You are on page 1of 102

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

GIÁO TRÌNH

GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

TS. Ngô Thị Phương Trà

Quy Nhơn, 2024

1
MỤC LỤC
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1. GIÁO DỤC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC
1.1. Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt
1.1.1. Khái niệm giáo dục
1.1.2. Nguồn gốc giáo dục
1.1.3. Tính chất của hiện tượng giáo dục
1.1.4. Chức năng xã hội của giáo dục
1.1.5. Quan hệ giữa hiện tượng giáo dục với các hiện tượng xã hội khác
1.1.6. Các con đường giáo dục
1.2. Giáo dục học là một khoa học độc lập
1.2.1. Đối tượng nghiên cứu của Giáo dục học
1.2.2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của Giáo dục học
1.2.3. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Giáo dục học
1.2.4. Các phạm trù nghiên cứu của Giáo dục học
CHƯƠNG 2. GIÁO DỤC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
2.1. Nhân cách và sự phát triển nhân cách
2.1.1. Khái niệm Con người
2.1.2. Khái niệm nhân cách
2.1.3. Khái niệm về sự phát triển nhân cách
2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
2.2.1. Yếu tố tự nhiên - sinh học
2.2.2. Yếu tố môi trường
2.2.3. Yếu tố giáo dục
2.2.4. Yếu tố hoạt động cá nhân
2.3. Giáo dục đào tạo con người Việt Nam trong thời kì Công nghiệp hóa - hiện
đại hóa
CHƯƠNG 3. MỤC ĐÍCH GIÁO DỤC VÀ NHIỆM VỤ GIÁO DỤC
3.1. Khái quát về mục đích giáo dục
3.1.1. Mục đích giáo dục
3.1.2. Cơ sở xác định mục đích giáo dục
3.2. Mục đích giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

2
3.2.1. Mục đích giáo dục tổng quát
3.2.2. Mục tiêu giáo dục của các bậc học
3.3. Nhiệm vụ giáo dục
3.3.1. Giáo dục đạo đức
3.3.2. Giáo dục trí tuệ
3.4.3. Giáo dục thẩm mĩ
3.4.4. Giáo dục thể chất
3.3.5. Giáo dục lao động
CHƯƠNG 4. NGUYÊN LÍ VÀ HỆ THỐNG GIÁO DỤC VIỆT NAM
4.1. Nguyên lí giáo dục Việt Nam
4.1.1. Khái niệm
4.1.2. Nội dung nguyên lí giáo dục
4.1.3. Phương hướng quán triệt nguyên lí giáo dục
4.2. Khái quát về hệ thống giáo dục
4.2.1. Khái niệm hệ thống giáo dục quốc dân
4.2.2. Nguyên tắc xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân
4.2.3. Những cơ sở xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân
4.3. Hệ thống giáo dục Việt Nam hiện nay
4.3.1. Hệ thống chuẩn phân loại giáo dục quốc tế của UNESCO
4.3.2. Hệ thống giáo dục quốc dân của Việt Nam
CHƯƠNG 5. LAO ĐỘNG SƯ PHẠM VÀ NGƯỜI GIÁO VIÊN
5.1. Đặc điểm lao động sư phạm
5.1.1. Mục đích của lao động sư phạm
5.1.2. Đối tượng của lao động sư phạm
5.1.3. Công cụ của lao động sư phạm
5.1.4. Sản phẩm của lao động sư phạm
5.1.5. Thời gian và không gian của lao động sư phạm
5.1.6. Hệ thống những kĩ năng đảm bảo cho hoạt động giáo dục của người giáo viên
đạt hiệu quả
5.2. Vai trò và nhiệm vụ của người giáo viên
5.2.1. Vai trò của người giáo viên
5.2.2. Vai trò của nhà giáo trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo

3
5.2.3. Các chức năng cơ bản của người giáo viên
5.2.4. Nhiệm vụ và quyền của nhà giáo
5.3. Những tiêu chuẩn, yêu cầu đối với người giáo viên
5.3.1. Tiêu chuẩn của nhà giáo
5.3.2. Về phẩm chất chính trị
5.3.3. Về lối sống, tác phong
5.3.4. Về giữ gìn, bảo vệ truyền thống đạo đức nhà giáo
5.3.5. Yêu cầu về chuyên môn nghiệp vụ
5.4. Bồi dưỡng về phẩm chất và năng lực của người giáo viên hiện nay

4
CHƯƠNG 1. GIÁO DỤC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC
1.1. Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt
1.1.1. Khái niệm giáo dục
Từ buổi bình minh của nhân loại, để có thể tồn tại và phát triển, loài người đã
không ngừng nhận thức (tìm hiểu, khám phá) thế giới khách quan cũng như thế giới
bên trong con người mình. Nhờ đó loài người đã dần dần phát triển và nắm vững
ngày càng nhiều quy luật và tính quy luật của các sự vật hiện tượng khách quan;
tích lũy, khái quát hóa hệ thống ngày càng nhiều kinh nghiệm phong phú đa dạng
trong mọi lĩnh vực hoạt động có liên quan đến tự nhiên, xã hội và tư duy.
Song không phải chỉ có nhận thức thế giới mà loài người còn tự giác, tích cực
vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm này để cải tạo thế giới xung quanh, đồng thời
cải tạo cả bản thân mình, nhằm phục vụ cho những mục đích sống còn của mình,
xây dựng và phát triển xã hội về mọi mặt để toàn xã hội cũng như mỗi cá nhân ngày
càng có cuộc sống văn minh, thịnh vượng. Nhờ đó vốn kinh nghiệm của loài người
được phát triển không ngừng.
Đến một trình độ phát triển nhất định, khi xã hội tích luỹ được nhiều kinh
nghiệm sống và hoạt động, thì các thế hệ sau không cần phải mò mẫm tìm kiếm
những kinh nghiệm giản đơn, rời rạc và phổ biến nữa, mà được kế thừa những kinh
nghiệm của thế hệ đi trước thông qua con đường dạy học và giáo dục.
Giáo dục là sự truyền thụ và lĩnh hội hệ thống kinh nghiệm xã hội giữa các
thế hệ.
Giáo dục là một nhu cầu tất yếu của xã hội và sự xuất hiện hiện tượng giáo
dục trong xã hội là một tất yếu lịch sử.
1.1.2. Nguồn gốc giáo dục
Ngay từ khi xuất hiện trên trái đất để tồn tại và phát triển con người phải lao
động. Trong lao động và trong cuộc sống hàng ngày, con người một mặt vừa sản
xuất ra của cải vật chất và tinh thần, mặt khác vừa nhận thức thế giới xung quanh.
Trong quá trình nhận thức đó, con người dần dần tích luỹ được nhiều kinh nghiệm
bao gồm kinh nghiệm sống, kinh nghiệm lao động, kinh nghiệm chinh phục tự
nhiên. Kinh nghiệm càng ngày càng dồi dào, từ đó con người nảy sinh nhu cầu
truyền đạt những hiểu biết, những kinh nghiệm ấy cho nhau. Đó chính là nguồn gốc
phát sinh của hiện tượng giáo dục.
Giáo dục là một hiện tượng xã hội chỉ có trong xã hội loài người. Lúc đầu,
giáo dục xuất hiện như một hiện tượng tự nhiên, diễn ra trong cuộc sống hàng ngày
theo lối quan sát, bắt chước ngay trong quá trình lao động sản xuất (săn bắt, hái

5
lượm, chăn nuôi, trồng trọt…). Về sau, giáo dục trở thành một hoạt động có tổ
chức, có mục đích, có lựa chọn, có kế thừa và sáng tạo của con người, vì thế giáo
dục tạo nên sự phát triển cho cá nhân và cho xã hội.
Động tác của một số động vật (ví dụ như mèo mẹ “dạy” mèo con bắt mồi) chỉ
là những động tác có tính bản năng (vì nó lặp lại nguyên xi, không tạo nên sự phát
triển, chỉ có tác dụng duy trì giống nòi).
Vì thế, giáo dục là hiện tượng đặc biệt của xã hội loài người, là độc quyền
sáng tạo của con người.
Động lực thúc đẩy giáo dục phát triển chính là lao động sản xuất. Lao động
sản xuất phát triển trên các bình diện như công cụ và vật liệu; tính chất và các loại
hình lao động; phương thức quản lí lao động. Lao động sản xuất phát triển đòi hỏi
giáo dục phát triển về mục đích, về nội dung, phương pháp và hình thức để chuẩn bị
cho những người lao động đáp ứng yêu cầu mới của lao động sản xuất. Lao động
sản xuất phát triển đòi hỏi giáo dục phát triển và đồng thời cũng tạo điều kiện để
giáo dục phát triển. Mối quan hệ giữa giáo dục với lao động sản xuất là mối quan hệ
giữa thượng tầng kiến trúc với hạ tầng cơ sở.
Xã hội loài người ngày càng biến đổi, phát triển, giáo dục cũng phát triển và
trở thành một hoạt động được tổ chức chuyên biệt: có mục tiêu, nội dung, chương
trình, kế hoạch, có phương pháp khoa học, được tiến hành bằng phương thức thầy
diễn ra trong môi trường sư phạm. Như vậy, giáo dục là hoạt động truyền thụ và
lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài người nhằm đáp ứng yêu
cầu của quá trình lao động sản xuất và đời sống xã hội cũng như nhu cầu tồn tại và
phát triển của con người.
Các thế hệ loài người truyền đạt cho nhau những hiểu biết, năng lực, phẩm
chất cần thiết cho cuộc sống của mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng là một quy luật
của sự tiến bộ xã hội. Mỗi thế hệ không chỉ lĩnh hội, kế thừa các tri thức, kĩ năng, kĩ
xảo, giá trị… mà còn phải làm phong phú thêm những giá trị đó và tìm tòi, sáng tạo
ra những tri thức, giá trị mới. Trong quá trình lĩnh hội, tiếp thu, phát triển những
kinh nghiệm xã hội - lịch sử mà mỗi cá nhân hình thành và phát triển nhân cách của
chính mình. Nhân cách mỗi người được phát triển ngày càng đầy đủ, phong phú, đa
dạng, sức mạnh về tinh thần và thể chất của mỗi con người được phát huy sẽ tạo
nên nguồn lực cơ bản đáp ứng các yêu cầu phát triển xã hội trong những giai đoạn
lịch sử cụ thể. Như vậy, sự truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm được tích lũy
trong quá trình phát triển xã hội loài người chính là nét đặc trưng cơ bản của giáo
dục với tư cách là một hiện tượng chỉ có trong xã hội loài người. Giáo dục là hoạt

