ánh
đơn thuần các lực lượng kinh tế và xã hội đang họat động trong một xã hội. Nó còn
là một phương tiện quan trọng để cấu thành các lực lượng kinh tế - xã hội và văn
hóa và quyết định chiều hướng phát triển của các lực lượng này. Đến lượt mình
động lực của các lực lượng này lại tác động đến đặc điểm của giáo dục. Do vậy, có
một mối quan hệ vòng tròn trong mối quan hệ qua lại giữa giáo dục và một lọat các
nhân tố xã hội và con người khác”. (Raja Roy Singh). Thế giới coi giáo dục là động
lực cơ bản, là đòn bẩy mạnh mẽ, là điều kiện tiên quyết thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội. Đảng CSVN khẳng định phát triển giáo dục là “quốc sách hàng đầu” và
“đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển bền vững nhất”.
4. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CỦA GIÁO DỤC
Giáo dục: Giáo dục (theo nghĩa rộng) là hoạt động giáo dục tổng thể hình
thành và phát triển nhân cách được tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch
18
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
nhằm phát triển tối đa những tiềm năng (sức mạnh thể chất và tinh thần) của con
người. Như vậy, giáo dục là một bộ phận của quá trình xã hội hình thành cá nhân
con người, bao gồm những nhân tố tác động có mục đích, có tổ chức của xã hội, do
những người có kinh nghiệm, có chuyên môn gọi là nhà giáo dục, nhà sư phạm đảm
nhận. Nơi tổ chức hoạt động giáo dục một cách có hệ thống có kế hoạch chặt chẽ
nhất là nhà trường. Với nghĩa rộng như trên, giáo dục là một hoạt động tổng thể
bao gồm giáo dục trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thể chất, giáo dục thẩm mỹ,
giáo dục lao động do nhà trường phụ trách trước xã hội.
Giáo dục (nghĩa hẹp)
Giáo dục (nghĩa hẹp) là một bộ phận của hoạt động giáo dục (nghĩa rộng), là
hoạt động giáo dục nhằm hình thành thế giới quan khoa học, tư tưởng chính trị, đạo
đức, thẩm mỹ, lao động, phát triển thể lực, những hành vi và thói quen ứng xử đúng
đắn của cá nhân trong các mối quan hệ xã hội. Theo nghĩa này giáo dục (nghĩa hẹp)
bao gồm các bộ phận: đức dục, mỹ dục, thể dục, giáo dục lao động.
Dạy học
Dạy học là một bộ phận của giáo dục (nghĩa rộng), là hoạt động tương tác,
phối hợp thống nhất giữa hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của người
học nhằm truyền thụ và lĩnh hội hệ thống tri thức khoa học, kỹ năng, kỹ xảo, phát
triển năng lực nhận thức và hành động, trên cơ sở đó hình thành thế giới quan khoa
học, phẩm chất đạo đức nói riêng và nhân cách nói chung cho người học…
Giáo dưỡng
Giáo dưỡng được hiểu là quá trình người học nắm vững hệ thống tri thức
khoa học, kỹ năng, kỹ xảo tương ứng, hình thành phương pháp nhận thức và thực
hành sáng tạo. Nói cách khác, giáo dưỡng chính là quá trình bồi dưỡng học vấn cho
người học (học vấn là kết quả của việc nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
tương ứng…).
- Giáo dưỡng có thể được thực hiện thông qua con đường dạy học trong nhà
trường hoặc có thể thông qua con đường tự học, tự bồi dưỡng của cá nhân hoặc kết
hợp cả hai con đường.
Tự học
Tự học là hoạt động tự giác, có mục đích của cá nhân, là tự mình động não,
suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ và có khi cả cơ bắp cùng các phẩm chất, động
cơ, tình cảm… để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh
vực đó thành sở hữu của mình. Cốt lõi của học là tự học. Tự học là nói đến nội
lực của người học, chất lượng của học tuỳ thuộc chủ yếu vào nội lực. Dù điều kiện
tác động từ bên ngòai đối với họat động học tốt đến mấy, nhưng nếu con người
19
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
không có đủ nỗ lực bản thân để tự học, tự biến đổi mình đến mức cần thiết thì không
thể nào đạt được mục tiêu mong muốn.
Tự giáo dục
Tự giáo dục là một bộ phận của giáo dục, là hoạt động tự giác có ý thức, có
mục đích của cá nhân nhằm tự hoàn thiện những phẩm chất nhân cách của bản thân
cho phù hợp với yêu cầu chuẩn mực của xã hội. Bản chất của tự giáo dục là quá
trình ý chí. Trong tự giáo dục có sự nỗ lực tích cực hóa một hoạt động nào đó và
song song với quá trình đó là việc kìm hãm những ước muốn không hợp lý. Tự giáo
dục là những biểu hiện có ý thức của sự tự phát triển, của sự tự vận động cá nhân,
là gia tốc của sự phát triển cá nhân, nó thúc đẩy sự hình thành những phẩm chất
quan trọng và cần thiết nhất đối với cá nhân.
Giáo dục hướng nghiệp
Giáo dục hướng nghiệp là một hệ thống biện pháp tác động của gia đình, nhà
trường, xã hội, trong đó nhà trường đóng vai trò chủ đạo nhằm giáo dục học sinh
trong việc chọn nghề, giúp học sinh tự quyết định nghề nghiệp tương lai trên cơ sở
phân tích khoa học về năng lực, hứng thú của bản thân và nhu cầu nhân lực của các
ngành sản xuất trong xã hội. Mục tiêu chung của giáo dục hướng nghiệp nhằm phát
triển và bồi dưỡng phẩm chất nhân cách nghề nhiệp; giúp học sinh hiểu mình, hiểu
yêu cầu của nghề; định hướng cho học sinh đi vào những lĩnh vực mà xã hội có yêu
cầu. Nhiệm vụ của giáo dục hướng nghiệp bao gồm định hướng nghề, tư vấn nghề
và tuyển chọn nghề.
Giáo dục cộng đồng: Theo UNESCO thì giáo dục cộng đồng được xem như
là một tư tưởng, một cách làm mới mẻ nhằm xây dựng mối quan hệ bền vững, gắn
bó giữa giáo dục với các quá trình xã hội, với đời sống và lợi ích của cộng đồng.
Đó là cách thức tốt và có hiệu quả nhằm tạo ra những điều kiện, cơ hội để thực hiện
sự công bằng xã hội, tạo lập nền tảng cho sự phát triển và sự ổn định của xã hội.
Giáo dục cộng đồng được hiểu là giáo dục cho tất cả mọi người, là áp dụng cho mọi
người trong xã hội. Nói một cách cụ thể hơn giáo dục cộng đồng là quá trình biến
đổi các loại trường học thành các trung tâm giáo dục và câu lạc bộ văn hóa cho mọi
lứa tuổi. Nếu thực hiện thành công đường lối giáo dục cộng đồng, xã hội sẽ là một
trường học khổng lồ, trong đó giáo dục trở thành một động lực phát triển trực tiếp
và quan trọng nhất của toàn xã hội.
Giáo dục thường xuyên
Giáo dục thường xuyên được hiểu là một hệ thống giáo dục nhằm mục đích
tạo cơ hội giáo dục liên tục, thường xuyên, thoả mãn nhu cầu học tập suốt đời của
mọi thành viên trong xã hội, giúp họ thích ứng với sự tiến bộ nhanh chóng về khoa
20
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
học - kỹ thuật, tham gia tích cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.
Công nghệ giáo dục
Sự tác động mạnh mẽ, sâu sắc và thường xuyên của khoa học kỹ thuật vào
nền sản xuất đại công nghiệp làm nảy sinh một khái niệm khoa học chuyên
biệt: công nghệ. Đối với nền sản xuất ra của cải vật chất công nghệ là một khoa học
chuyên nghiên cứu cách thức xử lý, chế tác, biến đổi trạng thái, tính chất, hình dáng
của nguyên vật liệu (hay bán thành phẩm) thành sản phẩm. Nó phát hiện ra các qui
luật cơ, lý, hóa có thể vận dụng vào các quá trình sản xuất ra của cải vật chất nhằm
nâng cao chất lựơng, hiệu quả, năng suất
Một trong những xu thế của thời đại mới là đầu tư công nghệ phát triển. Khi
đầu tư trong lĩnh vực giáo dục nói chung và dạy học nói riêng, xu thế chung là đầu
tư theo chiều sâu. Việc đầu tư dạy học theo chiều sâu thực chất là đầu tư công nghệ
dạy học. Theo nghĩa hẹp, công nghệ dạy học là việc sử dụng những phát minh,
những sản phẩm công nghiệp hiện đại về thông tin và các phương tiện kỹ thuật vào
dạy học. Theo nghĩa rộng, công nghệ giáo dục là khoa học về giáo dục, nó xác lập
các nguyên tắc hợp lý của công tác dạy học và những điều kiện thuận lợi nhất để
tiến hành quá trình đào tạo cũng như xác lập các phương pháp và phương tiện có
kết quả nhất để đạt mục đích đào tạo đề ra đồng thời tiết kiệm được sức lực của
thầy và trò (UNESCO).
5. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU GIÁO DỤC
HỌC
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu Giáo dục học
Phương pháp luận nghiên cứu khoa học là lý thuyết về phương pháp nhận
thức khoa học. Phương pháp luận nghiên cứu Giáo dục học là lý thuyết về phương
pháp nghiên cứu các hiện tượng giáo dục nhằm phát hiện ra bản chất và qui luật
của chúng, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Những quan điểm phương pháp
luận còn được gọi là quan điểm tiếp cận đối tượng nghiên cứu hay phương pháp
tiếp cận. Những quan điểm phương pháp luận nghiên cứu Giáo dục học là “kim chỉ
nam” định hướng, dẫn dắt nhà nghiên cứu trên con đường tìm tòi, sáng tạo. Trong
nghiên cứu Giáo dục học có những quan điểm phương pháp luận sau đây:
- Quan điểm hệ thống - cấu trúc
Quan điểm này đòi hỏi trong quá trình nghiên cứu phải xem xét đối tượng
một cách toàn diện, nhiều mặt, nhiều chiều, nhiều mối quan hệ khác nhau và trong
trạng thái vận động, phát triển của chúng, từ đó tìm ra bản chất và qui luật vận động
của đối tượng nghiên cứu.
21
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
- Quan điểm lịch sử - lôgic
Quan điểm này đòi hỏi trong quá trình nghiên cứu cần tìm hiểu, phát hiện
nguồn gốc nảy sinh, phát triển của đối tượng trong những thời gian và không gian
cụ thể với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, từ đó phát hiện bản chất, chất lượng
mới và quy luật phát triển tất yếu của đối tượng nghiên cứu.
- Quan điểm thực tiễn
Quan điểm này đòi hỏi trong quá trình nghiên cứu phải xuất phát từ thực tiễn
giáo dục, do yêu cầu của thực tiễn giáo dục đề ra. Đối tượng nghiên cứu của Giáo
dục học phải là một trong những vấn đề cấp thiết của thực tiễn khách quan mà khi
giải quyết vấn đề đó thì góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu Giáo dục học
5.2.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Đây là nhóm phương pháp nhận thức khoa học giáo dục bằng con đường suy
luận dựa trên các tài liệu lý thuyết đã được thu thập từ các nguồn khác nhau như
sách báo, tạp chí, tài liệu tham khảo, văn bản, nghị quyết, công trình nghiên cứu
của người khác v.v…Các tài liệu được phân tích, tổng hợp, phân lọai, hệ thống hóa
để tạo thành những tri thức, lý thuyết giáo dục mới làm cơ sở khoa học cho vấn đề
nghiên cứu.
5.2.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Đây là các phương pháp xem xét, phân tích đối tượng khoa học một cách
trực tiếp trong thực tiễn.
a. Phương pháp quan sát sư phạm
Quan sát sư phạm là phương pháp thu thập thông tin về đối tượng nghiên
cứu bằng cách tri giác có chủ định đối tượng và các yếu tố liên quan đến đối tượng.
Quan sát với tư cách là phương pháp nghiên cứu khoa học là một hoạt động có mục
đích, có kế hoạch và hệ thống của nhà nghiên cứu nhằm thu thập những tài liệu về
thực tiễn giáo dục làm cơ sở cho việc đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp tương
ứng hoặc kiểm chứng cho lý thuyết, giả thuyết…
b. Phương pháp điều tra giáo dục
* Điều tra bằng trò chuyện (phỏng vấn)
Điều tra bằng trò chuyên là phương pháp thu thập thông tin về đối tượng
nghiên cứu qua trao đổi ý kiến trực tiếp với những người được nghiên cứu.
Các loại trò chuyện: trò chuyên trực tiếp; trò chuyện gián tiếp; trò chuyện
thẳng; trò chuyện đường vòng; trò chuyện bổ sung; trò chuyện đi sâu; trò chuyện
phát hiện; trò chuyện kiểm nghiệm.
* Điều tra bằng phiếu hỏi (ankét)
22
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
Điều tra bằng phiếu hỏi (ankét) là phương pháp sử dụng một hệ thống câu
hỏi nhất loạt đặt ra cho một số lượng lớn đối tượng được nghiên cứu nhằm thu thập
ý kiến của họ về vấn đề nghiên cứu dưới hình thức viết.
c. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm là phương pháp phân tích, đánh giá, khái
quát hóa và hệ thống hóa những kinh nghiệm trong thực tiễn giáo dục nhằm rút ra
những những bài học bổ ích, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục.
d. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Thực nghiệm sư phạm là phương pháp nghiên cứu một cách chủ động, có hệ
thống một hiện tượng giáo dục nhằm xác định mối quan hệ giữa tác động giáo dục
với hiện tượng giáo dục được nghiên cứu trong những điều kiện đã được khống
chế.
e. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
Đây là phương pháp phân tích các sản phẩm hoạt động của đối tượng nghiên
cứu (giáo viên, học sinh, cán bộ quản lý…) nhằm thu thập những thông tin cần
thiết về cá nhân hay tập thể.
g. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
Là phương pháp thu thập thông tin khoa học, nhận xét đánh giá một sản phẩm
khoa học bằng cách sử dụng trí tuệ một đội ngũ chuyên gia có trình độ cao về lĩnh
vực nghiên cứu.
6.2.3. Nhóm phương pháp toán học
Sử dụng các lý thuyết Toán học, các phương pháp lôgic Tóan học để xây
dựng các lý thuyết giáo dục hoặc để xác định thông số liên quan tới đối tượng
nghiên cứu của một đề tài nhằm tìm ra qui luật vận động của đối tượng.
Sử dụng Toán thống kê để xử lý các tài liệu thu thập từ các phương pháp
khác nhau.

CÂU HỎI ÔN TẬP


1. Tại sao nói: giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt?
2. Phân tích các chức năng xã hội cơ bản của giáo dục. Từ đó nêu lên vai trò
của giáo dục đối với sự phát triển xã hội hiện đại.
3. Giải thích đối tượng nghiên cứu của Giáo dục học
4. Phân biệt các khái niệm cơ bản của Giáo dục học: Giáo dục (nghĩa rộng)
- Dạy học – Giáo dục (nghĩa hẹp) và mối quan hệ của chúng.

23
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
Chủ đề hội thảo
Chủ đề 1. Giáo dục là chìa khóa mở đường đi tới tương lai của mỗi dân tộc.
Chủ đề 2. Giáo dục là con đường di tới hạnh phúc của mỗi cá nhân.
Chủ đề 3. Giáo dục vừa là mục tiêu, vừa là động lực thú đẩy sự phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội của từng quốc gia và của cả nhân loại.
Chủ đề 4. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển bền vững nền kinh tế,
văn hóa, xã hội.

24
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
CHƯƠNG II. VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
VÀ CÁ NHÂN
Mục tiêu: Sau khi học xong bài này, người học có thể:
- Nhận biết các khái niệm: con người, nhân cách, sự phát triển nhân cách
- Trình bày Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển xã hội
- Phân tích vai trò của các yếu tố bẩm sinh di truyền, môi trường, giáo dục
trong sự hình thành và phát triển nhân cách.
- Trình bày sự phát triển nhân cách trẻ em qua các giai đoạn lứa tuổi.
1. VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
Đại hội lần thứ VII Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định “Giáo dục và đào
tạo phải được xem là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người, động lực
trực tiếp của sự phát triển”. Đó là một sự khẳng định hết sức đúng đắn xuất phát từ
lợi ích của nhân dân ta, đồng thời phù hợp với chân lý phổ biến của lịch sử thế giới.
Từ đó đến nay nhiều hội nghị chuyên đề của Đảng tiếp tục ban hành các nghị
quyết về đổi mới, phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Chính vì vậy mà sự nghiệp
giáo dục - đào tạo nước ta ngày càng phát triển cả về quy mô và chất lượng. Tuy
nhiên, bên cạnh đó, ở nhiều địa phương đầu tư cho giáo dục vẫn chưa tương xứng
với yêu cầu đặt ra cho việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài
cho đất nước. Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là con người chưa được
nhận thức một cách đầy đủ, Một lần nữa chúng ta cùng nhau nhìn nhận lại vấn đề
này từ quan điểm của các nhà lãnh đạo trên thế giới về giáo dục.
Trong quá trình lãnh đạo công cuộc xây dựng CNXH, Lênin luôn coi sự nghiệp
giáo dục và đào tạo là nhiệm vụ hàng đầu, là điều kiện tiên quyết để nâng cao năng
suất lao động, để chiến thắng nghèo nàn lạc hậu. Chính vì vậy mà Người chủ trương
“Phải thực hiện một chế độ giáo dục không mất tiền và bắt buộc, phổ thông và tổng
hợp cho tất cả trẻ em trai gái dưới 17 tuổi” trên cơ sở nguyên lý “Giảng dạy phải kết
hợp chặt chẽ với lao động sản xuất xã hội, đào tạo những thành viên phát triển toàn
diện cho xã hội cộng sản”.
Tư tưởng giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với nhân cách cao đẹp của
Người đã thể hiện vấn đề cơ bản nhất, nổi bật nhất là vấn đề xây dựng và hoàn thiện
con người thông qua hoạt động giáo dục và tự giáo dục. Đối với Người, nhân tố của
con người với những tinh hoa như hiểu biết, năng lực, đạo đức là yếu tố then chốt,
có tính quyết định thành công của cách mạng, tiến bộ của xã hội, tiền đồ của dân tộc
và hạnh phúc của nhân dân … Người từng nói “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội,
trước hết cần phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Về cách học, người
quan niệm “Phải lấy tự học làm cốt”. Nguyên lý giáo dục Người nêu lên cho nhà
25
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
trường XHCN là: “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà
trường gắn liền với xã hội”. Thực tiễn đã cho thấy, quá trình giáo dục tự giác là quá
trình giáo dục thường xuyên, là quá trình lâu dài và thiết thực nhất, bởi lẽ nó gắn bó
với cả cuộc đời của mỗi con người và “Việc học không bao giờ cùng, học hành sáng
tạo suốt đời”. Lý luận và thực tiễn về tư tưởng tự học, tự giáo dục của Người được
xem là tư tưởng chiến lược của việc tiếp tục đổi mới và phát triển giáo dục - đào tạo
trong thời kỳ đổi mới công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Từ những phân tích
trên có thể nói những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về giáo dục và đào tạo không những đã khẳng định vai trò, vị trí, tầm quan trọng của
giáo dục và đào tạo đối với quá trình phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc mà còn là
cơ sở để Đảng ta vạch ra đường lối chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời
kỳ đổi mới nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước, đưa nước ta trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.

Trong bối cảnh trên, giáo dục theo quan điểm các chuyên gia hàng đầu của
UESCO, thì ý kiến ngày càng phổ biến đều cho rằng “Giáo dục là một trong những
công cụ mạnh nhất mà chúng ta có trong tay để sáng tạo nên tương lai” (Jacques
DoLoss - 1995).Vì vậy mà trong một công trình nghiên cứu ứng dụng vào
thực tiễn về những ưu tiên và chiến lược cho giáo dục, ngân hàng thế giới đã có kết
luận: “Đầu tư vào giáo dục sẽ tích luỹ vốn con người, là chìa khoá để thay thế sự
tăng trưởng kinh tế và tăng thu nhập. Giáo dục, đặc biệt là giáo dục cơ bản (GDPT)
cũng góp phần làm giảm đói nghèo, nhờ tăng năng suất lao động của từng lớp lao
động nghèo, giảm sinh đẻ và tăng cường sức khoẻ, giúp mọi người cùng có cơ hội
tham gia đầy đủ và hoạt động xã hội và phát triển kinh tế” (Ngân hàng thế giới -
1997).

Về mặt kinh tế, nguồn lực con người xem xét chủ yếu dưới góc độ là lực lượng
lao động cơ bản của xã hội, cả trong hiện tại và tương lai. Nó chủ yếu cần được quan
tâm về mặt chất lượng con người bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí
tuệ, năng lực và phẩm chất tức là toàn bộ năng lực sáng tạo, năng lực hoạt động thực
tiễn của con người. Nếu người lao động có kỹ năng lao động, trình độ khoa học – kĩ
thuật thì hiển nhiên là năng suất lao động sẽ cao hơn. Người lao động cần được trang
bị kỹ năng lao động, sự hiểu biết, trình độ về khoa học công nghệ,… đó là điều kiện
thiết yếu nhằm đáp ứng đòi hỏi của sự phát triển công nghệ tiên tiến. Con người là
chủ thể khai thác, sử dụng các nguồn lực khác, chỉ khi kết hợp với con người, các
nguồn lực khác mới phát huy tác dụng. Mặt khác, con người lại là khách thể, là đối
26
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
tượng khai thác các năng lực thể chất và trí tuệ cho sự phát triển. Vậy con người vừa
là chủ thể vừa là khách thể của các quá trình kinh tế – xã hội, là nguồn lực của mọi
nguồn lực. Sự kết hợp thống nhất biện chứng giữa con người với công nghệ tiên tiến
sẽ là động lực cơ bản của tăng trưởng kinh tế.
Con người được xem xét là phương tiện, là động lực cơ bản và bền vững của
sự tăng trưởng kinh tế. Kinh tế tăng trưởng mang lại sự giàu có về vật chất, suy cho
cùng, không ngoài mục đích đáp ứng tốt hơn các nhu cầu sống của bản thân con
người. Vậy con người không chỉ là động lực mà còn là mục tiêu cuối cùng của phát
triển kinh tế.
Đầu tư cho phát triển nguồn lực hay chính là đầu tư cho giáo dục con người
mang lại hiệu quả kinh tế cao, tiết kiệm được việc khai thác sử dụng các nguồn lực
khác. Kinh nghiệm từ nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy đầu tư vào giáo dục cho
phát triển nguồn lực con người mang lại tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định
hơn. Mặt khác hiệu quả đầu tư cho phát triển con người có độ lan toả đồng đều, nó
mang lại sự công bằng hơn về cơ hội phát triển cũng như việc hưởng thụ các lợi ích
của sự phát triển. Một kinh nghiệm lớn của thế giới đã được rút ra và cũng được đúc
kết thành quy luật là: hễ quốc gia nào đầu tư đúng và đủ cho giáo dục thì quốc gia ấy
sẽ tiến nhanh trên con đường phát triển của mình, còn nếu làm ngược lại, sự chậm
phát triển hoặc thụt lùi là điều không thể tránh khỏi.
Từ những quan điểm trên chúng ta có thể thấy rằng, sự nghiệp giáo-dục đào tạo
có vị trí hết sức quan trọng và có vai trò hết sức to lớn trong quá trình phát triển kinh
tế - xã hội của mỗi đất nước cũng như trên toàn thế giới. Một xã hội được giáo dục
tốt là xã hội “Dựa trên trí thức”, phát huy được mọi tiềm năng của con người, những
con người tư duy sáng tạo, năng động luôn luôn tự điều chỉnh và phát triển.
2. KHÁI NIỆM VỀ NHÂN CÁCH VÀ SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
2.1. Khái niệm con người
Theo Từ điển Tiếng Việt, con người được hiểu:
- Là động vật tiến hóa nhất
- Có khả năng nói, tư duy, sáng tạo
- Sử dụng công cụ trong quá trình lao động sáng tạo.
Trong Luận cương về Phơ bách, K. Mác đã khẳng định về bản chất con
nguời: “bản chất con người không phải là cái trừu tượng, vốn có của mỗi cá nhân
riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa của các mối
quan hệ xã hội”.
Qua sự khẳng định của của Mác, chúng ta thấy có ba điều cần lưu ý:
Con người tồn tại trong rầt nhiều mối quan hệ xà hội mà ngời đó tham gia.
27
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
Bản chất con ngưòi không phải là cái trưù tượng, vốn có của mỗi cá nhân.
Bản chất con người bao giờ cũng được thể hiện trong cuộc sống, trong lao động,
nói một cách khác là trong hoạt động thực tiển.
Nhấn mạnh tính xã hội trong con người không có nghĩa là phủ nhận phần thể
xác, phần tự nhiên của con người.
Trong một con người, bao giờ cũng bao gồm hai bộ phận: Phần tự nhiên và
phần xã hội. Chính K. Mác đã chỉ ra: “Con người là một thực thể tự nhiên trực tiếp,
với tư cách là thực thể tự nhiên sống, con người được phú cho những sức mạnh tự
nhiên, những sức sống đã trở thành thực thể tự nhiên hoạt động.”
Trái với quan điểm của K. Mác về bản chất con người, có một số quan
niệm phiến diện về con người sau:
Con người như một tồn tại thần bí. Quan điểm này cho rằng trong con người
ta có một con người nhỏ xíu tồn tại và nó điều khiển con người thể xác mà ta thấy.
Con người tồn tại như một sinh vật. Họ cho rằng cuộc sống của con người
đều do bản năng quyết định. Đó là các bản năng sống, chết, duy trì nòi giống…
Con người tồn tại như một cái máy.
Con người chính trị.
Con ngưòi xã hội.
Con người là cái máy biết suy nghĩ biết yêu đương
2.2. Khái niệm về nhân cách
Theo Giáo dục học, nhân cách bao gồm tất cả các nét, các mặt, các phẩm
chất có ý nghĩa xã hội trong một con người. Nhân cách là toàn bộ các đặc điểm tâm
sinh lý của cá nhân được xã hội đánh giá tạo nên giá trị của cá nhân đó. Tùy theo
trình độ phát triển của xã hội mà các đặc điểm của cá nhân được nhìn nhận và đánh
giá khác nhau. Những đặc điểm của cá nhân cũng được đánh giá khác nhau tương
ứng với những vai trò khác nhau của họ.
- Theo quan niệm truyền thống nhân cách là sự thống nhất giữa phẩm chất
và năng lực của cá nhân bao gồm các phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, tác
phong và các năng lực, sở trường, năng khiếu. Người có nhân cách phải là người
thống nhất được hai mặt phẩm chất và năng lực, tức là thống nhất giữa mặt đức và
tài.
- Theo cách tiếp cận giá trị thì cốt lõi của nhân cách là hệ thống định hướng
giá trị mà mỗi cá nhân lựa chọn cho mình, bao gồm:
+ Các giá trị tư tưởng: lý tưởng, niềm tin…
+ Các giá trị đạo đức: lương tâm, trách nhiệm, lòng nhân ái, lòng trung thực
+ Các giá trị nhân văn: học vấn, nghề nghiệp, tình yêu, thời trang, …
28
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
2.3. Khái niệm về sự phát triển nhân cách
Con người khi mới sinh ra chưa có nhân cách. Nhân cách chỉ hình thành và
phát triển trong qúa trình con người sống, hoạt động và giao lưu trong đời sống xã
hội. Sự phát triển nhân cách là qúa trình tăng trưởng, tích lũy, hoàn thiện về thể
chất, tâm lý và xã hội của cá nhân.
- Sự phát triển về mặt thể chất: biểu hiện ở những biến đổi về chiều cao, trọng
lượng, cơ bắp, sự hoàn thiện các giác quan và sự phối hợp vận dộng cơ thể.
- Sự phát triển về mặt tâm lý: thể hiện ở những biến đổi của các qúa trình
nhận thức, tình cảm, ý chí… và ở sự hình thành những thuộc tính tâm lý mới của
cá nhân.
- Sự phát triển về mặt xã hội: thể hiện ở những biến đổi trong thái độ cư xử
với người xung quanh, ở sự tham gia tích cực vào các quan hệ và hoạt động xã
hội.
Qúa trình hình thành và phát triển nhân cách chịu tác động của nhiều yếu tố
như bẩm sinh - di truyền, môi trường, giáo dục và hoạt động cá nhân.
3. VAI TRÒ CỦA DI TRUYỀN, MÔI TRƯỜNG VÀ HỌAT ĐỘNG CÁ
NHÂN ĐỐI VỚI SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
3.1. Vai trò của di truyền đối với sự phát triển nhân cách
Di truyền là sự tái tạo lại ở thế hệ sau những thuộc tính sinh học giống với
thế hệ trước. Các thuộc tính sinh học được di truyền bao gồm cấu tạo giải phẫu,
sinh lý cơ thể, những đặc điểm như màu mắt, màu tóc, vóc dáng, thể tạng, các giác
quan, tư chất, một số đặc điểm của hệ thần kinh…
Di truyền tạo tiền đề vật chất cho sự phát triển nhân cách. Điều đó có nghĩa
là nếu cá thể không tiếp nhận được vật chất di truyền của người thì sẽ không có
được tiền đề vật chất cho sự phát triển nhân cách. Một cơ thể lành mạnh, các giác
quan đầy đủ, hệ thần kinh bình thường sẽ tạo tiền đề thuận lợi cho sự phát triển
nhân cách.
Các đặc tính cơ thể có ảnh hưởng đến tốc độ, mức độ và tính chất của việc
hình thành các kỹ năng, kỹ xảo, năng lực của cá nhân chứ không quyết định sẵn
cho sự phát triển nhân cách con người. Những tư chất di truyền định hướng cho con
người vào các lĩnh vực hoạt động rộng rãi chứ không vào một lĩnh vực hoạt động
cụ thể và cũng không qui định trước năng lực cụ thể của cá nhân. Nhưng để tư chất
biến thành khả năng hiện thực còn tùy thuộc vào hoàn cảnh sống, vào sự giáo dục
và nhất là tùy thuộc vào ý chí rèn luyện của cá nhân.
Trong công tác giáo dục chúng ta cần chú ý đúng mức vai trò của di truyền
trong sự phát triển nhân cách để tránh những thái độ sau đây:
29
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
- Không quan tâm đến những đặc điểm tư chất của học sinh và đòi hỏi mọi
học sinh phải có khả năng hoàn thành những nhiệm vụ học tập như nhau hoặc không
chú ý phát huy những tư chất thuận lợi ở một số học sinh cũng như không tìm cách
hỗ trợ cho những học sinh không có tư chất thuận lợi.
- Đề cao ảnh hưởng của yếu tố di truyền đến mức cho nhân cách là bẩm sinh
và phủ nhận khả năng biến đổi bản chất con người
- Hạ thấp vai trò của giáo dục qua việc tổ chức giáo dục theo mức độ phát
triển đã bị qui định bởi yếu tố di truyền.
3.2. Vai trò của môi trường đối với sự phát triển nhân cách
Môi trường là hệ thống các hoàn cảnh bên ngoài, các điều kiện tự nhiên và
xã hội cần thiết cho hoạt động sống và phát triển của cá nhân. Môi trường gồm hai
loại: môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
- Vai trò của môi trường tự nhiên
Những đặc điểm về địa hình, thời tiết, khí hậu tạo điều kiện rèn luyện hình
thành những phẩm chất nhân cách của cá nhân. Thông thường tính cách của con
người liên quan đến đặc điểm địa lý của khu vực sinh sống. Tuy nhiên môi trường
tự nhiên không ảnh hưởng trực tiếp hay có ý nghĩa quyết định mà chỉ có ảnh hưởng
gián tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Môi trường tự nhiên ảnh hưởng
đến sự phát triển nhân cách nhưng không mạnh mẽ và quan trọng bằng ảnh hưởng
của môi trường xã hội.
- Vai trò của môi trường xã hội
Môi trường xã hội gồm có: môi trường xã hội lớn và môi trường xã hội nhỏ.
+ Môi trường xã hội lớn: bao gồm các yếu tố: kinh tế, chính trị, văn hóa,
pháp luật, nhà nước,…
+ Môi trường xã hội nhỏ: là những yếu tố gắn liền với đời sống hàng ngày
như gia đình, nhà trường, khu dân cư,…
Môi trường xã hội có ảnh hưởng quan trọng đối với sự hình thnh và phát
triển nhân cách. Trước hết sự hình thành và phát triển nhân cách chỉ có thể thực
hiện trong một môi trường xã hội, cá nhân không sống trong môi trường xã hội sẽ
không hình thành phát triển nhân cách người. Điều đó được chứng minh qua những
trường hợp trẻ em bị lưu lạc trong rừng tuy được thú vật nuôi dưỡng nhưng chỉ có
thể sống theo kiểu động vật chứ không thể phát triển nhân cách cho dù sau đó đã
được con người đưa về nuôi dạy trong môi trường xã hội. Mặt khác, môi trường xã
hội qui định mục đích, nội dung và chiều hướng của sự phát triển nhân cách, nó
giúp con người hình thành nhân cách nhờ giao tiếp và hoạt động xã hội.
* Cơ chế tác động của môi trường xã hội đến cá nhân:
30
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
- Môi trường xã hội lớn không tác động trực tiếp đến cá nhân mà tác động
gián tiếp thông qua môi trường xã hội nhỏ. Môi trường xã hội lớn thường khó thay
đổi nhưng nếu nó thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi tính chất và các mối quan hệ của
môi trường xã hội nhỏ.
- Môi trường xã hội nhỏ ảnh hưởng trực tiếp và tác động thường xuyên, mạnh
mẽ đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Mỗi cá nhân tham gia cùng lúc vào
nhiều môi trường nhỏ. Tính chất của các môi trường nhỏ này chi phối rõ rệt đến cá
nhân. Tuy nhiên môi trường xã hội nhỏ có thể bị biến đổi dễ dàng bởi sự thay đổi
của môi trường xã hội lớn và bởi hoạt động của các thành viên.
- Tác động của môi trường xã hội không hoàn toàn trực tiếp chi phối đến cá
nhân mà phải thông qua “bộ lọc cá nhân” (những kinh nghiệm, vốn sống và những
định hướng giá trị đã hình thành trong mỗi cá nhân). Điều này góp phần lý giải hiện
tượng những người cùng sống trong một khu vực, một cộng đồng xã hội nhưng có
nhiều sự khác biệt về nhân cách.
Đối với trẻ em, vì chưa tham gia các hoạt động xã hội, nghề nghiệp nên môi
trường xã hội nhỏ (gia đình, nhà trường, nhóm bạn) có ảnh hưởng quan trọng; còn
đối với người trưởng thành, hoạt động nghề nghiệp tác động đến cá nhân thông qua
bộ lọc cá nhân mạnh hơn tác động của môi trường nhỏ. Ngoài ra cá nhân không chỉ
là đối tượng nhận sự tác động của môi trường mà còn là chủ thể tham gia biến cải
môi trường như câu nói của Marx: “Hoàn cảnh sáng tạo ra con người trong chừng
mực con người sáng tạo ra hoàn cảnh”
Như vậy, môi trường không đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển
nhân cách, mức độ ảnh hưởng của môi trường tùy thuộc vào lập trường, quan điểm,
thái độ, xu hướng, năng lực của cá nhân. Trong công tác giáo dục, điều quan trọng
là giúp cá nhân hình thành khả năng tự giáo dục theo hệ thống định hướng giá trị
phù hợp với các chuẩn mực xã hội, để họ biết chọn lựa học hỏi những điều tích cực
lành mạnh và biết loại bỏ tránh xa những điều xấu xa tiêu cực trong môi trường
sống.
4. VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC ĐỐI VỚI SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN NHÂN CÁCH
Giáo dục là họat động hình thành tòan vẹn nhân cách được tổ chức một cách
có mục đích, có kế họach và hệ thống thông qua hai hoạt động dạy học và giáo dục
để làm phát triển các sức mạnh thể chất và tinh thần của con người, giúp họ tham
gia có hiệu quả vào đời sống xã hội.
4.1. Vai trò chủ đạo của giáo dục đối với sự phát triển nhân cách

31
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
4.1.1. Giáo dục định hướng và tổ chức dẫn dắt quá trình hình thành, phát
triển nhân cách của cá nhân
- Xác định mục đích giáo dục cho cả hệ thống, cho từng bậc học, cấp học,
trường học và từng hoạt động giáo dục cụ thể
- Xây dựng nội dung, chương trình, kế hoạch dạy học và giáo dục, lựa chọn
phương pháp, phương tiện và hình thức giáo dục đáp ứng mục đích giáo dục, phù
hợp với nội dung và đối tượng, điều kiện giáo dục cụ thể.
- Tổ chức các hoạt động, giao lưu
- Đánh giá, điều chỉnh nội dung, phương pháp, hình thức gíao dục...
Sự định hướng của giáo dục không chỉ thích ứng với những yêu cầu của xã
hội hiện tại mà còn phải thích hợp với yêu cầu phát triển của tương lai để thúc đẩy
sự tiến bộ của xã hội. Vì vậy, giáo dục phải đi trước, đón đầu sự phát triển. Muốn
đi trước, đón đầu sự phát triển, giáo dục căn cứ trên những dự báo về gia tốc phát
triển của xã hội, thiết kế nên mô hình nhân cách của con người thời đại với hệ thống
định hướng giá trị tương ứng.
4.1.2. Giáo dục can thiệp, điều chỉnh các yếu tố khác nhằm tạo sự thuận lợi
cho quá trình phát triển nhân cách
Các yếu tố bẩm sinh - di truyền, môi trường và hoạt động các nhân đều có
ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách ở các mức độ khác nhau, tuy nhiên yếu tố
giáo dục lại có thể tác động đến các yếu tố này để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho
sự phát triển nhân cách.
* Đối với di truyền
- Giáo dục tạo điều kiện thuận lợi để những mầm mống của con người có
trong chương trình gène được phát triển. Chẳng hạn, trẻ được di truyền cấu tạo cột
sống, bàn tay và thanh quản … nhưng nếu không được giáo dục thì trẻ khó có thể
đi thẳng đứng bằng hai chân, biết sử dụng công cụ hay phát triển ngôn ngữ…
- Giáo dục rèn luyện, thúc đẩy sự hoàn thiện của các giác quan và vận động
cơ thể.
- Giáo dục phát hiện những tư chất của cá nhân và tạo điều kiện để phát huy
năng khiếu thành năng lực cụ thể.
- Giáo dục tìm cách khắc phục những khiếm khuyết cơ thể để hạn chế những
khó khăn của người khuyết tật trong sự phát triển nhân cách (phục hồi chức năng
hoặc hướng dẫn sử dụng công cụ hỗ trợ). Ngoài ra giáo dục còn góp phần tăng
cường nhận thức trong xã hội về trách nhiệm của cộng đồng đối với người khuyết
tật và tổ chức cho toàn xã hội chia sẻ, hỗ trợ người khuyết tật vượt qua khó khăn
và sự bất hạnh của mình.
32
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
* Đối với môi trường
- Giáo dục tác động đến môi trường tự nhiên qua việc trang bị kiến thức và
ý thức bảo vệ môi trường của con người, khắc phục được sự mất cân bằng sinh thái,
làm cho môi trường tự nhiên trở nên trong lành, đẹp đẽ hơn.
- Giáo dục tác động đến môi trường xã hội lớn thông qua các chức năng kinh
tế - xã hội, chức năng chính trị - xã hội, chức năng tư tưởng – văn hóa của giáo dục.
- Giáo dục còn làm thay đổi tính chất của môi trường xã hội nhỏ như gia
đình, nhà trường và các nhóm bạn bè, khu phố…, để các môi trường nhỏ tạo nên
những tác động lành mạnh. tích cực đến sự phát triển nhân cách con người. Hiện
nay công tác giáo dục xã hội đang chú tâm xây dựng gia đình là một mái ấm dân
chủ, bình đẳng, ấm no, hạnh phúc; nhà trường là một môi trường thân thiện đối với
học sinh, cộng đồng dân cư là khu vực văn hóa của một xã hội văn minh tiến bộ.
* Đối với hoạt động cá nhân
- Giáo dục tổ chức nhiều loại hình hoạt động giao tiếp bổ ích, lành mạnh
nhằm phát huy những phẩm chất và năng lực cá nhân (sân chơi ở các nhà văn hóa
cho mọi lứa tuổi, các câu lạc bộ xây dựng gia đình hạnh phúc tại địa phương, …);
xây dựng những động cơ đúng đắn của cá nhân khi tham gia hoạt động, giao tiếp
đồng thời hướng dẫn cá nhân lựa chọn các hoạt động và giao tiếp phù hợp với khả
năng của bản thân. Đặc biệt công tác giáo dục luôn xây dựng các mối quan hệ giao
tiếp tích cực giữa thầy trò, giữa bạn bè với nhau đồng thời tổ chức và định hướng
cho trẻ tham gia vào các hoạt động chủ đạo ở từng giai đoạn lứa tuổi để thúc đẩy
sự phát triển nhân cách.
- Giáo dục tạo tiền đề cho tự giáo dục của cá nhân. Tự giáo dục thể hiện tính
chủ thể của cá nhân khi con người đáp ứng hoặc tự vận động nhằm chuyển hóa các
yêu cầu của giáo dục thành phẩm chất và năng lực của bản thân. Nếu cá nhân thiếu
khả năng tự giáo dục thì các phẩm chất và năng lực của họ sẽ hình thành ở mức độ
thấp hoặc thậm chí không thể hình thành. Trình độ, khả năng tự giáo dục của cá
nhân phần lớn bắt nguồn từ sự định hướng của giáo dục. Giáo dục đúng đắn và đầy
đủ sẽ giúp con người hình thành khả năng tự giáo dục, đề kháng trước những tác
động tiêu cực của xã hội để phát triển nhân cách mạnh mẽ. “Chỉ có những người
biết tự giáo dục mới là những người thực sự có giáo dục.” (Bennet – Anh)
4.3. Điều kiện để giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự phát triển nhân cách
Như vậy thông qua các tác động đón đầu sự phát triển, giáo dục không chỉ
thúc đẩy sự phát triển nhân cách cá nhân mà còn thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Tuy nhiên giáo dục không phải là vạn năng, không thể một mình quyết định toàn
bộ tiến trình phát triển nhân cách. Giáo dục chỉ là một trong những yếu tố ảnh
33
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
hưởng quan trọng đến sự phát triển nhân cách thông qua những tác động có tính
chủ đạo. Vì vậy, để giáo dục thực sự đóng vai trò chủ đạo đối với sự hình thành và
phát triển nhân cách cần có các điều kiện sau:
- Công tác dự báo về xu hướng phát triển của xã hội phải đưa ra những định
hướng đúng đắn để giáo dục thực hiện tốt chức năng đón đầu sự phát triển.
- Các yếu tố trong qúa trình giáo dục phải thống nhất với nhau, nhà giáo dục
phải giữ vai trò chủ đạo, người được giáo dục phải thể hiện vai trò chủ động.
- Phải có sự kết hợp chặt chẽ ba lực lượng giáo dục: gia đình, nhà trường và
xã hội, trong đó nhà trường đóng vai trò chủ đạo. Những yếu kém của giáo dục
thường có nguyên nhân từ sự thiếu phối hợp đồng bộ giữa ba lực lượng giáo dục
này.
- Nhà giáo dục phải nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của người được giáo
dục.
- Nhà giáo dục phải có phẩm chất và năng lực để làm tốt công tác giáo dục
5. GIÁO DỤC VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH THEO
LỨA TUỔI
5.1. Giáo dục và sự phát triển nhân cách trẻ hài nhi (0 – 1 tuổi)
* Sự phát triển nhân cách
Đứa trẻ khi mới sinh ra chỉ là một sinh vật mang mầm mống người, nhân
cách chưa hình thành. Thông qua sự giao lưu với những người lớn trực tiếp chăm
sóc (cha mẹ, ông bà, mẹ nuôi…) trẻ hành nhi mới học được cách hòa nhập với cuộc
sống xã hội ở ngoài bụng mẹ. Sự phát triển của trẻ hài nhi chủ yếu là về mặt cơ thể
được thể hiện ở những tiến bộ trong các hoạt động của các giác quan và của vận
động (nhìn, nghe, ngửi, nếm, lật, ngồi, bò, đứng, đi, cầm nắm…). Chiều hướng phát
triển của các giác quan và vận động cơ thể trong giai đoạn này cũng nói lên tính
chất và mức độ phát triển về trí tuệ và tinh thần của đứa trẻ.
* Nội dung giáo dục
- Thúc đẩy nhanh sự hoàn thiện của các giác quan và vận động cớ thể.
- Cho trẻ tiếp xúc, làm quen dần với thế giới đồ vật để d- Người lớn trực tiếp
chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục trẻ thông qua sự giao lưu tiếp xúc và đáp ứng các
nhu cầu của trẻ. Tuỳ theo cách thức chăm sóc, nuôi dưỡng, tùy theo thái độ cư xử
của người lớn đối với trẻ mà đứa trẻ nhận được các loại ấn tượng, hình thành các
thói quen hành vi trong nếp sống và sinh hoạt sau này (ăn, ngủ, vệ sinh cá nhân…)
Ngoài ra cách tiếp xúc với trẻ em và tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc với thế giới cũng
giúp đứa trẻ cảm nhận, hình thành được các loại cảm xúc, các thái độ đối với đồ
vật, con người… làm nền tảng để sau này trẻ có kinh nghiệm cư xử với thế giới
34
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
xung quanh dần dần hình thành thái độ và phương thức tác động vào đồ vật sau
này.
5.2. Giáo dục và sự phát triển nhân cách trẻ ấu nhi (1 – 3 tuổi)
* Sự phát triển nhân cách
Đây là giai đoạn trẻ ấu nhi nhận được các tác động xã hội hóa một cách
phong phú và mạnh mẽ. Nhờ các tiến bộ về cơ thể và tâm lý, đặc biệt là với ba
thành tựu lớn: luyện tập dáng đi thẳng, hoạt động với đồ vật – công cụ, sự phát triển
ngôn ngữ đã góp phần thúc đẩy sự phát triển khả năng tự ý thức của trẻ, một yếu tố
thể hiện nhân cách con người.
* Nội dung giáo dục
- Giúp trẻ ấu nhi đạt được ba thành tựu của sự phát triển: luyện tập dáng đi
thẳng đứng; hướng dẫn, tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc, sử dụng các loại đồ vật theo
đúng chức năng và có tính sáng tạo; giúp trẻ phát triển ngôn ngữ (tập cho trẻ nói,
diễn đạt suy nghĩ và hiểu điều người khác nói).
- Bước đầu cho trẻ học tập cách thức cư xử theo những qui tắc hành vi trong
xã hội đối với người khác (người trong gia đình, cô giáo, bạn bè…)
- Kích thích trẻ phát triển khả năng tư duy ở mức độ trực quan hành động.
* Cách thức giáo dục
- Thông qua việc tiếp xúc với những người thân trong gia đình trẻ học được
các qui tắc hành vi đối với thế giới xung quanh. Người lớn cần chú ý đến các biểu
hiện của mình về lời nói, hành vi, cử chỉ, thái dộ đối với trẻ để giúp trẻ có một
khuôn mẫu tốt đẹp để noi theo.
- Tạo điều kiện cho trẻ được tiếp xúc với nhiều loại đồ vật khác nhau, hướng
dẫn trẻ cách thức sử dụng, kích thích trẻ suy nghĩ, sáng tạo ra trò chơi với các đồ
vật ấy.
- Xây dựng những cách thức ứng xử thích hợp với các biến chuyển tâm lý
của trẻ (sự tự ý thức, thái độ bướng bỉnh…) để sự phát triển nhân cách của trẻ được
thuận lới.
5.3. Giáo dục và sự phát triển nhân cách trẻ mẫu giáo (3 – 6 tuổi)
* Sự phát triển nhân cách
Đây là giai đoạn hình thành nhân cách của trẻ thể hiện ở khá năng hành động
theo động cơ gián tiếp. Sự hình thành nhân cách lệ thuộc nhiều vào khuôn mẫu
hành vi của người lớn mà trẻ em tiếp xúc (cha mẹ, cô giáo, bạn bè, người xung
quanh …). Những dấu ấn ban đầu trên nhân cách của trẻ thường được lưu giữ lại.
Sự phát triển nhân cách của trẻ trong giai đoạn này chỉ đạt mức độ thấp nhưng diễn
ra với tốc độ cao. Đặc điểm nhân cách trẻ mẫu giáo nổi bật ở khuynh hướng muốn
35
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
được độc lập hoạt động không có sự kềm kẹp của người lớn, đặc biệt là sự cuốn hút
trẻ vào trong các loại trò chơi. Thông qua đó trẻ nắm được các phương thức hành
động, định hướng và ý thức được các chuẩn mực trong các mối quan hệ giữa người
với người và với thế giới xung quanh
* Nội dung giáo dục
- Hính thành những nét nhân cách tốt đẹp làm cơ sở cho một nhân cách hoàn
thiện sau này thông qua sự gương mẫu trong nhân cách của nhà giáo dục.
- Phát triển các khả năng tâm lý của trẻ như: trí tưởng tượng, khả năng tư
duy, trí nhớ, các loại tình cảm cấp cao… như những phương tiện giúp trẻ thu nhận
các tác động giáo dục.
- Tiếp tục trang bị cho trẻ những qui tắc ứng xử trong cuộc sống xã hội.
- Giúp trẻ hình thành tâm thế đi học trường phổ thông vào cuối tuổi mẫu
giáo.
* Cách thức giáo dục
- Thông qua sự gương mẫu của các nhà giáo dục như: cha mẹ, cô giáo …
- Tổ chức cho trẻ tham gia các loại trò chơi bổ ích, thích hợp với lứa tuổi:
sắm vai, học tập, vận động…
- Đưa trẻ tham gia vào các loại quan hệ để rèn luyện cách thức cư xử phù
hợp với các chuẩn mực xã hội.
5.4. Giáo dục và sự phát triển nhân cách học sinh tiểu học (6 – 11 tuổi)
* Sự phát triển nhân cách
Đây là giai đoạn học sinh bắt đầu tham gia vào hoạt động học tập mang tính
xã hội hóa mạnh mẽ để tiếp nhận hệ thống tri thức khoa học của loài người. Dưới
ảnh hưởng của hoạt động học tập, nhân cách của học sinh có nhiều biến đổi phong
phú và sâu sắc. Đặc điểm nhân cách của học sinh tiểu học nổi bật ở những nét sau:
- Khả năng nhận thức phát triển nhanh chóng nhờ hoạt động học tập.
- Đời sống xúc cảm, tình cảm chiếm ưu thế hơn và chi phối mạnh mẽ đến
các hoạt động, nhận thức của trẻ.
- Tính hồn nhiên, vui tươi hướng về những cảm xúc tích cực.
- Hay bắt chước những người gần gũi, có uy tín với trẻ (cha mẹ, thầy cô, bạn
bè…)
- Hành vi ý chí chưa cao, bản tính hiếu động, khó kềm chế, kém tự chủ nên
dễ phạm lỗi, nhất là đối với các yêu cầu có tính nghiêm ngặt, đòi hỏi sự tập trung
cao độ, gây căng thẳng.
Nhân cách của học sinh tiểu học chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố: gia đình,
nhà trường, xã hội. Trong đó những ảnh hưởng từ cha mẹ, thầy cô là rất quan trọng
36
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
vào đầu tuổi và sau đó là các ảnh hưởng từ bạn bè và phương tiện thông tin đại
chúng, sách báo, phim ảnh…
* Nội dung giáo dục
- Phát triển khả năng nhận thức và phẩm chất trí tuệ thông qua hoạt động học
tập.
- Rèn luyện tác phong và các thói quen hành vi đạo đức cơ bản của con người
theo chuẩn mực xã hội.
- Khắc phục dần các nhược điểm trong đời sống tình cảm (tính hay thay đổi,
cách biểu lộ tình cảm không phù hợp…), giúp trẻ biết cảm nhận và biểu lộ tình cảm
của mình.
- Rèn luyện các phẩm chất của hành vi ý chí (tính tự chủ, độc lập, khả năng
tự kềm chế…)
- Giúp trẻ biết chọn lựa, thu nhận những tác động lành mạnh từ những
phương tiện thông tin.
* Cách thức giáo dục
- Lấy sự gương mẫu của các nhà giáo dục làm phương tiện giáo dục.
- Xây dựng, hướng dẫn các nhóm bạn bè của trẻ để tạo nên những ảnh hưởng
tích cực trên nhân cách.
- Tổ chức, quản lý chặt chẽ các phương tiện thông tin đại chúng.
- Căn cứ trên những nhu cầu của lứa tuổi để tổ chức, hướng dẫn trẻ tham gia
các hoạt động cần thiết cho sự phát triển như: học tập, vui chơi, lao động, hoạt động
xã hội…
5.5. Giáo dục và sự phát triển nhân cách học sinh trung học cơ sở (11 – 15
tuổi)
* Sự phát triển nhân cách
Sự phát triển tâm lý, nhân cách của thiếu niên có nhiều biến động và rất phức
tạp, gây ra những khó khăn trong nội tâm thiếu niên cũng như trong mối quan hệ
giữa người lớn với các em. Cùng với những biến đổi quan trọng trong cơ thể liên
quan đến sự phát triển giới tính, đời sống tâm lý của các em xuất hiện những nhu
cầu tâm lý mới như: khuynh hướng muốn làm người lớn (muốn sống tự lập, muốn
làm những việc có ý nghĩa), nhu cầu tự khẳng định mình (khẳng định giá trị và
phẩm chất, năng lực của bản thân)… Những thúc đẩy tâm lý này thường được thỏa
mãn trong quan hệ bạn bè của thiếu niên, nên những tác động từ cha mẹ, giáo viên
có khi bị giảm nhẹ trước các chi phối của những bạn bè cùng lứa. Tuổi thiếu niên
hay có những suy nghĩ mạnh dạn v có tính tuyệt đối. Các em đòi hỏi và mong

37
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
muốn được đáp ứng mà ít chịu suy xét điều kiện thỏa mãn. Tình cảm rất phức tạp,
mạnh me, dễ đưa đến kiểu hành động quá khích, gây hấn.
* Nội dung giáo dục
- Tiếp tục phát triển các khả năng trí tuệ và rèn luyện tác phong đạo đức cho
thiếu niên.
- Giúp thiếu niên có những hiểu biết cần thiết về giới tính, về các chuẩn mực
trong quan hệ cư xử với người khác giới.
- Tạo điều kiện cho thiếu niên thỏa mãn các nhu cầu tâm lý một cách hợp lý
và lành mạnh,
* Cách thức giáo dục
- Nhà giáo cần đóng vai trò là người bạn lớn tuổi, gần gũi, đáng tin cậy của
thiếu niên để có thể kịp thời giúp các em vượt qua những khó khăn trong sự phát
triển của bản thân.
- Xây dựng, hướng dẫn các nhóm bạn của thiếu niên đi vào các hoạt động
cần thiết cho sự phát triển lứa tuổi.
- Tổ chức các loại hình hoạt động đáp ứng những nhu cầu nhận thức và vui
chơi của thiếu niên.
5.6. Giáo dục và sự phát triển nhân cách học sinh trung học phổ thông (15 –
18t)
* Sự phát triển nhân cách
Nhân cách đang trong giai đoạn định hình với nội dung phong phú và có
chiều sâu. So với học sinh THCS, học sinh trung học phổ thông có khả năng nhận
thức hoàn thiện hơn, các em có thể tìm hiểu sâu và nắm được bản chất của vấn đề
chứ không nhìn nhận sự việc cách nông nổi và phiến diện. Nếu được khuyến khích
sẽ có những suy nghĩ, mạnh dạn độc đáo. Xem xét các hoạt động và sản phẩm trí
tuệ của các em thể hiện trong hoạt động học tập hoặc sinh hoạt ngoại khóa, chúng
ta dễ nhận ra sự tiến bộ nhanh chóng về mặt nhận thức của các em. Trên một bài
báo tường, một học sinh lớp 11 đã viết: “Vậy đó, trong vòng tay của cha mẹ, thầy
cô, bạn bè, em đã lớn, mười sáu, mười bảy tuổi. Mười sáu hay mười bảy, cái tuổi
của một thời mông mơ dạt dào chắp cánh cho bao kỳ vọng vươn lên. Giờ đây em
đã thôi làm thơ ca ngợi đoá hồng trước ngõ mà biết rằng con người phải đổ bao
nhiêu máu xương cho đất nở được hoa hồng; em thôi mơ làm công chúa hay hoàng
tử trên tiên giới, mà muốn rằng hôm nay, mình phải sống xứng đáng, biết cho đi và
quên mình trong hạnh phúc chung…”
Đời sống nội tâm phát triển, các em ý thức rõ rệt hơn về cái tôi và thích hình
dung về hình ảnh bản thân. Nhu cầu bộc lộ bản thân để tự khẳng định trở nên mạnh
38
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
mẽ hơn, các em thích chia sẻ với bạn bè hoặc đối diện với chính mình trên những
trang nhật ký. Học sinh trung học cũng mang nhiều suy nghĩ về kế hoạch cuộc đời
và định hướng nghề nghiệp trong tương lai, điều này bị chi phối bởi thần tượng của
các em. Việc lựa chọn thần tượng lại phụ thuộc vào khả năng xác định hình ảnh
bản thân của các em. Những học sinh không nhận thức rõ về bản thân thường định
huớng vào những thần tượng xa vời với khả năng phấn đấu, do đó thường nhanh
chóng thay đổi thần tượng và càng hoang mang về bản thân. Lứa tuổi này cũng đã
quan tâm đến tình cảm giữa nam và nữ nhưng chưa đủ điều kiện để xây dựng tình
yêu đôi lứa bền vững. Hoạt động học tập vẫn là hoạt động quan trọng cho sự phát
triển nhân cách và cuộc sống tương lai của các em.
* Nội dung giáo dục
- Trang bị cho thanh niên những hiểu biết về tính chất và cách thức cư xử
trong tình bạn, tình yêu.
- Hướng dẫn thanh niên xây dựng kế hoạch cuộc đời phù hợp với sự phát
triển cá nhân trong xã hội.
- Giúp thanh niên xây dựng lý tưởng sống cao đẹp và biết định hướng vào hệ
thống giá trị lành mạnh, tích cực theo chuẩn mực xã hội.
- Tạo điều kiện cho thanh niên lựa chọn đúng loại nghề nghiệp của bản thân
bằng cách cung cấp thông tin về các loại nghề nghiệp trong xã hội (đặc điểm, nhu
cầu của nghề đối với người lao động). Xác định cho các em biết những nghề nghiệp
mà địa phương đang có nhu cầu phát triển. Giúp học sinh THPT nhận ra hứng thú
nghề nghiệp và khả năng tương ứng của bản thân.
* Cách thức giáo dục
- Xây dựng một cách đa dạng, phong phú các loại hình hoạt động sôi nổi,
hấp dẫn lôi cuốn thanh niên tham gia để phát triển nhân cách lành mạnh.
- Tăng cường các ảnh hưởng tích cực qua phương tiện thông tin đại chúng
đến lứa tuổi thanh niên (sản xuất phim ảnh, xuất bản sách, phát hành các loại báo
chí thích hợp)
- Xây dựng hệ thống giá trị đáp ứng yêu cầu của thời đại và tuyên truyền,
thuyết phục thanh niên có niềm tin lựa chọn các giá trị được xã hội đánh giá cao.
- Nhà giáo dục thật sự là người bạn đáng tin cậy đối với họ, có thái độ tôn
trọng, khuyến khích các khả năng sáng tạo, độc đáo của thanh niên.

39
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG
1. Nêu khái niệm nhân cách và sự phát triển nhân cách?
2. Trình bày vai trò của yếu tố di truyền, môi trường và hoạt động cá nhân
đối với sự hình thành và phát triển nhân cách
3. Phân tích vai trò của yếu tố giáo dục đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách.
4. Bằng hiểu biết của mình hãy chứng minh nhận định sau: Nhân cách con
người không phải sinh ra đã có. Nó được hình thành và phát triển trong quá trình
hoạt động của mỗi con người dưới ảnh hưởng của nhiều nhân tố.
5.Trình bày khái quát các giai đoạn hình thành và phát triển nhân cách của học
sinh và từ đó rút ra những nhiệm vụ cơ bản của nhà trường ở các cấp học.

CÂU HỎI THẢO LUẬN

Câu 1: Bằng lý luận và thực tiễn, anh, chị giải thích hiện tượng bạo lực học đường
hiện nay. Đề xuất cách giải quyết.
Câu 2: Vai trò chủ đạo của giáo dục được thể hiện như thế nào trong sự hình thành
nhân cách? Chứng minh.

40
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
CHƯƠNG III.
GIÁO DỤC TIỂU HỌC TRONG HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN

Mục tiêu: Sau khi học xong bài này, người học có thể:
- Phân biệt khái niệm mục đích, mục tiêu giáo dục; mục đích giáo dục Việt
Nam trong giai đọan công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
- Trình bày hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam.
- Phân tích hoạt động sư phạm của người giáo viên trong nhà trường tiểu
học.
- Có khả năng vận dụng nội dung bài học vào trong quá trình nghiên cứu hệ
thống giáo dục quốc dân.
- Có khả năng tổ chức tốt hoạt động giáo dục của người giáo viên tiểu học.

A. KHÁI QUÁT VỀ HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN Ở VIỆT NAM


1.KHÁI NIỆM MỤC ĐÍCH, MỤC TIÊU GIÁO
Mục đích giáo dục là một phạm trù có các đặc điểm sau đây:
+ Mục đích giáo dục có tính lịch sử. Giáo dục là một hình thái ý thức xã hội,
mục đích giáo dục luôn phản ánh những quan niệm của người đương thời về con
người, về các chức năng của giáo dục, về điều kiện và khả năng thực tế của thời đại
để đạt được mục đích đó.
Mục đích giáo dục là sự hội tụ những yêu cầu của xã hội về phẩm chất và
năng lực đối với thế hệ trẻ, những yêu cầu về nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát
triển kinh tế, văn hóa trong mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội.
Ở mỗi giai đoạn phát triển xã hội có ba nền giáo dục và từ đó xây dựng môt
mục đích giáo dục tương ứng, như vậy mục đích giáo dục luôn hoàn thiện để đáp
ứng các yêu cầu của từng thời đại.
Việc xác định mục đích giáo dục có thể bị giới hạn bởi tầm nhìn của lịch sử
và ngược lại mục đích giáo dục có thể được lý tưởng hóa trở thành động lực phấn
đấu của toàn xã hội.
+ Mục đích giáo dục có tính giai cấp. Trong xã hội có giai cấp, do lợi ích về
chính trị và kinh tế, mỗi giai cấp có những cách nhìn khác nhau về giáo dục và mục
đích tổ chức hệ thống giáo dục, có những yêu cầu riêng đối với sản phẩm giáo dục.
Do vậy có thể nói mục đích giáo dục phản ánh ý chí, quyền lợi của giai cấp cầm
quyền.
+ Mục đích giáo dục có tính dân tộc. Mỗi quốc gia, mỗi cộng đồng dân tộc
có những đặc điểm riêng về truyền thống lịch sử và bản sắc văn hóa, về tập quán
41
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
trong cuộc sống và lao động. Do vậy, mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng dân cư đặt ra
những yêu cầu của mình đối với thế hệ trẻ và điều đó được phản ánh vào mục đích
giáo dục.
Những căn cứ để xây dựng mục đích giáo dục
Từ những phân tích trên ta thấy mục đích giáo dục phản ánh những đòi hỏi
khách quan của quá trình phát triển kinh tế, văn hóa xã hội ở mỗi quốc gia, phản ánh
những xu thế của thời đại, cũng như các quy luật của quá trình giáo dục.

Mục đích giáo dục Việt Nam được xây dựng trên những căn cứ sau đây:
- Chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học và công nghệ quốc gia.
- Nhu cầu về nguồn nhân lực phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
- Tiềm năng kinh tế, văn hóa, khoa học, công nghệ của đất nước, của từng địa
phương và năng lực thực tế của hệ thống giáo dục quốc dâ.
- Truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
- Những kinh nghiệm, những thành tựu giáo dục qua các thời kỳ.
- Xu thế phát triển văn hóa, giáo dục của các nước trên thế giới.
- Trình độ và năng lực của học sinh qua các lứa tuổi.
Khái niệm về mục đích, mục tiêu giáo dục
Giáo dục là một quá trình (có mở đầu, diễn biến, kết thúc) hay được hiểu là
một hoạt động (chủ thể và đối tượng hoạt động). Kết quả của quá trình giáo dục
hay của hoạt động giáo dục trước hết là sự biến đổi nhân cách của người được giáo
dục.
Trước hết ta tìm hiểu khái niệm mục đích giáo dục. Theo nghĩa thông thường
mục đích giáo dục là cái đích cần đạt được của quá trình giáo dục. Việc thết kế mục
đích giáo dục được đặt ra khi Nhà nước tổ chức một hệ thống giáo dục và khi nhà
trường tiến hành một hoạt động giáo dục.
Theo cách hiểu mục đích như trình bày ở trên thì mục đích giáo dục là sự dự
kiến trước kết quả của hoạt động giáo dục. Kết quả của hoạt động giáo dục chính
là nhân cách của người được giáo dục. Vì vậy có thể hiểu mục đích giáo dục là mô
hình nhân cách của con người (người học) mà giáo dục cần đào tạo nhằm đáp ứng
yêu cầu của xã hội trong một giai đọan lịch sử cụ thể.
Về bản chất, mục đích giáo dục là mô hình dự kiến của sản phẩm giáo dục sẽ
đạt được trong tương lai. Mô hình dự kiến này có ba chức năng: một là làm tiền đề
định hướng cho sự phát triển giáo dục, hai là làm cơ sở để tổ chức quá trình giáo
dục và ba là làm chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục.
42
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
Mục tiêu giáo dục
Trong tiếng Việt có hai khái niệm: mục đích giáo dục và mục tiêu giáo dục,
trong nhiều trường hợp người ta đã đồng nhất hai khái niệm này, vì thế mà khi tổ
chức thực hiện và đánh giá quá trình giáo dục đã gặp không ít những khó khăn lúng
túng. Ta cần xác định rõ nội hàm của hai khái niệm mục đích và mục tiêu giáo dục.
Trước hết, như ta đã phân tích mục đích giáo dục là mô hình dự kiến về sản
phẩm giáo dục sẽ đạt được trong tương lai. Mục đích giáo dục được xác định ở tầm
vĩ mô, có tính định hướng âu dài cho nền giáo dục quốc gia.
Mục đích giáo dục được xây dựng trên cơ sở những yêu cầu hiện tại và yêu
cầu trong tương lai của xã hội đối với thế hệ trẻ, cũng như yêu cầu về đào tạo nguồn
nhân lực xã hội. Mục đích giáo dục có tính lý tưởng và thường được xác định cao
hơn thực tế. Để đạt được mục đích giáo dục phải huy động mọi nguồn lực xã hội,
phải có sự phấn đấu lâu dài của toàn ngành giáo dục, phải có sự góp sức của gia đình,
nhà trường, của các thế hệ thầy, cô giáo và học sinh.
Chúng ta thường nói đến mục đích giáo dục nhân cách toàn diện đối với thế
hệ trẻ Việt Nam, hay nói đến mục đích nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi
dưỡng nhân tài cho đất nước…Đó chính là những yêu cầu có tính chiến lược, lâu dài
của xã hội đặt ra cho sự nghiệp giáo dục của nước ta.
Khác với mục đích giáo dục, mục tiêu giáo dục là những chỉ tiêu, tiêu chí,
những yêu vầu cụ thể đối với từng cấp học, bậc học, ngành học, từng khâu, từng
nội dung, trong từng thời điểm mà quá trình giáo dục phải đạt được.
Mục tiêu giáo dục được xây dựng trên cơ sở cân nhắc những khả năng cụ thể
của ngành giáo dục, của nhà trường, của giáo viên, học sinh và những điều kiện cần
có khi thực hiện các nhiệm vụ giáo dục. Mục tiêu giáo dục do Nhà nước đề ra cho
từng cấp học, bậc học, ngành học…
Có hai loại mục tiêu giáo dục: mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể. Mục
tiêu tổng quát có thể đồng nghĩa với mục đích giáo dục.
Điều 2- Luật Giáo dục đã ghi: Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt
Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp,
trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng
nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây
dựng và bảo về Tổ quốc. Đây chính là mục tiêu tổng quát hay mục đích giáo dục.
Mục tiêu cụ thể được đề cập tới cho các bậc học cụ thể: mục tiêu giáo dục
tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông… đó là mục tiêu học sinh phải đạt
được sau khi đã học xong cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông…Mục

43
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
tiêu cụ thể còn được thiết kế cho từng môn học, cho từng bài dạy…đó là mục tiêu
mà thầy và trò phải đạt được sau khi đã học xong một môn học, một bài học…
Mục tiêu giáo dục là những bậc thang nối tiếp nhau để dẫn đến mục đích giáo
dục, khi các mục tiêu cụ thể đạt được có nghĩa là ta đang tiếp cận tới mục đích giáo
dục tổng thể
Ta có sơ đồ như sau:
Mục tiêu cụ thể Mục tiêu tổng quát = Mục đích giáo dục
Tóm lại, mục đích giáo dục là phạm trù quan trọng của Giáo dục học, nó có
vai trò định hướng toàn bộ hoạt động của hệ thống giáo dục quốc dân. Mục đích và
mục tiêu giáo dục là hai khái niệm có quan hệ bao hàm nhau. Mục đích là hướng đi
chiến lược, mục tiêu là thành phần, bộ phận cấu thành của mục đích giáo dục. Quan
hệ giữa mục đích và mục tiêu giáo dục là quan hệ giữa lý tưởng và hiện thực, giữa
các yêu cầu tổng thể và yêu cầu bộ phận của quá trình giáo dục.
Mục đích giáo dục có thể được hình dung ở các cấp độ vĩ mô và vi mô. Cấp
độ vĩ mô hay còn gọi là mục đích giáo dục tổng quát là nhấn mạnh mục đích chung
của toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân, phản ánh các yêu cầu của xã hội đối với
một nền giáo dục. Cấp độ vi mô hay còn gọi là mục tiêu giáo dục thể hiện ở từng
bậc học, cấp học, ngành học... ở các giai đoạn nhất định như là mục tiêu giáo dục
mầm non, phổ thông (mục tiêu giáo dục tiểu học, THCS, THPT), mục tiêu giáo dục
đại học…
Mục đích, mục tiêu giáo dục có mối quan hệ mật thiết với nhau. Đó là mối
quan hệ gắn bó, hữu cơ giữa cái tòan thể và cái bộ phận, giữa cái chung và cái riêng.
Mục tiêu giáo dục là thành phần, bộ phận cấu thành của mục đích giáo dục. Việc
xác định và thực hiện tốt các mục tiêu giáo dục là góp phần thực hiện mục đích
giáo dục tổng thể.
Ý nghĩa của việc xác định mục đích, mục tiêu giáo dục
Mục đích, mục tiêu giáo dục có giá trị định hướng cho tòan bộ hoạt động
giáo dục. Ở tầm vĩ mô, việc xác định mục đích giáo dục thường là do các cấp lãnh
đạo - quản lý giáo dục thực hiện, đảm bảo cho hệ thống giáo dục phát triển thống
nhất với sự phát triển về chính trị, kinh tế - xã hội, văn hóa…của đất nước; góp
phần thực hiện mục tiêu: “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”. Ở các trường học, việc xác định rõ mục tiêu của hoạt động giáo dục sẽ định
hướng cho việc chọn lựa, sử dụng và điều chỉnh nội dung, phương pháp, hình thức
tổ chức giáo dục.
Mục đích, mục tiêu giáo dục còn là tiêu chuẩn, thước đo đánh giá chất lượng
giáo dục. Xem xét chất lượng đầu vào, đầu ra để quyết định tuyển sinh, tuyển dụng,
44
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
so sánh chất lượng tuyển sinh và yêu cầu về chất lượng tốt nghiệp để quyết định tổ
chức các hoạt động giáo dục và huy động các nguồn lực đáp ứng yêu cầu của chất
lượng giáo dục.
Việc xác định đúng đắn mục đích, mục tiêu giáo dục có tác dụng kích thích
tích tích cực hoạt động của con người, tạo động lực cho họat động giáo dục. Việc
xác định mục đích, mục tiêu giáo dục thường hay quan tâm đến nhu cầu của cuộc
sống, của cá nhân do đó nó có sức hấp dẫn, tạo ra nhu cầu, động cơ cho hoạt động
của người học và cả người dạy. Vì vậy cần hướng dẫn, tư vấn cho người học xác
định và lựa chọn mục tiêu giáo dục.