6
động có chủ đích của con người, là hệ thống các tác động nhằm làm cho người học
nắm được hệ thống các giá trị văn hoá của loài người và tổ chức cho người học sáng
tạo thêm những giá trị văn hoá đó. Giáo dục làm nhiệm vụ chuyển giao những tinh
hoa văn hoá, đạo đức, thẩm mỹ của nhân loại cho các thế hệ, là cơ sở giúp các thế
hệ nối tiếp nhau sáng tạo, nâng cao những gì mà nhân loại đã tích lũy được. Vì vậy,
có thể coi giáo dục như một phương thức di sản xã hội - giáo dục thực hiện bỡi cơ
chế lĩnh hội kinh nghiệm đã được tích lũy trong quá trình phát triển của xã hội loài
người. Giáo dục là nhu cầu tất yếu của xã hội loài người và sự xuất hiện hiện tượng
giáo dục trong xã hội là một tất yếu lịch sử. Nếu không có cơ chế di sản xã hội,
không có giáo dục thì loài người không có tiến bộ xã hội, không có học vấn, không
có văn hoá, văn minh. Do đó, bất kỳ chế độ xã hội nào muốn tồn tại và phát triển
được đều phải tổ chức và thực hiện hoạt động giáo dục liên tục đối với các thế hệ
con người là thành viên. Giáo dục vừa là một hình thái ý thức xã hội vừa là một quá
trình sản xuất vật chất của xã hội.
Tóm lại, giáo dục là một hiện tượng xã hội chỉ có trong xã hội loài người,
giáo dục nảy sinh trong lao động sản xuất và trong đời sống xã hội, biến đổi và phát
triển cùng với sự biến đổi và phát triển của các hình thái xã hội loài người. Bản chất
của hiện tượng giáo dục là sự truyền thụ và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của
các thế hệ loài người, chức năng trọng yếu của giáo dục đối với xã hội là hình thành
và phát triển người. Giáo dục là nhu cầu không thể thiếu đối với sự tồn tại và phát
triển của con người và xã hội loài người.
1.1.3. Tính chất của hiện tượng giáo dục
1.1.3.1. Tính lịch sử của giáo dục
Giáo dục luôn phản ánh các yêu cầu khách quan của lịch sử xã hội, đồng thời
bị quy định bởi trình độ phát triển, điều kiện, hoàn cảnh lịch sử. Mặt khác, giáo dục
có tác động tích cực đến sự phát triển của lịch sử xã hội. Khi hoàn cảnh, điều kiện
lịch sử thay đổi thì giáo dục cũng biến đổi theo một cách tương ứng. Tuy nhiên,
giáo dục bao giờ cũng biến đổi chậm hơn so với sự thay đổi của lịch sử.
Quá trình tồn tại và phát triển, giáo dục có mối liên hệ mang tính quy luật với
trình độ phát triển của xã hội, thể hiện tính chế ước của xã hội đối với giáo dục.
Giáo dục nảy sinh trên cơ sở kinh tế - xã hội nhất định, vì vậy tính chất, mục đích,
nhiệm vụ, nội dung của một nền giáo dục bao giờ cũng chịu sự quy định của xã hội
đó. Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã trải qua các hình thái kinh tế - xã hội
khác nhau, do đó các nền giáo dục tương ứng cũng khác nhau. Khi những quá trình
xã hội thay đổi bắt nguồn từ những phát triển về trình độ sức sản xuất, tính chất của

7
quan hệ sản xuất xã hội kéo theo những biến đổi về chính trị - xã hội, cấu trúc xã
hội, hệ tư tưởng xã hội thì hệ thống giáo dục tương ứng với hình thái kinh tế - xã
hội đó cũng phải biến đổi theo. Chẳng hạn, lịch sử loài người đã phát triển qua 5
giai đoạn và có 5 nền giáo dục tương ứng với 5 giai đoạn phát triển của xã hội, đó là
nền giáo dục công xã nguyên thuỷ, nền giáo dục chiếm hữu nô lệ, nền giáo dục
phong kiến, nền giáo dục tư bản chủ nghĩa và nền giáo dục xã hội chủ nghĩa.
Các chính sách giáo dục, mục đích, nội dung, phương pháp giáo dục, hình
thức tổ chức giáo dục, … tại một giai đoạn phát triển của xã hội luôn chịu sự qui
định bởi các điều kiện kinh tế - xã hội ở giai đoạn xã hội ấy. Do vậy, trong quá trình
phát triển của giáo dục luôn diễn ra việc hoàn thiện, cải cách, đổi mới giáo dục
nhằm làm cho nền giáo dục đáp ứng tốt nhất những yêu cầu phát triển ngày càng
cao của thực tiễn kinh tế - xã hội trong mỗi giai đoan lịch sử cụ thể. Việc cải tiến,
thay đổi, điều chỉnh, cải cách giáo dục qua từng thời kỳ phát triển xã hội là một tất
yếu khách quan. Từ tính chất này của giáo dục có thể thấy việc sao chép nguyên
bản mô hình giáo dục của một nước này cho một nước khác, giai đoạn này cho giai
đoạn khác là một việc làm chủ quan chưa mang tính khoa học.
1.1.3.2. Giáo dục mang tính phổ biến và vĩnh hằng
Giáo dục hiện diện trong các giai đoạn lịch sử của nhân loại, tất cả các chế độ
xã hội. Trong bất kì một chế độ xã hội hay một giai đoạn lịch sử nào thì giáo dục
vẫn thực hiện sứ mệnh chăm sóc, dạy dỗ, đào tạo con người, truyền thụ một cách có
ý thức cho các thành viên của mình những kinh nghiệm xã hội, những giá trị văn
hoá, tinh thần của loài người và dân tộc, giúp cho họ có khả năng tham gia vào cuộc
sống xã hội đương thời ấy. Vì vậy, giáo dục tồn tại và phát triển mãi cùng với sự
tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Ở đâu có con người, ở đó có giáo dục.
Còn con người, còn tồn tại xã hội loài người thì còn giáo dục.
Chức năng trội của giáo dục là chăm sóc, bồi dưỡng đào tạo thế hệ trẻ nên
quốc gia nào, dân tộc nào, giai đoạn lịch sử xã hội nào cũng cần có giáo dục. Giáo
dục là một phạm trù “vĩnh hằng” đối với xã hội loài người.
Giáo dục là một bộ phận của đời sống xã hội, thể hiện sự gắn kết giữa các thế
hệ (thế hệ trước truyền thụ những kinh nghiệm xã hội cho thế hệ sau; thế hệ sau lĩnh
hội, vận dụng và làm phát triển, làm phong phú hơn kho tàng kinh nghiệm xã hội
của nhân loại).
Giáo dục hiện diện trong tất cả các chế độ xã hội, các giai đoạn lịch sử của
nhân loại mà không lệ thuộc hoàn toàn vào tính chất, cơ cấu xã hội.

8
1.1.3.3. Tính nhân văn của giáo dục
Giáo dục hướng tới những giá trị con người, vì con người và cho con người,
những giá trị vì sự sống hôm nay và ngày mai. Giáo dục luôn phản ánh những giá
trị nhân văn - giá trị văn hóa, đạo đức thẩm mỹ chung nhất của nhân loại và những
nét bản sắc văn hóa truyền thống của từng dân tộc, từng quốc gia. Giáo dục luôn
hướng con người đến những cái hay, cái đẹp, cái tốt, biết phát huy những yếu tố tích
cực trong mỗi con người nhằm phát triển, hoàn thiện và cải hóa nhân cách con
người. Do đó, giáo dục mang giá trị nhân văn - là những giá trị chung đảm bảo cho
sự sống, tồn tại và phát triển của mọi người, mọi dân tộc, quốc gia trên trái đất.
Giáo dục phản ánh những giá trị văn hoá, đạo đức, thẩm mĩ chung của nhân
loại.
Giáo dục ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể lại mang tính chất định hướng,
những nét bản sắc dân tộc, truyền thống văn hoá của từng quốc gia, từng dân tộc.
Ngay trong một nước, ở những giai đoạn lịch sử khác nhau thì trình độ phát
triển của giáo dục cũng có những nét khác nhau.
Vì thế, hoạt động giáo dục của nhân loại có tính chất, nội dung, phương thức
thực hiện giống nhau, nhưng khó có sự phù hợp tuyệt đối giữa hai nền giáo dục ở
hai quốc gia có điều kiện phát triển khác nhau.
Nền giáo dục Việt Nam phải do chính nhân dân Việt Nam xây dựng trên cơ
sở kế thừa truyền thống giáo dục dân tộc và tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa
giáo dục của thế giới.
1.1.3.4. Tính giai cấp của giáo dục
Trong xã hội có giai cấp, giáo dục bao giờ cũng mang tính giai cấp - đó là
một tính qui luật quan trọng trong việc xây dựng và phát triển giáo dục. Tính giai
cấp của giáo dục thể hiện trong toàn bộ hệ thống giáo dục và trong toàn bộ hoạt
động của nhà trường, từ tính chất giáo dục đến mục đích giáo dục, nội dung giáo
dục đến phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục, từ việc kiểm tra đánh giá trong
giáo dục đến các chế độ chính sách giáo dục... Tính giai cấp của giáo dục là sự phản
ánh lợi ích của giai cấp đó trong các hoạt động giáo dục, thể hiện giáo cho ai? Giáo
dục nhằm mục đích gì? Giáo dục cái gì? Và giáo dục ở đâu? Giáo dục diễn ra như
thế nào? Người được giáo dục mang ước mơ, hoài bảo, lý tưởng của giai cấp nào?
… Trong xã hội có giai cấp giáo dục là một phương thức đấu tranh giai cấp, nhà
trường là một công cụ của chuyên chính giai cấp, hoạt động giáo dục cũng như môi
trường nhà trường là một trận địa đấu tranh giai cấp… Trong xã hội có giai cấp đối
kháng thì giai cấp thống trị bao giờ cũng dành độc quyền về giáo dục và dùng giáo

9
dục làm công cụ, phương thức truyền bá tư tưởng, duy trì vị trí xã hội, củng cố nền
thống trị. Do đó, toàn bộ nền giáo dục từ mục đích, nội dung, phương pháp giáo dục
đến việc tổ chức các kiểu học, các loại trường và việc tuyển chọn người học, người
dạy… đều nhằm phục vụ cho mục đích và quyền lợi của giai cấp thống trị xã hội.
Nền giáo dục xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền giáo dục mang tính dân chủ,
tính nhân đạo sâu sắc - nền giáo dục của dân, do dân và vì dân hướng vào việc phát
triển toàn diện, hài hoà và bền vững nhân cách của mọi thành viên trong xã hội.
Mục tiêu tổng quát của giáo dục Việt Nam là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài cho đất nước; tạo cơ hội và điều kiện cho mọi người dân đều được
học tập, được phát triển và trở thành người công dân Tổ quốc và công dân quốc tế,
người lao động có nghề nghiệp, tích cực, năng động, sáng tạo, góp phần tích cực
vào sự nghiệp phát triển đất nước giàu mạnh.
1.1.3.5. Giáo dục mang tính dân tộc
Giáo dục ở mỗi nước lúc nào cũng tồn tại những nét riêng độc đáo tạo nên
sắc thái đặc trưng được thể hiện trong mô hình con người đào tạo, trong hệ thống tri
thức và giá trị văn hóa. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc trên thế giới đều có một truyền
thống lịch sử, văn hóa của mình làm nên cốt cách, bản sắc con người dân tộc. Trong
thời đại ngày nay với xu thế hội nhập và diễn ra các quá trình quốc tế hóa, toàn cầu
hóa trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, giáo dục của mỗi quốc gia đều hướng
tới hình thành con người dân tộc và công dân quốc tế trong mục đích giáo dục của
mình.
1.1.4. Chức năng xã hội của giáo dục
Ngay từ khi mới xuất hiện trên Trái đất, con người đã phải truyền đạt những
kinh nghiệm của thế hệ trước cho thế hệ sau để sinh tồn và phát triển. Kinh nghiệm
của xã hội loài người được hiểu là những tri thức về các quy luật tồn tại, vận động
và phát triển của tự nhiên, xã hội, tư duy, những kĩ năng, kĩ xảo lao động, hoạt động
thực tiễn, các chuẩn mực về đạo đức, lối sống, văn hoá v.v… Những kinh nghiệm
này ngày càng phong phú, điều đó càng khẳng định vai trò và chức năng đặc biệt
quan trọng của hoạt động giáo dục.
Giáo dục tác động vào từng cá nhân để trở thành những nhân cách theo yêu
cầu phát triển của xã hội, nó ảnh hưởng lớn rất đến tất cả các hình thái ý thức xã
hội, đồng thời nó cũng tác động mạnh mẽ làm chuyển hoá cơ sở hạ tầng bởi tính
độc lập tương đối của các hình thái ý thức xã hội. Giáo dục được coi là một nhân tố
tích cực tạo nên nguồn nhân lực. Phẩm chất năng lực con người quyết định sự phát
triển xã hội - điều này càng thể hiện rất rõ trong xã hội hiện đại, khi tất cả các quốc