Mục đích, mục tiêu giáo dục của nước ta


Trước cách mạng tháng Tám
Dưới chế độ phong kiến, mục đích GD VN chịu ảnh hưởng nhiều của tam giáo
(Nho, phật, Lão) giáo, nhưng Nho giáo có ảnh hưởng nhiều nhất. Mục đích GD thời
kỳ này chủ yếu là hình thành phẩm chất người “quân tử”, với những đặc trưng cơ
bản: Trung với vua, hiếu với cha mẹ; biết tu thân tích đức, không màng danh lợi, biết
an phận; coi đạo lý làm đầu, sống theo lý tưởng nhân nghĩa, yêu thương người
khác,…
Từ Cách mạng tháng Tám đến nay
- Ngay sau khi đất nước được độc lập, chúng ta đã chủ trương xây dựng nền
GD của một nước độc lập, đào tạo thế hệ trẻ thành những người công dân hữu ích
cho đất nước.
- Năm 1950, chúng ta tiến hành cải cách giáo dục (CCGD) lần I, với mục tiêu
GD thế hệ trẻ thành những người công dân trung thành với Tổ quốc, có năng lực và
phẩm chất phục vụ đất nước.
- Năm 1956, chúng ta tiến hành CCGD lần II, với mục tiêu GD là đào tạo, bồi
dưỡng thế hệ thanh thiếu niên trở thành những người phát triển về mọi mặt, những
công dân tốt, trung thành với Tổ quốc, những người lao động tốt, cán bộ tốt của nước
nhà, có tài, có đức để phát triển chế độ dân chủ nhân dân tiến lên xây dựng CNXH ở
nước ta, đồng thời để thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ.
- Năm 1979 (chính thức 1981), chúng ta tiến hành CCGD lần III, với mục tiêu
đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ lao động mới có đạo đức, có kiến thức khoa học và kỹ
thuật, có kỹ năng, có sức khỏe.
- Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước:

45
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
+ Mục đích tổng quát (mục đích hệ thống), tầm vĩ mô: “Nhà nước phát triển
giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” (Điều 55,
Hiến phát nước CH XHCN VN, 1992)
 Nâng cao dân trí;
 Đào tạo nhân lực;
 Bồi dưỡng nhân tài.
2. MỤC ĐÍCH GIÁO DỤC VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Mục đích giáo dục tổng quát
Mục đích giáo dục của nền giáo dục XHCN Việt Nam là hình thành và phát
triển tòan diện nhân cách con người Việt Nam. Mục đích đó được thể hiện cụ thể
trong từng giai đọan phát triển của đất nước, gắn chặt với việc thực hiện các nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mục đích giáo dục trong
giai đọan hiện nay đã được khẳng định trong Văn kiện Hôi nghị lần thứ 4 Ban chấp
hành trung ương Đảng khóa VII (1993): « Phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài... »
a. Mục tiêu nâng cao dân trí
Xây dựng nền giáo dục phục vụ sự nghiệp nâng cao dân trí – đó là tư tưởng
chỉ đạo toàn bộ sư phát triển giáo dục cùa nước ta. Bác Hồ đã đúc kết thành chân
lý: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Vì vậy, ngay sau khi giành độc lập vào
tháng 8/1945, một trong những nhiệm vụ cấp bách là làm sao cho mọi người biết
đọc, biết viết, có kiến thức, hiểu biết được quyền lợi và bổn phận của mình. Vấn đề
nâng cao dân trí trở thành quốc sách và là mục tiêu hàng đầu của nền giáo dục nước
ta.
Dân trí được hiểu là trình độ hiểu biết, trình độ văn hóa của người dân trong
từng thời kỳ lịch sử nhất định. Dân trí biểu hiện trữ lượng hiểu biết văn hoá của
một dân tôc. Mặt bằng dân trí được thể hiện bằng số năm học trung bình của người
dân một nước vào một thời điểm nhất định.
Dân trí có liên quan đến hạnh phúc, lối sống của con người, đến sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, đến các vấn đế liên quan đến dân tộc và toàn cầu như
vấn đề dân quyền, dân sinh, dân chủ… Một quốc gia có trình độ dân trí cao là quốc
gia đó có đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân cao, thể hiện trong đời sống
chính trị, văn hóa, đạo đức, truyền thống xã hội, trong ý thức, hành vi của cá nhân…
Mục tiêu nâng cao dân trí:

46
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
- Củng cố và nâng cao thành quả phổ cập giáo dục Tiểu học và xoá mù chữ.
Thực hiện và hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2010 và trung
học phổ thông vào năm 2020.
- Xây dựng hoàn chỉnh và phát triển bậc học Mầm non cho hầu hết trẻ em
trong độ tuổi.
- Phát triển giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số, vùng khó khăn, phấn đấu
giảm chênh lệch về phát triển giáo dục giữa các vùng lãnh thổ.
Nâng cao dân trí là kết quả tổng hợp của nhiều lĩnh vực giáo dục như giáo
dục nhà trường, giáo dục xã hội, giáo dục gia đình, tuy nhiên, giáo dục nhà trường
trong hệ thống giáo dục quốc dân bao giờ cũng giữ vai trò nòng cốt. Để đạt đến
trình độ dân trí ngày càng cao, giáo dục luôn phải đổi mới và phát triển liên tục theo
hướng nhân văn hoá, xã hội hoá, đa dạng hoá với những phương thức thích hợp,
huy động mọi lực lượng, mọi tiềm năng của xã hội làm giáo dục; nâng cao chất
lượng và bảo đảm số lượng giáo viên cho toàn bộ hệ thống giáo dục...
b. Mục tiêu đào tạo nhân lực
Nhân lực là lực lượng lao động. Nói đến nguồn nhân lực là nói đến sức mạnh
trí tuệ, tay nghề, năng lực, phẩm chất, sức khỏe của nhân lực. Chất lượng và hiệu
quả lao động trong thời đại cách mạng khoa học – công nghệ phụ thuộc vào trình
độ đào tạo nhân lực. Người lao động có trình độ sẽ luôn luôn tiếp cận với cái mới,
năng động sáng tạo trong sản xuất, trong công nghệ, sẽ có năng lực thích nghi cao
với những biến động và phát triển của nền kinh tế - xã hội.
Mục tiêu đào tạo nhân lực đến 2020:
- Đào tạo nhân lực cho sự nghiệp CNH - HĐH, trong đó đặc biệt chú ý nhân
lực khoa học – công nghệ trình độ cao, cán bộ quản lý giỏi và công nhân kỹ thuật
lành nghề, đào tạo nhân lực cho các lĩnh vực công nghệ ưu tiên (công nghệ thông
tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa), đào tạo
nhân lực cho nông thôn để thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu lao động.
- Phát triển đào tạo đại học, cao đẳng. trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề,
phấn đấu đến năm 2010 đạt 40% tỷ lệ lao động qua đào tạo ở các trình độ.
- Thay đổi cơ cấu lực lượng lao động đáp ứng với yêu cầu CNH - HĐH…
- Nâng cao chất lượng và bảo đảm đủ số lượng giáo viên cho toàn hệ thống
giáo dục. Tiêu chuẩn hóa và hiện đại hóa các điều kiện dạy và học. Phấn đấu sớm
có một số cơ sở đại học, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề đạt tiêu chuẩn quốc
tế….
c. Mục tiêu bồi dưỡng nhân tài

47
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
Nhân tài là những người có tài năng, nghĩa là người thông minh, trí tuệ phát
triển, có năng lực làm việc giỏi, có một số phẩm chất nổi bật, giàu tính sáng tạo. Tài
có cấu trúc gồm 4 tầng: khiếu (còn gọi là năng khiếu) – năng lực – tài năng – thiên
tài. Cấu trúc này được hình thành trên nền tảng những tác động phức tạp qua lại
giữa một bên là hoạt động của con người (chủ thể) và một bên là sự phát triển của
các yếu tố di truyền được khơi dậy nhờ hoạt động có định hướng của chủ thể.
Nhân tài có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển xã hội. Họ là những người
mở ra những mũi đột phá trong văn hóa, khoa học – công nghệ, tạo nên đà phát
triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội và khoa học – kỹ thuật ở một nước. Vì vậy, ở
thời đại nào, ở quốc gia nào người tài cũng được coi trọng.
Trong điều kiện đất nước ta, phải đặt ra vấn đề bồi dưỡng nhân tài có khả
năng sáng tạo cao, có khả năng khai phá nhanh chóng những con đường mới mẻ,
góp phần xây dựng cho đất nước một nền văn hóa, khoa học - công nghệ cao. Muốn
vậy:
- Hình thành từng bước những trung tâm chất lượng cao ở các cấp học, bậc
học, các trường lớp trọng điểm, có chất lượng cao.
- Mở rộng hệ thống trường lớp năng khiếu, chuyên chọn ở phổ thông. Đào
tạo lực lượng công nhân lành nghề bậc cao, phát triển hệ đào tạo bồi dưỡng sau đại
học.
- Tạo mọi điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật, tài chính để hiện thực hóa
các chủ trương, tư tưởng chiến lược về bồi dưỡng nhân tài.
- Bồi dưỡng nhân tài phải đi đôi với thu hút và sử dụng nhân tài hợp lý, tạo
điều kiện để đội ngũ trí thức, các nhà khoa học có điều kiện tiếp cận và phát huy
tiềm năng của họ.
Việc phát hiện và bồi dưỡng nhân tài là trách nhiệm của cả ba môi trường
giáo dục (gia đình, nhà trường và xã hội), trong đó, gia đình giữ vai trò quan trọng.
Tóm lại, ba mục tiêu giáo dục trên có một mối quan hệ thống nhất biện
chứng, tác động qua lại với nhau. Vì vậy, để thực hiện thành công sự nghiệp CNH
- HĐH đất nước phải tiến hành thực hiện đồng thời 3 mục tiêu: “nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Mục đích giáo dục xét trên bình diện nhân cách
Phát triển con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã
hội. Mục tiêu phát triển con người thực chất là xây dựng và phát triển nhân cách
con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển và tiến bộ của xã hội trong thời kì
mới – công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Điều 2 của Luật Giáo dục 2005 đã
nêu: « Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có
48
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và
năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. »
Mục tiêu giáo dục của các bậc học
Điều 22 của Luật Giáo dục 2005 nêu mục tiêu của giáo dục mầm non: « Mục
tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ,
thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào
học lớp một ».
Điều 27 của Luật Giáo dục 2005 nêu mục tiêu của giáo dục phổ thông:
1. Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá
nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp
tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho
sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ
năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở.
3. Giáo dục trung học cơ sở nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những
kết quả của giáo dục tiểu học; có học vấn phổ thông ở trình độ cơ sở và những hiểu
biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học trung học phổ thông, trung
cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
4. Giáo dục trung học phổ thông nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển
những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và có
những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy
năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung
cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.

49
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
B. KHÁI NIỆM HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN
1. Khái niệm hệ thống giáo dục quốc dân
Hệ thống giáo dục quốc dân là toàn bộ cơ quan chuyên trách việc giáo dục
và đào tạo cho thanh thiếu niên và công dân của quốc gia đó.
HTGDQD gồm hai hệ thống lớn đó là nhà trường và các cơ quan giáo dục
ngoài nhà trường:
+Nhà trường là cấu trúc cơ bản của hệ thống giáo dục quốc dân với nội dung
giáo dục có hệ thống, phương pháp khoa học, phương tiện đầy đủ và một lực lượng
giáo dục có chuyên môn cao, được tổ chức chặt chẽ liên tục, lâu dài.
+ Hệ thống cơ quan giáo dục ngoài trường: nhà văn hoá, các câu lạc bộ, thư
viện, nhà hát, rạp chiếu bóng, khu vui chơi giải trí...
2. Những nguyên tắc xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân.
2.1. Về vị trí vai trò của giáo dục.
"Giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát
triển" (Hiến pháp Nước CHXHCN Việt Nam 1992 điều 35)
2.2. Mục đích mục tiêu giáo dục
"Nhà nước phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực bồi
dưỡng nhân tài" (Hiến pháp 1992)
"Mục tiêu giáo dục là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng
lực của công dân; đào tạo những người lao động có nghề, năng động và sáng tạo,
có niềm tin, có đạo đức, có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giàu, nước mạnh,
đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc"
2.3 Tính chất nguyên lý
"Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục Xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân,
dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác - Lên nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng"
"Hoạt động giáo dục phải thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành, lý
luận gắn với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với gia đình và xã hội" (Luật
GD 2005, Điều 3)
2.4. Phát triển giáo dục.
Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu.
"Phát triển giáo dục phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ
khoa học, công nghệ, củng cố an ninh quốc phòng, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại
hoá, xã hội hoá; đảm bảo cân đối về cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu
vùng miền; mở rộng quy mô trên cơ sở đảm bảo chất lượng và hiệu quả; kết hợp
giữa đào tạo và sử dụng". (Luật GD 2005, Điều 9)
50
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
2.5. Công bằng, dân chủ trong giáo dục.
"Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân.
Mọi công dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, nam, nữ, nguồn
gốc gia đình, địa vị xã hội, hoàn cảnh kinh tế đều bình đẳng về cơ hội.
Nhà nước thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện để ai cũng
được học hành. Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ người ngèo được học tập, tạo điều
kiện để những người có năng khiếu phát triển tài năng.
Nhà nước ưu tiên, tạo điều kiện cho con em dân tộc thiểu số, con em gia đình
ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đối tượng được hưởng chế
độ chính sách xã hội khác thực hiện quyền và nghĩa vụ học tập của mình."
2.6. Ngôn ngữ dùng trong nhà trường.
"Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức dùng trong nhà trường.
Nhà nước tạo điều kiện để người dân tộc thiểu số được học tiếng nói, chữ
viết của dân tộc minh. Việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số được
thực hiện theo quy định của chính phủ"
2.7. Phổ cập giáo dục.
Giáo dục tiểu học và trung học cơ sở là cấp phổ cập
"Nhà nước quyết định kế hoạch và trình độ giáo dục phổ cập, có chính sách
bảo đảm các điều kiện để thực hiện phổ cập giáo dục trong cả nước.
Mọi công dân trong độ tuổi quy định có nghĩa vụ học tập đạt trình độ giáo
dục phổ cập. Gia đình có trách nhiệm tạo điều kiện cho các thành viên trong độ tuổi
quy định của gia đình mình được học tập để đạt trình độ giáo dục phổ cập".
2.8. Xã hội hoá giáo dục.
Phát triển giáo dục, xây dựng xã hội học tập là sự nghiệp của nhà nước và
của toàn dân.
"Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục; thực hiện
đa dạng hoá, đa phương hoá các hình thức đào tạo; khuyến khích, huy động và tạo
điều kiện các tổ chức cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục.
Mọi tổ chức, gia đình và công dân có trách nhiệm chăm lo sự nghiệm giáo
dục, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng môi trường
giáo dục lành mạnh, an toàn".
2.9. Quản lý giáo dục
"Nhà nước thống nhất quản lý giáo dục về mục tiêu, chương trình, nội dung,
kế hoạch giáo dục, quy chế thi cử, hệ thống văn bằng, chứng chỉ; tập trung quản lý
chất lượng giáo dục, thực hiện phân công, phân cấp quản lý giáo dục, tăng cường
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục."
51
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
Căn cứ xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam
Hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam là một hệ thống đồng bộ và thống nhất
trong cả nước, được xây dựng trên các căn cứ sau đây:
- Hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam được xây dựng để đáp ứng nhu cầu
học tập của nhân dân
- Hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam được xây dựng trên cơ sở mục đích
giáo dục xã hội
- Hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam được xây dựng trên chiến lược phát
triển kinh tế, văn hoá của đất nước
- Hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam được xây dựng theo xu hướng phát
triển chung của giáo dục thế giới

2. HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN VIỆT


Luật giáo dục 2005 qui định hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam bao gồm:
- Giáo dục mầm non
- Giáo dục phổ thông
- Giáo dục nghề nghiệp
- Giáo dục đại học
- Giáo dục thường xuyên.
2.1. Giáo dục mầm non
Giáo dục mầm non thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ
ba tháng tuổi đến sáu tuổi.
Cơ sở giáo dục mầm non bao gồm:
- Nhà trẻ, nhóm trẻ nhận trẻ em từ ba tháng tuổi đến ba tuổi;
- Trường, lớp mẫu giáo nhận trẻ em từ ba tuổi đến sáu tuổi;
- Trường mầm non là cơ sở giáo dục kết hợp nhà trẻ và mẫu giáo, nhận trẻ
em từ ba tháng tuổi đến sáu tuổi.
2.2. Giáo dục phổ thông
* Giáo dục phổ thông bao gồm:
- Giáo dục tiểu học được thực hiện trong năm năm học, từ lớp một đến lớp
năm. Tuổi của học sinh vào học lớp một là sáu tuổi.
- Giáo dục trung học cơ sở được thực hiện trong bốn năm học, từ lớp sáu
đến lớp chín. Học sinh vào học lớp sáu phải hoàn thành chương trình tiểu học, có
tuổi là mười một tuổi.

52
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
- Giáo dục trung học phổ thông được thực hiện trong ba năm học, từ lớp
mười đến lớp mười hai. Học sinh vào học lớp mười phải có bằng tốt nghiệp trung
học cơ sở, có tuổi là mười lăm tuổi.
* Cơ sở giáo dục phổ thông bao gồm:
- Trường tiểu học;
- Trường trung học cơ sở;
- Trường trung học phổ thông;
- Trường phổ thông có nhiều cấp học;
- Trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp.
2.3. Giáo dục nghề nghiệp
* Giáo dục nghề nghiệp bao gồm:
- Trung cấp chuyên nghiệp được thực hiện từ ba đến bốn năm học đối với
người có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, từ một đến hai năm học đối với người có
bằng tốt nghiệp trung học phổ thông.
- Dạy nghề được thực hiện dưới một năm đối với đào tạo nghề trình độ sơ
cấp, từ một đến ba năm đối với đào tạo nghề trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng.
* Cơ sở giáo dục nghề nghiệp bao gồm:
- Trường trung cấp chuyên nghiệp
- Trường cao đẳng nghề, trường trung cấp nghề, trung tâm dạy nghề, lớp dạy
nghề (gọi chung là cơ sở dạy nghề).
- Cơ sở dạy nghề có thể được tổ chức độc lập hoặc gắn với cơ sở sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ, cơ sở giáo dục khác.
2.4. Giáo dục đại học
* Giáo dục đại học bao gồm:
- Đào tạo trình độ cao đẳng được thực hiện từ hai đến ba năm học tùy theo
ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc
bằng tốt nghiệp trung cấp; từ một năm rưỡi đến hai năm học đối với người có bằng
tốt nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành.
- Đào tạo trình độ đại học được thực hiện từ bốn đến sáu năm học tùy theo
ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc
bằng tốt nghiệp trung cấp; từ hai năm rưỡi đến bốn năm học đối với người có bằng
tốt nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành; từ một năm rưỡi đến hai năm học đối với
người có bằng tốt nghiệp cao đẳng cùng chuyên ngành.
- Đào tạo trình độ thạc sĩ được thực hiện từ một đến hai năm học đối với
người có bằng tốt nghiệp đại học.

53
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
- Đào tạo trình độ tiến sĩ được thực hiện trong bốn năm học đối với người có
bằng tốt nghiệp đại học, từ hai đến ba năm học đối với người có bằng thạc sĩ. Trong
trường hợp đặc biệt, thời gian đào tạo trình độ tiến sĩ có thể được kéo dài theo quy
định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Thủ tướng Chính phủ quy định cụ thể việc đào tạo trình độ tương đương với
trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ ở một số ngành chuyên môn đặc biệt.
* Cơ sở giáo dục đại học bao gồm:
- Trường cao đẳng đào tạo trình độ cao đẳng;
- Trường đại học đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học; đào tạo trình độ
thạc sĩ, trình độ tiến sĩ khi được Thủ tướng Chính phủ giao.
Viện nghiên cứu khoa học đào tạo trình độ tiến sĩ, phối hợp với trường đại
học đào tạo trình độ thạc sĩ khi được Thủ tướng Chính phủ giao.
2.5. Giáo dục thường xuyên
Giáo dục thường xuyên giúp mọi người vừa làm vừa học, học liên tục, học
suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn,
chuyên môn, nghiệp vụ để cải thiện chất lượng cuộc sống, tìm việc làm, tự tạo việc
làm và thích nghi với đời sống xã hội.
Nhà nước có chính sách phát triển giáo dục thường xuyên, thực hiện giáo
dục cho mọi người, xây dựng xã hội học tập.
Cơ sở giáo dục thường xuyên bao gồm:
- Trung tâm giáo dục thường xuyên được tổ chức tại cấp tỉnh và cấp huyện;
- Trung tâm học tập cộng đồng được tổ chức tại xã, phường, thị trấn (sau đây
gọi chung là cấp xã).
3.Vị trí giáo dục tiểu học trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Thông tư số /2020/TT-BGDĐT ngày tháng 9 năm 2020 của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo ghi tại Điều 2. Vị trí của trường tiểu học trong hệ thống giáo dục quốc
dân Trường tiểu học là cơ sở giáo dục phổ thông của hệ thống giáo dục quốc dân, có
tư cách pháp nhân, có tài khoản và con dấu riêng.
4. Nhiệm vụ của giáo dục tiểu học trong hệ thống giáo dục quốc dân
Điều 3. Nhiệm vụ và quyền hạn của trường tiểu học
1. Công khai mục tiêu, chương trình, kế hoạch giáo dục, điều kiện bảo đảm chất
lượng giáo dục, kết quả đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục; tổ chức giảng
dạy, học tập và hoạt động giáo dục đạt chất lượng đáp ứng mục tiêu, yêu cầu cần đạt
theo chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban
hành.
54
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
2. Thực hiện giáo dục bắt buộc, phổ cập giáo dục và xóa mù chữ tại địa bàn. Huy
động trẻ em đi học đúng độ tuổi, vận động và tạo điều kiện cho trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt đến trường. Nhận bảo trợ và quản lý các hoạt động giáo dục của cơ sở giáo
dục khác thực hiện chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học theo sự phân công
của cấp có thẩm quyền.
3. Xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển nhà trường theo các quy định của
Bộ Giáo dục và Đào tạo, gắn với điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương; xây dựng
kế hoạch hoạt động giáo dục đáp ứng mục tiêu, yêu cầu cần đạt theo chương trình
giáo dục phổ thông cấp tiểu học.
4. Triển khai thực hiện chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học do Bộ Giáo
dục và Đào tạo ban hành; thực hiện lựa chọn sách giáo khoa theo quy định của Bộ
Giáo dục và Đào tạo; triển khai thực hiện sách giáo khoa và nội dung giáo dục của
địa phương theo quyết định của Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh); thực hiện tự chủ chuyên
môn trong tổ chức các hoạt động giáo dục tại trường tiểu học.
5. Thực hiện tự kiểm định chất lượng và đảm bảo chất lượng giáo dục theo quy
định.
6. Quản lý cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh.
7. Quản lý và sử dụng đất, tài chính và tài sản của nhà trường theo quy định của
pháp luật.
8. Phối hợp chặt chẽ với cha mẹ hoặc người giám hộ học sinh, các tổ chức và cá
nhân trong cộng đồng thực hiện các hoạt động giáo dục. Tổ chức cho giáo viên, người
lao động và học sinh tham gia các hoạt động xã hội tại địa phương.
9. Xây dựng môi trường văn hoá - giáo dục trong nhà trường, tham gia xây dựng
môi trường văn hoá - giáo dục ở địa phương.
10. Được tiếp nhận các khoản tài trợ, viện trợ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân
đối với nhà trường theo quy định của pháp luật.
11. Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật
Điều 19. Các hoạt động giáo dục
1. Các hoạt động giáo dục được tổ chức trong và ngoài lớp học nhằm hình thành
phẩm chất, phát triển năng lực; giáo dục đạo đức lối sống; bồi dưỡng năng khiếu; hỗ
trợ học sinh hoàn thành nhiệm vụ học tập phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi
học sinh. Hình thức hoạt động giáo dục học sinh được tổ chức linh hoạt theo mục
55
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
tiêu, tính chất của hoạt động, trong đó học sinh được tổ chức làm việc độc lập, làm
việc theo nhóm hoặc làm việc chung cả lớp với sự hướng dẫn, hỗ trợ của giáo viên,
đảm bảo mỗi học sinh được tạo điều kiện để tự mình thực hiện nhiệm vụ học tập và
trải nghiệm thực tế.
2. Hoạt động giáo dục tổ chức trong và ngoài lớp học thông qua một số hình
thức chủ yếu: học lý thuyết, thực hiện bài tập, thực hành, thí nghiệm, trò chơi, đóng
vai, dự án học tập, câu lạc bộ, tham quan, cắm trại, đọc sách, sinh hoạt tập thể, hoạt
động phục vụ cộng đồng.
Điều 20. Phổ cập giáo dục, giáo dục bắt buộc và xóa mù chữ, giáo dục hòa
nhập
1. Nhà trường tham gia ban chỉ đạo, xây dựng, thực hiện kế hoạch phổ cập
giáo dục, giáo dục bắt buộc, xóa mù chữ và đảm bảo giáo dục tiểu học là giáo dục
bắt buộc tại địa phương.
2. Phối hợp các ban, ngành đoàn thể huy động trẻ em và các cá nhân thuộc đối
tượng phổ cập giáo dục, giáo dục bắt buộc, xóa mù chữ đi học. Tổ chức dạy học và
các hoạt động giáo dục đảm bảo chất lượng phổ cập giáo dục, giáo dục bắt buộc, xóa
mù chữ.
3. Tham gia điều tra, cập nhật số liệu và quản lý hồ sơ phổ cập giáo dục, giáo
dục bắt buộc, xoá mù chữ theo địa bàn được phân công; phối hợp kiểm tra, đánh giá
kết quả phổ cập giáo dục, giáo dục bắt buộc, xóa mù chữ của cấp xã; tham mưu chính
quyền cấp xã đề nghị ủy ban nhân dân cấp huyện kiểm tra công nhận đạt chuẩn phổ
cập giáo dục, giáo dục bắt buộc, xóa mù chữ theo quy định.
4. Thực hiện giáo dục hoà nhập cho học sinh có hoàn cảnh đặc biệt, học sinh
khuyết tật trong trường tiểu học thực hiện theo quy định của Luật Người khuyết tật,
các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Người khuyết tật, các quy định của Điều lệ này
và Quy định về giáo dục hoà nhập dành cho người khuyết tật do Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo ban hành.

Câu hỏi ôn tập và thảo luận


1. Hãy so sánh sự giống nhau và khác nhau giữa 2 khái niệm mục đích và mục
tiêu giáo dục.
2. Trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thiết kế mục tiêu giáo dục cho
các cấp phổ thông Việt Nam.
3. Phân tích những nguyên nhân chủ quan và khách quan ảnh hưởng đến sự phát
triển giáo dục của địa phương nơi anh, chị đang sống.

56
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
4. Anh, chị có nhận định gì về thực trạng chất lượng giáo dục phổ thông ở nước
ta hiện nay, hãy chỉ ra các nguyên nhân của thực trạng đó.
5. Phân tích các cơ sở khoa học và thực tiễn để xây dựng hệ thống giáo dục quốc
dân.
6. Trình bày cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam.
7. Trình bày vị trí của tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông trong hệ
thống giáo dục quốc dân Việt Nam.
8. Anh, chị hãy so sánh, phân biệt 2 khái niệm “xã hội học tập ” và “xã hội hóa
giáo dục ”.

C. HOẠT ĐỘNG SƯ PHẠM CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN TRONG NHÀ


TRƯỜNG TIỂU HỌC
Mục tiêu: Sau khi học xong bài này người học có thể:
- Trình bày đặc điểm lao động sư phạm của người giáo viên
- Xác định các yêu cầu về phẩm chất và năng lực đối với người giáo viên
NỘI DUNG BÀI
1.LAO ĐỘNG SƯ PHẠM CỦA NGƯỜI GIÁO
Nhà giáo
Theo Luật Giáo dục nhà giáo là những người làm nhiệm vụ giảng dạy và giáo
dục học sinh trong các trương hoc và cơ sở giáo dục khác của hệ thống giáo dục
quốc dân.
Nhà giáo giảng dạy trong các trường mầm non, phổ thông, nghề nghiệp gọi là
giáo viên, giảng dạy trong các trường cao đẳng và đại học gọi là giảng viên
Nhà giáo có vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo,
trước hết họ là những người được xã hội giao cho trọng trách giáo dục nhân cách
toàn diện cho thế hệ trẻ và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát triển kinh tế
văn hoá quốc gia. Nhà giáo là cầu nối giữa các thế hệ, người dìu dắt thế hệ trẻ tự tin
bước vào cuộc sông kế tục sự nghiệp của cha ông. Nhà giáo là nhân vật trung tâm
của sự nghiệp giáo dục, người tổ chức trực tiếp các hoạt động giáo dục, là nhân tố
quyết định phương hướng và chất lượng giáo dục và đào tạo. Không có nền giáo dục
nào mà chất lượng lại vượt tầm chất lượng đội ngũ nhà giáo.

Nhiệm vụ của nhà giáo


Theo điều 72 của Luật Giáo dục, nhà giáo có các nhiệm vụ sau đây:
1. Giáo dục và giảng dạy học sinh theo mục tiêu, nguyên lý giáo dục, thực hiện
đầy đủ và có chất lượng chương trình giáo dục.
57
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
2. Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và điều
lệ của nhà trường.
3. Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo, tôn trọng nhân cách, đối xử
công bằng, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của học sinh.
4. Không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ
chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, đổi mới phương pháp giảng dạy, nêu gương tốt
cho người học.
5. Các nhiệm vụ theo khác theo quy định của pháp luật.
Điều lệ trường tiểu học ghi:
Điều 28. Nhiệm vụ của giáo viên
1. Giáo viên có những nhiệm vụ sau đây
a) Thực hiện giáo dục theo mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông cấp
tiểu học và kế hoạch giáo dục của nhà trường. Chủ động thực hiện và chịu trách
nhiệm về kế hoạch giáo dục; tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ
chuyên môn và chất lượng, hiệu quả giáo dục từng học sinh của lớp mình phụ trách.
b) Tham gia xây dựng kế hoạch giáo dục của tổ chuyên môn và nhà trường;
thường xuyên cập nhật những chỉ đạo của ngành; chuẩn bị, tổ chức dạy học và đánh
giá học sinh theo quy định; thực hiện các hoạt động chuyên môn khác.
c) Xây dựng mối quan hệ thân thiện, dân chủ giữa giáo viên với học sinh và
với cha mẹ học sinh; giúp học sinh chủ động, sáng tạo, tự tin, tự chủ trong học tập
và rèn luyện.
d) Giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo; ứng xử văn hóa, đoàn kết,
giúp đỡ đồng nghiệp; gương mẫu trước học sinh; thương yêu, đối xử công bằng và
tôn trọng học sinh; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của học sinh.
đ) Thực hiện tự đánh giá theo chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học; tự học,
tự bồi dưỡng nâng cao năng lực nghề nghiệp; thực hiện nhiệm vụ bồi dưỡng thường
xuyên giáo viên tiểu học theo quy định.
e) Ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy và học tập; sáng tạo, linh
hoạt trong việc tự làm đồ dùng dạy học.
g) Tham gia lựa chọn xuất bản phẩm tham khảo phù hợp để sử dụng trong nhà
trường.
h) Tham gia kiểm định chất lượng giáo dục.
i) Tham gia thực hiện giáo dục bắt buộc, phổ cập giáo dục và xóa mù chữ ở
địa phương.
k) Phối hợp với Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, gia đình học sinh,
cộng đồng và các tổ chức xã hội liên quan để thực hiện nhiệm vụ giáo dục.
58
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
l) Quản lí, tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục tại điểm trường khi được hiệu
trưởng phân công.
m) Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
2. Giáo viên cốt cán là người có chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, có uy tín
trong nhà trường, được hiệu trưởng hoặc cơ quan quản lí giáo dục đề cử. Ngoài các
nhiệm vụ quy định tại khoản 1 của Điều này, giáo viên cốt cán còn làm nòng cốt
trong sinh hoạt chuyên môn; hướng dẫn, tư vấn đồng nghiệp trong giảng dạy, giáo
dục và phát triển nghề nghiệp.
3. Giáo viên chủ nhiệm, ngoài các nhiệm vụ quy định tại khoản 1 của Điều
này, còn có các nhiệm vụ sau đây:
a) Xây dựng các hoạt động giáo dục thể hiện rõ mục tiêu, nội dung, phương
pháp giáo dục đảm bảo tính khả thi, phù hợp với đặc điểm học sinh, với hoàn cảnh
và điều kiện thực tế nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp và của từng học sinh.
b) Thực hiện các hoạt động giáo dục theo kế hoạch đã xây dựng và được hiệu
trưởng phê duyệt.
c) Phối hợp chặt chẽ với cha mẹ học sinh, giáo viên, tổng phụ trách Đội, các
tổ chức xã hội có liên quan để tổ chức các hoạt động giáo dục và hỗ trợ, giám sát
việc học tập, rèn luyện của học sinh lớp mình chủ nhiệm.
d) Báo cáo thường kì hoặc đột xuất về tình hình của lớp với hiệu trưởng.
4. Tổng phụ trách Đội: chịu trách nhiệm trước hiệu trưởng về việc xây dựng
và tổ chức thực hiện kế hoạch hoạt động Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh
và Sao Nhi đồng Hồ Chí Minh ở nhà trường góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục
toàn diện học sinh.
2. Đặc điểm lao động sư phạm
Mục đích lao động sư phạm:
Là nhằm giáo dục thế hệ trẻ thành những người có đầy đủ phẩm chất và năng lực
mà xã hội yêu cầu. Nói cách khác, lao động sư phạm góp phần “sáng tạo ra con
người”, góp phần tái sản xuất sức lao động xã hội đào tạo và bồi dưỡng liên tục
những thế hệ trẻ cho đời sau
Lao động sư phạm là quá trình tác động qua lại giữa người dạy và người học.
Trong đó, người dạy là người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, được xã hội giao
cho nhiệm vụ giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ. Còn người học có nhiệm vụ học tập, tiếp
thu những giá trị văn hóa của xã hội loài người và rèn luyện hệ thống kĩ năng kĩ xảo
để sau này có thể ra đời sống và lao động nhằm thỏa mãn các tiêu chí mà mục đích
giáo dục đã đề ra.

59
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
Mục đích giáo dục thường quy định cách thức tổ chức, phương pháp giáo dục và
các mối quan hệ trong giáo dục. Vì vậy, nếu mục đích giáo dục là đào taọ học sinh
trở thành những người sẵn sàng tuân thủ, phục tùng vô điều kiện thì công tác giáo
dục sẽ là áp đặt, cưỡng bức, roi vọt, … còn nếu mục đích giáo dục là đào tạo ra những
người năng động sáng tạo thì nội dung giáo dục phải gắn liền với cuộc sống và
phương pháp giáo dục là tôn trọng nhân cách của người được giáo dục và phải hình
thành ở họ tính tích cực, chủ động, tự giác và sáng tạo
Về đối tượng của lao động sư phạm:
- Có đối tượng tác động không phải là những vật vô tri, vô giác mà là những con
người, thế hệ trẻ đang trưởng thành
- Đối tượng của lao động sư phạm rất đa dạng, phúc tạp, nhiều hình, nhiều vẻ.
Sản phẩm của lao động sư phạm được “vật chất hóa” trong bộ mặt tinh thần tri thức,
thể chất, kĩ năng, kĩ xão, ý chí, phẩm chất và tính cách của học sinh.
- Đặc điểm:
+ Đối tượng của lao động sư phạm là học sinh. Học sinh không chỉ chịu tác động
của giáo viên, nhà trường mà còn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác như: gia
đình, bạn bè, các phương tiện thông tin đại chúng… Tất cả những nhân tố này có thể
tác động đến việc hình thành và phát triển nhân cách của học sinh một cách tích cực
hoặc tiêu cực, tự giác hoặc tự phát … theo nhiều mức độ và cách thức khác nhau.
Mặt khác các mối quan hệ trong cuộc sống của học sinh cũng rất phong phú. Chúng
cũng thường xuyên tác động và ảnh hưởng đến học sinh. Vì vậy, lao động sư phạm
có nhiệm vụ điều chỉnh mọi tác động từ các nhân tố đến người học sinh nhằm đạt
hiệu quả cao nhất.
+ Nhưng học sinh – đối tượng của lao động sư phạm không phát triển theo tỉ lệ
thuận với những tác động sư phạm mà theo quy luật của sự hình thành nhân cách con
người, tâm lí và nhận thức. Vì vây, có khi cùng một tác động sư phạm đến người học
sinh nhưng lại có kết quả khác nhau có thể tích hoặc tiêu cực. Mặt khác, kết quả của
lao động sư phạm không chỉ phụ thuộc vào trình độ được đào tạo của giáo viên mà
còn phụ thuộc rất nhiều vào mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh vào thái độ, động
cơ, hứng thú người học, vào đặc điểm nhân cách của học sinh.
+ Trong quá trình sư phạm, người giáo viên là chủ thể còn học sinh là khách thể
và là đối tượng của lao động sư phạm. Mặt khác, học sinh còn là một thực thể xã hội
có ý thức. Vì vậy quá trình sư phạm chỉ đem lại hiệu quả khi phát huy được tính tích
cực chủ động, sáng tạo của người học.
Về công cụ của lao động sư phạm:

60
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
Để tác động tới học sinh người giáo viên cần có những công cụ đặc biệt đó là: hệ
thống tri thức, kĩ năng, kĩ xảo cần thiết để giáo dục học sinh và tổ chức các dạng hoạt
động như: học tập, lao động, vui chơi, giải trí cho các em. Nhưng nếu chỉ có hệ thống
tri thức kĩ năng, kĩ xảo thì chưa đủ đảm bảo hiệu quả của lao động sư phạm . Giáo
viên là người đào luyện con người, vì vậy, người giáo viên cần phải giảng dạy và
giáo dục học sinh với tất cả tình cảm và tâm hồn mình. Mặt khác, nhân cách của các
thầy, cô giáo cũng có ý nghĩa giáo dục to lớn và ảnh hưởng sâu sắc đến phát triển
nhân cách của người học sinh. Ngoài những công cụ lao động sư phạm này còn phải
kể đến những phương tiện như đồ dùng dạy học, thiết bị kĩ thuật.
Về sản phẩm của lao động sư phạm:
Lao động sư phạm của người có đối tượng là con người và sản phẩm của lao động
sư phạm cũng là con người. Song, qua quá trình giáo dục và tự giáo dục lâu dài, dưới
sự hướng dẫn tổ chức và điều khiển của người giáo viên, những con người sư phạm
của Lao động sư phạm đã có những chuyển biến sâu sắc về chất lượng. Họ đã được
chuẩn bị một cách đầy đủ và toàn diện để đi vào cuộc sống đa dạng phong phú, thích
ứng và đương đầu với những sự thay đổi diễn ra liên tục trong cuộc sống.
Về thời gian, không gian của lao động sư phạm
Về thời gian: Lao động sư phạm chia thành 2 bộ phận, bộ phận làm việc theo
quy chế và bộ phận làm việc ngoài quy chế. Bộ phận theo quy chế gắn liền với thời
gian làm việc trên lớp và tổ chức các hoạt động dạy học ngoài lớp căn cứ theo chương
trình dạy học, với thời gian tham dự các sinh hoạt chuyên môn và hành chính, thực
hiện các hoạt động của nhà trường. bộ phận làm việc ngoài quy chế gắn liền với thời
gian làm việc để soạn bài, chấm bài, thăm gia đình học sinh, đọc sách, tài liệu; thời
gian giáo viên độc lập làm việc để chuẩn bị cho việc dạy học và giáo dục học sinh
được tốt hơn. Mỗi bộ phận của thời gian này đều có tầm quan trọng của riêng nó,
song chúng có liên quan mật thiết và thống nhất với nhau nhằm thực hiện mục đích
của lao động sư phạm.
Về không gian: ở trường, nơi dạy học ngoài thiên nhiên, trong môi trường sư
phạm, trong các cơ quan nhà máy, ở nhà.
4. NHỮNG YÊU CẦU ĐỐI VỚI NGƯỜI GIÁO
4.1. Thế giới quan của giáo viên
Giáo dục có chức năng tư tưởng, chính trị, sản phẩm của giáo dục và người
tạo ra sản phẩm giáo dục phải phục vụ đường lối, quan điểm của Nhà nước.
Đối với nước ta, thể chế chính trị rất rõ ràng: Xây dựng đất nước Việt Nam
thành một nước XHCN theo học thuyết Mac-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì
vậy, nền giáo dục Việt Nam phải được định hướng phát triển theo chủ trương, chính
61
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Vì vậy, người giáo viên phải có phẩm
chất chính trị và thế giới quan chủ nghĩa Mac-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tạo niềm
tin và định hướng giáo dục của Đảng và Nhà nước.
4.2. Lòng yêu nghề, yêu trẻ
- Lòng yêu nghề: Người thầy phải thấy được tính có ích của nghề nghiệp,
nhận thấy được nét hay nét đẹp của nó; đó chính là việc người thầy được tiếp xúc với
HS- những con người trẻ trung, tràn đầy nhựa sống và ngày một trưởng thành, trở
thành người công dân có ích cho xã hội.
- Lòng yêu trẻ: Thể hiện ở chỗ:
+ Sự vui sướng của người thầy khi được tiếp xúc với trẻ, khi đi vào thế giới
tâm hồn rất đặc biệt của các em; người thầy thấy hạnh phúc vì khám phá ra những
điều bí mật tiền ẩn trong các em.
+ Luôn sẵn sàng sống trong niềm vui, nỗi buồn của các em
+ Quan tâm đầy thiện chí tới học sinh, kể cả với em học kém và vô kỷ luật
+ Có tình thương với học sinh…
4.3. Có phẩm chất đạo đức tốt
- Tinh thần, nghĩa vụ, trách nhiệm: Người thầy đào tạo ra học sinh nhưng
chính là đào tạo ra những con người có tinh thần, nghĩa vụ, trách nhiệm cao đối với
xã hội, biết vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
- Sự tôn trọng học sinh: Phải luôn coi học sinh là những chủ thể, những nhân
cách đang phát triển với đặc điểm riêng của lứa tuổi và người thầy phải luôn luôn tôn
trọng những đặc điểm ấy.
- Sự công bằng: Đây là phẩm chất rất cần thiết với người giáo viên . Với học
sinh, đặc biệt là học sinh nhỏ thì giáo viên như là biểu hiện sinh động về sự công
bằng và lẽ phải. Người thầy giáo phải xứng đáng với niềm tin này của trẻ. Sự công
bằng thể hiện trong mọi hoạt động nhưng thể hiện rõ nhất là trong sự đánh giá của
giáo viên.
- Lòng trung thực: học sinh chỉ yêu quý và noi theo người mà các em tin
tưởng, các em không chịu đựng được sự giả dối, “tính cách hai mặt của người thầy
giáo làm các em sửng sốt, mất niềm tin và kông tiếp nhận sự giáo dục nữa”
(Gonobolin).
- Đức tính giản dị, khiêm tốn: Là những đức tính cần thiết của con người và
của người giáo viên. Khiêm tốn sẽ giúp cho người thầy giáo đánh giá đúng mình,
giản dị sẽ giúp cho người thầy gần gũi với học sinh.
Điều lệ trường tiểu học ghi: Điều 32. Quy tắc ứng xử và những việc
không được làm của giáo viên, nhân viên
62
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
1. Quy tắc ứng xử của giáo viên, nhân viên thực hiện theo quy định của
ngành và của pháp luật.
2. Giáo viên không được
a) Xuyên tạc nội dung giáo dục, dạy sai nội dung kiến thức.
b) Gian lận trong kiểm tra đánh giá, cố ý đánh giá sai kết quả giáo dục của
học sinh.
c) Ép buộc học sinh học thêm vì mục đích vật chất.
d) Bỏ giờ, bỏ buổi dạy, tuỳ tiện cắt xén nội dung giáo dục.
3. Nhân viên không được cản trở, gây khó khăn trong việc hỗ trợ, phục vụ
công tác giảng dạy, giáo dục học sinh và các công việc khác của nhà trường.
4.4. Có năng lực sư phạm vững vàng
* Năng lực chung
- Có tri thức và tầm hiểu biết rộng
- Năng lực hiểu HS trong lĩnh vực GD
* Năng lực dạy học
- Năng lực chế biến tài liệu học tập
- Năng lực ngôn ngữ
* Năng lực GD
- Năng lực vạch được dự án phát triển nhân cách
- Năng lực khéo léo ứng xử sư phạm.
4.5. Có hệ thống kỹ năng đảm bảo tiến hành hoạt động sư phạm có hiệu quả:
* Các kỹ năng nền tảng:
- Nhóm kỹ năng thiết kế
- Nhóm kỹ năng tổ chức
- Nhóm kỹ năng giao tiếp
- Nhóm kỹ năng nhận thức
* Các kỹ năng chuyên biệt
- Nhóm kỹ năng giảng dạy
- Nhóm kỹ năng giáo dục
- Nhóm kỹ năng nghiên cứu khoa học
- Nhóm kỹ năng hoạt động xã hội
- Nhóm kỹ năng tự học.
Điều lệ trường tiểu học ghi: Điều 31. Trình độ chuẩn được đào tạo, chuẩn nghề
nghiệp của giáo viên, nhân viên
1. Trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên tiểu học là có bằng cử nhân
ngành đào tạo giáo viên tiểu học hoặc có bằng cử nhân chuyên ngành phù hợp và
63
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm giáo dục tiểu học. Giáo viên chưa đạt chuẩn
trình độ đào tạo được nhà trường, các cơ quan quản lí giáo dục tạo điều kiện để học
tập, đào tạo bồi dưỡng theo quy định.
2. Chuẩn nghề nghiệp của giáo viên tiểu học được thực hiện theo quy định.
Hằng năm, giáo viên tự đánh giá và được nhà trường định kì đánh giá theo chuẩn
nghề nghiệp giáo viên tiểu học để làm căn cứ xây dựng kế hoạch học tập, bồi dưỡng
nâng cao năng lực nghề nghiệp.
3. Trình độ chuẩn được đào tạo của nhân viên trường tiểu học được quy định
tại các văn bản quy định tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp với từng vị trí việc làm
của nhân viên.

Câu hỏi ôn tập và thảo luận


1. Trình bày định nghĩa nhà giáo trong Luật Giáo dục. Phân biệt các khái niệm
nhà giáo, giáo viên, giảng viên và huấn luyện viên.
2. Trình bày các tiêu chuẩn đối với giáo viên.
3. Trình bày chuẩn đào tạo nhà giáo ở các cấp học.
4. Phân tích những đặc điểm lao động sư phạm của nhà giáo.
5. Phân tích những phẩm chất và năng lực sư phạm cần có của nhà giáo ở trường
phổ thông.
6. Nêu những phương hướng phấn đấu của bản thân để trở thành nhà giáo mẫu
mực.
7. Phân tích các yêu cầu về việc xây dựng một trường sư phạm chuẩn mực.
8. Phân tích vai trò của đào tạo và bồi dưỡng nhà giáo, nêu mối quan hệ của đào
tạo và bồi dưỡng nhà giáo.
9. Hãy mô tả chân dung một thầy giáo mà anh, chị cho là có năng lực và phẩm
chất tốt, được học sinh và phụ huynh kính trọng.

64
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
Chương IV – QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC HỌC SINH Ở TIỂU HỌC

MỤC TIÊU:
Học viên đạt các yêu cầu sau:
- Phân tích các vấn đề chung của lý luận giáo dục.
- Vận dụng các tri thức cơ bản của lý luận giáo dục vào trong quá trình giáo dục
và có khả năng giải quyết các vấn đề phát sinh trong giáo dục.
- Có thái độ đúng đắn đối với công tác giáo dục, và hứng thú, say mê học tập,
nghiên cứu những vấn đề chung của giáo dục.

A. QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC


1. Khái niệm quá trình giáo dục
Quá trình giáo dục ở đây được hiểu theo nghĩa hẹp, là bộ phận của quá trình
giáo dục tổng thể. Quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp và quá trình dạy học đều hướng
vào hình thành nhân cách toàn diện theo mục tiêu giáo dục đã xác định. Trong đó
quá trình giáo dục với chức năng trội là là làm cho học sinh có nhận thức đúng đắn
về các yêu cầu, chuẩn mức xã hội và có hành vi, thói quen hành động tương ứng.
Như vậy, quá trình giáo dục là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức của giáo
viên và học sinh, hình thành những quan điểm, niềm tin, giá trị, động cơ, thái độ,
hành vi, thói quen phù hợp với những chuẩn mực chính trị, đạo đức, pháp luật, thẩm
mỹ, văn hóa, làm phát triển nhân cách học sinh theo mục đích giáo dục của nhà
trường và xã hội.
Cấu trúc của quá trình giáo dục
Theo cách tiếp cận hệ thống, quá trình giáo dục là một hệ thống bao gồm trong
nó các thành tố cấu trúc như: mục đích và nhiệm vụ giáo dục, nội dung giáo dục,
phương pháp giáo dục, nhà giáo dục, người được giáo dục, kết quả giáo dục. Mỗi
thành tố có chức năng riêng và có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Mục đích giáo dục là một mô hình dự kiến về nhân cách học sinh đáp ứng
được các yêu cầu khách quan của xã hội, của đất nước trong một giai đoạn lịch sử
nhất định. Để thực hiện được mục đích đó, nhiệm vụ giáo dục của nhà trường phải
hình thành và phát triển các mặt tư tưởng, chính trị, tình cảm, thái độ, hành vi đạo
đức, pháp luật, trí tuệ, thể chất, lao động – kỹ thuật – nghề…góp phần phát triển nhân
cách toàn diện của học sinh. Mục đích giáo dục là thành tố hàng đầu, có vai trò định
65
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
hướng cho sự vận động, phát triển của các thành tố khác của quá trình giáo dục (nội
dung, phương pháp, phương thức giáo dục) và định hướng cho toàn bộ quá trình giáo
dục. Mục đích giáo dục được ví là “đơn đặt hàng của xã hội”.
Nhà giáo dục là chủ thể của quá trình giáo dục giữ vai trò chủ đạo, nhà giáo
dục cần quán triệt mục đích, nhiệm vụ giáo dục và chuyển tải nó tới học sinh (đối
tượng giáo dục). Đồng thời, nhà giáo dục lựa chọn nội dung, phương pháp, các hình
thức tổ chức giáo dục và tổ chức quá trình giáo dục học sinh. Nhà giáo dục ở nhà
trường là các thầy cô giáo, tập thể sư phạm, ở gia đình là các bậc cha mẹ, ông bà,
người lớn và các mối quan hệ khác.
Vai trò của giáo viên trong quá trình giáo dục được thể hiện ở các mặt sau:
- Định hướng sự phát triển nhân cách của học sinh theo mục đích giáo dục của
Đảng, Nhà nước và mục đích giáo dục cụ thể của nhà trường.
- Có kế hoạch, phương pháp tổ chức hợp lý, khoa học, hệ thống các hoạt động
giáo dục ở trong và ngoài nhà trường.
- Phát huy được ý thức tự giáo dục của học sinh.
- Phối hợp giữa tác động sư phạm của giáo viên với tác động giáo dục đồng bộ,
thống nhất của Hội đồng giáo dục trong nhà trường và các lực lượng, tổ chức giáo
dục khác.
Học sinh với tư cách là khách thể của quá trình giáo dục nhận sự tác động
có định hướng, có kế hoạch, có phương pháp, có tổ chức và có hệ thống của giáo
viên, nhà giáo dục. Quá trình giáo dục luôn có sự tác động qua lại, thống nhất giữa
chủ thể giáo dục (nhà giáo dục) và khách thể giáo dục (người được giáo dục). Tuy
nhiên, học sinh trong quá trình giáo dục tiếp nhận có chọn lọc các tác động giáo dục
và tự vận động để biến các tác động, các yêu cầu giáo dục từ bên ngoài thành nhu
cầu được giáo dục bên trong của bản thân. Trong quá trình giáo dục, học sinh luôn
nhận các tác động giáo dục từ phía nhà giáo dục và các lực lượng giáo dục, khi đó,
học sinh là khách thể của quá trình giáo dục. Khi tiếp nhận các tác động giáo dục đó,
người học không thụ động mà là một thực thể xã hội có ý thức, người học ý thức
được mục đích, ý nghĩa, các yêu cầu giáo dục đối với mình, rồi diễn ra quá trình đấu
tranh động cơ trong khi lựa chọn và định hướng giá trị. Tức là khi đứng trước những
tác động giáo dục dưới nhiều hình thức khác nhau, người được giáo dục tiếp nhận nó
theo yêu cầu và ý thức của mình, nên mọi tác động giáo dục bị khúc xạ theo lăng
kính chủ quan của họ, khi đó, học sinh được xem là chủ thể của quá trình giáo dục.
Hiệu quả của quá trình dạy học phụ thuộc rất lớn vào tính chủ thể này, với tư cách
là chủ thể, học sinh sẽ tự giáo dục, tự tu dưỡng và rèn luyện để phát triển và hoàn
thiện nhân cách.
66
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
Nội dung giáo dục là hệ thống những tri thức, những chuẩn mực đạo đức cần
giáo dục cho học sinh, những tình cảm, thái độ, hành vi - thói quen trong các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Nội dung giáo dục chịu sự quy định, chi phối, định hướng
của mục đích giáo dục và là cơ sở để xác định các phương pháp giáo dục.
Phương pháp giáo dục là những cách thức, biện pháp hoạt động phối hợp
thống nhất giữa nhà giáo dục và người được giáo dục để giúp cho người được giáo
dục chuyển hóa các yêu cầu, các chuẩn mực xã hội thành hành vi và thói quen ứng
xử, tức là hình thành và phát triển ở các em những phẩm chất và hành vi, thói quen
đạo đức phù hợp với các chuẩn mực đã được xã hội quy định.
Kết quả giáo dục là thành tố biểu hiện tập trung kết quả vận động và phát
triển của quá trình giáo dục nói chung và kết quả làm hình thành và thói quen hành
vi, thái độ nói riêng ở học sinh theo mục đích, nhiệm vụ, mục tiêu giáo dục của nhà
trường. Nếu mục đích giáo dục là dự kiến mô hình giáo dục – đào tạo mong muốn
thì kết quả giáo dục là đích cần đạt được, là mục tiêu thực tế của quá trình giáo dục.
Các thành tố của quá trình giáo dục nêu trên liên quan mật thiết, thống nhất
biện chứng và tác động qua lại, tương hỗ lẫn nhau. Mặt khác chúng lại có quan hệ và
bị chi phối bởi môi trường kinh tế - văn hóa – khoa học kỹ thuật và các quan hệ sản
xuất. Sản phẩm của quá trình giáo dục là nhân cách học sinh được phát triển. Sản
phẩm đó phải thỏa mãn được hai tiêu chí cơ bản:
- Phù hợp với các chuẩn mực đã được xã hội quy định mang tính bền vững, phổ
biến.
- Phải đáp ứng, phục vụ các yêu cầu tồn tại, phát triển không ngừng của xã hội,
tạo ra sự thích ứng cao giữa cá nhân và sự biến đổi của môi trường kinh tế - xã hội.
2.Bản chất và đặc điểm của quá trình giáo dục
2.1 Bản chất của quá trình giáo dục
Bản chất quá trình giáo dục được xác định căn cứ vào những cơ sở sau:
Thứ nhất, quá trình giáo dục là quá trình hình thành một kiểu nhân cách trong
xã hội. Sự phát triển cá nhân con người được quy định bởi sự tác động qua lại của
các nhân tố xã hội và nhân tố học sinh, trong đó sự ưu tiên hàng đầu thuộc về các
nhân tố xã hội. Cá nhân được phát triển dưới ảnh hưởng của chương trình. Quá trình
xã hội hóa cá nhân là quá trình biến cá nhân thành một thành viên của xã hội (ứng
với các giai đoạn phát triển lịch sử cụ thể của xã hội); có đầy đủ các giá trị xã hội để
tham gia vào những hoạt động của xã hội. Do đó muốn xác định bản chất của quá
trình giáo dục phải xuất phát từ cơ chế có tính xã hội của nó, là sự truyền đạt và lĩnh
hội những kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ đi trước trong các lĩnh vực

67
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
hoạt động của đời sống xã hội. Nhờ đó cá nhân chiếm lĩnh được các giá trị văn hóa
của loài người.
Thứ hai, trong quá trình giáo dục luôn có mối quan hệ giữa nhà giáo dục và
người được giáo dục (cá nhân hoặc tập thể), đó là quan hệ sư phạm – một loại quan
hệ xã hội đặc thù. Quan hệ sư phạm này luôn chịu sự chi phối của các quan hệ chính
trị, tư tưởng, văn hóa, kinh tế, khoa học – kỹ thuật…, đặc biệt là những quan hệ chính
trị - xã hội. Quan hệ sư phạm là cơ sở để xác định bản chất của quá trình giáo dục,
đó là sự thống nhất giữa sự tác động giáo dục của nhà giáo dục và sự tiếp nhận, tự
điều chỉnh của người được giáo dục trong quá trình giáo dục.
Bản chất của quá trình giáo dục là gì?
Quá trình giáo dục – một quá trình xã hội nhằm hình thành và phát triển cá
nhân trở thành những thành viên xã hội, những thành viên đó phải thoả mãn được
hai mặt: vừa phù hợp (thích ứng) với các yêu cầu của xã hội ở mỗi giai đoạn phát
triển, vừa có khả năng tác động cải tạo, xây dựng xã hội, làm cho nó tồn tại và phát
triển. Những nét bản chất của cá nhân là do các mối quan hệ xã hội hợp thành. Quá
trình giáo dục là quá trình làm cho người được giáo dục (học sinh) ý thức được các
quan hệ xã hội và các giá trị của nó (các quan hệ chính trị, tư tưởng, kinh tế, pháp
luật, đạo đức) để rồi biết vận dụng vào các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa – xã hội, đạo
đức, tôn giáo, pháp luật, gia đình…
Quá trình vận dụng, trải nghiệm các quan hệ xã hội đó sẽ giúp học sinh (người
được giáo dục) tích lũy được kinh nghiệm xã hội (thực tiễn) tốt và có nhu cầu, hành
vi, thói quen, biết thể hiện đúng đắn các quan hệ xã hội. Chính trong quá trình tham
gia vào các quan hệ xã hội như vậy sẽ giúp cho hoạt động khẳng định được các quan
hệ mới, tích cực trong mọi lĩnh vực của cuộc sống và biết loại bỏ khỏi bản thân
những quan niệm, những tiêu cực, tàn dư cũ, lạc hậu không còn phù hợp với xã hội
ngày nay.
Quá trình giáo dục là quá trình hình thành bản chất người – xã hội trong mỗi
cá nhân một cách có ý thức, là quá trình tổ chức để mỗi cá nhân chiếm lĩnh được các
lực lượng bản chất xã hội của con người, được biểu hiện ở toàn bộ các quan hệ xã
hội của họ. Triết học mác xít đã khẳng định: bản chất xã hội của con người chỉ có
được khi nó tham gia vào đời sống xã hội đích thực thông qua hoạt động và giao lưu
ở một môi trường văn hóa (văn hóa vật chất và tinh thần). Do đó việc tiếp cận bản
chất quá trình giáo dục buộc chúng ta phải xem xét quá trình tổ chức đời sống, hoạt
động và giao lưu của đối tượng giáo dục.
Mỗi con người đều sống trong môi trường lịch sử xã hội cụ thể. Quá trình giáo
dục là quá trình tổ chức cuộc sống cho mỗi cá nhân hoặc nhóm, tầng lớp xã hội theo
68
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
các chuẩn mực, các yêu cầu của sự phát triển xã hội, làm cho cá nhân biết sống phù
hợp với các quan hệ xã hội.
Hoạt động và giao lưu là hai mặt cơ bản, thống nhất trong cuộc sống của con
người, và cũng là điều kiện tất yếu của sự hình thành và phát triển nhân cách của cá
nhân. Các lý thuyết về hoạt động đã chứng tỏ là con người muốn tồn tại và phát triển
phải có hoạt động và giao lưu. Nếu các hoạt động và giao lưu của cá nhân (hoặc
nhóm người) được tổ chức khoa học với các điều kiện, phương tiện hoạt động tiên
tiến, phong phú, đa dạng; cá nhân được tham gia vào các hoạt động và giao lưu đó
thì sẽ có nhiều cơ hội tốt cho sự phát triển. Vì bất kỳ hoạt động nào của con người
cũng đều phải đặt vào (có quan hệ) những mối quan hệ xã hội và những hình thái
giao lưu nhất định. Chính vì vậy, quá trình giáo dục vừa mang bản chất của hoạt
động vừa mang bản chất của giao lưu. Giáo dục là một quá trình tác động qua lại
mang tính xã hội giữa nhà giáo dục và người được giáo dục, giữa những người được
giáo dục (học sinh) với nhau và với các lực lượng, các quan hệ xã hội trong và ngoài
nhà trường.
Như vậy bản chất của quá trình giáo dục là quá trình tổ chức các học sinh
giao lưu trong cuộc sống nhằm giúp cho người được giáo dục tự giác, tích cực,
độc lập chuyển hóa những yêu cầu và những chuẩn mực của xã hội thành hành
vi và thói quen tương ứng.
2.2. Đặc điểm quá trình giáo dục
a. Giáo dục là một quá trình có mục đích xuất phát từ yêu cầu của xã hội và
diễn ra lâu dài
Quá trình giáo dục nhằn hình thành những phẩm chất, những nết tính cách của cá
nhân nên nó đòi hỏi một thời gian lâu dài mới đạt được kết quả. Tính chất lâu dài của
quá trình giáo dục được xem xét ở các góc độ sau:
- Quá trình giáo dục được thực hiện trong tất cả các giai đoạn của cuộc đời con
người, từ lúc sinh ra cho đến khi không còn sống nữa.
- Việc hình thành và trở nên bền vững, ổn định của một hành vi, thói quen của
cá nhân đòi hỏi một thời gian lâu dài không thể một sớm, một chiều mà có ngay
được. Những phẩm chất mới của nhân cách (niềm tin, động cơ đúng, tình cảm mới…)
chỉ có được và trở nên vững chắc khi người được giáo dục tiếp nhận và trải qua một
thời gian tập luyện, thê nghiệm, đấu tranh bản thân (đấu tranh động cơ) trong cuộc
sống thực để trở thành kinh nghiệm sống của chính mình càng đòi hỏi một thời gian
lâu dài.
- Kết quả tác động giáo dục, nhất là các tác động nhằm hình thành nhận thức
mới, niềm tin… thường khó nhận thấy ngay (khó đánh giá, lượng hóa một cách cụ
69
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
thể) và có khi kết quả đó lại bị biến đổi hoặc mất đi. Do đó công tác giáo dục phải
được tiến hành bền bỉ, liên tục theo một kế hoạch ổn định, lâu dài; đồng thời trong
quá trình giáo dục lại phải phát huy được cao độ tính tự giác, nỗ lực tự giáo dục kéo
dài, liên tục của người được giáo dục thì mới đạt được hiệu quả giáo dục, kinh nghiệm
thực tiễn giáo dục đã chứng tỏ điều đó.
- Việc sửa chữa, thay đổi những nếp nghĩ, thói quen cũ lạc hậu, không đúng,
nhất là những thói quen – hành vi xấu thường diễn ra dai dẳng, trở đi trở lại mãi trong
ý thức, hành vi của mỗi người nên việc khắc phục chúng khó khăn và lâu dài.
b. Quá trình giáo dục diễn ra với sự tác động của rất nhiều nhân tố
Quá trình giáo dục là quá trình tổ chức các hoạt động phong phú, các dạng
giao lưu đa dạng để hình thành những phẩm chất nhân cách bền vững cho người được
giáo dục, có rất nhiều nhân tố tác động đến quá trình này như: các sự kiện, quan hệ
kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng – văn hóa, phong tục, tập quán; các hoạt động giáo
dục ở trong và ngoài nhà trường; các nội dung thông tin - văn hóa – nghệ thuật tuyên
truyền qua các phương tiện và các kênh thông tin khác nhau; các thành tố của quá
trình giáo dục (mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện) cách tổ chức được
chủ thể và khách thể của quá trình giáo dục tác động để nó vận hành và phát triển
nhằm đem lại hiệu quả giáo dục; các yếu tố tâm lý, trình độ được giáo dục, điều kiện,
hoàn cảnh riêng tư của người được giáo dục; các mối quan hệ sư phạm được tạo ra
trong quá trình tác động qua lại giữa học sinh với giáo viên, giữa học sinh với các
lực lượng giáo dục khác.
Các yếu tố tác động từ nhiều phía đan kết, xen kẻ, bổ sung cho nhau tạo thành
một thể thống nhất hướng tới việc hoàn thiện nhân cách. Tuy nhiên, các yếu tố tác
động đến quá trình giáo dục với nhiều mức độ khác nhau, chúng có thể thống nhất
hỗ trợ cho nhau trong quá trình giáo dục, cũng có thể có mâu thuẫn làm hạn chế, suy
giảm, thậm chí là vo hiệu hóa kết quả của quá trình giáo dục. Điều này đòi hỏi nhà
giáo dục cần chủ động phối hợp thống nhất các tác động giáo dục, đồng thời phải
linh hoạt vận dụng các nguyên tắc, phương pháp giáo dục để hạn chế tối đa những
tác động tiêu cực, tự pháp và phát huy những tác động tích cực đến quá trình giáo
dục.
c. Quá trình giáo dục mang tính cụ thể
Quá trình giáo dục được thực hiện trong cuộc sống, hoạt động và giao lưu của
mỗi cá nhân. Với tư cách là người được giáo dục, cá nhân tiếp nhận các tác động
giáo dục theo những quy luật chung, đồng thời lại phải chú ý đến những điểm riêng
biệt cụ thể thì mới có hiệu quả và tránh được những tác động giáo dục một cách cứng
nhắc, công thức, giáo điều. Tính cụ thể của quá trình giáo dục được thể hiện như sau:
70
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
- Tác động giáo dục theo từng cá nhân người được giáo dục với những tình
huống giáo dục cụ thể riêng biệt. Quá trình giáo dục luôn phải giải quyết các mâu
thuẫn xung đột cụ thể giữa yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục với phẩm chất, năng lực, tâm
lý chủ quan của người được giáo dục.
- Quá trình giáo dục phải tính đến những đặc điểm của từng loại đối tượng cụ
thể. Mỗi học sinh đều là một cá nhân có tính độc lập tương đối của nó về trình độ
được giáo dục, về kinh nghiệm sống, về thái độ, tình cảm, thói quen…đặc điểm tâm
lý lứa tuổi, điều kiện hoàn cảnh sống, những diễn biến phức tạp, éo le của từng tình
huống cụ thể. Nhà giáo dục cần phải nhìn thấy hoặc dự đoán được những nguyên
nhân (sâu xa và trước mắt) của các biểu hiện (tốt, xấu) của thái độ, hành vi, thói
quen…từ đó mới có biện pháp tác động phù hợp.
- Quá trình giáo dục được diễn ra trong thời gian, địa điểm, không gian với
những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Kết quả giáo dục cũng mang tính cụ thể đối với
từng loại đối tượng giáo dục. Quá trình giáo dục phải đặc biệt chú ý rèn luyện, luyện
tập phương thức, thao tác, kỹ năng thể hiện các yêu cầu, nội dung, chuẩn mực xã hội
về nhiều mặt, nhiều lĩnh vực, biến những yêu cầu đó từ bên ngoài thành nét tính cách
riêng độc đáo của mỗi con người.
Tóm lại quá trình giáo dục luôn diễn ra cụ thể trong những tình huống giáo
dục, điều kiện giáo dục và với những con người (đối tượng giáo dục) cụ thể.
d.Quá trình giáo dục thống nhất biện chứng với quá trình dạy học
Giáo dục và dạy học là hai quá trình có cùng mục đích là hình thành và phát
triển nhân cách, tuy nhiên chúng không đồng nhất. Dạy học nhằm tổ chức, điều khiển
để người học chiếm lĩnh có chất lượng và hiệu quả nội dung học vấn: giáo dục hình
thành những phẩm chất đạo đức, hành vi, thói quen…hai hoạt động này không tách
biệt mà có quan hệ biện chứng với nhau. Trên cơ sở thực hiện các nhiệm vụ dạy học
thì thế giới quan và các phẩm chất đạo đức của học sinh được hình thành và phát
triển, ngược lại, giáo dục tốt các phẩm chất sẽ thúc đẩy hoạt động đạt kết quả cao,
dạy học là quá trình điều khiển được, còn quá trình giáo dục là quá trình phức tạp
khó kiểm soát.
3. Động lực và các khâu của quá trình giáo dục
3.1. Động lực của quá trình giáo dục
Theo quan điểm triết học biện chứng, các sự vật hiện tượng, quá trình luôn
vận động và phát triển, động lực của sự phát triển được hình thành trong quá trình
giải quyết có hiệu quả các mâu thuẫn cơ bản, nội tại của chúng.
Trong cuộc sống con người luôn chịu những tác động khách quan từ môi
trường, chúng có thể tác động ngẫu nhiên, tự phát hoặc tác động có mục đích. Mỗi
71
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
cá nhân cần tiếp thu những tác động để chuyển hóa nó thành ý thức, hành vi phù hợp
với các chuẩn mực được xã hội chấp nhận. Trong quá trình đó tồn tại rất nhiều mâu
thuẫn phải được giải quyết, giữa cái tốt và cái xấu, cái tích cực và cái tiêu cực, giữa
cái mới có tính tích cực và thói quen cũ lạc hậu. Chính sự đấu tranh để giải quyết
mâu thuẫn sẽ thúc đẩy sự hoàn thiện nhân cách.
Quá trình giáo dục có nhiều mâu thuẫn, trong đó mâu thuẫn cơ bản của bản
thân quá trình giáo dục, trở thành động lực chủ yếu của quá trình giáo dục. Động lực
của quá trình giáo dục chính là kết quả giải quyết tốt mâu thuẫn giữa môt bên là
các yêu cầu, nhiệm vụ mới đang đặt ra cho người được giáo dục với một bên là
trình độ được giáo dục và phát triển hiện có của người được giáo dục. Các nhiệm
vụ giáo dục luôn được đặt ra trước những nhu cầu, động cơ muốn vươn lên hoàn
thiện nhân cách, đòi hỏi người được giáo dục tự giác, tích cực tìm các cách thức,
phương tiện khác nhau để thực hiện các nhiệm vụ giáo dục, trình độ giáo dục được
nâng cao. Tiếp tục, là những yêu cầu nhiệm vụ giáo dục mới khác cao hơn, phức tạp
hơn được đặt ra lại mâu thuẫn với trình độ được giáo dục đang có, học sinh lại có
nhu cầu muốn giải quyết nhiệm vụ mới đó. Cứ như vậy, quá trình giáo dục vận động
và phát triển không ngừng, ngày một đi lên.
3.2. Các khâu của quá trình giáo dục
Quá trình giáo dục mang tính toàn vẹn. Để hình thành và phát triển bất kỳ một
phẩm chất nhân cách nào đều phải tác động vào tất cả các mặt của đời sống tâm lý
cá nhân: nhận thức, ý chí, niềm tin, tình cảm, kỹ năng hành động…Từ lý luận và
thực tiễn giáo dục ta có thể nêu ra các khâu của quá trình giáo dục như sau:
a. Bồi dưỡng, nâng cao nhận thức là cơ sở cho hành động:
Quá trình giáo dục trước hết phải làm cho học sinh nhận thức đúng, đủ, chính
xác các nội dung khái niệm về tư tưởng chính trị, đạo đức, văn hóa, thẩm mỹ, quyền
lợi, bổn phận, các quy định, chuẩn mực hành vi trong các quan hệ xã hội. Từ nhận
thức đúng đắn, học sinh mới có thể biết và hành động như thế nào trong các tình
huống của đời sống xã hội. Nhận thức làm kim chỉ nam cho hành động. Nếu có nhận
thức đúng sẽ có cơ hội dẫn đến hành động đúng. Quá trình giáo dục là quá trình giúp
học sinh phát triển về mặt nhận thức từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều,
từ biết những điều đơn giản đến phức tạp hơn, cao hơn…để rồi biết vận dụng vào
đời sống xã hội.
Chính quá trình vận dụng, trải nghiệm những điều đã thu nhận được trong quá
trình giáo dục lại củng cố nhận thức, xây dựng được ý thức, niềm tin cho cá nhân.
b. Bồi dưỡng những tình cảm đúng đắn, lành mạnh phù hợp với các quan
niệm, chuẩn mực đạo đức, quan hệ - ứng xử xã hội
72
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
Quá trình giáo dục trên cơ sở làm cho cá nhân có nhận thức đúng đắn sẽ hình
thành thái độ, niềm tin và tình cảm đúng. Thái độ, tình cảm là biểu hiện cụ thể của
quan điểm sống với những giá trị, chuẩn mực xã hội và của bản thân. Từ nhận thức
đến hành động phải có sự thúc đẩy của tình cảm. Tình cảm – sức mạnh tinh thần to
lớn để chuyển hóa nhận thức thành hành động. Với vai trò là động cơ thúc đẩy hành
động nên trong quá trình giáo dục cần phải bồi dưỡng những tình cảm tốt đẹp, đúng
đắn cho học sinh. Thực tiễn đời sống đã cho thấy: Có nhận thức đúng nhưng do tình
cảm sai lệch thì chưa chắc đã dẫn đến hành động đúng, có khi còn làm sai lệch, xuyên
tạc, bóp méo sự thật. Ví như “yêu nên tốt, ghét nên xấu”, “yêu nhau củ ấu cũng trùn,
ghét nhau quả bồ hòn cũng méo”. Để bồi dưỡng, hình thành được những tình cảm
tốt đẹp cho học sinh phải dựa vào cơ chề hình thành của tình cảm: tạo nhiều cơ hội
nảy sinh các xúc cảm đồng loại và được tổng hợp lại. Muốn vậy, các quan hệ giáo
dục (quan hệ sư phạm) thầy – trò phải tốt đẹp, tạo được nhiều ấn tượng tình cảm ở
học sinh. Quá trình giáo dục cũng cần chú ý uốn nắn, sửa chữa, khắc phục những xúc
cảm, tình cảm sai lệch thiếu trong sáng ở học sinh.
c.Rèn luyện hình thành hành vi thói quen
Quá trình giáo dục không dừng lại ở chỗ nhận thức như thế nào, mà phải dẫn
đến đưich là con người phải biết thể hiện nhận thức bằng hành động. Hành vi đạo
đức là bộ mặt đạo đức của cá nhân. Trong thực tiễn nhiều khi không có sự thống nhất
giữa nhận thức và hành vi đạo đức, như “nói hay, làm dỡ”, “chỉ nói mà không làm”,
hành động trái với nội dung “nghĩ một đàng làm một nẻo”. Qua đây ta thấy: hình
thành hành vi thói quen, tức là hành vi của cá nhân đã vững chắc trong mọi trường
hợp, là kết quả của quá trình giáo dục, và cũng chính là kết quả của việc thực hiện
tốt hai khâu bồi dưỡng nhận thức và tình cảm trong quá trình giáo dục.
Trong thực tiễn giáo dục, cần căn cứ vào nội dung và yêu cầu giáo dục cụ thể,
vào đối tượng giáo dục cụ thể mà vận dụng các khâu của quá trình giáo dục theo
trình tự và mức độ khác nhau. Ví dụ, để giáo dục học sinh ý thức tổ chức, kỹ luật,
trật tự, vệ sinh thì chú ý tác động thường xuyên vào khâu rèn luyện thói quen. Hoặc
để nâng cao tình yêu quê hương, đất nước thì vừa bồi dưỡng về nhận thức vừa đặc
biệt gây nhiều ấn tượng tốt về quê hương, đất nước. Như vậy, trong quá trình giáo
dục phải tác động đầy đủ vào cả ba khâu (nhận thức, tình cảm, hành vi). Tuy nhiên
do tính không đồng đều của sự hình thành, phát triển nhân cách của mỗi cá nhân về
nhận thức, tình cảm, hành vi thói quen, nên có khi phải tập trung nhiều hơn vào một
nhiệm vụ trong một thời gian nhất định để giải quyết dứt điểm nhiệm vụ đó. Mặt
khác khi tác động vào khâu này, đồng thời lại có tác động đến khâu khác trong quá
trình giáo dục. Ví dụ, khi ta giảng giải về một yêu cầu, chuẩn mực đạo đức làm cho
73
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
học sinh nhận thức được nó thì đồng thời cũng tác động đến việc hình thành tình cảm
đạo đức và có phương hướng trong hành vi.
Tóm lại: Ba khâu nhận thức, tình cảm, hành vi thói quen trong quá trình giáo
dục không tách biệt nhau mà có quan hệ chặt chẽ với nhau, không thể thiếu được
khâu nào bởi vì giáo dục là một quá trình toàn vẹn. Khi vận dụng các khâu của quá
trình giáo dục đòi hỏi nhà giáo dục phải tùy theo đối tượng, yêu cầu, nhiệm vụ giáo
dục cụ thể, đối tượng và hoàn cảnh cụ thể để lựa chọn và vận dụng linh hoạt, sáng
tạo các khâu cho phù hợp.
4.Tự giáo dục và giáo dục lại
4.1.Thế nào là tự giáo dục?
Tự giáo dục là một bộ phận của quá trình giáo dục. Tự giáo dục là hoạt động
có ý thức, có mục đích của mỗi cá nhân để tự hoàn thiện những phẩm chất nhân cách
của bản thân theo những định hướng giá trị nhất định. Ví dụ, tự mình nỗ lực khắc
phục khó khăn vươn lên trong học tập đạt đến trình độ học vấn cao hơn. Tự học hỏi
những điều hay, tốt đẹp trong quan hệ ứng xử…Nhu cầu tự giáo dục nảy sinh theo
từng giai đoạn phát triển của cá nhân. Trẻ em thường bắt chước những gì ở người
lớn mà chúng yêu thích, hấp dẫn bởi những biểu hiện bề ngoài.
Quá trình tự giáo dục bao gồm các yếu tố cơ bản sau:
- Năng lực tự ý thức của học sinh về sự phát triển nhân cách của bản thân, về
một phẩm chất hay năng lực nào đó cần được phát triển hơn, hoặc cần phải thay đổi
sửa chữa cho phù hợp đáp ứng được yêu cầu mới cao hơn. Năng lực tự ý thức này
được thôi thúc bởi ước nguyện lý tưởng của cá nhân muốn vươn tới, đạt được những
mục đích tốt đẹp trong cuộc sống, đòi hỏi người được giáo dục phải có khả năng
phân tích và tự đánh giá những phẩm chất và hành động, thói quen của bản thân.
Trình độ được giáo dục của cá nhân phải được phát triển đến một mức độ nhất định
mới có khả năng tự đánh giá đúng đắn những phẩm chất và năng lực của bản thân,
từ sự tự đánh giá này, học sinh thấy cần phải hướng đích đến những giá trị mong
muốn.
- Năng lực tổ chức tự giáo dục như: 1) lập kế hoạch, đòi hỏi người được giáo
dục tự nêu cho mình yêu cầu, mức độ cần và sẽ thực hiện nhằm đạt được một vấn đề,
một hoạt động hay một công việc nhất định, dự định thời gian thực hiệ, hoàn thành
kế hoạch. Bước lập kế hoạch trong tự giáo dục tiến hành tốt được xem là tự cam kết,
phấn đấu, rèn luyện bản thân. 2) lựa chọn các phương pháp, phương tiện để thực
hiện các cam kết do bản thân đề ra.
- Sự nỗ lực của bản thân để vượt qua những khó khăn, trở ngại gặp phải trong
quá trình thực hiện kế hoạch tự giáo dục. Tính tự giáo dục tích cực cao giúp cho
74
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
người được giáo dục vượt lên chính bản thân mình, hình thành được các phẩm chất
ý chí.
- Tự kiểm tra xem đã đạt được những kết quả tự giáo dục như thế nào, cần phải
phấn đấu tiếp như thế nào đề hoàn thiện những điều đã dự kiến trong kế hoạch tự
giáo dục. Tự đánh giá và tự rút ra những bài học kinh nghiệm cho bản thân.
4.2. Thế nào là giáo dục lại?
Do ảnh hưởng của môi trường, gia đình, nhà trường và do những thiếu sót, sai
lầm trong phương pháp, điều kiện giáo dục, một bộ phận thanh thiếu niên, học sinh
đã hình thành những ý nghĩ, tình cảm, thái độ, hành vi, thói quen xấu, trái ngược với
những quy định có tính chuẩn mực trong các lĩnh vực, trong các mối quan hệ đời
sống và xã hội…Chẳng hạn, thanh thiếu niên chơi bời lêu lỏng, sống tùy tiện, buông
thả…Những biểu hiện như thế (hành vi lệch chuẩn) cần được giáo dục, uốn nắn để
trở thành người tốt. Quá trình giáo dục đó được gọi là giáo dục lại.
Giáo dục lại là hoạt động tổ chức giáo dục nhằm uốn nắn, điều chỉnh làm thay
đổi những quan điểm, tình cảm, thái độ, lối sống…đặc biệt là những thói quen, hành
vi không đúng, không tốt, đã hình thành ở học sinh trong quá trình sống. Giáo dục
lại được xem là một quá trình giáo dục đối với những cá nhân có biểu hiện lệch
chuẩn để họ trở thành những con người có ích cho xã hội, biết sống theo những yêu
cầu, chuẩn mực của xã hội.
Giáo dục lại là một quá trình khó khăn, phức tạp hơn quá trình giáo dục bình
thường rất nhiều. Vì khi những sai lệch, những tật xấu của hành vi đã trở thành thói
quen mà muốn thay đổi được là rất khó, rất lâu dài. Đối với những cá nhân đã bị
nhiễm những tư tưởng, quan điểm sai lầm, đạo đức suy thoái, có những hành vi xâm
hại đến xã hội và người khác thì phải được giáo dục lại trong các tổ chức giáo dục
lại đặc biệt (giáo dục – cải tạo). Những tổ chức giáo dục lại có những điều kiện,
phương tiện và lực lượng cán bộ chuyên làm công tác giáo dục lại như: các trung tâm
giáo dục cải tạo trẻ em hư, lang thang – phạm pháp, nghiện ngập….Khi tiến hành
giáo dục lại cần chú ý các yêu cầu sau:
- Xác định đúng, cụ thể hệ thống các nguyên nhân gây ra những sai lệch trong
quá trình phát triển nhân cách. Chú ý các nguyên nhân sâu xa được xem như là sự
“tiềm ẩn” để dẫn đến những hành vi lệch chuẩn, đồng thời phải xác định được những
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hành vi sai lệch. Chỉ khi nào xác định đúng, đầy đủ
nguyên nhân gây ra sai lệch hoặc hư hỏng, suy thóa nhân cách của mỗi cá nhân thì
biện pháp giáo dục lại mới có hiệu quả.