10
gia trên thế giới đang tập trung tăng tốc phát triển nền kinh tế tri thức, tức là tận
dụng các thành tựu khoa học, kĩ thuật, công nghệ, trí tuệ để thực hiện mục tiêu xây
dựng đất nước. Phát triển giáo dục đã trở thành “quốc sách hàng đầu” của nhiều
quốc gia.
1.1.4.1. Chức năng kinh tế - sản xuất
Giáo dục là một hiện tượng vĩnh hằng, bất biến góp phần đắc lực, hiệu quả
trong việc đào tạo lực lượng lao động mới, tiến bộ phục vụ cho phương thức sản
xuất của xã hội. Như vậy giáo dục tuy không trực tiếp sản xuất nhưng đã tái sản
xuất ra sức lao động xã hội của thế hệ sau hơn thế hệ trước, tức là cải biến cái bản
thể tự nhiên chung của con người, giúp họ có kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo về một lĩnh
vực lao động phù hợp, tạo ra năng suất lao động cao, trực tiếp thúc đẩy sản xuất,
phát triển kinh tế.
Ngày nay, nhân loại đang sống trong thời kì văn minh hậu công nghiệp cùng
với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin. Đặc điểm này đã đặt ra những
yêu cầu rất cao đối với nguồn nhân lực lao động: phải có trình độ học vấn cao, có
kiến thức sâu sắc, có tay nghề vững vàng, cao hơn là có tính năng động, sáng tạo,
linh hoạt để thích nghi, đáp ứng được những yêu cầu của tiến trình phát triển xã hội.
Để thực hiện tốt chức năng kinh tế - sản xuất, giáo dục phải tập trung thực
hiện những yêu cầu cơ bản sau đây:
- Giáo dục phải gắn kết với thực tiễn xã hội, đáp ứng nguồn nhân lực theo
yêu cầu phát triển kinh tế - sản xuất trong từng giai đoạn cụ thể.
- Xây dựng một hệ thống giáo dục quốc dân cân đối, đa dạng nhằm thực hiện
ba mục tiêu: Lấy nâng cao dân trí làm nền tảng đào tạo nhân lực; trên cơ sở đó bồi
dưỡng nhân tài cho tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, khoa học, công nghệ... làm
động lực trực tiếp thúc đẩy đất nước phát triển hoà nhập với thế giới văn minh.
- Hệ thống giáo dục quốc dân không ngừng đổi mới nội dung, phương pháp,
phương tiện… Việc nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo nguồn nhân lực có trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ cao và những phẩm chất cần thiết đáp ứng yêu cầu của
nền sản xuất hiện đại là vấn đề đang đặt ra cho các quốc gia phải quan tâm giải
quyết.
Ở Việt Nam, trên cơ sở thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, giáo dục còn
hướng vào quá trình đào tạo nhân lực. Đây là đội ngũ nòng cốt có trình độ khoa
học, nắm vững công nghệ sản xuất hiện đại, có các phẩm chất cần thiết của người
lao động trong xã hội văn minh trên tất cả mọi lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội…
đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

11
1.1.4.2. Chức năng chính trị - xã hội
Mỗi quốc gia trên thế giới đều có một chế độ chính trị của mình, giai cấp hay
chính đảng cầm quyền nhà nước đó sử dụng giáo dục như một công cụ mạnh mẽ,
lợi hại nhất để khai sáng nhận thức, bồi dưỡng tình cảm, củng cố niềm tin, kích
thích hành động của tất cả các lực lượng xã hội thực hiện các chủ trương, đường lối,
chính sách… nhằm duy trì, củng cố chế độ chính trị đó. Thể chế chính trị được thiết
lập ở mỗi quốc gia là xuất phát từ một hệ thống tư tưởng của giai cấp hay chính
đảng cầm quyền nhất định. Do đó, thể chế chính trị và tư tưởng có mối quan hệ
nhân quả chặt chẽ, có ảnh hưởng vô cùng to lớn, mạnh mẽ đến tất cả các hình thái ý
thức xã hội khác và cũng phản ánh đặc trưng cơ sở kinh tế của xã hội. V. I. Lênin
khẳng định: “Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế”.
Thông qua giáo dục, những tư tưởng xã hội được thấm đến từng con người,
giáo dục hình thành ở con người thế giới quan, giáo dục ý thức, hành vi phù hợp
với chuẩn mực đạo đức xã hội.
Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước, đại diện cho quyền
lực “của dân, do dân, vì dân” trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh đang quyết tâm xây dựng đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Giáo dục phải phục vụ mục đích chính trị tốt
đẹp và tư tưởng cao quý đó bằng toàn bộ hoạt động của mình thể hiện từ quan điểm,
mục đích, nội dung, phương châm, phương pháp đến tổ chức, quản lí giáo dục sao
cho các chủ trương, đường lối chính trị của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tư tưởng
Hồ Chí Minh thấm nhuần sâu sắc vào mọi tầng lớp nhân dân để biến thành hành
động thực tiễn nhằm đưa đất nước phát triển nhanh, mạnh, vững chắc.
1.1.4.2. Chức năng tư tưởng - văn hoá
“Văn hoá là toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần đã được nhân loại sáng tạo
ra trong quá trình hoạt động thực tiễn lịch sử - xã hội, các giá trị ấy nói lên mức độ
phát triển của loài người”1(1). Các giá trị văn hoá vật chất, tinh thần ấy tồn tại trong
xã hội. Hiểu theo hệ thống cấu trúc, giáo dục là một bộ phận của văn hoá - xã hội.
Nhưng hiểu theo cơ chế vận hành, giáo dục có chức năng truyền thụ các giá trị văn
hoá - xã hội từ thế hệ trước cho thế hệ sau. Như vậy, “văn hoá là nội dung và cũng
là mục tiêu của giáo dục. Văn hoá và giáo dục gắn bó với nhau như hình với
bóng”2(2). Tất cả các giá trị văn hoá của nhân loại, của dân tộc, của cộng đồng,

1
2

12
thông qua giáo dục (của gia đình, nhà trường, xã hội) để trở thành hệ thống giá trị
của từng con người.
Thế giới ngày nay coi giáo dục là con đường cơ bản nhất để giữ gìn và phát
triển văn hoá, để khỏi tụt hậu. Nhà tương lai học người Mĩ là A. Toffler khẳng định
tại Hội đồng Liên hợp quốc, khoá 15 (1990) “Một dân tộc không được giáo dục -
dân tộc đó sẽ bị loài người đào thải, một cá nhân không được giáo dục - cá nhân
đó sẽ bị xã hội loại bỏ”.
Giáo dục có nhiệm vụ quan trọng là xây dựng một trình độ văn hoá cho toàn
xã hội bằng cách phổ cập giáo dục phổ thông với trình độ ngày càng cao cho thế hệ
trẻ và mọi người dân trong xã hội. Ngày nay trình độ dân trí cao là một tiêu chí để
đánh giá sự giàu mạnh của một quốc gia. Trình độ dân trí cao sẽ tiếp thu, phát triển
được các giá trị văn hoá tốt đẹp, đấu tranh ngăn ngừa xoá bỏ được những tư tưởng,
hành vi tiêu cực ảnh hưởng đến tất cả những hoạt động cần thiết, hữu ích trong đời
sống xã hội như: xoá bỏ các phong tục, tập quán lạc hậu, mê tín, dị đoan, các tệ nạn
xã hội, thực hiện dân số - kế hoạch hoá gia đình, an toàn giao thông… Đồng thời,
giáo dục cũng phải làm thoả mãn nhu cầu được học tập suốt đời của mỗi công dân,
do đó, giáo dục còn là một phúc lợi cơ bản, một quyền sống tinh thần của mỗi thành
viên trong xã hội.
Để thực hiện chức năng văn hoá - xã hội, giáo dục phải được quan tâm ngay
từ bậc mầm non cho đến đại học và trên đại học; phát triển hợp lí các loại hình giáo
dục và các phương thức đào tạo để mọi lứa tuổi được hưởng quyền lợi học tập, thoả
mãn nhu cầu phát triển tài năng của mọi công dân, góp phần đắc lực vào sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
1.1.5. Quan hệ giữa hiện tượng giáo dục với các hiện tượng xã hội khác
1.5.1.1. Quan hệ giữa hiện tượng giáo dục với xã hội
Một mặt các sản phẩm (con người) của giáo dục sẽ trực tiếp tham gia và tác
động lên quá trình phát triển của đất nước. Nhưng mặt khác giáo dục cũng là đối
tượng chịu tác động của toàn bộ hệ thống xã hội. Nó phụ thuộc trình độ phát triển
kinh tế - văn hóa, vào tâm lí, hệ thống thước đo giá trị... của xã hội. Như vậy, có
nhiều vấn đề bản thân hệ thống giáo dục sẽ bất lực nếu không được giải quyết ở cấp
độ xã hội.
1.5.1.2. Quan hệ giữa hiện tượng giáo dục với kinh tế
Một nền kinh tế chỉ trở nên vững mạnh và tăng tiến liên tục, nếu nó chứa
đựng một hệ thống giáo dục có đường lối chính sách, cơ chế tiến bộ, phát triển cân
đối về số lượng và chất lượng. Ngược lại, giáo dục muốn phát triển theo xu hướng

13
tiến bộ lại cần có chỗ dựa và được sự hỗ trợ của một nền kinh tế vững mạnh, có nền
sản xuất hiện đại, tiên tiến.
+ Hoạt động của kinh tế và giáo dục diễn ra liên tục và đan kết vào nhau. Mỗi
kế hoạch phát triển kinh tế (tổng thể hay bộ phận) và kế hoạch phát triển giáo dục
(cả hệ thống trong từng ngành) đều phải tính tới các thành quả trước đó và định liệu
cho thời gian tương lai theo phân đoạn trên những khoảng thời gian dài. Tính chất
này được quy định bởi đặc thù của hoạt động sư phạm: cái đi vào hệ thống giáo dục
hôm nay (học sinh) chịu sự chi phối của những điều kiện kinh tế hiện tại, nhưng
phải sau hàng chục năm nữa mới tham gia vào đời sống kinh tế xã hội (người hoạt
động).
+ Việc bỏ vốn đầu tư cho giáo dục cần xét dưới góc độ phục vụ cho sự phát
triển giáo dục của hiện tại (và đó cũng chính là phục vụ đời sống văn hóa, tinh thần
cho xã hội), đồng thời đó cũng chính là đầu tư cho chính sự phát triển kinh tế theo
chiều sâu.
+ Để xác định được quy mô và nhịp độ phát triển giáo dục phù hợp với trạng
thái kinh tế trong hiện tại và tương lai, cần tập quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế
giáo dục (cơ sở khoa học quy hoạch này là những dự báo về phát triển kinh tế, phát
triển dân số và các vấn đề xã hội, xu hướng phát triển của ngành hệ thống giáo dục
và từng phân hệ trong hệ thống).
* Tính đa dạng và tương quan kinh tế giáo dục
- Tương quan kinh tế giáo dục là một trong những mối tương quan của giáo
dục với toàn bộ đời sống xã hội, ngoài mối liên hệ với kinh tế giáo dục còn có các
chức năng chính trị, xã hội ; tư tưởng - văn hóa; ngược lại, kinh tế bên cạnh mục
tiêu phục vụ đời sống tinh thần còn phải phục vụ các nhu cầu về đời sống vật chất
và các nhu cầu đa dạng khác của xã hội. Tuy nhiên, trong bước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội thì chức năng kinh tế của giáo dục cần được coi là chức năng then
chốt…… đã từng chỉ rõ: “Thực chất của bước quá độ từ xã hội tư bản lên xã hội
chủ nghĩa lại là ở chỗ các nhiệm vụ chính trị giữ một địa vị phụ thuộc so với nhiệm
vụ kinh tế”(K.Marx F.Enges, V.Lênin, I.Stalin, Bàn về giáo dục, tr.2). Sự phụ thuộc
ở đây chỉ rõ giáo dục muốn phục vụ đắc lực cho chính quyền vô sản, thì mục đích
của nó phải được định hướng cho sự phát triển kinh tế của đất nước.
+ Xác định chức năng kinh tế của giáo dục có tính then chốt trong cách mạng
xã hội chủ nghĩa, song không thể lạm dụng vào hoạt động giáo dục những mục tiêu
kinh tế đơn thuần. Mỗi hoạt động giáo dục đều có chứa đựng những nội dung kinh