75
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
- Có phương pháp tổ chức, tác động giáo dục khoa học, phù hợp với đối tượng
giáo dục lại. Các trường giáo dưỡng ở nước ta đã vận dụng lý luận giáo dục và tiến
hành giáo dục lại thành công, tích lũy được hệ thống kinh ngiệm về giáo dục lại.

Câu hỏi ôn tập và thảo luận


1. Quá trình giáo dục là gì? Nêu các chức năng trội của quá trình giáo dục, dạy
học.
2. Phân tích các thành tố của quá trình giáo dục và mối quan hệ biện chứng giữa
chúng.
3. Phân tích bản chất quá trình giáo dục.
4. Phân tích các đặc điểm của quá trình giáo dục và rút ra những kết luận sư phạm
cần thiết trong quá trình giáo dục.
5. Trình bày động lực của quá trình giáo dục, lấy các ví dụ minh họa trong thực
tiễn cho các mâu thuẫn của quá trình giáo dục.
6. Phân tích các khâu của quá trình giáo dục và mối quan hệ biện chứng giữa
chúng.
7. Thế nào là tự giáo dục?
8. Thế nào là giáo dục lại, quá trình giáo dục lại cần đặc biệt chú ý đến các yêu
cầu nào? Tại sao?

B. NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC


1. Khái niệm nguyên tắc dạy học
Quá trình giáo dục là quá trình vận động và phát triển có quy luật, là hoạt động
có tính khoa học và tính nghệ thuật cao. Hoạt động giáo dục muốn đạt kết quả mong
muốn đòi hỏi nhà giáo dục không chỉ nắm được các quy luật mà còn phải biết vận
dụng những quy luật đó một cách linh hoạt sáng tạo.
Các quy luật của giáo dục được phản ánh trong những luận điểm chung cơ
bản, mang tính chất chỉ đạo toàn bộ tiến trình giáo dục đó là các nguyên tắc giáo dục.
Nguyên tắc giáo dục được hiểu là những luận điểm cơ bản có tính quy
luật của lý luận giáo dục, có tác dụng chỉ đạo việc lựa chọn và vận dung nội
dung, phương pháp và các hình thức tổ chức giáo dục nhằm thực hiện tối ưu
mục đích và nhiệm vụ giáo dục.
Nguyên tắc giáo dục là kết quả nhận thức của con người về các quy luật giáo
dục, do đó nguyên tắc giáo dục có cơ sở khách quan, nó phản ánh những quy luật
của quá trình giáo dục.
76
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
Nguyên tắc giáo dục là những tri thức, kinh nghiệm được tổng kết từ thực tiễn
giáo dục của nhà trường, các cơ sở giáo dục và các nhà giáo dục tiên tiến trên thế
giới và trong nước đã đạt được những thành công trong quá trình giáo dục, từ đó rút
ra những phương hướng chỉ đạo hoạt động giáo dục trong thực tiễn, ví dụ như giáo
dục trong lao động tập thể, tôn trọng nhân cách học sinh được nhà giáo dục Nga là
Makarenko đúc rút từ thực tiễn giáo dục sinh động mà ông đã thực hiện.
Như vậy, nguyên tắc giáo dục trở thành cơ sở cho mọi hoạt động giáo dục,
giúp cho những làm công tác giáo dục nói chung và giáo viên nói riêng vận dụng,
làm chỗ dựa để tiến hành các quá trình giáo dục đúng phương hướng và đạt hiệu quả.
Tuy nhiên nguyên tắc giáo dục không phải là những “đơn thuốc”, những cẩm nang
có sẳn ứng với các hoạt động giáo dục thực tiễn. Nó chỉ cung cấp cho nhà giáo dục
hệ thống những cơ sở lý luận làm chỗ dựa để giải quyết các nhiệm vụ giáo dục đa
dạng và sinh động.
Nắm được các nguyên tắc giáo dục sẽ giúp cho các nhà giáo dục biết kết hợp
những kinh nghiệm thực tiễn với ly luận giáo dục để vận dụng chúng một cách sáng
tạo trong quá trình giáo dục, đảm bảo cho quá trình giáo dục đạt hiệu quả cao.
2. Hệ thống các nguyên tắc giáo dục
2.1. Nguyên tắc đảm bảo tính mục đích trong hoạt động giáo dục
Hoạt động của con người bao giờ cũng hướng tới mục đích nhất định. Giáo
dục là hoạt động có mục đích, do đó, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức quá
trình giáo dục đều phải căn cứ vào mục đích và phải đạt được mục đích giáo dục đó.
Mục đích của hoạt động giáo dục phải được cụ thể hóa bằng các môi trường giáo
dục.
Toàn bộ hoạt động giáo dục trong và ngoài nhà trường đều phải hướng vào
mục đích xây dựng phẩm chất nhân cách cho con người. Trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở nước ta cần hướng vào mục đích xây dựng nhân cách phát triển
toàn diện, đó là mẫu người lý tưởng mà hoạt động giáo dục phải đạt tới. Giáo dục
phải làm cho học sinh thấm nhuần đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước;
sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật; tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại,
bảo vệ và phát triển những giá trị vật chất và tinh thần của dân tộc; xây dựng nếp
sống văn hóa mới, xóa bỏ tàn dư của lối sống cũ lạc hậu…
Giáo dục thực chất là tổ chức các hoạt động và giao lưu cho người được giáo
dục. Vì vậy, quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục đều phải đặt ra những mục tiêu
cụ thể mà đạt được chúng, tức là khi tổ chức các quá trình giáo dục cụ thể phải chú
ý dự kiến kết quả sẽ đạt được theo mục đích giáo dục, ví dụ việc tổ chức lao động
sản xuất cho học sinh phải đạt được hai mục đích: giáo dục phẩm chất đạo đức và
77
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
hiệu quả kinh tế. Giáo dục lao động – hướng nghiệp trong nhà trường phải đạt được
mục đích là hình thành và nâng cao ý thức, tinh thần, thái độ lao động mới, có tri
thức, kỹ năng lao động – nghề nghiệp để học sinh có thể hướng nghiệp và định hướng
nghề nghiệp đúng, có hiệu quả. Như vậy, thông qua tổ chức hoạt động có thể giúp
học sinh nhận thức một khái niệm mới, hình thành xúc cảm, tình cảm tích cực hay
những thói quen hành vi đúng đắn…Mục đích giáo dục bao gồm những mục đích
trước mắt, mục đích tương lai gần và mục đích chiến lược, giáo dục cần xác định và
đạt được các mục đích đó.
2.2. Giáo dục gắn với đời sống xã hội
Quá trình giáo dục học sinh là quá trình làm hình thành ở các em những phẩm
chất, năng lực, thái độ, quan hệ của cá nhân đối với xã hội và đối với người khác. Tất
cả những phẩm chất và năng lực đó của cá nhân phải phù hợp với các quan hệ xã hội.
Vì vậy quá trình giáo dục phải gắn với đời sống xã hội về hai phương diện cơ bản:
Thứ nhất là sự chuyển hóa các quan hệ xã hội thành ý nghĩa, giá trị với các cá
nhân và được thể hiện trong các hành động tương ứng trong các lĩnh vực đời sống.
Bởi vậy không thể chỉ cung cấp cho học sinh những giáo lý chết cứng, khép kín trong
sách vở mà phải gắn tri thức ly luận với đời sống xã hội đang phát triển sinh động.
Thứ hai, quá trình giáo dục là quá trình đào tạo những con người phục vụ cho
một xã hội nhất định nên phải tạo điều kiện cho họ có khả năng thích ứng cao với
đời sống xã hội và những biến động không ngừng của nó. Quá trình giáo dục thế hệ
trẻ phải phát huy, tận dụng những ảnh hưởng, tác động giáo dục của các quan hệ xã
hội (kinh tế, chính trị, đạo đức, lối sống, văn hóa – thẩm mỹ, pháp luật…) làm cho
học sinh không bị xa rời, thoát ly thực tế xã hội.
Phương hướng thực hiện nguyên tắc giáo dục gắn với đời sống xã hội để xây
dựng những phẩm chất nhân cách cho học sinh là:
- Tạo mối liên hệ gắn bó giữa việc giảng dạy, học tập, giáo dục trong nhà trường
với đời sống xã hội bên ngoài. Để tạo sự gắn bó này đòi hỏi một mặt phải đưa vào
trong chương trình, nội dung giáo dục những sự kiện, hiện tượng sinh động trong đời
sống xã hội, các quan hệ xã hội phong phú, mặt khác cần chỉ ra phương hướng, cách
vận dụng những điều đã học vào thực tiễn cuộc sống, thực tiến lao động sản xuất,
đấu tranh của xã hội; rèn luyện cho học sinh những thói quen, hành vi phù hợp với
chuẩn mực của xã hội
- Làm cho thanh thiếu niên học sinh luôn có ýt thức quan tâm đến các sự kiện
trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội của đất nước; làm cho học sinh từ
khi còn học trong nhà trường và sau này là một công dân chân chính phải biết được
những khó khăn thuận lợi và những vấn đề gì của xã hội cần phải giải quyết trong
78
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
thực tiễn, từ đó nảy nở những tình cảm, thái độ, suy nghĩ đúng đắn của học sinh đối
với Tổ quốc.
- Tổ chức cho học sinh được tham gia thường xuyên vào công cuộc lao động
xây dựng đất nước, xây dựng cuộc sống mới trong cộng đồng dân cư (làng, xóm, xã,
khu phố…) và quá trình đấu tranh cải tạo xã hội cũ, thiết lập kỷ cương, trật tự xã hội
mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, của các tổ chức chính quyền đoàn thể.
- Phê phán, khắc phục những biểu hiện của phương thức giáo dục của nhà
trường kiểu cũ. Tách rời giáo dục với đời sống, không rèn luyện học sinh trong thực
tế cuộc sống. Mặt khác, cũng cần khắc phục hiện tượng giáo dục là chỉ chú trọng học
kiến thức văn hóa – khoa học- kỹ thuật, chạy theo văn bằng mà không (hoặc ít) chú
trọng giáo dục lý tưởng đạo đức lối sống, lẽ sống cho thanh thiếu niên. Hậu quả là
một bộ phận thanh niên học sinh bị xa rời cuộc sống, sai lệch trong lối sống, khó
thích ứng với sự biến động của xã hội.
2.3. Nguyên tắc thống nhất giữa ý thức và hành vi trong giáo dục
Quá trình giáo dục diễn ra từ khâu nhận thức – hình thành ý thức cá nhân đến
việc chuyển hóa ý thức thành hành vi. Quá trình đó lại làm nảy nở những xúc cảm
tình cảm, ý chỉ cho cá nhân, giúp cho sự chuyển hóa ý thức thành hành vi mạnh mẽ
hơn, có nhu cầu thể hiện hành vi theo ý thức (nhận thức) đã có của bản thân. Sự thống
nhất giữa ý thức và hành vi trong quá trình giáo dục học sinh được thể hiện như sau:
- Hiểu được những khái niệm, quy tắc về chuẩn mực tư tưởng, chính trị, đạo
đức, pháp luật…Đối với mỗi chuẩn mực đó, yêu cầu học sinh trước hết phải hiểu
đúng, đủ, cao hơn là hiểu đúng chính xác các góc độ, khía cạnh khác nhau trong các
trường hợp, tình huống khác nhau. Ví dụ biết phân biệt thế nào là sự khéo léo, tế nhị
với sự giả tạo trong quan hệ giao tiếp.
- Trên cơ sở nắm vững các chuẩn mực (nội dung, ý nghĩa, cách thể hiện) chuyển
hóa thành niềm tin.
- Quá trình rèn luyện, tập luyện, thể hiện các chuẩn mực về đạo đức, chính trị,
lối sống…Trong các điều kiện, tình huống sẽ chuyến hóa ý thức thành hành vi - thói
quen. Quá trình giáo dục phải hình thành và củng cố những hành vi - thói quen tương
ứng với ý thức, niềm tin về những chuẩn mực hành vi được xã hội quy định. Đây là
bước quan trọng của quá trình giáo dục, vì chỉ có hành vi – thói quen mới xác định
bộ mặt của nhân cách.
Ý thức và hành vi trong quá trình giáo dục có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Ý thức là cơ sở cho hành vi. Ý thức đúng là tiền đề quan trọng cho hành vi
đúng, nó được coi là kim chỉ nam cho hành động, xây dựng niềm tin vững chắc. Hành

79
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
vi thói quen được hình thành lại củng cố ý thức, niềm tin làm cho cá nhân có nhu cầu
thực hiện, thể hiện các hành vi đạo đức đã ý thức được.
Để vận dụng có hiệu quả nguyên tắc thống nhất giữa ý thức và hành vi trong
quá trình giáo dục, cần thực hiện một số yêu cầu như:
- Yêu cầu đề ra ngày một cao hơn để học sinh luôn phải cố gắng tích cực hơn
mới thực hiện được.
- Yêu cầu phải có tính khả thi, đáp ứng được nguyện vọng muốn hoàn thành tốt
các nhiệm vụ giáo dục của giáo viên giao cho. Những yêu cầu của nhà giáo dục phải
rõ ràng, cụ thể, phù hợp với trình độ được giáo dục của học sinh và có tính chất
khuyến khích, dẫn dắt học sinh vươn lên cao hơn nữa.
Hai mặt tôn trọng nhân cách và yêu cầu cao trong giáo dục không mâu thuẩn
mà thống nhất với nhau vì:
- Tôn trọng nhân cách học sinh cần phải luôn đề ra các yêu cầu giúp cho các em
vươn lên, phát triển nhân cách tốt hơn.
- Đòi hỏi học sinh khi thực hiện các nhiệm vụ giáo dục cũng như trong quan hệ
ứng xử sư phạm phải thể hiện sự tôn trọng, yêu thương, dìu dắt các em tiến bộ.
Trong thực tiễn giáo dục cần tránh hiện tượng thiếu tôn trọng nhân cách học
sinh (coi thường học sinh, đối xử thô bạo) hoặc ngược lại quá dễ dãi, nuông chìu,
thỏa mãn mọi yêu cầu của học sinh một cách vô điều kiện, không đòi hỏi học sinh
thực hiện nghiêm túc những yêu cầu giáo dục đề ra. Tất cả những hiện tượng đó đều
làm giảm hoặc không đem lại hiệu quả giáo dục. Ở một số trường hợp còn dẫn đến
hậu quả là làm cho học sinh do có sự buông thả, nuông chìu, tự do quá mức, điều
này hay xảy ra trong giáo dục gia đình.
2.4. Nguyên tắc thống nhất giữa sự tổ chức lãnh đạo sư phạm của giáo viên
với việc phát huy tính tự giác tích cực, độc lập, tự giáo dục của học sinh
Trong quá trình giáo dục, giáo viên - nhà giáo dục giữ vai trò chủ đạo, tổ chức
lãnh đạo quá trình hình thành, phát triển những phẩm chất, hành vi thói quen ở học
sinh, thể hiện:
- Nâng cao ý thức trách nhiệm, vai trò lãnh đạo sư phạm của giáo viên trong
việc theo dõi, kiểm tra, đánh giá quá trình và kết quả hoạt động của tập thể học sinh
và của từng học sinh.
- Thuyết phục học sinh biết định hướng và quyết tâm phấn đấu đạt những mục
đích đề ra.
- Lựa chọn các phương pháp, phương tiện để thực hiện các nhiệm vụ giáo dục
cho phù hợp.

80
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
Để phát huy vai trò tự giác tích cực, độc lập, tự rèn luyện, tự giáo dục của học
sinh, đòi hỏi nhà giáo dục cần phải:
- Tôn trọng sáng kiến và sự độc lập của học sinh.
- Động viên kịp thời ý chí quyết tâm vươn lên của học sinh.
- Biến yêu cầu giáo dục của nhà trường thành yêu cầu tự giáo dục của tập thể
và trách nhiệm của từng các nhân học sinh.
- Lựa chọn các biện pháp và hình thức tổ chức giáo dục, giúp học sinh tự định
hướng và rèn luyện, hoạt động.
Trong quá trình giáo dục, tính tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo của học
sinh giữ vai trò chủ động quyết định trực tiếp đến việc hình thành và phát triển nhân
cách.
2.5. Nguyên tác bảo đảm tính hệ thống kế tiếp liên tục trong công tác giáo
dục
Nguyên tắc này đòi hỏi phải tiến hành một cách lâu dài, có hệ thống các tác
động giáo dục nhằm hình thành dần dần, từng bước các phẩm chất nhân cách. Quá
trình giáo dục bao gồm hệ thống các nhiệm vụ, nội dung, phương pháp và các hình
thức tổ chức giáo dục. Giáo viên phải xem xét các tác động và hiệu quả giáo dục
trong toàn bộ hệ thống đó. Tính hệ thống và kế tiếp có liên quan với nhau. Hệ thống
kế tiếp từ thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp dần lên, từ dễ đến khó…trong việc
hình thành các tri thức chuẩn mực, hành vi thói quen cho học sinh. Những phẩm chất
mới phải được hình thành dựa trên cơ sở trình độ đã được giáo dục trước đó.
Trong quá trình giáo dục phải chú ý củng cố luyện tập liên tục, kéo dài để nâng
cao dần các kết quả giáo dục ở học sinh, làm cho nguyên tắc, thái độ, tình cảm, hành
vi đã được hình thành trở nên ổn định vững chắc.
Giáo dục bất kỳ một phẩm chất nào của nhân cách, đặc biệt là việc hình thành
thói quen, nếp sồn, lối sống cần phải được tiến hành liên tục, thường xuyên. Các yêu
cầu giáo dục phải được học sinh thực hiện mọi lúc, mọi nơi.
Thực tiễn giáo dục đã chứng tỏ ở nơi nào (nhà trường, gia đình, tinh thần…)
công tác giáo dục được ý thức đầy đủ, được tiến hành có hệ thống, liên tục, thường
xuyên thì sẽ đạt được hiệu quả cao. Trong quá trình giáo dục lại, cải tạo những thói
quen xấu đã tiêm nhiễm lâu trong mỗi cá nhân thì cầng đòi hỏi tính kiên trì, tác động
giáo dục thường xuyên, liên tục và có hệ thống.
2.6 . Nguyên tắc thống nhất giữa giáo dục nhà trường với giáo dục gia đình
và giáo dục của cộng đồng xã hội
Quá trình giáo dục con người diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi. Học sinh luôn sống,
hoạt động trong các môi trường gia đình, trường học và cộng đồng xã hội (làng xóm,
81
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
khu phố…) và luôn nhận được các tác động giáo dục từ nhiều phía, nhiều lực lượng.
Để nâng cao hiệu quả giáo dục, hạn chế những mặt tiêu cực làm giảm kết quả giáo
dục cần phải có sự thống nhất giữa giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội.
Mỗi lực lượng giáo dục (gia đình, nhà trường, xã hội) có vị trí nhất định trong
giáo dục học sinh.
- Giáo dục gia đình: đặt cơ sở nền móng đầu tiên cho sự hình thành và phát triển
nhân cách của trẻ. Có thể nói: “Người mẹ là người thầy giáo đầu tiên của đứa trẻ”,
gia đình là cái nôi nuôi dưỡng và làm nảy nở những tâm hồn tốt đẹp cho trẻ. Hoàn
cảnh, điều kiện sống, bầu không khí văn hóa, tâm lý và các quan hệ trong gia đình
thường xuyên tác động, ảnh hưởng đến nhân cách của trẻ trong gia đình.
- Giáo dục xã hội có vai trò rất quan trọng. Các quan hệ xã hội (kinh tế, văn hóa,
khoa học, kỹ thuật, tư tưởng, chính trị…) thường xuyên tác động trực tiếp hoặc gián
tiếp qua nhiều kênh đến các cá nhân. Các ảnh hưởng, tác động của xã hội đến cá nhân
theo cả hai hướng: tích cực, có mục đích tốt và tự phát tiêu cực. Những tác động tiêu
cực của xã hội có khi làm giảm sút hoặc trái ngược với giáo dục của nhà trường.
- Giáo dục nhàrường giữ vai trò chủ đạo: bao hàm những tác động, nội dung
giáo dục có mục đích, có kế hoạch và tổ chức chặt chẽ. Giáo dục nhà trường khai
thác có lựa chọn những tác động giáo dục tích cực của gia đình và xã hội, góp phần
điều chỉnh những tác động tiêu cực từ gia đì, xã hội.
Giáo dục nhà trường được tiến hành một cách khoa học (có hệ thống, có
phương pháp, có kế hoạch và tổ chức chặt chẽ) do những nhà giáo dục có năng lực
sư phạm thực hiện nên đã đạt được hiệu quả cao trong việc hình thành và phát triển
nhân cách của học sinh.
Trong thực tiễn giáo dục vẫn còn có sự thiếu thống nhất, còn khoảng cách giữa
giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội. Ví dụ, nhà trường giáo dục những giá trị,
tình cảm, thái độ tích cực theo các chuẩn mực xã hội, nhưng nếu ở gia đình lại có
những tác động khác, có khi trái ngược lại với tác động giáo dục của nhà trường thì
những tác động ngược chiều như vậy sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả giáo dục.
2.7. Nguyên tắc chú ý đến đặc điểm của đối tượng giáo dục
Nguyên tắc này yêu cầu những người làm công tác giáo dục phải nắm được
các đặc điểm của đối tượng giáo dục. Căn cứ vào đặc điểm trình độ được giáo dục
đã trưởng thành về mặt xã hội đến mức độ nào để làm căn cứ đề ra kế hoạch giáo
dục cho sát hợp.
Đối tượng giáo dục có nhiều đặc điểm khác nhau như: đặc điểm quá trình tâm
lý cá nhân (nguyên tắc, xúc cảm, tình cảm, lý trí, xu hướng, tính cách, nhu cầu, động
cơ…); những đặc điểm riêng của đời sống cá nhân (gia đình, bố mẹ, sự phát triển trí
82
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
tuệ, đạo đức...; đặc điểm tâm lý lứa tuổi; đặc điểm của các điều kiện môi trường,
vùng, miền có những sự phát triển kinh tế, văn hóa, phong tục tập quán khác nhau.
Nhà giáo dục phải căn cứ vào các đặc điểm đó để lựa chọn nội dung, phương pháp,
cách thức tổ chức giáo dục phù hợp, có hiệu quả cao.
Các nguyên tắc giáo dục là một hệ thống toàn diện, chúng không tồn tại tách
biệt mà có quan hệ thống nhất biện chứng với nhau, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau. Người
giáo viên cần biết vận dụng và phối hợp các nguyên tắc giáo dục một cách linh hoạt,
sáng tạo để có được những kết quả mong muốn.

Câu hỏi ôn tập và thảo luận


1.Trình bày khái niệm nguyên tắc giáo dục. Cơ sở lý luận và thực tiễn của các
nguyên tắc giáo dục.
2. So sánh và đánh giá hệ thống các nguyên tắc giáo dục trong một số giáo trình
giáo dục học hiện nay.
3.Phân tích nội dung, phương hướng thực hiện nguyên tắc bảo đảm tính mục đích
trong giáo dục.
4.Phân tích nội dung, yêu cầu thực hiện nguyên tắc giáo dục gắn với đời sống xã
hội.
5.HIểu như thế nào là giáo dục trong lao động và bằng lao động trong quá trình
giáo dục.
6.Phương hướng thực hiện nguyên tắc giáo dục trong lao động và bằng lao động.
Nêu thực trạng thực hiện nguyên tắc này ở trường phổ thông mà anh chị biết.
7. Nội dung, phương hướng thực hiện nguyên tắc giáo dục trong tập thểvà bằng
tập thể.
8.Nội dung của nguyên tắc giáo dục thống nhất tôn trọng nhân cách và yêu cầu
hợp lý trong giáo dục là gì? Nêu các yêu cầu khi thực hiện nguyên tắc giáo dục
này.
9.Tại sao trong giáo dục lại phải thực hiện nguyên tắc kết hợp thống nhất sự lãnh
đạo của giáo viên và phát huy tính tự giác, tích cực chủ động của học sinh?
10.Bảo đảm tính hệ thống, kế tiếp liên tục có ý nghĩa như thế nào trong quá trình
giáo dục? Lấy dẫn chứng thực tiễn minh họa để chứng minh.

83
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
C. NỘI DUNG GIÁO DỤC Ở CẤP TIỂU HỌC
1. Giáo dục đạc đức
Giáo dục đạc đức
Ý nghĩa của giáo dục đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là hệ thống các quan niệm về cái thiện,
cái ác trong các mối quan hệ của con người với con người. Đạo đức về bản chất là
những quy tắc, những chuẩn mực trong quan hệ xã hội, được hình thành và phát triển
trong cuộc sống, được cả xã hội thừa nhận. Đạo đức là quy tắc sống, nó có vị trí to
lớn trong đời sống nhân loại, đạo đức định hướng giá trị cho cuộc sống của mỗi cá
nhân, điều chỉnh hành vi cho phù hợp với các chuẩn mực xã hội. Những giá trị phổ
biến của đạo đức thể hiện trong các khái niệm: thiện, ác, lẽ phải, công bằng, văn
minh, lương tâm trách nhiệm… thang giá trị của đạo đức diến biến theo lịch sử và
mang tính dân tộc.
Giáo dục đạo đức là hoạt động của nhà giáo dục dựa theo yêu cầu xã hội, tác
động có hệ thống lên người được giáo dục một cách có mục đích và kế hoạch để bồi
dưỡng những phẩm chất và tư tưởng mà nhà giáo dục kỳ vọng, chuyển hóa những
quan điểm, yêu cầu và ý thức xã hội có liên quan thành phẩm chất đạo đức, tư tưởng
của mỗi cá nhân.
Trong công cuộc xây dựng đất nước, giáo dục đạo đức có ý nghĩa rất quan
trọng đối với sự nghiệp giáo dục – đào tạo và đối với toàn xã hội.
- Giáo dục đạo đức có vai trò thúc đẩy sự ổn định lâu dài của xã hội, xã hội ổn
định là tiền đề, là cơ sở để phát triển, giáo dục đạo đức chính là bo đảmcho sự ổn
định lâu dài của xã hội. Lý tưởng, niềm tin, đạo đức được hình thành qua công tác
giáo dục đạo đức ở trong và ngoài nhà trường.
- Giáo dục đạo đức có vị trí hàng đầu và chủ đạo trong giáo dục nhà trường,
giáo dục đạo đức với tư tưởng chính trị rõ ràng có vai trò định hướng cho các nội
dung giáo dục khác. Nhà trường thông qua thực hiện công tác giáo dục có thể nâng
cao hiệu quả giáo dục, thúc đẩy hoàn thành các nhiệm vụ giáo dục khác.
- Đối với sự phát triển của thanh thiếu niên, giáo dục đạo đức hình thành cho họ
hệ thống lập trường chính trị, quan điểm, thế giới quan mascxit và phẩm chất đạo
đức phù hợp với chuẩn mực đạo đức của xã hội. Trước xu thế hội nhập của thế giới
hiện đại, giáo dục đạo đức trong nhà trường giữ vai trò rất quan trọng trong định
hướng cuộc sống và lựa chọn giá trị của thế hệ trẻ.
Nhiệm vụ giáo dục đạo đức trong nhà trường có thể khái quát như sau:

84
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
- Hình thành cho học sinh thế giới quan khoa học, nắm được những quy luật cơ
bản của sự phát triển xã hội, có ý thức thực hiện nghĩa vụ của người công dân, từng
bước trang bị cho học sinh định hướng chính trị kiên định, rõ ràng.
- Bồi dưỡng cho học sinh năng lực phán đoán, đánh giá đạo đức, hình thành
niềm tin đạo đức, yêu cầu học sinh phải thấm nhuần các nguyên tắc và chuẩn mực
đạo đức do xã hội quy định, biết tiếp thu văn minh nhân loại kết hợp với đạo đức
truyền thống của dân tộc.
- Dẫn dắt học sinh rèn luyện để hình thành hành vi, thói quen đạo đức, có ý thức
tích cực tham gia các hoạt động chính trị, xã hội, có ý thức đấu tranh chống những
biểu hiện tiêu cực, lạc hậu.
Nội dung chủ yếu của giáo dục đạo đức phải phù hợp với yêu cầu của công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước, thực hiện ý nguyện của Đảng: Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Các bước của quá trình giáo dục đạo đức bao gồm:
- Quá trình tác động nâng cao nhận thức về tư tưởng, chính trị, đạo đức làm cơ
sở cho việc hình thành, phát triển và thể hiện các hành vi đạo đức.
- Bồi dưỡng những tình cảm đúng đắn, trong sáng, phù hợp với các quan niệm,
chuẩn mực đạo đức, quan hệ, ứng xử của xã hội.
- Rèn luyện hành vi, thói quen đạo đức.
Các con đường giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông là: Giảng dạy môn
Giáo dục công dân và các môn học khác hoạt động ngoại khóa, lao đọng sản xuất,
hoạt động của Đoàn thanh niên và Đội thiến niên, công tác chủ nhiệm lớp.
2.Giáo dục thẩm mỹ
Ý nghĩa của giáo dục thẩm mỹ
Thẩm mỹ là giá trị khách quan vốn có của các đối tượng có trong tự nhiên, xã
hội và con người, được con người nhận thức, đánh giá, thưởng thức và sáng tạo.
Giáo dục thẩm mỹ là vận dụng cái đẹp của nghệ thuật, của tự nhiên và nét đẹp
của cuộc sống xã hội để bồi dưỡng quan điểm thẩm mỹ và năng lực cảm thụ, thưởng
thức và sáng tạo cái đẹp đúng đắn cho học sinh. Giáo dục thẩm mỹ là bộ phậm cấu
thành cần thiết của mục tiêu giáo dục cần thiết.
Con người là chủ thể của đời sống xã hội, vừa có nhu cầu về đời sống vật chất
vừa có nhu cầu về đời sống tinh thần, trong đó có nhu cầu thẩm mỹ. Bồi dưỡng và
hun đúc cái đẹp có hiệu quả nhất bắt đầu khi trẻ còn nhỏ. Làm tốt công tác giáo dục
thẩm mỹ trong nhà trường sẽ nâng cao tố chất văn minh tinh thần cho thế hệ trẻ và
toàn dân tộc.

85
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
Giáo dục thẩm mỹ có thể mở rộng tầm nhìn cho học sinh phát triển trí lực và
tinh thần sáng tạo của học sinh. Con người có thể nhận thức thế giới bằng nhiều con
đường, trong đó có nghệ thuật. Nghệ thuật tái hiện đời sống hiện thực thông qua nghệ
thuật. Tác phẩm nghệ thuật là một phương thức phản ánh thế giới một cách sinh
động, mới mẻ.
Giáo dục thẩm mỹ có thể thúc đẩy trí lực của học sinh phát triển. Khi học sinh
cảm nhận và thể nghiệm tình cảm trước cái đẹp của tự nhiên, xã hội và nghệ thuật sẽ
thúc đẩy năng lực tư duy và năng lực sáng tạo phát triển.
- Giáo dục thẩm mỹ có vai trò làm cho tâm hồn của học sinh trở nên trong sáng
hơn, rèn luyện cảm xúc, hoàn thiện phẩm chất đạo đức cho các em.
Sự thống nhất giữa cái đẹp và cái thiện đã được đề cập đến từ lâu, ngày nay
với mục tiêu giáo dục nhân cách toàn diện, vấn đề này lại càng được nhấn mạnh.
Giáo dục thẩm mỹ có ảnh hưởng to lớn đến giáo dục đạo đức, thông qua hình tượng
đẹp ta có thể giáo dục, nâng cao năng lực, phân biệt xấu, đẹp, thiện, ác, đồng thời tạo
ảnh hưởng sâu sắc tới tình cảm tư tưởng của học sinh, gợi lên tiếng gọi từ nội tâm,
hình thành phẩm chất đạo đức và tình cảm cao thượng của học sinh.
- Giáo dục thẩm mỹ thúc đẩy học sinh vươn tới cái đẹp, biết thể hiện cái đẹp
trong mọi lĩnh vực của đời sống, tức là biết xây dựng cuộc sống theo quy luật của cái
đẹp.
Giáo dục thẩm mỹ và các nội dung giáo dục khác là điều kiện cho nhau và
tương hỗ lẫn nhau cùng thúc đẩy sự phát triển toàn diện của học sinh. Vì vậy, tăng
cường giáo dục thẩm mỹ cho các cấp học, các ngành học là xu thế tất yếu hiện nay.
Nhiệm vụ của giáo dục thẩm mỹ trong nhà trường là:
- Giúp học sinh hình thành quan điểm thẩm mỹ đúng đắn, nâng cao năng lực
thẩm mỹ. Quan điểm thẩm mỹ là cách nhìn của con người trong hoạt động thẩm mỹ.
Mỗi thời đại có tiêu chuẩn thẩm mỹ riêng biệt. Trong xã hội có giai cấp thẩm mỹ
mang tính giai cấp. Vì thế, nhiệm vụ của giáo dục thẩm mỹ trong nhà trường trước
hết là giáo dục học sinh xây dựng quan niệm thẩm mỹ đúng đắn, nắm vững tiêu
chuẩn, phân biệt và đánh giá cái đẹp, đồng thời phải bồi dưỡng cho học sinh tình cảm
thẩm mỹ cao thượng. Muốn nâng cao năng lực cảm thụ, hiểu biết và thưởng thức cái
đẹp của học sinh thì phải tăng cường bồi dưỡng, truyền thụ tri thức nghệ thuật cơ
bản, cần thiết cho các em, bao gồm: tri thức mỹ học, văn học, âm nhạc, mỹ thuật…
hiểu biết tri thức nghệ thuật, cảm thụ cái đẹp trong tự nhiên, phân tích nét đẹp đời
sống xã hội, nâng cao năng lực thẩm mỹ.
- Bồi dưỡng tình cảm thẩm mỹ lành mạnh, kích thích học sinh yêu thích và vươn
tới cái đẹp chân chính. Con người thưởng thức cái đẹp theo sắc thái tình cảm. Hướng
86
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
dẫn học sinh thưởng thức các hình thái của cái đẹp, kích thích các em có tình cảm
vui thích, yêu mến cái đẹp, hình thành tình cảm thẩm mỹ lành mạnh, cao thượng và
tinh thần sáng tạo phấn đấu vươn lên để thực hiện ý tưởng tốt đẹp.
- Giúp cho học sinh phát triển năng lực biểu hiện và sáng tạo cái đẹp. Con người
ai cũng yêu mến cái đẹp. Điều này không chỉ biểu hiện ở hứng thú, sở th ích đối với
sự vật đẹp, tác phẩm nghệ thuật mà còn mong muốn biểu hiện và sáng tạo cái đẹp
trong thực tiễn xã hội, phát triển nét đẹp ở mọi mơi mọi lúc trong đời sống xã hội,
trong cuộc sống hằng ngày (chú ý làm đẹp môi trường, có hành vi cử chỉ văn minhl
phục trang hợp lý; đối nhân xử thế khiêm nhường, lịch sự…).
Các nhiệm vụ giáo dục thẩm mỹ có mối liên hệ với nhau, trong đó bồi dưỡng
quan điểm thẩm mỹ đúng đắn là nhiệm vụ hạt nhân. Có quan điểm đúng đắn mới có
thể hình thành tình cảm thẩm mỹ lành mạnh và quan điểm thẩm mỹ được thể hiện
trong hoạt động thẩm mỹ, sáng tạo thẩm mỹ.
Giáo dục thẩm mỹ thông qua các con đường sau đây:
- Giáo dục nghệ thuật: Giáo dục nghệ thuật chiếm vị trí chủ yếu trong nội dung
giáo dục thẩm mỹ. Nghệ thuật bắt đầu từ cuộc sống và cao hơn cuộc sống. Nghệ thuật
phản ánh vẻ đẹp của tự nhiên và xã hội một cách tập trung, điển hình và mang tính
tiêu biển nên nó có sức truyền cảm và có tác dụng giáo dục to lớn. Hình thức nghệ
thuật có: văn học, mỹ thuật, âm nhạc, vũ đạo (múa), kịch, điện ảnh, truyền hình với
nội dung phong phú, hình thức đa dạng. Tác phẩm nghệ thuật ở hình thức nào cũng
có đặc điểm và cai trò riêng, độc đáo. Giáo viên cần dựa vào nội dung và đặc điểm
cụ thể của chúng để giáo dục thẩm mỹ cho học sinh. Con đường nghệ thuật trong nhà
trường bao gồm: 1. Giáo dục nghệ thuật trên lớp, bao gồm việc dạy các môn học
trong đó văn học, mỹ thuật, âm nhạc chiếm vị trí và vai trò quan trọng. 2. Hoạt động
văn học nghệ thuật ngoại khóa.
- Giáo dục thẩm mỹ thông qua dạy và học các bộ môn khoa học, đặc biệt là khoa
học xã hội và nhân văn. Mỗi môn học đều chứa đựng những tiềm năng trong việc
giáo dục cái đẹp, những tiềm năng này không giống nhau, giáo viên cần căn cứ vào
tiềm năng của từng môn học để khai thác chúng, biết tìm ra cái đẹp ngay trong hệ
thống kiến thức mà học sinh lĩnh hội. Ngày nay, quá trình dạy học có sự hỗ trợ của
phương tiện kỹ thuật hiện đại nên giáo viên có điều kiện để làm sáng tỏ các góc độ
của đối tượng thẩm mỹ.
- Thông qua xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong gia đình, nhà
trường và xã hội. Nét đẹp trong cuộc sống gia đình được biểu hiện thông qua quan
hệ trực tiếp thường xuyên của ông bà, cha mẹ, anh chị em, những người than yêu
ruột thịt. Sự thương yêu, chăm sóc của gia đình là cơ sở để học sinh thể hiện những
87
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
nét đẹp đó trong các mối quan hệ. Do đó nhà trường cần phối hợp với gia đình, cung
cấp cho họ những kiến thức, phương pháp, hình thức giáo dục thẩm mỹ, giúp cho họ
thấy được lợi ích của những giá trị thẩm mỹ trong quan hệ gia đình. Xã hội đẹp là
cội nguồn quan trọng của giáo dục thẩm mỹ, nhà trường cần phối hợp với chính
quyền, với các cơ quan văn hóa - nghệ thuật ở địa phương xây dựng nên môi trường
văn hóa trong sạch. Ở nhà trường, cảnh quan môi trường sư phạm, các mối quan hệ
giao lưu trong trường, phong cách, cử chỉ, trang phục, ngôn ngữ, nét mặt...được coi
là phương tiện quan trọng để giáo dục thẩm mỹ cho học sinh. Giáo viên cần vận dụng
thực tiễn sinh động để giáo dục thẩm mỹ cho học sinh, đồng thời tích cực gợi mở,
hướng dẫn học sinh thể hiện, cảm thụ để phát huy tác dụng thẩm mỹ của chúng.
- Giáo dục cái đẹp trong tự nhiên. Cái đẹp tồn tại trong tự nhiên như phong cảnh
đất nước, quê hương, danh lam thắng cảnh… chính là nguồn tư liệu sống không bao
giờ cạn kiệt của giáo dục thẩm mỹ, cần tạo điều kiện để học sinh tiếp xúc với cảnh
quan thiên nhiên.
3. Giáo dục thể chất
Ý nghĩa của giáo dục thể chất
Giáo dục thể chất (thể dục) là bộ phận cấu thành quan trọng của nền giáo dục
phát triển tòan diện; thể dục là biện pháp quan trọng nâng cao sức khỏe của người
dân, tăng cường thể chất, làm phong phú đời sống văn hóa, nâng cao sức sản xuất xã
hội. Giáo dục thể chất theo nghĩa rộng bao gồm giáo dục rèn luyện thân thể và giáo
dục vệ sinh giữ gìn sức khỏe; rèn luyện thân thể nghiêng về bồi dưỡng cơ thể, còn
giáo dục vệ sinh giữ gìn sức khỏe lại nghiêng về bảo vệ sức khỏe. Giáo dục thể chất
theo nghĩa hẹp, chủ yếu chỉ rèn luyện thân thể họăc giáo dục vận động thể dục thể
thao.
Hiện nay giáo dục thể chất trong nhà trường phải chú ý làm tốt hai việc: thể
dục và vệ sinh sức khỏe. Giáo dục thể chất trong nhà trường có ý nghĩa quan trọng,
được biểu hịên như sau:
- Giáo dục thể chất có thể thúc đẩy học sinh phát triển thân thẻ khỏe mạnh, tăng
cường thể chất cho học sinh.
- Giáo dục thể chất là bộ phận không thể thiếu để thúc đẩy sự phát triển tòan
diện của học sinh, là bộ phận hợp thành quan trọng của nền giáo dục phát triển tòan
dịên. Thân thể khỏe mạnh là cơ sở vật chất để thực hiện các nhịêm vụ giáo dục khác.
Giáo dục thể chất liên hệ mật thiết với giáo dục đạo đức, giáo dục trí tuệ, giáo dục
thẩm mỹ và lao động.
- Giáo dục thể chất không những có thể bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cho học
sinh mà còn làm cho tinh thần con người mạnh khỏe, cuộc sống văn minh, vui vẻ, có
88
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
ý nghĩa, tạo nên hành vi và thói quen văn minh như tôn trọng kỷ luật, trách nhiệm
với tập thể, tôn trọng, tuân theo trật tự công cộng, giữ gìn môi trường sạch đẹp, giữ
gìn vệ sinh.
Nhiệm vụ và nội dung của giáo dục thể chất trong nhà trường
- Tăng cường sức khỏe, thể chất cho học sinh. Tổ chức cho học sinh rèn luyện
thân thể, thúc đẩy cơ thể học sinh phát triển bình thường, tăng cường thể chất và sức
khỏe cho học sinh, phát triển tòan diện năng lực họat động cơ bản của cơ thể cũng
như tố chất của cơ thể như: tốc độ, độ nhạy cảm, sức mạnh, độ dẻo dai, nhanh
nhạy…hay các vận động cơ bản như chạy, nhảy, nâng, trèo…nâng cao vận động
thích ứng với môi trường tự nhiên cho học sinh.
- Giúp học sinh dần dần nắm vững tri thức cơ bản và kỹ năng kỹ xảo của vận
động thể dục thể thao, tạo nên thói quen tự giác rèn luyện thân thể một cách khoa
học.
- Truyền thụ tri thức vệ sinh cần thiết cho học sinh, bồi dưỡng thói quen vệ sinh
tốt, hướng dẫn học sinh phòng ngừa bệnh tật, bảo vệ và tăng cường sức khỏe tâm
sinh lý.
- Thông qua thể dục, tiến hành giáo dục phẩm chất đạo đức cho học sinh, tạo
nên phong cách đạo đức tốt đẹp, cao thượng.
Nội dung giáo dục thể chất trong nhà trường:
- Vận động thể dục thể thao: Đây là nội dung chủ yếu của thể dục nhà trường,
là phuơng pháp chủ yếu bảo đảm sự phát triển khỏe mạnh của tâm lý học sinh, bao
gồm vận động điền kinh, thể thao, các lọai bóng, bơi lội, trò chơi, võ thuật…và hoạt
động thể dục trong giáo dục quốc phòng, tận dụng điều kiện tự nhiên rèn luyện thân
thể.
- Vệ sinh nhà trường, yêu cầu nhà trường cần xây dựng chế độ học tập, sinh
họat hợp lý, kiểm soát, khống chế chặt chẽ hoạt động của học sinh trong nhà trường,
bảo đảm thời gian nghỉ ngơi hợp lý, tạo nên thói quen sinh họat tốt, có kỷ luật. Thiết
bị sinh họat trong nhà trường như bàn ghế, cửa sổ, cửa ra vào ton hỏ, thấp cao; hướnh
ánh sáng, độ phản quang của bảng, đèn chiếu sáng…, đều đòi hỏi phải phù hợp với
mức độ học tập và tình trạng phát triển cơ thể của học sinh.
Cần làm cho học sinh hiểu rõ tri thức vệ sinh học tập, tạo nên thói quen học
tập tốt, tạo tư thế ngồi, đi, đứng, viết…đúng tư thế, đảm bảo cho học sinh phát triển
bình thường. Bảo vệ thị lực cho học sinh đang là vấn đề nổi cộm hiện nay, phải kiên
trì bảo vệ sức khỏe đôi mắt, giúp học sinh hiểu về vệ sinh đôi mắt. Khi sắp xếp chỗ
ngồi phải chú ý điều tiết thị lực học sinh. Cũng cần làm cho học sinh hiểu về về sinh
vận động, luyện tập theo khoa học.
89
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
Thiết bị thể dục và sân bãi phù hợp với yêu cầu về sự an tòan, phòng tránh xảy
ra sự cố. Cần tiến hành kiểm tra sức khỏe định kỳ cho học sinh, làm tốt công tác
phòng và trị bệnh để đảm bảo cho học sinh phát triển tốt.
4. Giáo dục môi trường
a. Khái niệm
Môi trường là vùng vật lý và sinh học xung quanh con người, môi trường là
sinh quyển bao gồm không khí, đất đai và hệ sinh thái có ảnh hưởng đến cuộc sống
của con người. Hệ sinh thái là khái niệm chỉ mối quan hệ tương hỗ với nhau giữa
quần thể sinh vật và môi trường. Hệ sinh thái là đơn vị tự nhiên của các vật hữu sinh
và vô sinh ở trong thế cân bằng.
Mô hình hệ sinh thái:

Quần xã Môi trường + Năng lượng Hệ sinh


sinh vật xung quanh mặt trời thái

Tóm lại môi trường là tất cả các nhân tố vô sinh và hữu sinh bao quanh Trái
đất, có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống và sự phát triển của mọi lĩnh
vực sống.
Ô nhiễm môi trường: là môi trường bị nhiễm các chất độc hại, nhiễm bẩn hoặc
tiếng ồn quá giới hạn cho phép, hoặc do sự khai thác của con người làm cạn kiệt tài
nguyên thiên nhiên, phá vỡ sự cân bằng sinh thái.
Ô nhiểm môi trường là kết quả của ba yếu tố: quy mô dân số, mức tiêu thụ tính
theo đầu người, tác động của môi trường.

Quy mô Mức tiêu Tác động của


x x môi trường = Độ ô nhiễm
dân số thụ/người
(đơn vị sx)
Các loại môi trường bị ô nhiễm: môi trường đất, môi trường nước, không khí,
môi trường bị ô nhiễm bởi tiếng ồn.
b. Nội dung giáo dục môi trường
* Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường
- Bảo về nơi sinh sống và phát triển của quần xã sinh vật và tôn trọng sự cân bằng
của hệ sinh thái.
- Có ý thức bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, đấu tranh chống lại những hành
vi ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí, không khai thác bừa bãi tài nguyên, tàn
phá thiên nhiên.

90
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
- Có ý thức giữ gìn sự trong lành của môi trường sống hang ngày của co người ở
mọi nơi, mọi chỗ.
* Bồi dưỡng kiến thức về môi trường, bảo vệ và chống ô nhiễm môi trường
- Tìm hiểu về môi trường, hệ sinh thái.
- Các tác nhân gây ô nhiễm môi trường và tác hại của nó (ô nhiễm đất, bầu khí
quyển, “hiệu ứng nhà kính”, ô nhiễm nguồn nước, hóa chất, thuốc trừ sâu…)
- Rèn luyện và hình thành thói quen giữ gìn vệ sinh, bảo đảm sự trong lành của
môi trường xung quanh con người, tham gia tích cực vào các học sinh giữ gìn và làm
sạch môi trường.
c. Các con đường giáo dục môi trường cho học sinh
- Thông qua giảng dạy các bộ môn khoa học tự nhiên và xã hội, đặc biệt là các
môn học có nội dung tri thức có thể khai thác bằng cách lồng ghép, tích hợp họăc
theo môđun để giáo dục môi trường có hiệu quả như môn Sinh học, Địa lý, Đạo đức,
Giáo dục công dân…
- Tổ chức trao đổi, tọa đàm, tranh luận qua các buổi sinh họat về môi trường và
bảo vệ môi trường cũng như các hoạt động cụ thể.
- Tổ chức cho học sinh tham gia vào việc bảo vệ môi trường: tuyên truyền, cổ
động, trồng cây, chăm sóc hoa, chim, cây cảnh, dọn vệ sinh, diệt ruồi, muỗi, bọ gậy…
- Tham quan, du lịch môi trường sinh thái, danh lam thắng cảnh, rừng nguyên
sinh, các môi trường tự nhiên và thiên nhiên nhân tạo.
6. Giáo dục dân số
a. Khái niệm
Giáo dục dân số là thuật ngữ UNESCO dùng để chỉ một chương trình giáo dục
nhằm giúp người học hiểu được mối quan hệ qua lại giữa động lực dân số và các
nhân tố khác của chất lượng cuộc sống, từ đó hình thành ý thức trách nhiệm của từng
cá nhân trước những quyết định về lĩnh vực dân số nhằm nâng cao chất lượng cuộc
sống cho bản thân, gia đình và xã hội,
Giáo dục dân số có ý nghĩa rất quan trọng, nó là một quá trình giúp cho người
học có những hiểu biết về các vấn đề dân số, trên cơ sở đó có nhãn quan đúng đắn
về phát triển dân số, quy mô gia đình, kế họach hóa gia đình, phát triển và cải thiện
chất lượng cuộc sống. Giáo dục dân số (GDDS) trở thành một nội dung giáo dục
không thể thiếu được cho học sinh trong nhà trường hiện nay để thế hệ trẻ nâng cao
hiểu biết, có ý thức trách nhiệm để chuẩn bị làm cha mẹ sau này.
Chính sách dân số như hình thức điều khiển sự phát triển dân số, nó liên quan
đên tái sản xuất dân cư, đến các điều kiện sống của mọi tầng lớp nhân dân và nó hoàn

91
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
thiện các điều kiện lao động, hệ thống tiền lương và các nguồn gốc thu nhập khác,
điều chỉnh việc chuyển cư và cơ cấu lãnh thổ dân cư.
- Tuổi kết hôn: là độ tuổi được phép xây dựng gia đình theo pháp luật (tuổi tối
thiểu của nữ đủ 18, của nam đủ 20).
- Quy mô gia đình.
- Kế họach hóa gia đình (KHHGĐ): điều chỉnh số con sinh ra một cách có ý
thức, chủ động trong nội bộ một gia đình, thông qua sự tự nguyện của hai vợ chồng.
KHHGĐ là tổng hợp các biện pháp nhằm chủ động và hạn chế việc sinh đẻ và sinh
đẻ có kế họach.
b. Mục tiêu của dân số
- Cung cấp những tri thức cơ bản về Dân số học, tình hình dân số trên thế giới,
trong nước và địa phương; các chính sách về dân số và KHHGĐ.
- Nâng cao nhận thức về khả năng điều chỉnh hoạt động sinh đẻ của con người
để tạo ra sự cân đối giữa dân số và sản xuất, chất lượng cuộc sống.
- Định hướng những giá trị đạo đức mới, khắc lhục những quan niệm cũ không
còn phù hợp về hôn nhân, gia đình và hạnh phúc gia đình.
- Giáo dục thái độ, hành vi đúng đắn trước những vấn đề dân số đất nước, phát
triển dân số hợp lý, phân bố dân cư và lao động.
- Bồi dưỡng tri thức và kỹ năng thực hiện KHHGĐ, nâng cao chất lượng cuộc
sống.
- Biết làm công tác, tuyên truyền về GDDS và KHHGĐ.
c. Nội dung và con đường giáo dục dân số
* Nội dung giáo dục dân số
Về mặt lý thuyết và làm cho học sinh hiểu rõ mối quan hệ giữa dân số, môi trường
và chất lượng cuộc sống.

Dân số

Môi trường Chất lượng cuộc sống

Chất lượng cuộc sống


- Bồi dưỡng nhận thức Quy mô gia đình hợp lý
Mục tiêu giáo dục dân số - Thái độ đúng Phát triển dân số hợp lý
- Có hành vi thích hợp Phân bố dân cư hợp lý

- Nắm vững ba khái niệm cơ bản: Dân số, chất lượng cuộc sống và môi trường.
92
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
- Nắm vững hai mối quan hệ cơ bản: Quan hệ dân số và chất lượng cuộc sống,
quan hệ dân số - môi trường và chất lượng cuộc sống.
Về mặt thực tiễn, vận dụng các chủ điểm GDDS trong khu vực vào thực tiễn
nước ta.
- Quy mô gia đình và chất lượng cuộc sống: Chấp nhận gia đình quy mô nhỏ,
mỗi cặp vợ chồng chỉ có một hoặc hai con, sinh cách nhau 5 năm (QĐ 162 HĐBT).
- Tuổi kết hôn hợp lý: nữ đủ 18 tuổi, nam đủ 20 tuổi, vận động kết hôn muộn
khi nữ đủ 22 tuổi, nam đủ 24 – 25.
- Tư cách và trách nhiệm làm cha, mẹ: Được trang bị những kiến thức tối thiểu
về sinh đẻ có kế họach, chăm sóc, bảo vệ sức khỏe thai nghén và sinh sản, nuôi con,
thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm làm cha mẹ.
- Nắm được mối quan hệ dân số - môi trường và chất lượng cuộc sống, từ đó
làm nổi bật tính cấp bách của kế họach hóa dân số và sinh đẻ - KHHGĐ trong hiện
tại và tương lai.
- Xác định và lựa chọn những giá trị xã hội có liên quan đến dân số (như số con,
con trai, con gái, hạnh phúc gia đình…).
 Các con đường giáo dục dân số
- Thông qua phuơng pháp lồng ghép – tích hợp nội dung GDDS vào các môn
tự nhiên, xã hội.
- Thông qua các hoạt động ngọai khóa: nói chuyện về dân số, sinh họat câu lạc
bộ tìm hiểu về dân số, KHHGĐ, hoạt động nghệ thụât tuyên truyền về dân số.
- Tổ chức cho học sinh tham gia cuộc tuyên truyền về GDDS, tư vấn về GDDS.
- Phổ biến, giới thiệu cho học sinh nắm được các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước về dân số (chính sách dân số), các chiến lược phát triển dân số và
xây dựng, nâng cao chất lượng cuộc sống.
7. Giáo dục giới tính
a. Khái niệm và ý nghĩa
Giới tính là những đặc điểm riêng biệt về giải phẫu sinh lý cơ thể và những
đặc trưng về tâm lý (hứng thú, tình cảm, xúc cảm, tính cách, năng lực, nhận thức…)
tạo nên sự khác biệt giữa giới nam và giới nữ.
Giáo dục giới tính (GDGT) là “giáo dục về chức năng làm một con người có
giới tính, điều quan trọng là đề cập vấn đề giới tính một cách công khai và đấy đủ ở
lớp từ nhà trẻ đến đại học, giúp cho học sinh cam thất an tòan và tự do trong việc
biểu lộ cảm xúc liên quan đến đời sống giới tính” (theo từ điển bách khoa về giáo
dục). Ta có thể hiểu GDGT là một quá trình tác động sư p hạm hướng vào việc vạch
ra những nét, những phẩm chất, những đặc trưng và những khuynh hướng phát triển
93
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
của nhân cách nhằm xác định thái độ xã hội cần thiết của cá nhân đối với các vấn đề
giới tính.
GDGT có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển tâm lý của thanh thiếu niên học
sinh. Xã hội hiện đại đã có những yếu tố và điều kiện dẫn đến sự phát triển sớm về
giới ở trẻ em. Chất lượng cuộc sống ngày càng cao, sự bùng nổ thông tin với nhiều
phương tiện nghe nhìn, phim ảnh về cuộc sống gia đình, tình yêu, quan hệ nam nữ
ảnh hưởng rất nhiều và nhanh nhạy với thế hệ trẻ. Xã hội hịên đại cần phải quan tâm
đến vấn đề GDGT.
- GDGT ảnh hưởng trực tiếp đến giáo dục dân số. GDGT cung cấp những kiến
thức khoa học về dân số kế họach hóa gia đình, sức khỏe sinh sản, về hạnh phúc gia
đình…giúp cho học sinh có hiểu biết và ý thức làm chủ trong các quan hệ tình bạn,
tình yêu, hôn nhân sau này; thực hiện đuợc mục tiêu và nội dung của giáo dục dân
số trong thế hệ trẻ - một bộ phận quan trọng của dân cư.
- GDGT là con đường hữu hiệu ngăn ngừa các bệnh lây nhiễm qua đường tình
dục, đặc biệt là HIV – AIDS.
- GDGT sẽ giúp cho thanh thiếu niên học sinh hình thành hành vi, thái độ đúng
đắn trong các mối quan hệ bạn bè khác giới, biết làm chủ trong việc giải quyết các
vấn đề có liên quan đến tình yêu, hôn nhân, gia đình, xây dựng cuộc sống lành mạnh,
có văn hóa, hướng tới cuộc sống hạnh phúc.
b. Nội dung và các con đương giáo dục giới tính
* Nội dung giáo dục giới tính bao gồm những kiến thức về sự phát triển của
giới nam và giới nữ.
- Về giải phẩu sinh lý.
- Cấu tạo, chức năng của các cơ quan sinh dục nam – nữ.
- Tuổi dậy thì và những biểu hiện, cách nhận biết và giải quyết những “bí ẩn” ở
tuổi dậy thì.
- Sinh sản và sức khỏe sinh sản vị thành niên.
- Các kiến thức, hiểu biết về sức khỏe của giới, phònh tránh thai, phòng tránh
các bệnh lây lan qua đường tình dục.
Giáo dục về các mối quan hệ theo giới của cá nhân mỗi người:
- Quan hệ hôn nhân, gia đình.
- Quan hệ, bổn phận của mỗi người nam, nữ khi trở thành cha mẹ, con cái (trai,
gái, dâu, rễ), ông bà, anh chị, em…
- Quan hệ bạn bè va bạn khác giới.
- Tình yêu nam – nữ.

94
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
Giáo dục, hình thành kỹ năng xác định các giá trị xã hội; lý tưởn, lẽ sống, hạnh
phúc gia đình, dân tộc, con cái (trai, gái, tình yêu, cuộc sống, tình bạn…).
 Các con đường giáo dục giới tính trong nhà trường phổ thông
- Thông quan giảng dạy, học tập các môn khoa học tự nhiên, khoa học xã hội
bằng phuơng pháp lồng ghép hoặc tích hợp.
- Thông qua các chương trình, họat động ngọai khóa như:
+ Diễn đàn trao đổi về các chuyên đề tình bạn, tình yêu, hôn nhân, gia đình.
+ Tìm hiểu các tài liệu, sách báo, phim ảnh về cấu tạo, chức năng, vệ sinh
thường thức, phòng tránh các bệnh của các bộ phận sinh dục, sinh sản của nam - nữ.
+ Triển lãm về phòng tránh thai (phương thức, phương tiện, dụng cụ…).
+ Qua tư vấn (tình yêu, hôn nhân, gia đình, các bệnh của mỗi giới, tâm lý và
bệnh tâm lý…).
+ Qua các buổi sinh họat tập thể, hoạt động văn hóa, văn nghệ với các đề tài
về giới, về hôn nhân, hạnh phúc gia đình…
+ Qua các hoạt động vui chơi, văn nghệ, thể dục thể thao.
+ Qua các môn học tự chọn (nấu ăn, nữ công, du lịch, cắm tỉa hoa, nhạc, học,
kỹ thụât).
Câu hỏi ôn tập và thảo luận
1. Phân tích khái niệm, ý nghĩa và nhiệm vụ của giáo dục đạo đức trong nhà
trường phổ thông.
2. Phân tích các nội dung của giáo dục đạo đức. Theo anh (chị) thì các nội dung
giáo dục đạo đứccần phải được thực hiện như thế nào để đáp ứng được yêu cầu của
giáo dục thực tiễn hiện nay?
3. Hiểu thế nào là giáo dục trí tuệ? Phân tích ý nghĩa, nhiệm vụ và nội dung cơ
bản của giáo dục trí tuệ.
4. Phân tích các nhiệm vụ và nội dung của giáo dục thể chất.
5. Những nội dung cơ bản của giáo dục thẩm mỹ trong nhà trường phổ thông
hiện nay là gì? Có thể thực hiện nội dung thẩm mỹ bằng các con đường nào?
6. Phân tích những nội dung và con đường giáo dục môi trường cho học sinh
tronh nhà trường.
7. Nêu khái niệm và mục tiêu của giáo dục dân số, các nội dung cơ bản của giáo
dục dân số.
8. Phân tích nội dung và các con đường giáo dục giới tính cho học sinh trong nhà
trường phổ thông.