14
tế nhất định, nhưng trường học là nơi đào tạo chứ không phải là cơ sở kinh doanh
sản xuất.
+ Tương quan kinh tế - giáo dục cần xét tới những đặc thù kinh tế sản xuất
của ngành giáo dục. Nó là một ngành sản xuất đặc biệt của nền kinh tế quốc dân,
thành phẩm của giáo dục tuy không phải là vật phẩm hàng hóa mang ra trao đổi,
nhưng nó sẽ có mặt và tham gian vào mọi hoạt động của quá trình sản xuất và chính
nó cũng được tạo nên theo một quy trình công nghệ đặc biệt
+ Hoạt động đào tạo ở các cơ sở giáo dục phải đảm bảo về kinh tế - kĩ thuật
theo tính chất của một quá trình sản xuất tương ứng với nó là các yếu tố đảm bảo
quy trình đào tạo: người dạy, người học, nội dung, chương trình, cơ sở vật chất, tổ
chức quản lý, kiểm tra giám sát v.v…
Có thể nói trong các giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội loài người, khi các
phương thức sản xuất xã hội đổi sẽ kéo theo hàng lọat những biến đổi về tư tưởng,
chính trị, về cấu trúc xã hội, về lối sống văn hóa, thẩm mỹ, v.v… Trong lĩnh vực
giáo dục, môi trường xã hội, điều kiện kinh tế, văn hóa, … ảnh hưởng sâu sắc tới
mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung, hình thức giáo dục nhằm đáp ứng yêu cầu của đời
sống xã hội. Đó là tính quy định của môi trường kinh tế - chính trị - xã hội đối với
hoạt động giáo dục, trong đó các lực lượng giáo dục và người giáo dục là hai nhân
tố đặc trưng cơ bản nhất. Mối quan hệ tương tác giữa các tác nhân: môi trường, nhà
giáo dục - đối tượng giáo dục phản ẩnh tính quy luật phổ biến, khách quan quá trình
giáo dục.
1.1.6. Các con đường giáo dục
Giáo dục là một quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch, có phương
pháp của nhà giáo dục nhằm hình thành, phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ theo
mục đích giáo dục xác định. Quá trình này được thực hiện bằng các con đường giáo
dục. Qua đó có thể hiểu khái niệm “Con đường giáo dục” (theo Xã hội học giáo
dục): là một khái niệm rộng bao hàm sự tổ chức thực hiện các quá trình giáo dục,
vận dụng tổng hợp các phương pháp, cách thức, cách tổ chức các quá trình giáo
dục, trong đó học sinh được hoạt động một cách chủ động, sáng tạo để lĩnh hội có
kết quả các hệ thống giá trị văn hóa - khoa học - thẩm mĩ... đồng thời góp phần sáng
tạo ra các giá trị mới. Trong phạm vi hoạt động giáo dục, đó là sự kết hợp hài hòa,
chặt chẽ các hình thức, biện pháp giáo dục phù hợp với các loại hình giáo dục nhằm
thực hiện có kết quả nhất các yêu cầu, các nội dung giáo dục, đạt tới mục tiêu giáo
dục cụ thể. Các con đường giáo dục thực chất là những hoạt động cơ bản được tổ
chức với sự tham gia tự giác, tích cực và sáng tạo của học sinh dưới tác động chủ

15
đạo của nhà giáo dục, nhằm hình thành và phát triển nhân cách học sinh theo mục
đích, nhiệm vụ giáo dục.
Nói một cách khác, giáo dục là quá trình tác động để hình thành nhân cách
cho thế hệ trẻ theo mục đích xã hội, quá trình này được thực hiện bằng các con
đường quan trọng sau đây:
1.1.6.1. Giáo dục thông qua dạy học
Dạy học là hoạt động đặc trưng cho bất cứ loại hình nhà trường nào và dạy
học chính là một con đường giáo dục. Dạy học được xem là con đường cơ bản nhất,
thuận lợi nhất và có hiệu quả nhất giúp cho thế hệ trẻ chiếm lĩnh được nội dung học
vấn, tự rèn luyện để hoàn thiện nhân cách, thể hiện:
Dạy học là con đường thuận lợi nhất giúp học sinh với tư cách là chủ thể
nhận thức chiếm lĩnh được hệ thống tri thức khoa học, cơ bản, hiện đại, phù hợp với
thực tiễn về tự nhiên, xã hội, tư duy, đồng thời rèn luyện được hệ thống kĩ năng và
kĩ xảo tương ứng.
Dạy học là con đường cơ bản hình thành và phát triển ở học sinh năng lực
hoạt động trí tuệ, đặc biệt là năng lực tư duy sáng tạo. Thông qua con đường dạy
học, học sinh không những tiếp thu hệ thống các giá trị mà còn “góp phần sáng tạo
ra hệ thống các giá trị mới”.
Dạy học là một trong những con đường chủ yếu góp phần giáo dục cho
HỌC SINH thế giới quan khoa học, nhân sinh quan và những phẩm chất đạo đức tốt
đẹp nói riêng, phát triển nhân cách nói chung.
Trong những con đường quan trọng nhất để giáo dục thế hệ trẻ là đưa học
sinh vào học tập trong nhà trường. Nhà trường là một tổ chức giáo dục chuyên
nghiệp, có nội dung chương trình, có phương tiện và phương pháp hiện đại, do một
đội ngũ các nhà sư phạm đã được đào tạo chu đáo thực hiện. Nhà trường là môi
trường giáo dục thuận lợi, có một tập thể học sinh cùng nhau học tập, rèn luyện và
tu dưỡng.
Trong nhà trường, học sinh được trang bị một khối lượng lớn tri thức khoa
học, được tiếp thu những khái niệm đạo đức, văn hoá, thẩm mĩ, những quy tắc,
những chuẩn mực xã hội qua các môn học. Nhờ học tập và thực hành theo các
chương trình nội, ngoại khoá mà kĩ năng lao động trí óc và chân tay được hình
thành, trí tuệ được mở mang, nhân cách được hoàn thiện.
Dạy học là con đường giáo dục chủ động, ngắn nhất và có hiệu quả, giúp thế
hệ trẻ tránh được những mò mẫm, vấp váp trong cuộc đời. Con người được đào tạo

16
chính quy bao giờ cũng thành đạt hơn những người không được học tập chu đáo.
Dạy học là con đường quan trọng nhất trong tất cả các con đường giáo dục.
1.1.5.2. Giáo dục thông qua tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
(HĐGDNGLL)
Toàn bộ cuộc sống của con người là một hệ thống liên tục các hoạt động và
con người lớn lên cùng với các hoạt động đó. Vì thế, đưa con người vào các hoạt
động thực tế phong phú và đa dạng là con đường giáo dục tốt. Con người có nhiều
dạng hoạt động như: vui chơi, lao động sản xuất, và hoạt động xã hội... mỗi dạng
hoạt động có những nét đặc thù và đều có tác dụng giáo dục...
Giáo dục không những được thực hiện qua con đường dạy học trên lớp mà
còn qua các HĐGDNGLL. HĐGDNGLL là sự tiếp nối hoạt động dạy học trên lớp,
là con đường gắn lí thuyết với thực tiễn, tạo nên sự thống nhất giữa nhận thức và
hành động của học sinh. HĐGDNGLL nhằm các mục tiêu sau đây:
- Củng cố và khắc sâu những kiến thức của các môn học, mở rộng và nâng
cao hiểu biết cho học sinh về các lĩnh vực của đời sống xã hội, làm phong phú thêm
vốn tri thức, kinh nghiệm hoạt động tập thể của học sinh.
- Rèn luyện cho học sinh các kĩ năng cơ bản phù hợp với từng lứa tuổi như
kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tổ chức quản lĩ, kĩ năng kiểm tra đánh giá… Củng cố,
phát triển các hành vi thói quen tốt trong học tập, lao động và công tác xã hội.
- Bồi dưỡng thái độ tự giác tích cực tham gia các hoạt động tập thể và hoạt
động xã hội, hình thành tình cảm chân thành, niềm tin trong sáng với cuộc sống, với
quê hương, đất nước, có thái độ đúng đắn đối với tự nhiên, xã hội… Các loại hình
HĐGDNGLL bao gồm:
a. Hoạt động lao động: Lao động là hình thức hoạt động đặc biệt của con
người, lao động tạo ra sản phẩm vật chất và tinh thần, nhằm thoả mãn nhu cầu cuộc
sống và chính lao động lại tạo ra con người xã hội có ý thức.
Có hai loại lao động: lao động trí óc và lao động chân tay. Cả hai loại lao
động đều rèn trí thông minh, đều làm bộc lộ và phát triển tiềm năng trí tuệ, đều hình
thành các kĩ năng hoạt động sáng tạo. Lao động thử sức bền bỉ, dẻo dai, khả năng
vượt khó, tạo ý chí vươn lên của con người trong cuộc sống.
Lao động sản xuất với trình độ kĩ thuật cao, lao động sáng tạo và lao động
trong tập thể có ý nghĩa giáo dục to lớn.
Hoạt động lao động được đưa vào nhà trường với tư cách là một con đường
giáo dục có ý nghĩa vô cùng quan trọng:

17
- Lao động là phương tiện hữu hiệu để phát triển các mặt giáo dục tòan diện
của nhân cách như trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ, thể chất…
- Hoạt động lao động được tổ chức một cách đúng đắn trong nhà trường
không những giúp cho học sinh biết làm một số công việc lao động trước mắt mà
còn chuẩn bị thiết thực cho học sinh về mặt tâm lí cũng như các phẩm chất và năng
lực cần thiết khác để tham gia lao động trong tương lai.
Những dạng hoạt động lao động cơ bản của học sinh như: Lao động tự phục
vụ; Lao động sản xuất; Lao động công ích …
* Một số yêu cầu cơ bản:
- Lao động phải mang ý nghĩa giáo dục.
- Đảm bảo tính tập thể, tính vừa sức, tính sáng tạo của hoạt động lao động.
- Đảm bảo tính thường xuyên liên tục của các hoạt động lao động, tăng dần
tính phức tạp của hoạt động lao động theo lứa tuổi.
- Tổ chức cho học sinh tự giác, tích cực tham gia vào nhiều hình thức lao
động khác nhau, kích thích tính sáng tạo của học sinh trong lao động…
b. Hoạt động xã hội: là hình thức hoạt động của cá nhân trong các mối quan
hệ đa dạng với cộng đồng xã hội trong một môi trường phức tạp, hoạt động xã hội
là trường học rèn luyện và giáo dục con người.
Trong hoạt động xã hội, sự giao tiếp giữa các cá nhân càng đa dạng, càng làm
phát triển phong phú các phẩm chất nhân cách, hình thành kĩ năng giao tiếp, ứng xử
có văn hoá, cá tính được bộc lộ. Hoạt động xã hội đem lại những thoả mãn tinh thần
vì những thành quả có giá trị xã hội, phục vụ đông đảo quần chúng.
Trong hoạt động xã hội, tính phức tạp của nội dung công việc càng cao, thì
con người càng phải cố gắng tìm ra các giải pháp hợp lí, do đó trí thông minh sáng
tạo, tính khéo léo, tế nhị, văn hoá được hình thành.
Như vậy, tham gia các hoạt động xã hội, sự hiểu biết về thế giới và cuộc sống
xã hội được mở mang, kinh nghiệm hoạt động được tích luỹ, tính tích cực xã hội
được hình thành. Thu hút học sinh vào các hoạt động xã hội phong phú và đa dạng
đó chính là con đường tổ chức giáo dục có hiệu quả.
Nội dung và hình thức hoạt động xã hội rất phong phú và đa dạng. Tuỳ lứa
tuổi học sinh mà chọn những hình thức phù hợp. Đó là những hoạt động có liên
quan đến những dịp kỉ niệm các ngày lễ lớn, các sự kiện chính trị, xã hội trong nước
và quốc tế, các hoạt động tìm hiểu truyền thống tốt đẹp của nhà trường, địa phương,
dân tộc; các hoạt động nhân đạo, đền ơn đáp nghĩa, hoạt động từ thiện…
* Một số yêu cầu khi tổ chức các hoạt động xã hội:

18
- Nhà trường cần tổ chức nhiều dạng hoạt động xã hội phong phú, đa dạng,
có liên quan đến nhiều lĩnh vực phù hợp với những đặc điểm tâm sinh lí học sinh.
- Những hoạt động xã hội cần gắn với cộng đồng, trước hết là với cộng đồng
địa phương, tạo nên sự gắn bó giữa học sinh và cộng đồng.
- Cần phát huy tinh thần tự giác, tích cực và sáng tạo, tinh thần tự quản của
học sinh. Giáo viên đóng vai trò cố vấn, định hướng, hướng dẫn cho học sinh hoạt
động.
- Trong quá trình tổ chức các hoạt động xã hội, cần phối hợp với các tổ chức
Đoàn, Đội, Hội (Hội sinh viên, Hội cha mẹ học sinh…).
c. Hoạt động vui chơi: là hình thức hoạt động giải trí nhưng nó có ý nghĩa
giáo dục to lớn.
- Giúp học sinh phát triển nhiều phẩm chất đạo đức như tình thân ái, đoàn
kết, lòng trung thức, tinh thần cộng đồng trách nhiệm, khắc phục những nét xấu như
tính ích kỷ, chơi trội, giả dối…
- Giúp học sinh có cơ hội nâng cao hiểu biết về tự nhiên, xã hội, phát triển trí
thông minh, sáng tạo, phát triển năng khiếu...
- Giúp học sinh phát triển óc thẩm mĩ, cảm thụ cái đẹp, sáng tạo cái đẹp
trong cuộc sống
- Giúp học sinh thoải mái dễ chịu, phục hồi sức khoẻ sau những giờ học tập,
lao động, phát triển những phẩm chất vận động qua những trò chơi vận động, qua
các hoạt động dã ngoại, du lịch...
- Giúp học sinh hình thành và phát triển các kĩ năng hoạt động: tổ chức, điều
khiển, thích ứng, giao tiếp, hợp tác, kiểm tra, đánh giá…
Vui chơi được thực hiện thông qua các trò chơi, phù hợp với mọi lứa tuổi
như: thể dục thể thao, văn hoá, văn nghệ và trò chơi trí tuệ sáng tạo... Để đạt được
mục đích vui chơi giải trí, con người tìm tòi các trò chơi mới, tìm ra các quy tắc
chơi mang tính sáng tạo, qua đó tính tích cực, sáng tạo, tinh thần đoàn kết tập thể,
tính tổ chức kỉ luật... được hình thành, sức khoẻ được tăng cường, tính bền bỉ, dẻo
dai được phát triển.
Trẻ em trong vui chơi như thế nào, thì lớn lên sẽ phát triển như thế. Vì vậy,
trong nhà trường và cả ngoài xã hội cần tổ chức nhiều trò chơi và lôi cuốn nhiều học
sinh, thanh thiếu niên tham gia để giáo dục và phát triển.
* Những yêu cầu để hoạt động vui chơi phát huy tốt tác dụng:
- Hoạt động vui chơi phải có nội dung phong phú, hình thức đa dạng, hấp
dẫn, các hoạt động vui chơi phải liên quan đến nhiều lĩnh vực như khoa học - kĩ

19
thuật (trò chơi điện tử, đố vui…), văn học - nghệ thuật (diễn kịch, hài…), văn hoá,
thể dục thể thao, tham quan du lịch, giải trí thư giãn…
- Kích thích hứng thú và tính tự nguyện tự giác của học sinh trong hoạt động
vui chơi dưới sự quản lí của giáo viên.
- Tổ chức các hoạt động vui chơi một cách có kế hoạch với những điều kiện
cần thiết (sân bãi, đồ chơi, dụng cụ…).
- Thu hút các lực lượng xã hội và tận dụng các điều kiện có sẵn hợp lí.
Tóm lại, các con đường giáo dục có mối quan hệ biện chứng đan kết, xâm
nhập và hỗ trợ nhau. Trong quá trình giáo dục cần tổ chức tốt từng con đường đồng
thời phối hợp đồng bộ hài hoà các con đường giáo dục.
- Các hoạt động phải phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi, hứng thú, sở
thích học sinh.
- Đảm bảo phát huy, phát triển được tính tích cực, độc lập, sáng tạo của học
sinh, rèn luyện kĩ năng tự quản.
- Đa dạng hóa các hình thức hoạt động văn hoá nghệ thuật, có sự thay đổi liên
tục nhằm kích thích, thu hút và phát triển tiềm năng của học sinh.
1.1.5.3. Giáo dục thông qua sinh hoạt tập thể
Tổ chức cho học sinh sinh hoạt tập thể là một hoạt động giáo dục quan trọng
của nhà trường. Tập thể là một tập hợp nhiều cá nhân cùng nhau hoạt động theo một
mục đích tốt đẹp. Hai yếu tố quan trọng của tập thể có ý nghĩa giáo dục lớn là chế
độ sinh hoạt và dư luận tập thể.
Chế độ sinh hoạt tập thể hợp lí, với kỉ luật nghiêm, hoạt động có kế hoạch, có
tổ chức và nề nếp tạo nên thói quen sống có văn hoá, hình thành ý chí và nghị lực.
Dư luận tập thể lành mạnh luôn trợ giúp con người nhận thức những điều tốt đẹp,
điều chỉnh hành vi cuộc sống có văn hoá.
Trong cuộc sống tập thể, các cá nhân cùng nhau hoạt động, tinh thần đoàn
kết, tình thân ái, tính hợp tác, cộng đồng được hình thành, đó là những phẩm chất
quan trọng của nhân cách. Trong sinh hoạt tập thể, một mặt các cá nhân tác động
lẫn nhau, mặt khác là sự tác động của nhà sư phạm qua tập thể, tạo thành tác động
tổng hợp có tác dụng giáo dục rất lớn. Tập thể vừa là môi trường, vừa là phương
tiện giáo dục con người, tổ chức tốt các hoạt động tập thể là con đường giáo dục
đúng đắn. Muốn vậy, nhà trường và các nhà sư phạm cần :
- Xây dựng tốt các mối quan hệ tập thể (quan hệ tình cảm, quan hệ chức
năng, quan hệ trách nhiệm công việc và quan hệ tổ chức thể hiện bằng nội quy, kỉ
luật tập thể).

20
- Tổ chức các hoạt động đa dạng trong tập thể.
- Xây dựng các viễn cảnh trong tương lai cho tập thể. Việc xây dựng viễn
cảnh xuất phát từ mục tiêu giáo dục của lớp, của trường từ đó đem lại niềm vui, hy
vọng cho con người. Nếu không xác định mục đích cần đến trong tương lai, con
người sẽ rơi vào tình trạng mất phương hướng.
- Xây dựng truyền thống tốt đẹp cho tập thể, chẳng hạn như: Truyền thống
học tập giỏi, truyền thống lao động, truyền thống văn nghệ, thể dục thể thao giỏi;
mỗi loại truyền thống đều có ý nghĩa giáo dục riêng.
- Xây dựng và hướng dẫn dư luận lành mạnh. Dư luận có sức mạnh điều
chỉnh các mối quan hệ trong tập thể. Dư luận tập thể lành mạnh là một nhân tố quan
trọng, có tác dụng lớn đến sự phát triển của các cá nhân và cả tập thể.
- Tổ chức phong trào thi đua trong lớp, trường.
Ngày nay, yêu cầu giáo dục trong tập thể cần được tiếp cận với những yêu
cầu mới, hướng hoạt động của tập thể vào những mục tiêu rộng lớn hơn đến tinh
thần “Giáo dục nhân văn, vì sự hiểu biết quốc tế”, làm cho con người không chỉ
gắn với các tập thể nhỏ bé mà vươn tới cuộc sống trên bình diện quốc tế và lợi ích
của nhân loại.
1.1.5.4. Tự tu dưỡng
Nhân cách được hình thành bằng nhiều con đường trong đó có tự tu dưỡng
hay còn gọi là tự giáo dục. Tự tu dưỡng biểu hiện ý thức và tính tích cực cao nhất
của cá nhân đối với cuộc sống. Tự tu dưỡng được thực hiện khi cá nhân đã đạt tới
một trình độ phát triển nhất định, khi đã tích luỹ được những kinh nghiệm sống,
những tri thức phong phú. Tự tu dưỡng là kết quả của quá trình giáo dục, là sản
phẩm của nhận thức và sự tạo lập các thói quen hành vi, là bước tiếp theo và quyết
định của quá trình giáo dục.
Tự giáo dục bắt đầu từ việc xây dựng các mục tiêu lí tưởng cho tương lai,
tiếp đó là tìm các biện pháp và quyết tâm thực hiện mục tiêu đã xác định, thường
xuyên tự kiểm tra các kết quả và phương thức thực hiện, tìm các giải pháp sáng tạo
mới, xác định quyết tâm mới, để tiếp tục hoàn thiện bản thân. Mỗi con người là sản
phẩm của chính mình, tự giáo dục chính là phương thức tự khẳng định.
Tóm lại, trong thực tế giáo dục, các con đường giáo dục chính là sự “tích
hợp” giữa nội dung, phương pháp và hình thức giáo dục, hướng vào việc thực hiện
tốt nhất mục tiêu giáo dục của nhà trường. Thông qua các hoạt động dạy học, giáo
dục và tự giáo dục, các năng lực và các phẩm chất nhân cách của học sinh được
hình thành và phát triển ngày càng cao. Nhà trường trong cơ chế mới, phải hết sức