95
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
D. PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC
1. Khái niệm và đặc điểm của phương pháp giáo dục
1.1. Phương pháp giáo dục là gì?
Phương pháp giáo dục là thành tố quan trọng trong cấu trúc của quá trình giáo
dục, có quan hệ mật thiết với các thành tố của quá trình này; đặc biệt là với mục đích,
nội dung, nhà giáo dục, người được giáo dục, phương tiện giáo dục, với các điều kiện
thực hiện quá trình này.
Trong mối quan hệ với mục đích, phương pháp trả lời câu hỏi làm thế nào,
bằng cách nào đạt được mục đích đã đề ra? Nghiên cứu phương pháp giáo dục nhằm
tìm ra quy luật vận động của đối tượng để tác động và điều khiển chúng đạt được
mục đích.
Phương pháp chịu sự quy định của nội dung và là hình thức của sự vận động
bên trong nội dung, mỗi nội dung giáo dục có những phương pháp tương ứng phù
hợp với nó.
Phương pháp giáo dục phản ánh cách thức tổ chức quá trình giáo dục, các loại
hình hoạt động phong phú đa dạng của giáo viên và học sinh nhằm chuyển hóa những
yêu cầu, chuẩn mực về đạo đức, lối sống, văn hóa, thẩm mỹ do xã hội quy định thành
phẩm chất, nhân cách, hành vi, thói quen và nếp sống văn minh của học sinh. Phương
pháp giáo dục được xem là cách thức tác động qua lại giữa nhà giáo dục và người
được giáo dục. trong đó nhà giáo dục giữ vai trò chủ đạo nhằm thực hiện tốt các
nhiệm vụ giáo dục đề ra.
Đặc điểm của phương pháp giáo dục
Phương pháp giáo dục được tiến hành trên cơ sở hoạt động phối hợp giữa nhà
giáo dục và người được giáo dục, trong đó những tác động của nhà giáo dục giữ vai
trò chủ đạo, còn người được giáo dục hoạt động tích cực, tự giác, tự giáo dục, tự vận
động và phát triển nhằm hướng tới mục tiêu phát triển nhân cách đã định. Chủ thể
của những tác động giáo dục đến người được giáo dục có thể là nhà giáo dục, cũng
có thể là tập thể sư phạm, tập thể học sinh, các tổ chức xã hội hay sự phối hợp giữa
các chủ thể đó. Những tác động này có thể trực tiếp cũng có thể gián tiếp thông qua
các mối quan hệ xã hội đa dạng, các hoạt động, các phương tiện thông tin đại
chúng…Những tác động giáo dục thường phối hợp, thống nhất với nhau cùng ảnh
hưởng đến người được giáo dục (là cá nhân, tập thể học sinh) giúp cho người được
giáo dục biến những yêu cầu, những tác động giáo dục thành phẩm chất và năng lực
của mình thông qua hoạt động bản thân.
Phương pháp giáo dục có mối quan hệ mật thiết với các biện pháp giáo dục,
cả biện pháp và phương pháp đều được quy định bởi các hành động phối hợp giữa
96
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
nhà giáo dục và người được giáo dục. Song biện pháp mang tính cụ thể, phương pháp
mang tính khái quát, nó bao gồm một số hành động của nhà giáo dục và người được
giáo dục, các hành động này thống nhất với nhau nhằm thực hiện mục đích chung là
hình thành những phẩm chất nhân cách của người được giáo dục.
Phương pháp giáo dục có mối quan hệ mật thiết với các phương tiện giáo dục.
Phương tiện giáo dục bao gồm các sản phẩm văn hóa được sử dụng trong quá trình
giáo dục và trong các loại hình hoạt động văn hóa xã hội, thể dục thể thao, lao động
sản xuất…Nhờ có phương tiện giáo dục mà đảm bảo được sự tác động qua lại giữa
nhà giáo dục và người được giáo dục, đảm bảo cho hoạt động giáo dục đạt hiệu quả
cao.
2. Hệ thống các phương pháp giáo dục
Phân loại phương pháp giáo dục
Trong lý luận giáo dục hiện còn nhiều cách phân loại phương pháp giáo dục
khác nhau. Mỗi cách phân loại đều dựa trên những cơ sở nhất định, những cơ sở này
làm nguyên tắc để sắp xếp các phương pháp vào hệ thống các tên gọi khác nhau. Mỗi
hệ thống phương pháp đều có thể sử dụng có hiệu quả trong những hoàn cảnh giáo
dục nhất định, tùy theo mục đích giáo dục đã đặt ra.
Căn cứ vào lực lượng và môi trường nơi diễn ra các hoạt động giáo dục ta có
các phương pháp giáo dục gia đình, các phương pháp giáo dục nhà trường, các
phương pháp giáo dục xã hội; phương pháp giáo dục trên lớp, phương pháp giáo dục
ngoài trời.
Căn cứ vào đối tượng giáo dục ta có các phương pháp giáo dục trẻ mẫu giáo,
giáo dục trẻ vị thành niên; phương pháp giáo dục trẻ khuyết tật, phương pháp giáo
dục cá biệt…
Căn cứ vào nội dung giáo dục có các phương pháp giáo dục thể chất, phương
pháp giáo dục đạo đức, phương pháp giáo dục môi trường, phương pháp giáo dục
thẩm mỹ…
Căn cứ vào sự tác động tới các khâu của quá trình giáo dục có các phương
pháp tác động đến đến nhận thức, phương pháp tác động đến tình cảm, phương pháp
hình thành hành vi thói quen…
Do tính chất phức tạp và đa dạng của phương pháp nên có nhiều cách gọi tên
và phân loại khác nhau. Phương pháp giáo dục thường được phân loại và trình bày
theo ba nhóm cơ bản sau:
2.1 Nhóm các phương pháp thuyết phục
Nhóm phương pháp thuyết phục là nhóm phương pháp giáo dục tác động lên
nhận thức và tình cảm của người được giáo dục nhằm hình thành những khái niệm,
97
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
biểu tượng và niềm tin đúng đắn về đạo đức, thẩm mỹ, tạo điều kiện cho người được
giáo dục có tư tưởng đúng, có tình cảm đẹp, làm cơ sở cho việc hình thành và những
hành vi thói quen tốt. Trong công tác giáo dục, thuyết phục là phương pháp cơ bản
vì nó là con đường quan trọng để biến ý thức của xã hội thành ý thức của cá nhân,
biến những yêu cầu của xã hội thành nhu cầu của bản thân, động viên, thúc đẩy cá
nhân hành động đáp ứng những yêu cầu, chuẩn mực của xã hội.
Mục tiêu cơ bản của thuyết phục là nhà giáo dục đưa lý luận (lý luận đạo đức,
lý luận thẩm mỹ, pháp luật…) vào ý thức của học sinh, giúp các em khái quát những
kinh nghiệm của bản thân thành những biểu tượng, khái niệm và niềm tin về đạo đức,
thẩm mỹ; cụ thể hóa các khái niệm, chuẩn mực đã thu được trong cuộc sống; có động
cơ và thái độ đúng đắn với các chuẩn mực và hành vi phù hợp với nhận thức và tình
cảm của bản thân. Muốn vậy, nhà giáo dục phải hình thành ở học sinh những hiểu
biết về các quy tắc xã hội của hành vi, giúp các em có niềm tin và mong muốn thực
hiện hành vi, biến hành vi thành thói quen.
Phương tiện dùng trong nhóm phương pháp này rất phong phú và đa dạng như
ngôn ngữ, sách báo, khẩu hiệu, các phương tiện trực quan (tranh, ảnh, mô hình, sơ
đồ), các phương tiện kỹ thuật hiện đại, băng hình, phim đền chiếu, phát thanh, truyền
hình, mạng Internet…Căn cứ vào phương tiện, cách sử dụng phương tiện để tác động
đến nhận thức, tình cảm, niềm tin của người được giáo dục, có các phương pháp
thuyết phục khác nhau. Chẳng hạn, sử dụng ngôn ngữ trong tiếp xúc cá nhân có các
phương pháp đàm thoại, tư vấn; tiếp cận nhóm có các phương pháp thuyết trình, thảo
luận; tiếp cận đại chúng thông qua các phương tiện (truyền thanh, truyền hình) có
các phương pháp phát thanh, truyền hình…Nhóm phương pháp thuyết phục bao gồm:
a. Phương pháp đàm thoại
Đàm thoại là phương pháp giáo dục được thực hiện chủ yếu bằng cách trao
đổi ý kiến và quan điểm giữa nàh giáo dục và học sinh và giữa học sinh với nhau về
một chủ thể nào đó thuộc về các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và đời sống hàng
ngày. Đàm thoại có thể được tiến hành giữa nhà giáo dục và các thành viên trong
nhóm, trong tập thể học sinh. Ưu điểm đặc biệt của phương pháp đàm thoại là thông
qua đàm thoại nhà giáo dục có thể kịp thời nắm bắt những tâm tư, tình cảm, vốn kinh
nghiệm của từng học sinh để trên cơ sở đó có những tác động giáo dục thích hợp và
cần thiết đối với các em.
 Đàm thoại có thể diễn ra theo hai cách: đàm thoại tự nhiên và đàm thoại theo
chủ đề
Đàm thoại tự nhiên: là cuộc đàm thoại được dẫn đến một cách tự nhiên, không
tập trung vào một chủ đề nhất định. Trong cuộc đàm thoại này các ý kiến thường
98
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
được bộc lộ trong những bối cảnh không được chuẩn bị trước, diễn ra trong các tình
huống của cuộc sống hàng ngày, qua các cuộc tiếp xúc trực tiếp giữa giáo viên và
học sinh trong và ngoài giờ học.
Đàm thoại theo chủ đề: là loại đàm thoại mà những câu hỏi của chúng được
xoay quanh một chủ đề nhất định. Muốn đàm thoại có hiệu quả nhà giáo dục cần
quan tâm đến nội dung chủ đề cần trao đổi với học sinh, cần phải chuẩn bị kỹ các
câu hỏi, các vấn đề, các sự kiện để thông báo cho học sinh. Chủ đề đàm thoại cần
thông báo trước để học sinh có tời gian chuẩn bị ý kiến và quan điểm của mình. Chủ
đề đàm thoại thường là những sự kiện mang nội dung chính trị, đạo đức thẩm mỹ,
thể hiện các mặt khác nhau của đời sống xã hội, gán liền với cuộc sống và hoạt động
của học sinh. Đề tài chọn thảo luận phải mang tính thiết thực, tập trung vào các vấn
đề bức xúc trong cuộc sống, lao động, học tập, trong quan hệ với thầy, với bạn, với
cha mẹ và với những người xung quanh.
Khi tiến hành đàm thoại, nhà giáo dục cần phát huy tính tích cực của học sinh
vào việc phân tích và đánh giá các sự kiện, các hành vi trong đời sống xã hội, giúp
các em tự rút ra các kết luận phù hợp. Mở đầu buổi đàm thoại, nhà giáo dục cần cung
cấp cho người được giáo dục những tài liệu và đặt ra các câu hỏi cho các em suy nghĩ
và tự trả lời. Nhà giáo dục cần tạo ra không khí thân mật, cởi mở, tự nhiên giữa người
nói và người nghe, làm cho mọi người không chỉ có nghe mà còn phát biểu ý kiến,
đặt ra câu hỏi. Học sinh cũng có thể đặt ra câu hỏi, vấn đề để giáo viên và các bạn
trả lời.
Trong đàm thoại, thái độ của người tham gia rất quan trọng, nó có thể thúc đẩy
người khác phản ứng tích cực, mạnh dạn bày tỏ chính kiến của mình hoặc làm cho
không khí nặng nề, mọi người không muốn tham gia hoặc tham gia một cách hình
thức. Muốn thảo luận thành công, nhà giáo dục cần biết cách bộc lộ quan điểm và
tình cảm của mình trong suốt quá trình đàm thoại, khéo léo khêu gợi người được giáo
dục để họ tự rút ra những quan điểm phù hợp với các giá trị đạo đức, thẩm mỹ.
 Đàm thoại có thể diễn ra dưới hình thức cá nhân có thể diễn ra dưới hình thức
tập thể
Dưới hình thức cá nhân: Nhà giáo dục đàm thoại riêng với từng học sinh. Hình
thức này giúp nhà giáo dục hiểu biết sâu sắc về hoàn cảnh và cá tính của học sinh,
về những vấn đề cụ thể chưa được giải quyết trong nhận thức, tư tưởng và tình cảm
của các em, nhất là những vấn đề thầm kín, khó nói trước tập thể. Đàm thoại riêng
chỉ có hiệu quả khi giữa người được giáo dục và nhà giáo dục có quan hệ tốt đẹp, khi
họ tin tưởng vào nhà giáo dục và mong muốn nhà giáo dục chia sẻ và tháo gỡ những
băn khoăn, thác mắc của họ.
99
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
Đàm thoại cá nhân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với những học sinh
“chậm tiến về đạo đức”, những học sinh này thường có những định kiến sai lệch về
người khác, về các chuẩn mực xã hội, có thái độn thiếu tin cậy đối với tập thể. Muốn
đàm thoại thành công đối với những học sinh này, nhà giáo dục cần hết sức thận
trọng, tế nhị trong cách nhận định và đánh giá học sinh, thật sự thương yêu tôn trọng
các em, các lý lẽ đưa ra cần có lý có tình, tránh khuôn sáo, rập khuôn, công thức.
Một phương pháp đàm thoại cá nhân ngày nay được đề cập tới nhiều là hoạt
động tư vấn giáo dục. Đây là phương pháp giáo dục trong đó có sự tương tác của nhà
tư vấn và người được tư vấn trên cơ sở nhà tư vấn cung cấp những thông tin khách
quan, chia sẻ về mặt tình cảm nhằm giúp cho người được tư vấn khắc phục những
khó khăn về nhận thức và tình cảm của mình, từ đó đi đến một quyết định hành động
phù hợp. Muốn tư vấn có hiệu quả, cần cung cấp cho đối tượng những thông tin
khách quan, đầy đủ, tạo điều kiện để họ thay đổi những quan niệm lệch lạc; hỗ trợ
và giúp đở về mặt hiểu biết, tâm lý và tình cảm, làm yên lòng người được tư vấn; hỗ
trợ và giúp đở họ tìm ra giải pháp hữu hiệu để giải quyết vấn đề.
Đàm thoại tập thể được phát triển thành hai mức độ thảo luận và tranh luận.
Thảo luận là hình thức đặc biệt của đàm thoại trong đó nhà giáo dục tổ chức sự trao
đổi giữa học sinh với nhau, tạo điều kiện cho mỗi thành viên trong tập thể đóng góp
ý kiến và tìm ra cách giải quyết một vấn đề nào đó. Thông qua thảo luận, học sinh
có thể giúp nhau đi sâu phân tích những khía cạnh khác nhau của vấn đề, từ đó các
em có được nhận thức, thái độ, niềm tin đúng đắn. Mức độ cao của thảo luận là tranh
luận. Tranh luận dựa trên sự va chạm các ý kiến, quan điểm khác nhau, có khi là đối
lập. Nhờ đó các em nâng cao được tính khái quát, tính vững vàng và mềm dẽo của
các quan điểm, kiến thức về các chuẩn mực đã tiếp thu. Tranh luận là phương pháp
giáo dục phụ hợp với lứa tuổi học sinh trung học, lứa tuổi say mê tìm hiểu ý nghĩa
của cuộc đời, lứa tuổi muốn có sự cọ xát về quan điểm, về chính kiến để tìm ra chân
lý. Vì thế, trong tranh luận, học sinh không chỉ phát biều quan điểm của mình mà
còn phát hiện ra những điểm mạnh và điểm yếu trong quan niệm và cách bảo vệ quan
niệm, đưa ra các luận chứng để bác bỏ các sai lầm và khẳng định chân lý.
Giáo viên có thể tham gia vào cuộc thảo luận và tranh luận của học sinh với
tư cách là người dẫn dắt, gợi ý và định hướng cho học sinh những vấn đề cần tranh
luận và giải quyết, nhưng tuyệt đối không được vội vã phê phán, tán dương hoặc phủ
nhận những quan điểm sai lầm của học sinh, buộc học sinh chấp nhận những quan
điểm của mình. Những nhà giáo dục có kinh nghiệm thường biết chờ đợi, nhiệt tình
và chân thành, tạo điều kiện cho học sinh trình bày quan điểm của mình để trên cơ
sở đó đưa ra cách lý giải phù hợp, làm cho các em chấp nhận nội dung của chuẩn
100
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
mực không phải bằng uy quyền mà bằng chính những hiểu biết và niềm tin của bản
thân.
Kết thúc đàm thoại nhà giáo dục cần tạo điều kiện cho học sinh nêu bật những
nội dung chính, những kết luận quan trọng về những vấn đề được trao đổi thảo luận,
hướng dẫn các em đề ra được các chương trình cụ thể để thực hiện chuẩn mực hành
vi đã được thống nhất.
b. Phương pháp giảng giải
Giảng giải là phương pháp giáo dục trong đó nhà giáo dục dùng lời nói để
thông báo, phân tích, giải thích, chứng minh tính đúng đắn của các chuẩn mực đã
được xã hội quy định. Trọng tâm của giảng giải là cung cấp thông tin về sự kiện và
chuẩn mực hành vi giúp người được giáo dục nắm vững ý nghĩa, nội dung và cách
thực hiện những nguyên tắc và chuẩn mực về văn hóa, đạo đức và lối sống, hình
thành niềm tin và mong muốn thực hiện chúng. Giảng giải thường tiến hành trong
trường hợp người được giáo dục không nhận thức được những điều cần phải làm và
những việc cần phải tránh. Nói như Xukhomlinxki là giúp người được giáo dục nhận
ra điều “cần phải” và ý thức về chúng.
Hiệu quả của phương pháp giảng giải phụ thuộc vào việc chuẩn bị nội dung
và các biện pháp tiến hành phương pháp này của nhà giáo dục. Chuẩn bị tốt nội dung
vấn đề cần giảng giải có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong phương pháp này. Nội
dung giảng giải là những nguyên tắc, những chuẩn mực, những giá trị về đạo đức
thẩm mỹ cần phải hình thành cho học sinh, làm cho các em hiểu được ý nghĩa của
chuẩn mực và cách thức thực hiện chúng. Nội dung chuẩn mực phải hấp dẫn, lôi
cuốn được sự chú ý của người nghe, gắn liền với thực tiễn đất nước, với cuộc sống
và hoạt động của học sinh, gắn với kinh nghiệm sống của các em. Nội dung giảng
giải cần tập trung giải thích và làm rõ ba vấn đề: Chuẩn mực đó là gì? Tại sao phải
thực hiện chúng? Và thực hiện chúng như thế nào? Tuy nhiên, trong thực tiễn, tùy
theo nội dung chuẩn mực, đặc điểm lứa tuổi và hiểu biết của đối tượng mà nhà giáo
dục cần xác định các nội dung giảng giải cho phù hợp.
Nội dung của phương pháp giảng giải được chứa đựng trong các môn học
chính khóa của nhà trường. Các môn học thuộc lĩnh vực xã hội nhân văn là nguồn tư
liệu phong phú cho nội dung giảng giải, đó là những tư tưởng quan điểm có tác dụng
to lớn trong việc hình thành nhân cách cho học sinh. Vì thế, người giáo viên cần tích
hợp các nội dung giáo dục đạo đức công dân, giáo dục văn hóa, thẩm mỹ và giáo dục
thể chất vào nội dung dạy học, tạo điều kiện cho các em nắm vững được các nội dung
của chuẩn mực hành vi, các giá trị văn hóa trong quá trình dạy các môn học ở nhà
trường.
101
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
Nhà giáo dục có thể vận dụng các phương pháp thuyết trình, giảng giải trong
dạy học vào việc hình thành các khái niệm về đạo đức, văn hóa thẩm mỹ cho học
sinh. Tuy nhiên, khi tiến hành giảng giải các nội dung giáo dục cần đảm bảo tính
thuyết phục của các luận chứng, tính hệ thống chặt chẽ của cấu trúc nội dung.
Thái độ của nhà giảng giải phải chân thực, tránh cách nói khuôn sáo, phô
trương, dài dòng. Hiệu quả của giảng giải không những phụ thuộc vào tri thức, kinh
nghiệm sống, trình độ tư tưởng, đạo đức của nhà giáo dục mà còn phụ thuộc vào uy
tín, thái độ của nhà giáo dục đối với học sinh cũng như phụ thuộc vào tình cảm, nghệ
thuật diễn đạt, tính rõ ràng và ngôn ngữ của nhà giáo dục. Người được giáo dục chỉ
chấp nhận và hưởng ứng các chuẩn mực hành vi khi họ biết rằng chính nhà giáo dục
cũng đồng cảm, xúc động và tin tưởng vào vấn đề đang được trình bày.
Kết thúc giảng giải, giáo viên cần đưa ra các kết luận ngắn gọn, xúc tích về
các chuẩn mực để học sinh dễ nhớ, dễ hiểu, dễ hình dung và vận dụng vào thực tiễn.
Người giáo viên cũng có thể khuyến khích học sinh trình bày tóm tắt và đưa chuẩn
mực mới học được vào hệ thống các chuẩn mực đã có.
c. Phương pháp nêu gương
Phương pháp thuyết phục có thể được thực hiện bằng sự mẫu mực của bản
thân nhà giáo dục, của những người lớn, bạn bè, những người được học sinh ngưỡng
mộ và mong muốn noi theo, làm theo. Trong công tác giáo dục, việc sử dụng tấm
gương tốt làm phuơng pháp để giáo dục sẽ làm cho các chuẩn mực và hành vi xã hội
trở nên cụ thể, trực quan và có tính thuyết phục hơn. Giáo dục bằng lời sẽ giảm giá
trị nếu nó không được thuyết phục và chứng minh bằng những tấm gương người thật,
việc thật cụ thể, sinh động.
Nêu gương là phương pháp giáo dục trong đó nhà giáo dục dùng những tấm
gương sáng của cá nhân họăc tập thể hoặc bằng hành động của chính bản thân mình
như là một mẫu mực để kích thích người được giáo dục cảm phục, noi theo và làm
theo tấm gương đó nhằm đạt được mục đích giáo dục đề ra.
Cơ sở của phương pháp nêu gương là dựa vào tính hay bắt chước của trẻ em.
Trẻ em thường bắt chước những người xung quanh, nhất là những người gần gũi,
thân thuộc như cha, mẹ, thầy cô giáo. Sự bắt chước phụ thuộc vào độ tuổi, kinh
nghiệm và trình độ phát triển trí tuệ, đạo đức ở các em. Khi còn nhỏ, trẻ có thể bắt
chước một cách máy móc tất cả những hành vi của người lớn (kể cả những hành vi
tích cực và tiêu cực); khi lớn lên, cùng với sự tích luỹ kinh nghiệm và phát triển của
trí tuệ, sự bắt chước mang tính lựa chọn và tổng hợp hơn. Bắt chước ở lứa tuổi thiếu
niên đã mang tính lựa chọn, sáng lứa tuổi thanh niên, bắt chước mang tính khái quát

102
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
và tổng hợp, những hành vi bắt chước đã được biến đổi phù hợp với những điều kiện
và tình huống nảy sinh trong cuộc sống của họ.
Điều quan trọng trong phương pháp nêu gương đối với nhà giáo dục là sự lựa
chọn và sử dụng tấm gương để giáo dục học sinh. Nhà giáo dục cần căn cứ vào mục
tiêu và nội dung giáo dục mà lựa chọn tấm gương điển hình để giáo dục các em. Việc
nêu những tấm gương tốt như các anh hùng, chiến sĩ thi đua, những tấm gương tốt
trong lao động, sản xuất, trong đấu tranh với các thói hư tật xấu, những tấm gương
của học sinh nghèo vượt khó là điều rất quan trọng. Đó là những hành vi nghĩa cử
của các nhân vật mà các em đã có ấn tượng tốt đẹp, được các em ngưỡng mộ, và
mong muốn có được hành vi cử chỉ đó. Tuy nhiên, cũng có thể sử dụng cái phản biện
để ngăn ngừa và lọai bỏ những thói hư tật xấu trong xã hội. Có thể kể lại và chỉ cho
học sinh thấy số phận của một người nghiện, của kẻ hư hỏng, lang thang bụi đời…để
các em có thể rút ra bài học về cách ứng xử với bản thân và cuộc đời, có thái độ tránh
xa những thói xấu và các tệ nạn xã hội. Nên sử dụng những tấm gương tốt chủ yếu,
lạm dụng gương phải diện có thể phản tác dụng giáo dục.
Khi sử dụng phương pháp nêu gương, điều quan trọng là phải giúp học sinh
có cách cư xử và thái độ đúng đắn với mọi hành vi cử chỉ của người xung quanh; tiếp
thu và học tập cái tốt, lên án và phê phán cái xấu. Vì thế, phương pháp này sẽ có hiệu
quả hơn nếu giáo viên biết phối hợp giữa nêu gương với giải thích đàm thoại về các
chuẩn mực và hành vi xã hội.
Tấm gương của chính bản thân nhà giáo dục là yếu tố có vị trí đặc biệt trong
giáo dục bằng nêu gương. Nếu như việc làm và lối sống của nhà giáo dục không đi
đôi với lời nói, họăc lời nói cũng sai trái thì đó là nguyên nhân dẫn đến sự bất lực và
không có hiệu quả trong giáo dục. Vì thế, người thấy giáo không chỉ “nêu gương”
của người khác, mà bản thân mình phải “làm gương” sáng cho học sinh noi theo.
Tấm gương sống của giáo viên sẽ có sức mạnh thuyết phục hơn mọi lời giải thích và
động viên của họ đối với học sinh.
2.2. Nhóm phương pháp tổ chức hoạt động và hình thành kinh nghiệm ứng
xử xã hội
Quá trình giáo dục không chỉ nhằm hình thành nhân cách cho học sinh những
nhận thức, niềm tin về các chuẩn mực xã hội, điều quan trọng hơn là nó phải được
thể hiện bằng hành vi, thói quen cụ thể. Để làm được việc này giáo dục không chỉ
tác động lên ý thức mà còn tác động lên hành vi. Giáo dục là sự thống nhất giữa ý
thức và hành vi, là quá trình biến những yếu tố nhận thức thành tình cảm, thành hành
vi, biến những hành vi, những kinh nghiệm nghiệm ứng xử xã hội thành thói quen
văn hóa cho học sinh.
103
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
Mục đích chủ yếu của nhóm phương pháp này là hình thành ở người được giáo
dục thành những hành vi phù hợp với các chuẩn mực của đời sống xã hội, hình thành
những phẩm chất nhân cách và hành vi thói quen.
Việc hình thành các hành vi thói quen phù hợp với các chuẩn mực xã hội trong
phương pháp này không phải bằng nghe, bằng nhìn mà chủ yếu bằng cách tham gia
vào các hoạt động, các quan hệ phong phú đa dạng (hoạt động lao động sản xuất,
hoạt động xã hội, sinh hoạt tập thể, vui chơi giải trí…). Thông qua việc tiến hành các
hoạt động và tham gia vào các mối quan hệ xã hội mà người được giáo dục sẽ hình
thành những hành vi mới, điều chỉnh những hành vi đã có phù hợp với các chuẩn
mực xã hội, hình thành niềm tin và thói quen phù hợp với những quy định của xã
hội. Nhóm phương pháp này bao gồm: phương pháp đòi hỏi sư phạm. phương pháp
tập thói quen và phương pháp rèn luyện.
a. Phương pháp đòi hỏi sư phạm
Đòi hỏi sư phạm là một phương pháp giáo dục trong đó nhà giáo dục nêu lên
những yêu cầu, những đòi hỏi đối với tập thể và cá nhân học sinh, tổ chức và giám
sát thực hiện các yêu cầu đó ở học sinh nhằm đạt được các mục tiêu giáo dục đã đề
ra. Phương pháp đòi hỏi sư phạm bao gồm nhiều hoạt động phối hợp giữa nhà giáo
dục và người được giáo dục, trong đó nhà giáo dục nêu lên những yêu cầu về mặt
giáo dục; biến những yêu cầu đó thành yêu cầu của chính bản thân người được giáo
dục, tổ chức, giám sát, điều chỉnh người được giáo dục thực hiện các yêu cầu đó một
cách tự giác, độc lập, sáng tạo.
Những yêu cầu của nhà giáo dục thực chất là hệ thống các chuẩn mực và quy
định xã hội đòi hỏi người được giáo dục phải tuân theo trong khi tham gia các hoạt
động và các mối quan hệ hàng ngày. Hệ thống các chuẩn mực đó thường được cụ thể
hóa dưới dạng:
- Các quy tắc, quy định về họat động của học sinh (những quy định trong học
tập, trong lao động, họat động thể thao, vui chơi giải trí…).
- Các quy tắc ứng xử của học sinh trong quan hệ với những người được tiếp xúc
hằng ngày (ông, bà, cha, mẹ, thầy cô giáo, cán bộ công nhân viên trong nhà
trường…).
- Những quy định về hành vi đối với tập thể, với các tổ chức xã hội cơ
quan…Xác định những yêu cầu và biến nó thành những đòi hỏi đối với học sinh là
công việc đầu tiên trong việc tổ chức các họat động giáo dục cho các em. A.X.
Macarenko đã nhấn mạnh: Nếu không nêu lên những đòi hỏi chân thành, công khai,
thuyết phục, nồng nhiệt, cương quyết thì không thể bắt đầu việc giáo dục tập thể
được.
104
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
Việc đầu tiên khi thực hiện phương pháp này là xác định nội dung của những
đòi hỏi sư phạm. Nội dung đòi hỏi cần xuất phát từ nhiệm vụ giáo dục, từ tình hình
thực tiễn của nhà trường có tính đến đặc điểm và trình độ phát triển của người được
giáo dục. Chúng phải mang tính cụ thể, rõ ràng, được cụ thế hoá thành các yêu cầu
cụ thể và tỉ mỉ hơn để học sinh có thể nhận thức và hành động phù hợp với các yêu
cầu đề ra. Những yêu cầu sư phạm phải chỉ rõ những việc cần phải làm, những việc
nên làm, những việc cần phải tránh. Cũng không nên đặt ra các yêu cầu cao quá mức,
ngược lại cũng không nên đưa ra những yêu cầu mà người học thực hiện quá dễ dàng,
không đòi hỏi vươn lên về mặt ý chí. Trọng tâm của đòi hỏi sư phạm là xây dựng
đựoc bản nội quy, những quy định về nề nếp sinh họat, lao động, học tập, rèn luyện,
tu dưỡng của học sinh.
Khi đã đề ra các yêu cầu, cần thiết phải tổ chức thực hiện các biện pháp nhằm
biến yêu cầu thành đòi hỏi sư phạm đối với học sinh, làm cho học sinh biến các yêu
cầu giáo dục của nhà sư phạm thành chính yêu cầu của bản thân mình và quyết tâm
thực hiện chúng. Công việc này đòi hỏi người giáo viên ngay từ đầu năm học phổ
biến đến từng học sinh, tạo điều kiện cho các em và tập thể có thời gian học tập thảo
luận kỹ về các quy chế, quy định, nội quy của nhà truờng. Khuyến khích và hướng
dẫn học sinh viết cam kết thi đua nghiêm túc thực hiện các quy chế, quy định, nội
quy đó. Nhà giáo dục có thể giải thích và hướng dẫn những điều các em còn chưa rõ,
giúp đỡ tập thể ra nghị quyếtt khẳng định sự quyết tâm trong việc thực hiện.
Không nên đưa ra quá nhiều yêu cầu hoặc yêu cầu quá cao so với khả năng
thực hiện của các em. Nhà trường cần tạo điều kiện về thời gian, về cơ sở vật chất để
các em thực hiện các đòi hỏi sư phạm. Chẳng hạn, học sinh thực hiện yêu cầu không
vứt rác bừa bãi sẽ tốt hơn nếu nhà trường bố trí chỗ đổ rác ở nơi thụân lợi cho các
em. Việc thực hiện yêu cầu lớp học ngăn nắp, vệ sinh sẽ tốt hơn nếu có chỗ để nón,
mũ, áo đi mưa, có ngăn bàn để cặp sách và đồ dùng học tập. Đòi hỏi sư phạm sẽ được
thực hiện tốt hơn nếu nàh giáo dục phát huy được tính tích cực độc lập sáng tạo của
tập thể và mỗi học sinh trong quá trình thực hiện những yêu cầu. Dư luận tập thể tích
cực sẽ tạo nên áp lực thúc đẩy họat động của các thành viên. Nên đề cao vai trò tự
quản của học sinh kết hợp với việc tăng cường các biện pháp kiểm tra đánh giá, kịp
thời để phát hiện và uốn nắn các lệch lạc có thể xảy ra.
b. Phương pháp tập thói quen
Thói quen là những cử chỉ và hành động ổn định trở thành nhu cầu của con
người, mà nếu nhu cầu đó không được thoả mãn, con người cảm thấy khó chịu, bứt
rứt, không yên. Thói quen là bản tính thứ hai của con người, nó làm cho hành động
của cá nhân mang tính tự nhiên, ổn định, bền vững và đặc trưng của mỗi cá nhân.
105
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
Nhờ có kỹ xảo và thói quen mà hành vi của cá nhân mang tính tự nhiên, hành động
mang tính dứt khoát, quả quyết. Có thói quen tốt phù hợp và những thói quen xấu
không phù hợp với các chuẩn mực xã hội. Cần xoá bỏ thói quen không phù hợp, hình
thành những thói quen, hành vi phù hợp với các chuẩn mực xã hội thể hiện trong mối
quan hệ giữa học sinh với những người thân trong gia đình, với bạn bè, thầy cô giáo,
thể hiện trong cuộc sống, lao động, học tập và vui chơi.
Muốn có được thói quen, người được giáo dục không phải chỉ hình dung rõ
nét các hành vi mang tính chuẩn mực dưới dạng khái quát, mà quan trọng hơn là phải
trải qua một quá trình luyện tập hành vi đó theo những cách nhất định. Vì thế phương
pháp tập thói quen là phương pháp giáo dục trong đó nhà giáo dục tổ chức cho học
sinh lặp đi lặp lại có tổ chức, thường xuyên những hành động cử chỉ dưới dạng khác
nhau trong các tình huống tương tự, làm cho hành động đó trở thành nhu cầu và thói
quen tốt của học sinh.
Để thực hiện phương pháp này, nhà giáo dục cần thực hiện tốt các nội dung
sau:
- Xác định những thói quen cần phải hình thành cho học sinh, bời vì trong thực
tiễn giáo dục, học sinh tham gia vào nhiều họat động với các mối quan hệ khác nhau,
nếu những hành động được tiến hành thường xuyên liên tục trong những điều kiện
nhất định sẽ trở thành các thói quen. Thói quen cần hình thành cho học sinh phải là
những hành vi có tính phổ biến, được cá nhân sử dụng thường xuyên hàng ngày trong
họat động cũng như trong ứng xử với những người xung quanh. Những hình thái ứng
xử mang tính khái quát, mềm dẻo, ổn định trong các tình huống ít thay đổi (ăn ở hợp
vệ sinh, những ứng xử trong giao tiếp, trong học tập, trong lao động vui chơi) nếu
được luyện tập thường xuyên sẽ trở nên ổn định, vũng chắc, đặc trưng cho cá nhân.
- Cần làm cho học sinh nắm vững mẫu hành vi cần được hình thành. Nhà giáo
dục cần giới thiệu cho các em những quy tác hành vi ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu. trên
cơ sở đó phân tích và làm rõ mẫu hành vi thói quen này. Chỉ cho học sinh thấy rõ
những hành động và thao tác nào các em đã thực hiện tốt hoặc thực hiện còn khó
khăn. Khi giải thích và hướng dẫn học sinh, nhà giáo dục có thể sử dụng tranh vẽ,
băng hình, đưa ra các ví dụ cụ thể hoặc giáo viên làm mẫu cho học sinh quan sát và
thực hiện theo mẫu.
- Khi đã nắm được mẫu của hành vi, cần cho học sinh tiến hành luyện tập đều
đặn và thường xuyên bằng cách đặt ra cho các em những nhiệm vụ, những yêu cầu
có tính học tập thực tiễn, gắn liền với việc giải quyết các nhiệm vụ cụ thể. Tuy nhiên
công việc này cần được thực hiện thường xuyên, đòi hỏi việc thực hiện sinh hoạt
phải theo chế độ và nề nếp nhất định.
106
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
c. Phương pháp rèn luyện
Phương pháp tập thói quen và phương pháp rèn luyện có điểm giống nhau là
đều hình thành những hành vi thói quen của người đựơc giáo dục thông qua họat
động và bằng họat động nên giữa chúng chỉ có sự phân bỉệt tương đối. Phương pháp
tập thói quen chú ý đến việc hình thành các hành vi thói quen còn phương pháp rèn
luyện lại quan tâm nhiều đến các phẩm chất nhân cách và ý chí của người được giáo
dục, quan tâm đến việc tổ chức cho người được giáo dục thể hiện ý thức, tình cảm
của mình về các chuẩn mực xã hội trong các tình huống đa dạng của cuộc sống. Vì
vậy, phương pháp tập thói quen thường được sử dụng trong những điều kiện ít thay
đổi, còn phương pháp rèn luyện thường được sử dụng trong các tình huống ít nhiều
có sự biến đổi khác nhau, làm cho người được giáo dục bộc lộ những phẩm chất, đòi
hỏi ở họ có sự cố gắng mới thực hiện được. Chẳng hạn, muốn hình thành và củng cố
tính kiên trì ở học sinh, cần thiết phải đặt các em vào những hoàn cảnh có vấn đề để
các em phải khắc phục nhằm hoàn thành nhiệm vụ. Thực hiện hành vi ứng xử nhiều
lần trong các điềukiện giống nhau nhằm hình thành thói quen, còn thực hiện hành
động trong nhiều tình huống khác nhau nhằm hình thành ý chí khắc phục khó khăn
là đặc điểm cơ bản của rèn luyện.
Cũng như tập thói quen, phương pháp rèn luyện cũng phải yêu cầu người được
giáo dục thực hiện nhiều lần những hành động phụ hợp với các khuôn mẫu ứng xử.
Các hành vi này không thực hiện một cách máy móc mà nó gắn liền với tình cảm, ý
chí, nhu cầu và động cơ họat động của cá nhân trong những tình huống khác nhau
của cuộc sống. Muốn thực hiện phương pháp này cần thực hiện tốt yêu cầu sau:
- Tổ chức các tình huống, các điều kiện để học sinh tham gia giải quyết chúng
bằng các hành động tích cực phù hợp với các chuẩn mực và đạo đức xã hội. Tình
huống mà giáo viên lựa chọn có thể là các họat động gắn liền với thực tiễn cuộc sống
như tham gia an toàn giao thông, giũ gìn vệ sinh môi trường, công tác đền ơn đáp
nghĩa…Tuỳ theo phẩm chất cần giáo dục cho học sinh mà nhà giáo dục có thể lựa
chọn các tình huống và họat động cho phù hợp. Chẳng hạn, muốn giáo dục tính kiên
trì thì nhà giáo dục cần đưa người được giáo dục vào các họat động đòi hỏi phải có
tính kiên trì.
- Rèn luyện sẽ phát huy được hiệu quả khi người được giáo dục ý thức được
nhiệm vụ của mình, tự mình đề ra các họat động, có kế hoạch và quyết tâm thực hiện
chúng. Người giáo viên cần hướng dẫn học sinh và tập thể học sinh, đề ra những kế
hoạch phù hợp, động viên khuyến khích các em quyết tâm thực hiện các kế hoạch đã
đề ra.