21
năng động, tự điều chỉnh, thích ứng với các nhân tố mới, yêu cầu mới luôn luôn nảy
sinh trong đời sống xã hội. Nhà trường cần phát huy vị trí, vai trò là trung tâm văn
hoá - giáo dục ở địa phương thu hút và kết hợp mọi nguồn lực, mọi lực lượng tham
gia vào sự nghiệp giáo dục theo định hướng chung, đó là “đào tạo bồi dưỡng nguồn
lực con người cho công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước”. Các con đường giáo
dục không phải là riêng rẽ, tách rời mà một hệ thống gắn bó với nhau, chúng bổ
sung, hỗ trợ lẫn nhau để đạt được mục tiêu giáo dục xã hội. Phối hợp các con đường
giáo dục chính là nguyên tắc giáo dục phức hợp và cũng là nghệ thuật giáo dục.
1.2. Giáo dục học là một khoa học độc lập
1.2.1. Đối tượng nghiên cứu của Giáo dục học
1.2.1.1. Vài nét về sự ra đời và phát triển của Giáo dục học
Giáo dục với tư cách là một hiện tượng xã hội ra đời cùng với sự xuất hiện
của xã hội loài người. Giáo dục học với tư cách là một khoa học về giáo dục con
người lại được hình thành muộn hơn nhiều. Những công trình nghiên cứu cho thấy
Giáo dục học ra đời khi giáo dục đóng một vai trò rõ rệt trong cuộc sống xã hội và
xã hội có nhu cầu tổng kết những kinh nghiệm trong chuyển giao những hiểu biết
giữa các thế hệ.
Thực tiễn tổ chức cuộc sống, tiến hành các quá trình lao động sản xuất và quá
trình giáo dục đã làm nảy sinh những kinh nghiệm giáo dục. Những kinh nghiệm
giáo dục đã được ghi lại trong kho tàng văn hóa dân gian, truyền thuyết, truyện kể,
tục ngữ, ca dao,… Thời kì cổ đại, những kinh nghiệm giáo dục đã bắt đầu được
tổng kết, song dưới dạng những tư tưởng giáo dục. Những tư tưởng giáo dục này
được hình thành với những tư tưởng triết học và được trình bày trong những hệ
thống triết học của Khổng tử (551 - 479 TCN), Xôcrát (469 - 399 TCN), Đêmôcrít
(460 - 370 TCN), Aristốt (384 - 322 TCN)...
Đến cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỉ XV, nhân loại bước vào thời kì Phục hưng,
khi mầm mống của Chủ nghĩa tư bản xuất hiện. Bước quá độ từ chế độ Phong kiến
sang Chủ nghĩa tư bản đã làm xuất hiện những hệ thống tri thức mới về tự nhiên và
xã hội, là tiền đề quan trọng để nhiều khoa học tách ra khỏi Triết học, trong đó có
Giáo dục học. Đầu thế kỷ thứ XVII Giáo dục học với tư cách là một khoa học được
tách ra từ Triết học và trở thành một khoa học độc lập gắn liền với tên tuổi của J.A.
Cômenxki (1592-1670) - nhà giáo dục người Cộng hòa Sec vĩ đại với tác phẩm lớn
nỗi tiếng của ông: “Phép giáo huấn vĩ đại”.
Nhiều nhà lịch sử tư tưởng giáo dục tiêu biểu đã kế tục góp phần phát triển
Giáo dục học như là một khoa học độc lập như: J. Lôccơ (1632-1701)- nhà giáo dục

22
Anh; các nhà giáo dục Pháp như:J.J. Rútxô (1712-1778), Đ.Điđơrô (1713-1784),
nhà giáo dục Thụy sĩ J.G.Pextalôgi (1746-1827), nhà giáo dục Đức F.
Đixtervec(1790-1866), nhà giáo dục Nga K.D. Usinxki (1824-1870)…Giữa thế kỷ
XIX với sự xuất hiện của học thuyết Mác - Lênin về giáo dục thì Giáo dục học đã
thực sự trở thành một khoa học về giáo dục con người, có cơ sở phương pháp luận
dựa trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử có giá trị khoa học
vững chắc nhất.
Như vậy, Giáo dục học đã được hình thành và phát triển qua một quá trình
lịch sử lâu dài: từ chỗ là một bộ phận của Triết học đến chỗ trở thành một khoa học
độc lập; từ chỗ dựa trên những tư tưởng giáo dục đến chỗ xây dựng được hệ thống lí
luận ngày càng phong phú, đa dạng; từ chỗ chưa có đầy đủ cơ sở khoa học đến chỗ
thực sự là một khoa học dựa trên phương pháp luận Mácxít.
Giáo dục học là một lĩnh vực hội đủ các tiêu chí: có đối tượng nghiên cứu
độc lập, có phương pháp nghiên cứu riêng, hình thành nên bộ máy khái niệm công
cụ, khẳng định giá trị lí luận và thực tiễn của mình và có được đội ngũ các nhà hoạt
động trên các lĩnh vực đông đảo.
1.2.1.2. Đối tượng nghiên cứu của Giáo dục học
Có nhiều khoa học nghiên cứu về con người, vì con người, Giáo dục học là
một khoa học về việc giáo dục con người. Từ lâu, chúng ta nhận thức rằng Giáo dục
học có đối tượng nghiên cứu là bản chất, qui luật của hoạt động giáo dục con người,
mục đích, mục tiêu giáo dục, nội dung, phương pháp, phương tiện và các hình thức
tổ chức giáo dục con người một cách hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu xã hội trong
những giai đoạn lịch sử nhất định.
Ngày nay với thành tựu vượt bậc của khoa học và công nghệ cho phép chúng
ta tiếp cận về đối tượng nghiên cứu của Giáo dục học ở cấp độ sâu hơn. Việc giáo
dục con người diễn ra theo qui luật trong quá trình giáo dục (có mở đầu, diễn biến,
kết thúc) hay hoạt động giáo dục (có chủ thể, đối tượng). Ở đây, chúng ta tiếp cận
giáo dục với tư cách là một quá trình giáo dục. Quá trình giáo dục - đối tượng
nghiên cứu của Giáo dục học được hiểu với hàm nghĩa rộng, bao gồm toàn bộ các
tác động giáo dục được định hướng theo mục đích xác định, được tổ chức một cách
hợp lí, khoa học nhằm hình thành và phát triển người.
Giáo dục với tư cách là một quá trình xã hội nên nó cũng có những đặc trưng
chung như: tính định hướng, độ lâu về thời gian, là một dạng vận động và phát triển
liên tục, kế tiếp của các trạng thái, phẩm chất vận động do tác động của những điều
kiện bên trong và bên ngoài, tuân theo những qui luật khách quan vốn có của nó và

23
biểu hiện thông qua hoạt động của con người… Tuy nhiên, quá trình giáo dục có
những đặc trưng:
Quá trình giáo dục là một hoạt động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch
hợp lí, khoa học hướng vào việc hình thành và phát triển toàn diện con người theo
những mục đích và điều kiện do xã hội quy định ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Quá trình giáo dục luôn có sự tương tác và phối hợp chặt chẽ, thống nhất
giữa hoạt động của nhà giáo dục và hoạt động của người được giáo dục, trong đó
nhà giáo dục giữ vai trò chủ đạo và người được giáo dục là chủ thể hoạt động độc
lập sáng tạo. Mối quan hệ giữa nhà giáo dục và người được giáo dục trong quá trình
giáo dục là một mối quan hệ xã hội đặc biệt – phương thức Thầy.
Quá trình giáo dục là một dạng vận động và phát triển liên tục của các hiện
tượng, các tình huống giáo dục, các loại hình hoạt động, giao lưu của người được
giáo dục… được nhà giáo dục định hướng, tổ chức, hướng dẫn thực hiện theo
những qui trình bị kiểm soát.
Quá trình giáo dục (theo nghĩa rộng) hay hoạt động sư phạm phản ánh những
qui luật chung của hoạt động giáo dục tổng thể, nhưng chúng cũng phản ánh các
quy luật đặc thù riêng, đặc thù của từng hoạt động. Quá trình giáo dục có mối quan
hệ chặt chẽ với các hoạt động xã hội khác… Hoạt động giáo dục tổng thể là một hệ
thống lớn (vĩ mô) bao gồm những hệ thống nhỏ (vi mô) là những hoạt động giáo
dục bộ phận: hoạt động dạy học và hoạt động giáo dục (theo nghĩa hẹp). Những
hoạt động bộ phận này thống nhất với nhau, có mối quan hệ mật thiết, hỗ trợ nhau
và có thể thâm nhập vào nhau, nhưng chúng không phải đồng nhất mà có tính độc
lập tương đối của nó. Hoạt động dạy học với chức năng trội là trau dồi học vấn,
truyền thụ và lĩnh hội hệ thống tri thức khoa học, kĩ năng, kĩ xảo nhận thức và thực
hành một cách tương ứng cho người học. Hoạt động giáo dục (theo nghĩa hẹp) với
chức năng trội là hình thành, phát triển thế giới quan khoa học, những phẩm chất
đạo đức, pháp luật, lao động, thẩm mĩ, thái độ, tính cách, thói quen… cho người
được giáo dục. Hai hoạt động này gắn bó chặt chẽ, biện chứng với nhau: dạy học
phải đi đến giáo dục và giáo dục dựa trên cơ sở dạy học, thúc đẩy dạy học.
Quá trình giáo dục tổng thể cũng như mỗi hoạt động giáo dục bộ phận đều là
các hệ thống và được tạo thành bởi các nhân tố sau:
* Chủ thể giáo dục: Là hoạt động của nhà giáo dục và của người được giáo
dục. Nhà giáo dục là chủ thể đóng vai trò chủ đạo trong hoạt động giáo dục. Chủ thể
giáo dục cũng chính là người được giáo dục.

24
* Khách thể giáo dục: Đó là quá trình giáo dục. Người được giáo dục vừa là
đối tượng giáo dục vừa là chủ thể tự giáo dục.
* Mục đích, nhiệm vụ giáo dục: Mục đích giáo dục là mẫu nhân cách con
người mà giáo dục cần đào tạo đáp ứng yêu cầu của xã hội trong từng giai đoạn
phát triển của xã hội. Đồng thời mục đích giáo dục là sự trưởng thành của đối tượng
giáo dục diễn ra trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Đây là nhân tố hàng đầu định
hướng cho sự vận động và phát triển của toàn bộ hoạt động giáo dục và là căn cứ
quan trọng để xây dựng các tiêu chí đánh giá kết quả hoạt động giáo dục. Để thực
hiện tốt mục đích này, giáo dục phải thực hiện các nhiệm vụ giáo dục: giáo dục trí
tuệ giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thể chất - quốc phòng, giáo dục
lao động - hướng nghiệp. Các nhiệm vụ giáo dục có mối quan hệ vừa tác động qua
lại vừa thống nhất biện chứng với nhau.
* Nội dung giáo dục: Nội dung giáo dục là hệ thống những kinh nghiệm xã
hội được chọn lọc trong kho tàng kinh nghiệm của nhân loại, đó là năng lực thực
tiễn và hệ thống giá trị văn hóa - đạo đức của loài người kết tinh được thiết kế để
tạo nên nội dung hoạt động thống nhất cho nhà giáo dục và người được giáo dục
nhằm đạt được mục đích giáo dục.
* Phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức giáo dục: Phương pháp,
phương tiện, hình thức tổ chức giáo dục là cách thức, phương tiện, hình thức hoạt
động của nhà giáo dục và người được giáo dục nhằm thực hiện những nhiệm vụ
giáo dục và đạt tới mục đích giáo dục đã định.
* Kết quả giáo dục: Kết quả giáo dục là kết quả tổng hợp của toàn bộ hoạt
động giáo dục nhưng thể hiện tập trung nhất ở mức độ phát triển nhân cách của
người được giáo dục sau mỗi hoạt động giáo dục nhất định
* Tham gia vào hoạt động giáo dục còn có những điều kiện giáo dục bên
ngoài (môi trường kinh tế - xã hội và khoa học công nghệ…), những điều kiện bên
trong (môi trường sư phạm).
Những thành tố của quá trình giáo dục có mối quan hệ thống nhất, tác động
biện chứng với nhau đồng thời những thành tố này còn có mối quan hệ mật thiết,
biện chứng với môi trường bên ngoài và môi trường bên trong. Khi một thành tố
thay đổi sẽ kéo theo sự biến đổi của các thành tố khác.
1.2.2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của Giáo dục học
Mỗi một khoa học đều có các nhiệm vụ cụ thể, Giáo dục học là một khoa học
có các nhiệm vụ cơ bản sau:

25
+ Giải thích nguồn gốc phát sinh, phát triển và bản chất của hiện tượng giáo
dục, tìm ra các mối quan hệ có tính quy luật chi phối quá trình giáo dục để tổ chức
chúng đạt hiệu quả tối ưu.
+ Nghiên cứu dự báo tương lai gần và tương lai xa của giáo dục, xu thế phát
triển và mục tiêu chiến lược của giáo dục trong mỗi giai đoạn phát triển của xã hội
để xây dựng chương trình, kế hoạch giáo dục và đào tạo.
+ Nghiên cứu xây dựng các lí thuyết giáo dục mới, hoàn thiện các mô hình
giáo dục, dạy học, phân tích kinh nghiệm giáo dục, tìm ra con đường ngắn nhất và
các phương tiện để áp dụng chúng vào thực tiễn giáo dục- đào tạo.
+ Giáo dục học nghiên cứu tìm tòi các phương pháp và phương tiện giáo dục
mới nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục, trên cơ sở các thành tựu của khoa học và
công nghệ.
+ Nghiên cứu các thành tố của quá trình giáo dục (mục đích, nội dung,
phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức giáo dục…). Từ đó, tìm tòi con đường
nâng cao chất lượng và hiệu quả quá trình giáo dục.
Cùng với sự phát triển và đổi mới giáo dục, nhiều vấn đề mới trong thực tiễn
nảy sinh, đòi hỏi sự đáp ứng của Giáo dục học trong giai đoạn mới. Vì vậy, nhiệm
vụ nghiên cứu của Giáo dục học còn thể hiện ở việc giải quyết những vấn đề sau:
Nghiên cứu và hoàn thiện những vấn đề thuộc phạm trù phương pháp luận khoa học
giáo dục. Nghiên cứu góp phần giải quyết mâu thuẫn lớn giữa yêu cầu vừa phải phát
triển nhanh qui mô giáo dục - đào tạo, vừa phải nâng cao chất lượng trong khi khả
năng và điều kiện đáp ứng yêu cầu còn nhiều khó khăn, bất cập. Nghiên cứu các
vấn đề lí luận và thực tiễn giáo dục- đào tạo trong những điều kiện mới - Quốc tế
hóa, toàn cầu hóa trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội và Việt Nam gia nhập
WTO.
1.2.3. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Giáo dục học
1.2.3.1. Phương pháp luận nghiên cứu Giáo dục học
Phương pháp luận được hiểu là lí thuyết về các nguyên tắc để tiến hành các
phương pháp, các hình thức của hoạt động nhận thức khoa học, là hệ thống các
quan điểm, các nguyên tắc chỉ đạo hoạt động của chủ thể. Các quan điểm phương
pháp luận mang màu sắc triết học. Phương pháp luận trong Giáo dục học được xem
xét như là sự tổng hợp các luận điểm về nhận thức giáo dục và cải tạo, biến đổi thực
tiễn giáo dục- đào tạo.

26
Những quan điểm phương pháp luận là kim chỉ nam hướng dẫn các nhà khoa
học tìm tòi, nghiên cứu khoa học, có thể đề cập một số quan điểm phương phương
pháp luận nghiên cứu Giáo dục học như:
- Quan điểm duy vật biện chứng: Khi nghiên cứu, các nhà khoa học phải xem
xét sự vật, hiện tượng, quá trình giáo dục trong các mối quan hệ phức tạp của
chúng, và trong sự vận động và phát triển.
- Quan điểm hệ thống - cấu trúc: Quan điểm này đòi hỏi trong quá trình
nghiên cứu phải xem xét đối tượng một cách toàn diện, nhiều mặt, nhiều chiều,
nhiều mối quan hệ khác nhau và trong trạng thái vận động, phát triển của chúng, từ
đó tìm ra bản chất và qui luật vận động của đối tượng nghiên cứu. Quá trình giáo
dục là một hệ thống cấu trúc có lô gic chặt chẽ, phải chỉ rõ các thành tố tạo nên quá
trình giáo dục và mối quan hệ giữa chúng.
- Quan điểm lịch sử - lôgic: Quan điểm này đòi hỏi trong quá trình nghiên
cứu cần tìm hiểu, phát hiện nguồn gốc nảy sinh, phát triển của đối tượng trong
những thời gian và không gian cụ thể với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, từ đó
phát hiện bản chất, chất lượng mới và quy luật phát triển tất yếu của đối tượng
nghiên cứu. Nhận thức xuất phát từ lịch sử, đảm bảo thống nhất giữa cái lôgic và cái
lịch sử trong nghiên cứu Giáo dục học.
- Quan điểm thực tiễn: Quan điểm này đòi hỏi trong quá trình nghiên cứu
phải xuất phát từ thực tiễn giáo dục, do yêu cầu của thực tiễn giáo dục đề ra. Đối
tượng nghiên cứu của Giáo dục học phải là một trong những vấn đề cấp thiết của
thực tiễn khách quan mà khi giải quyết vấn đề đó thì góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục. Thực tiễn vừa là nguồn gốc, vừa là động lực, vùa là tiêu chí kiểm tra, đánh
giá tính chân lí của nhận thức về giáo dục.
1.2.3.2. Các phương pháp nghiên cứu Giáo dục học
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận: Đây là nhóm phương pháp nhận
thức khoa học giáo dục bằng con đường suy luận dựa trên các tài liệu lí thuyết đã
được thu thập từ các nguồn khác nhau như sách báo, tạp chí, tài liệu tham khảo, văn
bản, nghị quyết, công trình nghiên cứu v.v…Các tài liệu được phân tích, tổng hợp,
phân loại, hệ thống hóa để tạo thành những tri thức, lí thuyết giáo dục mới làm cơ
sở khoa học cho nghiên cứu vấn đề.
+ Phân tích lí thuyết: Là thao tác phân chia tài liệu lí thuyết thành các đơn
vị kiến thức, cho phép ta có thể tìm hiểu những dấu hiệu đặc thù, cấu trúc bên trong
của lí thuyết.

27
+ Tổng hợp lí thuyết: Là sự liên kết các yếu tố, các thành phần để tạo
thành một tổng thể. Trong phân tích cũng cần có sự liên kết các yếu tố nhưng nó có
tính bộ phận hơn là tính toàn thể, còn trong phạm trù tổng hợp, sự chế biến những
yếu tố đã cho thành một tổng thể có nhấn mạnh hơn đến tính thống nhất và tính
sáng tạo. Phân tích và tổng hợp cho phép xây dựng được cấu trúc của các vấn đề
cần nghiên cứu.
+ Phương pháp mô hình hoá: Là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng
và quá trình giáo dục dựa vào mô hình của chúng. Mô hình đối tượng là hệ thống
các yếu tố vật chất và tinh thần. Mô hình tương tự như đối tượng nghiên cứu và tái
hiện những mối liên hệ cơ cấu - chức năng, nhân - quả của đối tượng. Nghiên cứu
trên mô hình sẽ giúp cho các nhà khoa học khám phá ra bản chất, quy luật của đối
tượng.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Đây là các phương pháp xem
xét, phân tích đối tượng khoa học một cách trực tiếp trong thực tiễn của chúng:
Phương pháp quan sát sư phạm; Phương pháp điều tra giáo dục; Phương pháp tổng
kết kinh nghiệm; Phương pháp thực nghiệm sư phạm; Phương pháp nghiên cứu sản
phẩm hoạt động; Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia...
+ Phương pháp quan sát: Quan sát trong nghiên cứu giáo dục là phương
pháp thu thập thông tin về sự vật, hiện tượng, quá trình giáo dục trên cơ sở tri giác
trực tiếp các hoạt động giáo dục và các điều kiện khách quan của hoạt động đó.
Quan sát trực tiếp đối tượng giáo dục nhằm phát hiện ra những biến đổi của chúng
trong những điều kiện cụ thể. Mục đích quan sát là để phát hiện, thu thập các thông
tin về vấn đề nghiên cứu, từ đó phân tích nguyên nhân và rút ra những kết luận về
đối tượng và xây dựng giả thuyết nghiên cứu trong giáo dục học.
+ Phương pháp trưng cầu ý kiến bằng phiếu hỏi (bảng câu hỏi): Điều tra
bằng bảng câu hỏi là phương pháp được sử dụng phổ biến trong nghiên cứu xã hội
học và được ứng dụng trong nghiên cứu giáo dục học. Thực chất của phương pháp
này là sử dụng bảng câu hỏi đã được soạn sẵn với một hệ thống câu hỏi đặt ra cho
đối tượng nghiên cứu, nhằm thu thập những thông tin phục vụ cho vấn đề nghiên
cứu, nó được sử dụng để nghiên cứu đối tượng trên diện rộng. Vấn đề quan trọng
khi sử dụng phương pháp này là xây dựng có chất lượng bảng câu hỏi điều tra.
Bảng câu hỏi là một hệ thống các câu hỏi được xếp đặt trên cơ sở các nguyên tắc và
nội dung nhất định, nhằm tạo điều kiện cho người được hỏi thể hiện quan điểm của
mình về vấn đề nghiên cứu, qua đó, nhà nghiên cứu thu nhận được thông tin đáng
tin cậy đáp ứng yêu cầu của mục tiêu nghiên cứu trong giáo dục học.

28
+ Phương pháp phỏng vấn: Trong nghiên cứu giáo dục học, phương
pháp phỏng vấn được tiến hành thông qua tác động trực tiếp giữa người hỏi và
người được hỏi nhằm thu thập thông tin liên quan, phù hợp với mục tiêu và nhiệm
vụ nghiên cứu. Nguồn thông tin trong phỏng vấn bao gồm toàn bộ những câu trả lời
phản ánh quan điểm nhận thức của người được hỏi, hành vi cử chỉ và hệ thống thái
độ của người được hỏi trong khi phỏng vấn.
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục: Kinh nghiệm giáo dục là
tổng thể những tri thức kĩ năng, kĩ xảo mà người làm giáo dục đã tạo ra được trong
thực tiễn công tác giáo dục. Tổng kết kinh nghiệm giáo dục là vận dụng lí luận về
khoa học giáo dục và thành tựu của các khoa học liên quan để thu thập, phân tích,
đánh giá thực tiễn giáo dục, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm, khái quát có
tính chất lí luận. Đó là những khái quát về nguyên nhân, điều kiện, biện pháp, bước
đi dẫn tới thành công hay thất bại nhằm tổ chức tốt hơn các quá trình sư phạm kế
tiếp. Những kinh nghiệm rút ra từ phương pháp này cần được kiểm nghiệm, bổ sung
bằng cách thông qua các hội thảo khoa học, thẩm định và đăng tải trên các phương
tiện thông tin (tài liệu, báo, tạp chí), vận dụng vào thực tiễn ở các địa bàn và các
phạm vi cụ thể.
+ Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Thực nghiệm sư phạm là phương
pháp thu nhận thông tin về sự thay đổi số lượng và chất lượng trong nhận thức, thái
độ và hành vi của các đối tượng giáo dục do nhà khoa học tác động nên chúng bằng
một số tác nhân điều khiển và đã được kiểm soát. Phương pháp thực nghiệm cho
phép đi sâu vào bản chất, quy luật, phát hiện ra các thành phần, cấu trúc, cơ chế của
quá trình giáo dục. Phương pháp này đòi hỏi phải tổ chức cho đối tượng thực
nghiệm hoạt động theo một giả thuyết bằng cách đưa vào đó những yếu tố mới để
xem xét sự diễn biến và phát triển của chúng có phù hợp với giả thuyết hay không,
khi giả thuyết được khẳng định có thể được ứng dụng vào thực tiễn. Tuy nhiên, để
có được những thông tin từ thực nghiệm thì trong quá trình tiến hành thực nghiệm
cũng phải sử dụng hàng loạt các phương pháp khác nhau (quan sát, phỏng vấn,
trưng cầu ý kiến, trắc nghiệm...). Phân loại theo môi trường diễn ra thực nghiệm có
thực nghiệm tự nhiên và thực nghiệm trong phòng thí nghiệm, phân loại theo mục
đích thực nghiệm có thực nghiệm tác động và thực nghiệm thăm dò.
+ Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động sư phạm: Là phương
pháp mà nhà nghiên cứu thông qua các sản phẩm hoạt động sư phạm để tìm hiểu
tính chất, đặc điểm, tâm lí của con người và của cả hoạt động đã tạo ra sản phẩm ấy