107
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
2.3 Nhóm các phương pháp kích thích họat động và điều chỉnh hành vi ứng
xử của người được giáo dục
Nhóm phương pháp này có khả năng to lớn trong việc động viên học sinh phát
huy mọi sức lực và tinh thần, thể chất, tình cảm và trí tuệ để đạt hiệu quả cao nhất
trong học tập và rèn luyện. Đặc điểm cơ bản của nhóm phương pháp này là dựa trên
kết quả hành vi mà đối tượng giáo dục đã thực hiện trước đây để phát huy tính tích
cực của học sinh vào các họat động thực tiễn. Khuyến khích, động viên, lôi cuốn
lòng nhiệt tình tham gia vào họat động mà học sinh đã đạt được những thành quả
nhất định. Khắc phục, ngăn ngừa, uốn nắn hay trách phạt đối với những biểu hiện
tiêu cực không được xã hội thừa nhận.
Chức năng của nhóm phương pháp này là khuyến khích, củng cố, điều chỉnh
hành vi của học sinh, tạo ra những tiền đề tâm lý thuận lợi cho việc thực hiện nhiệm
vụ mới trên cơ sở những họat động trước đây của các em. Những phương pháp có
hiệu lực để khuyến khích, điều chỉnh và sửa chữa hành vi của học sinh là khen và
chê, khuyến khích và trừng phạt. Khuyến khích, khen và thưởng là phương pháp để
củng cố và kích htích những động cơ và hình thức hành vi đúng đắn. Trách phạt là
phương pháp nhằm ức chế, kìm hãm và điều chỉnh hành vi không phù hợp với các
chuẩn mực xã hội.
a. Phương pháp khen thưởng
Trong công tác giáo dục, khen thưởng có tác dụng củng cố và phát huy những
phẩm chất tích cực trong nhân cách của học sinh cũng như những truyền thống tốt
đẹp trong tập thể, giúp cho cá nhân và tập thể khẳng định được mình, phấn khởi vươn
lên trong tu dưỡng và phấn đấu. Khen thưởng không những có tác dụng động viên
người được khen mà còn thúc đẩy những học sinh khác noi theo và phấn đấu vươn
lên. Khen thưởng góp phần quan trọng tạo nên động cơ thúc đẩy quá trình giáo dục
đạt hiệu quả mong muốn vì nó đem lại cho cá nhân và tập thể sự hân hoan, vui sướng,
tự hào, tự tin; làm nảy sinh ý muốn và quyết tâm phấn đấu tốt hơn nữa.
Tác dụng kích thích của khen thưởng là ở chỗ nó thể hiện sự công nhận của
nhà giáo dục, của tập thể và xã hội đối với kiểu hành vi mà học sinh đã lựa chọn và
thực hiện. Vì thế, khen thưởng cần có sự đồng tình, tán thưởng của dư luận tập thể
mới có tác dụng tích cực đối với tập thể và cá nhân người được khen. Khen thưởng
cần sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, công bằng, khách quan. Nếu khen thưởng không
đúng (thiếu khách quan, quá dễ dãi…) thì khen thưởng sẽ biến thành mặt đối lập, gây
ra thói kiêu ngạo, tự mãn, ích kỷ ở người được khen.
Có nhiều hình thức và biện pháp khen thưởng, tùy theo đối tượng giáo dục mà
có các hình thức và mức độ khen thưởng khác nhau. Có khi chỉ một cái nhìn đặc biệt,
108
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
một cái gật đầu đồng tình, một nụ cười tán thưởng của nhà giáo dục trước một lời
nói, một hành động đáng khen của học sinh cũng làm cho các em vui thích về những
hành động đã thực hiện, kích thích lòng ham muốn được hành động như vậy. Nếu
thành tích, ưu điểm của học sinh do có sự cố gắng thường xuyên và khắc phục nhiều
khó khăn mới đạt được thì cần phải có những hình thức và biện pháp khen thưởng
xúng đáng hơn. Việc khen thưởng trong trường hợp này không chỉ thể hiện ở sự đồng
tình của giáo viên mà còn có sự đồng thuận của tập thể, sự công nhận của các cấp có
thẩm quyền. Điều quan trọng khen thưởng phải có tác dụng cổ vũ, động viên những
thành viên trong tập thể mong muốn noi theo.
b. Phương pháp trách phạt
Trách phạt là phương pháp giáo dục thể hiện thái độ ngh iêm khắc của nhà
giáo đối với những hành vi sai trái của người được giáo dục, tạo cơ hội cho người
được giáo dục nhận thấy lỗi lầm về hành vi sai trái của mình, hối hận và quyết tâm
không tái phạm nữa. Tác dụng của trách phạt, của kỹ luật là làm nảy sinh ở học sinh
tâm trạng xấu hổ, sự ân hận trước tập thể và nhà giáo dục về hành vi của mình. Để
có tác dụng đó, trách phạt cần có sự đồng tình của tập thể. Sự trách phạt và thi hành
kỷ luật phải gắn liền với việc làm cho học sinh tự ý thức được tác hại của những hành
vi xấu. Chừng nào học sinh chưa hiểu, chưa nhận rõ sự sai trái của mình thì trách
phạt cũng chưa phát huy được hết tác dụng đối với học sinh đó. Thái độ nghiêm khắc
của nhà giáo dục và tập thể có vị trí đặc biệt quan trọng đối với phương pháp trách
phạt. Sự không tán thành, phủ nhận, chê trách, lên án hay trừng phạt đối với những
thái độ, hành vi trái với chuẩn mực xã hội sẽ làm cho người mắc lỗi nhận ra khuyết
điểm của mình, nhờ đó giúp họ thêm ý chí, nghị lực, chống lại sự cám dỗ, ức chế
những hành vi tương tự.
Trách phạt cần mang tính giáo dục, đảm bảo sự công bằng, công khai và tôn
trọng nhân cách của người được giáo dục. Khi trách phạt cần phải biết rõ tình huống
phạm lỗi của học sinh, nhất là phải biết được động cơ phạm lỗi, để từ đó lựa chọn
nội dung và hình thức trách phạt cho phụ hợp.
Trong thực tiễn giáo dục, phương pháp trách phạt thường được thể hiện ở
nhiều hình thức khác nhau tùy theo mức độ sai phạm về phẩm chất đạo đức, lối sống,
hành vi ứng xử…nhà giáo dục có thể đưa ra các hình thức từ nhẹ đến nặng như: nhắc
nhở, phê bình cảnh cáo, các hình thức kỷ luật như khắc phục những thiệt hại do hành
vi sai trái gây ra, buộc thôi học…Tuy nhiên, việc lựa chọn những hình thức và mức
độ trách phạt cần dựa trên các nguyên tắc giáo dục, đặc biệt là nguyên tắc tôn trọng
và yêu cầu cao đối với người mắc khuyết điểm. Nguyên tắc này đòi hỏi tuyệt đối
không đánh đập hay xúc phạm đến lòng tự trọng và nhân phẩm của người mắc lỗi,
109
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
giữ được quan hệ thầy - trò, quan hệ cá nhân – tập thể tốt đẹp ngay cả trong trường
hợp học sinh mắc sai lầm, khuyết điểm và bị thi hành kỹ luật. Sự trách phạt của tập
thể và nhà giáo dục phải nghiêm khắc nhưng với thái độ chân thành mong muốn giúp
đỡ, giáo dục học sinh sử chữa những sai lầm, đồng thời trách phạt cũng cần phải
khách quan, công bằng tạo được sự đồng tình của dư luận tập thể học sinh.
3.Lựa chọn các phương pháp giáo dục
Lựa chọn và sử dụng phương pháp giáo dục có hiệu quả vừa là khoa học vừa
là nghệ thuật của nhà giáo dục, khi lựa chọn phương pháp giáo dục cần căn cứ vào
những yếu tố sau:
Khi lựa chọn một phương pháp giáo dục cần tính đến các mối quan hệ của nó
với tất cả các phương pháp và biện pháp khác được sử dụng trước và sau đó, tính đến
những phương tiện và điều kiện tiến hành các hoạt động giáo dục bởi vì các phương
pháp giáo dục có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo thành một tổng thể thống nhất
hướng vào việc hình thành những phẩm chất nhân cách toàn diện của học sinh. Sử
dụng một phương pháp giáo dục sẽ làm cho quá trình giáo dục không toàn diện và
ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của quá trình này. Thực hiện tốt một phương
pháp này là điều kiện để thực hiện tốt một phương pháp tiếp theo và ngược lại. Không
có một phương pháp nào lại được coi là tốt khi nó tách rời khỏi hệ thống các phương
pháp giáo dục. Mỗi nhóm phương pháp và mỗi phương pháp giáo dục đều có chức
năng và những ưu điểm hạn chế nhất định trong việc tác động đến việc hình thành
nhân cách. Không có phương pháp giáo dục nào được coi là tối ưu trong mọi trường
hợp. Nhà giáo dục cần tính đến những điều kiện thực tiễn để lựa chọn và sử dụng
phối hợp tất cả các phương pháp giáo dục một cách hợp lý.
Phương pháp chịu sự quy định của mục tiêu và là phương tiện để thực hiện
mục tiêu, do đó khi lựa chọn và sử dụng phương pháp cần căn cứ vào mục tiêu, nội
dung giáo dục cụ thể. Chẳng hạn, nếu giáo dục ý thức nhân cách nên tập trung vào
các phương pháp tổ chức hoạt động thực tiễn. Nội dung giáo dục cũng góp phần quy
định phương pháp giáo dục. Việc giáo dục đạo đức khác với việc giáo dục thể dục
vệ sinh và khác với giáo dục lao động hướng nghiệp…vì thế, người giáo viên cần
dựa vào các nội dung giáo dục mà xác định phương pháp giáo dục cho thích hợp.
Việc lựa chọn và sử dụng phương pháp phụ thuộc chủ yếu vào nhà giáo dục,
bởi lẽ, họ là người quyết định sử dụng phương pháp giáo dục nào trong những tình
huống cụ thể. Tuy nhiên, muốn sử dụng phương pháp có hiệu quả, nhà giáo dục cần
căn cứ vào trình độ và khả năng thực hiện của nhà giáo dục và người được giáo dục.
Muốn thành công trong lựa chọn và sử dụng phương pháp giáo dục, nhà giáo dục
cần tính đến tất cả các yếu tố trên.
110
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
Câu hỏi ôn tập và thảo luận
1. Định nghĩa phương pháp giáo dục. Mối quan hệ giữa phương pháp giáo dục
với các thành tố khác của quá trình giáo dục.
2. Nêu những đặc điểm chính của phương pháp giáo dục trong nhà trường?
3. Phân tích những cơ sở của việc phân loại các phương pháp giáo dục?
4. Nêu những điểm chủ yếu của nhóm phương pháp thuyết phục?
5. Nêu những đặc điểm chủ yếu của phương pháp tổ chức hoạt động thực tiễn
hình thành hành vi thói quen?
6. Nêu những đặc điểm chủ yếu của phương pháp kích thích hoạt động và điều
chỉnh hành vi ứng xử của người được giáo dục.
7. Hãy phân tích những yêu cầu khi thực hiện khen thưởng và trách phạt đối với
học sinh.
8. Phân tích những cơ sở khoa học của việc lựa chọn và sử dụng những phương
pháp giáo dục?
9. Tại sao trong quá trình giáo dục lại phải sử dụng phối hợp các phương pháp
giáo dục?

G. KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ HỌC SINH Ở TIỂU HỌC


1. KHÁI NIỆM KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ GIÁO DỤC Ở TIỂU
HỌC
Những khái niệm cơ bản về đánh giá kết quả học tập
1.1. Kiểm tra là thuật ngữ chỉ cách thức hoặc hoạt động giáo viên sử dụng để
thu thập thông tin về biểu hiện kiến thức, kĩ năng và thái độ của học sinh trong học
tập nhằm cung cấp dữ kiện làm cơ sở cho việc đánh giá.
1.2. Đánh giá kết quả học tập là thuật ngữ chỉ quá trình hình thành những nhận
định, rút ra những kết luận hoặc phán đoán về trình độ, phẩm chất của người học,
hoặc đưa ra những quyết định về việc dạy học dựa trên cơ sở những thông tin đã thu
thập được một cách hệ thống trong quá trình kiểm tra. Trong khuôn khổ tài liệu này,
đánh giá kết quả học tập được hiểu là đánh giá học sinh về học lực và hạnh kiểm
thông qua quá trình học tập các môn học cũng như các hoạt động khác trong phạm
vi nhà trường.
Đánh giá khả năng và những thành quả học tập của học sinh để từ đó điều
chỉnh nội dung và phương pháp giảng dạy nhằm giúp đỡ người học thành công hơn
trong học tập là nhu cầu và là nhiệm vụ của giáo viên trong quá trình giảng dạy. Điều
quan trọng nhất trong quá trình kiểm tra đánh giá các kết quả học tập của quá trình
dạy học là phải làm rõ các tiêu chí đánh giá và phải thực hiện quá trình ấy một cách
111
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
hệ thống và liên tục. Việc đánh giá thiếu chuẩn bị hay tuỳ tiện có thể sẽ không đáng
tin cậy, thiếu công bằng và vô căn cứ.
1.3. Đánh giá kết quả học tập: Theo từ điển Giáo dục học NXB Tự Điển bách
khoa 2001 thuật ngữ đánh giá kết quả học tập được định nghĩa: “Xác định mức độ
nắm được kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo của học sinh so yêu cầu chương trình đề ra”.
2. KIỂM TRA Ở TIỂU HỌC
Phân loại hoạt động kiểm tra theo thời gian kiểm tra: kiểm tra thường
xuyên và kiểm tra định kì.
2.1. Kiểm tra thường xuyên
a) Khái niệm
Kiểm tra thường xuyên là tiến trình thu thập thông tin về việc học tập của học
sinh một cách liên tục trong lớp học.
b) Mục đích
- Dùng để đánh giá những phương diện cụ thể hay những phần của chương
trình học.
- Giúp giáo viên theo dõi tiến trình học của người học trong suốt quá trình
giảng dạy.
- Giúp giáo viên đưa ra những biện pháp điều chỉnh kịp thời cho học sinh học
tốt hơn.
- Giúp học sinh nhận ra những tiến bộ và chưa tiến bộ của bản thân từ đó có
hướng phấn đấu học tập tốt hơn.
c) Đặc điểm
Kiểm tra thường xuyên là phương thức đánh giá mềm dẻo không chính thức,
giúp giáo viên hình dung điểm yếu và điểm mạnh của học sinh trong kiến thức, kĩ
năng và thái độ.
d) Hình thức
- Vấn đáp.
- Thực hành.
- Làm bài tập thường ngày theo nhóm hoặc cá nhân trong giờ học.
Quá trình kiểm tra thường xuyên việc quan trọng là phải thực hiện việc xác định
và thực hiện các phương pháp sao cho hoạt động kiểm tra này thực sự tạo nên những
tác động tích hợp đến quá trình học tập và phát triển của người học.
2.2. Kiểm tra định kì
a) Khái niệm
Kiểm tra định kì là phương thức thu thập kết quả học tập của học sinh theo
thời điểm.
112
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
b) Mục đích
Giúp giáo viên biết xem mỗi học sinh đã tiếp thu được gì sau mỗi một đơn vị
bài học hay sau mỗi phần học để có thể kịp thời bổ sung hay điều chỉnh nội dung và
phương pháp dạy học cho chương trình kế tiếp.
c) Hình thức
- Bài trắc nghiệm khách quan (đúng sai, trắc nghiệm nhiều lựa chọn, trắc
nghiệm ghép nối, trắc nghiệm trả lời ngắn).
- Bài tự luận hạn chế hay mở rộng.
3.2. Phân loại hoạt động kiểm tra theo mục đích sử dụng kết quả:
3.2.1. Kiểm tra đột xuất chuẩn đoán: là phương thức xem xét kết quả học
tập không theo những thời điểm được ấn định trước. Kết quả thu được phản ánh hành
vi học tập điển hình của học sinh (làm bài trong điều kiện bình thường không có sự
chuẩn bị hay nỗ lực tối đa của học sinh) đồng thời chẩn đoán các mặt tồn tại của quá
trình dạy học từ đó quyết định điều chỉnh việc dạy và học. Mặt khác nó còn là công
cụ thanh tra hoặc quản lý giáo dục nhằm xác định trình độ học sinh của một trường,
một nhóm học sinh so với trình độ chuẩn về kiến thức, kỹ năng mà học sinh cần lĩnh
hội ở một cấp học, lớp học nào đó.
Hình thức kiểm tra: Phỏng vấn, bảng câu hỏi, quan sát, trắc nghiệm…
3.2.2. Kiểm tra tổng kết: là phương thức xem xét thành quả học tập được thực
hiện vào cuối khóa học/ môn học. Kết quả thu được là phương tiện để đo mức độ
lĩnh hội của học sinh trong lĩnh vực học tập và được dùng để xếp loại học tập hoặc
để xác định thành quả của học sinh đạt được so với mục tiêu dạy học đã đề ra. Do
vậy, kiểm tra tổng kết còn được gọi là hình thức đánh giá thành tích học tập của học
sinh và nó có ý nghĩa quan trọng về mặt quản lý.
4. ĐÁNH GIÁ Ở TIỂU HỌC
Đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì
Đánh giá thường xuyên được tiến hành dưới các hình thức kiểm tra thường
xuyên gồm: kiểm tra miệng, kiểm tra viết (dưới 20 phút), quan sát học sinh qua hoạt
động học tập, thực hành vận dụng kiến thức, kĩ năng.
Đánh giá định kì kết quả học tập của học sinh được tiến hành sau từng giai
đoạn học tập, nhằm thu nhận thông tin, điều chỉnh quá trình dạy học; thông báo cho
gia đình nhằm mục đích phối hợp động viên, giúp đỡ học sinh.
Đối với các môn học đánh giá bằng điểm số kết hợp nhận xét: bài kiểm tra
định kì được tiến hành bằng hình thức tự luận hoặc kết hợp tự luận với trắc nghiệm
trong thời gian 1 tiết.

113
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
Đối với các môn học đánh giá bằng nhận xét: căn cứ vào các nhận xét trong
quá trình học tập, không có bài kiểm tra định kì.
4.1. Đánh giá thường xuyên
Đánh giá thường xuyên là đánh giá trong quá trình học tập, rèn luyện, của học
sinh, được thực hiện theo tiến trình nội dung của các môn học và các hoạt động giáo
dục khác, trong đó bao gồm cả quá trình vận dụng kiến thức, kĩ năng ở nhà trường,
gia đình và cộng đồng.
Trong đánh giá thường xuyên, giáo viên ghi những nhận xét đáng chú ý nhất
vào sổ theo dõi chất lượng giáo dục, những kết quả học sinh đã đạt được hoặc chưa
đạt được; biện pháp cụ thể giúp học sinh vượt qua khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ;
các biểu hiện cụ thể về sự hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh;
những điều cần đặc biệt lưu ý để giúp cho quá trình theo dõi, giáo dục đối với cá
nhân, nhóm học sinh trong học tập, rèn luyện.
4.1.1. Đánh giá thường xuyên hoạt động học tập, sự tiến bộ và kết quả học
tập theo chuẩn kiến thức, kĩ năng từng môn học, hoạt động giáo dục khác theo
chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học
Tham gia đánh giá thường xuyên gồm: giáo viên, học sinh (tự đánh giá và
nhận xét, góp ý bạn qua hoạt động của nhóm, lớp); khuyến khích sự tham gia đánh
giá của cha mẹ học sinh.
Giáo viên đánh giá:
a) Trong quá trình dạy học, căn cứ vào đặc điểm và mục tiêu của bài học, của
mỗi hoạt động mà học sinh phải thực hiện trong bài học, giáo viên tiến hành một số
việc như sau:
- Quan sát, theo dõi, trao đổi, kiểm tra quá trình và từng kết quả thực hiện
nhiệm vụ của học sinh, nhóm học sinh theo tiến trình dạy học;
- Nhận xét bằng lời nói trực tiếp với học sinh hoặc viết nhận xét vào phiếu, vở
của học sinh về những kết quả đã làm được hoặc chưa làm được; mức độ hiểu biết
và năng lực vận dụng kiến thức; mức độ thành thạo các thao tác, kĩ năng cần thiết,
phù hợp với yêu cầu của bài học, hoạt động của học sinh;
- Quan tâm tiến độ hoàn thành từng nhiệm vụ của học sinh; áp dụng biện pháp
cụ thể để kịp thời giúp đỡ học sinh vượt qua khó khăn. Do năng lực của học sinh
không đồng đều nên có thể chấp nhận sự khác nhau về thời gian, mức độ hoàn thành
nhiệm vụ;
b) Hàng tuần, giáo viên lưu ý đến những học sinh có nhiệm vụ chưa hoàn
thành; giúp đỡ kịp thời để học sinh biết cách hoàn thành;

114
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
c) Hàng tháng, giáo viên ghi nhận xét vào sổ theo dõi chất lượng giáo dục về
mức độ hoàn thành nội dung học tập từng môn học, hoạt động giáo dục khác; dự kiến
và áp dụng biện pháp cụ thể, riêng biệt giúp đỡ kịp thời đối với những học sinh chưa
hoàn thành nội dung học tập môn học, hoạt động giáo dục khác trong tháng;
d) Khi nhận xét, giáo viên cần đặc biệt quan tâm động viên, khích lệ, biểu
dương, khen ngợi kịp thời đối với từng thành tích, tiến bộ giúp học sinh tự tin vươn
lên;
đ) Không dùng điểm số để đánh giá thường xuyên.
Học sinh tự đánh giá và tham gia nhận xét, góp ý bạn, nhóm bạn:
- Học sinh tự đánh giá ngay trong quá trình hoặc sau khi thực hiện từng nhiệm
vụ học tập, hoạt động giáo dục khác, báo cáo kết quả với giáo viên;
- Học sinh tham gia nhận xét, góp ý bạn, nhóm bạn ngay trong quá trình thực
hiện các nhiệm vụ học tập môn học, hoạt động giáo dục; thảo luận, hướng dẫn, giúp
đỡ bạn hoàn thành nhiệm vụ.
Cha mẹ học sinh tham gia đánh giá:
Cha mẹ học sinh được khuyến khích phối hợp với giáo viên và nhà trường
động viên, giúp đỡ học sinh học tập, rèn luyện; được giáo viên hướng dẫn cách thức
quan sát, động viên các hoạt động của học sinh hoặc cùng học sinh tham gia các hoạt
động; trao đổi với giáo viên các nhận xét, đánh giá học sinh bằng các hình thức phù
hợp, thuận tiện nhất như lời nói, viết thư.
4.1.2. Đánh giá thường xuyên sự hình thành và phát triển năng lực của
học sinh
1.2.1. Các năng lực của học sinh được hình thành và phát triển trong quá trình
học tập, rèn luyện, hoạt động trải nghiệm cuộc sống trong và ngoài nhà trường. Giáo
viên đánh giá mức độ hình thành và phát triển một số năng lực của học sinh thông
qua các biểu hiện hoặc hành vi như sau:
a) Tự phục vụ, tự quản: thực hiện được một số việc phục vụ cho sinh hoạt của
bản thân như vệ sinh thân thể, ăn, mặc; một số việc phục vụ cho học tập như chuẩn bị
đồ dùng học tập ở lớp, ở nhà; các việc theo yêu cầu của giáo viên, làm việc cá nhân,
làm việc theo sự phân công của nhóm, lớp; bố trí thời gian học tập, sinh hoạt ở nhà;
chấp hành nội quy lớp học; cố gắng tự hoàn thành công việc;
b) Giao tiếp, hợp tác: mạnh dạn khi giao tiếp; trình bày rõ ràng, ngắn gọn; nói
đúng nội dung cần trao đổi; ngôn ngữ phù hợp với hoàn cảnh và đối tượng; ứng xử
thân thiện, chia sẻ với mọi người; lắng nghe người khác, biết tranh thủ sự đồng thuận;
c) Tự học và giải quyết vấn đề: khả năng tự thực hiện nhiệm vụ học cá nhân
trên lớp, làm việc trong nhóm, lớp; khả năng tự học có sự giúp đỡ hoặc không cần
115
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
giúp đỡ; tự thực hiện đúng nhiệm vụ học tập; chia sẻ kết quả học tập với bạn, với cả
nhóm; tự đánh giá kết quả học tập và báo cáo kết quả trong nhóm hoặc với giáo viên;
tìm kiếm sự trợ giúp kịp thời của bạn, giáo viên hoặc người khác; vận dụng những
điều đã học để giải quyết nhiệm vụ trong học tập, trong cuộc sống; phát hiện những
tình huống mới liên quan tới bài học hoặc trong cuộc sống và tìm cách giải quyết.
1.2.2. Hàng ngày, hàng tuần, giáo viên quan sát các biểu hiện trong các hoạt
động của học sinh để nhận xét sự hình thành và phát triển năng lực; từ đó động viên,
khích lệ, giúp học sinh khắc phục khó khăn, phát huy ưu điểm và các năng lực riêng,
điều chỉnh hoạt động để tiến bộ.
Hàng tháng, giáo viên thông qua quá trình quan sát, ý kiến trao đổi với cha mẹ
học sinh và những người khác (nếu có) để nhận xét học sinh, ghi vào sổ theo dõi chất
lượng giáo dục.
4.1.3. Đánh giá thường xuyên sự hình thành và phát triển phẩm chất của
học sinh
4.1.3.1. Các phẩm chất của học sinh được hình thành và phát triển trong quá
trình học tập, rèn luyện, hoạt động trải nghiệm cuộc sống trong và ngoài nhà trường.
Giáo viên đánh giá mức độ hình thành và phát triển một số phẩm chất của học sinh
thông qua các biểu hiện hoặc hành vi như sau:
a) Chăm học, chăm làm, tích cực tham gia hoạt động giáo dục: đi học đều,
đúng giờ; thường xuyên trao đổi nội dung học tập, hoạt động giáo dục với bạn, thầy
giáo, cô giáo và người khác; chăm làm việc nhà giúp đỡ cha mẹ; tích cực tham gia
các hoạt động, phong trào học tập, lao động và hoạt động nghệ thuật, thể thao ở
trường và ở địa phương; tích cực tham gia và vận động các bạn cùng tham gia giữ
gìn vệ sinh, làm đẹp trường lớp, nơi ở và nơi công cộng;
b) Tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm: mạnh dạn khi thực hiện nhiệm vụ học
tập, trình bày ý kiến cá nhân; nhận làm việc vừa sức mình; tự chịu trách nhiệm về
các việc làm, không đổ lỗi cho người khác khi mình làm chưa đúng; sẵn sàng nhận
lỗi khi làm sai;
c) Trung thực, kỉ luật, đoàn kết: nói thật, nói đúng về sự việc; không nói dối,
không nói sai về người khác; tôn trọng lời hứa, giữ lời hứa; thực hiện nghiêm túc quy
định về học tập; không lấy những gì không phải của mình; biết bảo vệ của công; giúp
đỡ, tôn trọng mọi người; quý trọng người lao động; nhường nhịn bạn;
d) Yêu gia đình, bạn và những người khác; yêu trường, lớp, quê hương, đất
nước: quan tâm chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh em; kính trọng người lớn, biết ơn thầy
giáo, cô giáo; yêu thương, giúp đỡ bạn; tích cực tham gia hoạt động tập thể, hoạt
động xây dựng trường, lớp; bảo vệ của công, giữ gìn và bảo vệ môi trường; tự hào
116
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
về người thân trong gia đình, thầy giáo, cô giáo, nhà trường và quê hương; thích tìm
hiểu về các địa danh, nhân vật nổi tiếng ở địa phương.
4.1.3.2. Hàng ngày, hàng tuần, giáo viên quan sát các biểu hiện trong các hoạt
động của học sinh để nhận xét sự hình thành và phát triển phẩm chất; từ đó động
viên, khích lệ, giúp học sinh khắc phục khó khăn, phát huy ưu điểm và các phẩm
chất riêng, điều chỉnh hoạt động, ứng xử kịp thời để tiến bộ.
Hàng tháng, giáo viên thông qua quá trình quan sát, ý kiến trao đổi với cha mẹ
học sinh và những người khác (nếu có) để nhận xét học sinh, ghi vào sổ theo dõi chất
lượng giáo dục.
4.2. Đánh giá định kì kết quả học tập
4.2.1. Hiệu trưởng chỉ đạo việc đánh giá định kì kết quả học tập, mức độ đạt chuẩn
kiến thức, kĩ năng theo chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học vào cuối học kì I và
cuối năm học đối với các môn học: Tiếng Việt, Toán, Khoa học, Lịch sử và Địa lí, Ngoại
ngữ, Tin học, Tiếng dân tộc bằng bài kiểm tra định kì.
4.2.2. Đề bài kiểm tra định kì phù hợp chuẩn kiến thức, kĩ năng, gồm các câu
hỏi, bài tập được thiết kế theo các mức độ nhận thức của học sinh:
a) Mức 1: học sinh nhận biết hoặc nhớ, nhắc lại đúng kiến thức đã học; diễn
đạt đúng kiến thức hoặc mô tả đúng kĩ năng đã học bằng ngôn ngữ theo cách của
riêng mình và áp dụng trực tiếp kiến thức, kĩ năng đã biết để giải quyết các tình
huống, vấn đề trong học tập;
b) Mức 2: học sinh kết nối, sắp xếp lại các kiến thức, kĩ năng đã học để giải
quyết tình huống, vấn đề mới, tương tự tình huống, vấn đề đã học;
c) Mức 3: học sinh vận dụng các kiến thức, kĩ năng để giải quyết các tình
huống, vấn đề mới, không giống với những tình huống, vấn đề đã được hướng dẫn
hay đưa ra những phản hồi hợp lí trước một tình huống, vấn đề mới trong học tập
hoặc trong cuộc sống.
4.2.3. Bài kiểm tra định kì được giáo viên sửa lỗi, nhận xét những ưu điểm và
góp ý những hạn chế, cho điểm theo thang điểm 10 (mười), không cho điểm 0
(không) và điểm thập phân.
4.3. Tổng hợp đánh giá
4.3.1. Vào cuối học kì I và cuối năm học, hiệu trưởng chỉ đạo giáo viên chủ
nhiệm họp với các giáo viên dạy cùng lớp, thông qua nhận xét quá trình và kết quả
học tập, hoạt động giáo dục khác để tổng hợp đánh giá mức độ hình thành và phát
triển năng lực, phẩm chất của từng học sinh về:
a) Quá trình học tập từng môn học, hoạt động giáo dục khác, những đặc điểm
nổi bật, sự tiến bộ, hạn chế, mức độ hoàn thành nhiệm vụ học tập theo chuẩn kiến
117
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
thức, kĩ năng; năng khiếu, hứng thú về từng môn học, hoạt động giáo dục, xếp loại
từng học sinh đối với từng môn học, hoạt động giáo dục thuộc một trong hai mức:
Hoàn thành hoặc Chưa hoàn thành;
b) Mức độ hình thành và phát triển năng lực: những biểu hiện nổi bật của năng
lực, sự tiến bộ, mức độ hình thành và phát triển theo từng nhóm năng lực của học
sinh; góp ý với học sinh, khuyến nghị với nhà trường, cha mẹ học sinh; xếp loại từng
học sinh thuộc một trong hai mức: Đạt hoặc Chưa đạt;
c) Mức độ hình thành và phát triển phẩm chất: những biểu hiện nổi bật của phẩm
chất, sự tiến bộ, mức độ hình thành và phát triển theo từng nhóm phẩm chất của học sinh;
góp ý với học sinh, khuyến nghị với nhà trường, cha mẹ học sinh; xếp loại từng học sinh
thuộc một trong hai mức: Đạt hoặc Chưa đạt;
d) Các thành tích khác của học sinh được khen thưởng trong học kì, năm học.
4.3.2. Giáo viên chủ nhiệm ghi nhận xét, kết quả tổng hợp đánh giá vào học
bạ. Học bạ là hồ sơ chứng nhận mức độ hoàn thành chương trình và xác định những
nhiệm vụ, những điều cần khắc phục, giúp đỡ đối với từng học sinh khi bắt đầu vào
học kì II hoặc năm học mới.
5. Đánh giá bằng điểm kết hợp với nhận xét
5.1. Các môn học đánh giá bằng điểm kết hợp với nhận xét gồm: Tiếng việt,
Toán, Khoa học, Lịch sử và địa lí, Ngoại ngữ, Tiếng dân tộc, Tin học.
5.2. Kết quả học tập của học sinh được ghi nhận bằng điểm kết hợp với nhận
xét cụ thể của giáo viên:
a) Điểm theo thang điểm 10, không cho điểm 0 và điểm thập phân ở các bài
kiểm tra.
b) Nhận xét của giáo viên về sự tiến bộ của học sinh hoặc những điểm học sinh
cần cố gắng, không dùng những từ ngữ gây tổn thương học sinh.
5.3. Số lần kiểm tra định kì:
a) Các môn Tiếng Việt, Toán, mỗi năm học có 2 lần kiểm tra định kì vào cuối
học kì I và cuối năm học; mỗi lần kiểm tra định kì môn Tiếng việt có 2 bài kiểm tra:
Đọc, Viết; điểm kiểm tra đánh giá là trung bình cộng của 2 bài (làm tròn 0,5 thành
1).
b) Các môn Khoa học, Lịch sử và Địa lí, Ngoại ngữ, Tiếng dân tộc, Tin học
mỗi năm học có 2 lần kiểm tra đánh giá vào học kì I và cả năm.

118
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
6. Đánh giá bằng nhận xét
Sử dụng các nhận xét được rút ra từ quan sát các hành vi hoặc sản phẩm học
tập của học sinh theo những chuẩn (tiêu chí) cho trước mà giáo viên đưa ra những
phân tích hay phán đoán về năng lực, phẩm chất của các em.
Tác dụng của nhận xét đối với học sinh: Động viên và hướng dẫn học sinh
điều chỉnh việc học tập. Cụ thể:
- Phải thực tế; Phải cụ thể; Phải kịp thời và nói thẳng, không úp mở và cho
những ý kiến hay cảm nghỉ riêng thay vì những lời nhận định đầy quyền uy.
- Phải nhạy cảm đối với những quan tâm, mục đích hay cố gắng của học sinh;
không nên cho là học sinh sai hay không tốt mà cần cố gắng nhận biết mục đích mà
các em thực hiện.
- Khuyến khích những điều các em làm được với những chứng cứ cụ thể
- Hướng dẫn các em cách thức khắc phục những điều mà các em chưa đạt cũng
như cách thực hiện nhiệm vụ học tập kế tiếp tốt hơn.
6.1. Các môn học đánh giá bằng nhận xét gồm:
a) Ở các lớp 1, 2, 3: Đạo đức, Tự nhiên và xã hội, Âm nhạc, Mĩ thuật, Thủ
công, Thể dục.
b) Ở các lớp 4, 5: Đạo đức, Âm nhạc, Mĩ thuật, Kĩ thuật, Thể dục.
6.2. Kết quả học tập của học sinh không ghi nhận bằng điểm mà bằng các nhận
xét theo các mạch nội dung của từng môn học:
a) Các nhận xét được ghi nhận bằng việc thu thập các chứng cứ trong quá
trình học tập và hoạt động của học sinh.
b) Nội dung, số lượng nhận xét của mỗi học kì và cả năm của từng môn học
được quy định cụ thể tại Sổ theo dõi kết quả kiểm tra, đánh giá học sinh.
7. Xếp loại học lực từng môn học
Học sinh được xếp loại học môn học kì I và học lực môn cả năm học ở mỗi
môn học.
7.1.Đối với các môn học đánh giá bằng điểm kết hợp với nhận xét:
a) Học lực môn:
- Học lực môn kì 1 là điểm kiểm tra định kì của kì 1
- Học lực môn cả năm là điểm kiểm tra đánh giá cả năm
b) Xếp loại học lực môn:
- Loại Giỏi: học lực môn đạt điểm 9, điểm 10
119
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
- Loại Khá: học lực môn đạt điểm 7, điểm 8
- Loại Trung bình: học lực môn đạt điểm 5, điểm 6
- Loại Yếu: học lực môn đạt điểm dưới 5
7.2. Đối với các môn học đánh giá bằng nhận xét:
a) Học lực môn:
- Học lực môn của kì 1 là kết quả đánh giá dựa trên các nhận xét đạt được
trong học kì I
- Học lực môn cả năm là kết quả dựa trên các nhận xét đạt được trong cả năm học.
b) Xếp loại học lực môn:
- Loại Hoàn thành (A): đạt được yêu cầu cơ bản về kiến thức, kĩ năng của môn
học, đạt được từ 50% số nhận xét trở lên trong từng học kì hay cả năm học.
- Hoàn thành tốt (A+) và ghi nhận xét cụ thể trong học bạ để nhà trường có kế
hoạch bồi dưỡng.
- Loại chưa Hoàn thành (B): chưa đạt yêu cầu cơ bản về kiến thức, kĩ năng
của môn học, đạt dưới 50% số nhận xét trong từng học kì hay cả năm học.
8. Đánh giá học sinh khuyết tật và học sinh học ở các lớp học linh hoạt
Dựa trên quy định đánh giá học sinh tiểu học, việc đánh giá học sinh khuyết
tật và học sinh học ở các lớp học linh hoạt bảo đảm quyền được chăm sóc và giáo
dục đối với tất cả học sinh.
8.1. Đối với học sinh khuyết tật học theo phương thức giáo dục hoà nhập, nếu
khả năng của học sinh có thể đáp ứng được yêu cầu chương trình giáo dục chung thì
được đánh giá như đối với học sinh bình thường nhưng có giảm nhẹ yêu cầu về kết
quả học tập. Những môn học hoặc hoạt động giáo dục mà học sinh không có khả
năng đáp ứng yêu cầu chung thì được đánh giá theo yêu cầu của kế hoạch giáo dục
cá nhân.
8.2. Đối với học sinh khuyết tật học theo phương thức giáo dục chuyên biệt,
nếu khả năng của học sinh đáp ứng được yêu cầu chương trình giáo dục chuyên biệt
thì được đánh giá theo quy định dành cho giáo dục chuyên biệt. Những môn học hoặc
hoạt động giáo dục mà học sinh không có khả năng đáp ứng yêu cầu giáo dục chuyên
biệt thì được đánh giá theo yêu cầu của kế hoạch giáo dục cá nhân.
8.3. Đánh giá học sinh học ở các lớp học linh hoạt: giáo viên căn cứ vào nhận
xét, đánh giá thường xuyên qua các buổi học tại lớp linh hoạt và kết quả đánh giá

120
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
định kì môn Toán, môn Tiếng Việt được thực hiện theo quy định tại Điều 10 của
TT30/2014.
9. Hồ sơ đánh giá
9.1. Hồ sơ đánh giá là minh chứng cho quá trình học tập, rèn luyện và kết quả
học tập của học sinh; là thông tin để tăng cường sự phối hợp giáo dục học sinh giữa
giáo viên, nhà trường với cha mẹ học sinh.
9.2. Hồ sơ đánh giá từng năm học của mỗi học sinh gồm:
a) Học bạ;
b) Sổ theo dõi chất lượng giáo dục;
c) Bài kiểm tra định kì cuối năm học;
d) Phiếu hoặc sổ liên lạc trao đổi ý kiến của cha mẹ học sinh (nếu có);
đ) Giấy chứng nhận, giấy khen, xác nhận thành tích của học sinh trong năm
học (nếu có).
10. Xét hoàn thành chương trình lớp học, hoàn thành chương trình tiểu
học
10.1. Xét hoàn thành chương trình lớp học:
a) Học sinh được xác nhận hoàn thành chương trình lớp học phải đạt các điều
kiện sau:
- Đánh giá thường xuyên đối với tất cả các môn học, hoạt động giáo dục: Hoàn
thành;
- Đánh giá định kì cuối năm học các môn học theo quy định: đạt điểm 5 (năm)
trở lên;
- Mức độ hình thành và phát triển năng lực: Đạt;
- Mức độ hình thành và phát triển phẩm chất: Đạt;
b) Đối với học sinh chưa hoàn thành chương trình lớp học: giáo viên lập kế
hoạch, trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ từng học sinh; đánh giá bổ sung để xét Hoàn
thành chương trình lớp học;
c) Đối với những học sinh đã được giáo viên trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ
mà vẫn chưa đạt ít nhất một trong các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này: tùy
theo mức độ chưa hoàn thành ở các môn học, hoạt động giáo dục, bài kiểm tra định
kì, mức độ hình thành và phát triển một số năng lực, phẩm chất, giáo viên lập danh
sách báo cáo hiệu trưởng xét, quyết định việc lên lớp hoặc ở lại lớp;
d) Kết quả xét hoàn thành chương trình lớp học được ghi vào học bạ.
10.2. Xét hoàn thành chương trình tiểu học: học sinh hoàn thành chương trình lớp 5
(năm) được xác nhận và ghi vào học bạ: Hoàn thành chương trình tiểu học.

121
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đặng Vũ Hoạt, Hà Thị Đức (1995), Giáo dục học đại cương 2, HN, tr 1-24.
2. Nguyễn Sinh Huy và các tác giả (1995), Giáo dục học đại cương 1, HN.
3. Bùi Thị Mùi (2000), Giáo trình hướng dẫn thực hành Giáo dục học, Lưu hành nội
bộ ĐHCT.
4. Raja Roy Singh (1994), Nền giáo dục của thế kỷ thứ 21. Những triển vọng của
Châu Á Thái bình dương, UNESCO.
5. Thái Duy Tuyên (1998), Những vấn đề cơ bản Giáo dục học hiện đại, Nxb Giáo
dục.
6. Phạm Viết Vượng (1996), Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục, HN.
7. Bộ Giáo dục và đào tạo chương trình giáo trình đại học (1995), Chương trình phần
giáo dục cốt lõi chuyên nghiệp (Dùng cho các trường đại học và Cao đẳng sư
phạm), HN.

122
Giáo dục học đại cương - Tài liệu lưu hành nội bộ

You might also like