29
nhằm tìm ra giải pháp, phương pháp và biện pháp nâng cao chất lượng của quá trình
giáo dục cụ thể.
+ Phương pháp chuyên gia: Là phương pháp thu thập thông tin khoa học,
đánh giá một sản phẩm khoa học bằng cách sử dụng trí tuệ một đội ngũ chuyên gia
có trình độ cao về một lĩnh vực nhất định, nhằm phân tích, đánh giá kết quả nghiên
cứu và tìm ra giải pháp thực tiễn tối ưu cho sự kiện, quá trình giáo dục xác định.
Phương pháp này được thực hiện thông qua các hình thức hội thảo, đánh giá,
nghiệm thu công trình khoa học.
- Nhóm phương pháp toán học: Sử dụng các lí thuyết toán học, các phương
pháp lôgic toán học để xây dựng các lí thuyết giáo dục hoặc để xác định thông số,
xử lí số liệu, lượng hóa các kết quả liên quan tới đối tượng nghiên cứu của một đề
tài nhằm tìm ra các tương quan và quy luật vận động của đối tượng nghiên cứu.
1.2.4. Các phạm trù nghiên cứu của Giáo dục học
1.2.4.1. Giáo dục
* Giáo dục (theo nghĩa rộng): là hoạt động giáo dục tổng thể hình thành và
phát triển con người được tố chức một cách có mục đích, có kế hoạch nhằm phát
triển những tiềm năng (sức mạnh thể chất và tinh thần) của con người. Như vậy,
giáo dục là một quá trình xã hội hình thành cá nhân con người. Với nghĩa rộng như
trên, giáo dục là một hoạt động tổng thế bao gồm giáo dục trí tuệ, giáo dục đạo đức,
giáo dục thể chất, giáo dục thẩm mĩ, giáo dục lao động diễn ra mọi lúc, mọi nơi,
trong đó giáo dục nhà trường giữ vai trò chủ đạo.
* Giáo dục (nghĩa hẹp): Giáo dục được hiểu là một bộ phận của hoạt động
giáo dục tổng thể, là hoạt động giáo dục nhằm hình thành thế giới quan khoa học,
nhân sinh quan con người xã hội - tư tưởng chính trị đạo đức, thấm mĩ, lao động,
phát triển thể lực, những hành vi và thói quen ứng xử đúng đắn của cá nhân trong
các mối quan hệ xã hội. Theo nghĩa này giáo dục bao gồm các bộ phận: đức dục, mĩ
dục, thể dục, giáo dục lao động, giáo dục kĩ năng sống...
1.2.4.2. Dạy học
Dạy học là một bộ phận của giáo dục (nghĩa rộng), là hoạt động tương tác,
phối hợp thống nhất giữa hoạt động dạy của nhà giáo và hoạt động học của người
học nhằm định hướng, tổ chức và lĩnh hội hệ thống tri thức khoa học, kĩ năng, kĩ
xảo tương ứng với tri thức, phát triển năng lực nhận thức và hành động trí tuệ, trên
cơ sở đó hình thành thế giới quan khoa học và nhân sinh quan con người xã hội cho
người học.

30
1.2.4.3. Giáo dưỡng
Giáo dưỡng được hiểu là quá trình người học nắm vững hệ thống tri thức
khoa học, kĩ năng, kĩ xảo tương ứng, hình thành phương pháp nhận thức và thực
hành sáng tạo. Nói cách khác, giáo dưỡng chính là quá trình trau dồi học vấn cho
người học. Giáo dưỡng được thực hiện thông qua con đường dạy học trong nhà
trường kết hợp với con đường tự học, tự bồi dưỡng của cá nhân.
1.2.4.4. Tự học
Tự học là hoạt động tự giác, có mục đích của cá nhân, là tự mình động não,
suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ và có khi cả cơ bắp cùng các phẩm chất, động
cơ, tình cảm… để chiếm lĩnh một lĩnh vực tri thức nào đó của nhân loại, biến lĩnh
vực đó thành sở hữu của mình. Cốt lõi của học là tự học. Tự học là nói đến nội lực
của người học, chất lượng của học tuỳ thuộc chủ yếu vào nội lực. Tự học là hoạt
động ý chí, nỗ lực để tự biến đổi mình.
1.2.4.5. Tự giáo dục
Tự giáo dục là một bộ phận của giáo dục, là hoạt động tự giác có ý thức, có
mục đích của cá nhân nhằm tự hoàn thiện những phẩm chất nhân cách của bản thân
cho phù hợp với yêu cầu chuẩn mực của xã hội. Trong tự giáo dục có sự nỗ lực tích
cực hóa một hoạt động nào đó và song song với quá trình đó là việc kìm hãm những
ước muốn không hợp lí. Tự giáo dục là những biểu hiện có ý thức của sự tự phát
triển, của sự tự vận động cá nhân, là gia tốc của sự phát triển cá nhân, nó thúc đẩy
sự hình thành những phẩm chất quan trọng và cần thiết nhất đối với cá nhân. Bản
chất của tự giáo dục là quá trình hoạt động ý chí.
1.2.4.6. Giáo dục hướng nghiệp
Giáo dục hướng nghiệp là một hệ thống biện pháp tác động của gia đình, nhà
trường, xã hội, trong đó nhà trường đóng vai trò chủ đạo nhằm giáo dục học sinh
trong việc chọn nghề, giúp học sinh tự quyết định nghề nghiệp tương lai trên cơ sở
phân tích khoa học về năng lực, hứng thú của bản thân, đặc điểm, tính chất của thế
giới nghề nghiệp và nhu cầu nhân lực của các ngành sản xuất trong xã hội. Mục tiêu
chung của giáo dục hướng nghiệp nhằm phát triển và bồi dưỡng phẩm chất tình cảm
nghề nghiệp; giúp học sinh hiểu mình, hiểu yêu cầu của nghề; định hướng cho học
sinh để họ quyết định đi vào những lĩnh vực mà xã hội có yêu cầu. Nhiệm vụ của
giáo dục hướng nghiệp bao gồm định hướng nghề, tư vấn nghề và tuyển chọn nghề.
1.2.4.7. Giáo dục cộng đồng
Giáo dục cộng đồng được hiểu là giáo dục cho tất cả mọi người, là áp dụng
cho mọi người trong xã hội. Nói một cách cụ thể hơn giáo dục cộng đồng là quá

31
trình phát triển các loại trường học thành các trung tâm giáo dục và câu lạc bộ văn
hóa cho mọi tầng lớp, tiến tới xã hội sẽ là một trường học khổng lồ, trong đó giáo
dục trở thành một động lực phát triển trực tiếp và quan trọng nhất của xã hội.
Theo UNESCO thì giáo dục cộng đồng là một tư tưởng, một cách làm nhằm
xây dựng mối quan hệ bền vững, gắn bó giữa giáo dục với các quá trình xã hội, với
đời sống và lợi ích của cộng đồng, nhằm tạo ra những điều kiện, cơ hội để thực hiện
sự công bằng xã hội, tạo lập nền tảng cho sự phát triển và sự ổn định của xã hội.
1.2.4.8. Giáo dục thường xuyên
Giáo dục thường xuyên được hiểu là một hệ thống giáo dục nhằm mục đích
tạo cơ hội giáo dục liên tục, thường xuyên, thoả mãn nhu cầu học tập suốt đời của
mọi thành viên trong xã hội, giúp họ thích ứng với sự tiến bộ nhanh chóng về khoa
học - kĩ thuật và công nghệ, tham gia tích cực, sáng tạo vào quá trình phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước.
1.2.4.9. Công nghệ giáo dục
Theo nghĩa chung nhất, công nghệ giáo dục là khoa học về giáo dục, nó xác
lập các nguyên tắc hợp lí của công tác giáo dục và những điều kiện thuận lợi nhất
để tiến hành quá trình đào tạo cũng như xác lập các phương pháp và phương tiện có
kết quả nhất để đạt mục đích đào tạo đề ra đồng thời tiết kiệm được sức lực của thầy
và trò.
Việc đầu tư giáo dục theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả thực chất là
đầu tư công nghệ giáo dục. Theo nghĩa hẹp, công nghệ giáo dục là việc sử dụng
những phát minh, những sản phẩm công nghiệp hiện đại về thông tin và các phương
tiện kĩ thuật vào giáo dục nhằm kiểm soát một cách chắc chắn quá trình này.
Đối với nền sản xuất ra của cải vật chất công nghệ là một khoa học chuyên
nghiên cứu cách thức xử lí, chế tác, biến đổi trạng thái, tính chất, hình dáng của
nguyên vật liệu (hay bán thành phẩm) thành sản phẩm. Nó phát hiện ra các quy luật
cơ, lí, hóa có thể vận dụng vào các quá trình sản xuất ra của cải vật chất nhằm nâng
cao chất lượng, hiệu quả, năng suất.
1.2.4.10. Giáo dục không chính quy
Giáo dục không chính quy là phương thức giáo dục tạo cơ hội cho mọi người
vừa làm, vừa học, học liên tục, suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu
biết, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ nhằm cải thiện chất lượng
cuộc sống, tìm việc làm và thích ứng với đời sống xã hội.

32
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 1
1. Giải thích và chứng minh giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt
2. Phân tích đối tượng nghiên cứu và nhiệm vụ của Giáo dục học
3. Phân biệt các khái niệm cơ bản của Giáo dục học: Giáo dục (nghĩa rộng); Dạy
học; Giáo dục (nghĩa hẹp) và mối quan hệ của chúng.
4. Phân tích tính lịch sử và tính giai cấp của giáo dục.
5. Phân tích các con đường giáo dục.

BÀI TẬP
1. Anh (chị) hãy sưu tầm những tài liệu về giáo dục ở nước ta ở các giai
đoạn để minh hoạ cho tính lịch sử của giáo dục.
2. Bằng những tư liệu sưu tầm được, anh (chị) hãy minh hoạ và lập luận cho
tính giai cấp của giáo dục.
3. Thử nêu tên một đề tài trong lĩnh vực giáo dục mà anh (chị) sẽ lựa chọn để
nghiên cứu, nêu lí do vì sao lựa chọn đề tài đó và xác định các phương pháp được
sử dụng để nghiên cứu đề tài

33
CHƯƠNG 2. GIÁO DỤC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
2.1. Nhân cách và sự phát triển nhân cách
2.1.1. Khái niệm Con người
Khái niệm về con người có nhiều định nghĩa, xuất phát từ những mục đích và
bình diện nghiên cứu khác nhau: quan điểm của nhiều tôn giáo coi con người là một
“tồn tại thần bí tiền định”; theo quan điểm tiến hoá thì cho con người là một “tồn tại
sinh vật”, mọi hoạt động đều bị chi phối bởi bản năng. Sự phát triển của nền văn
minh công nghiệp, xuất hiện các quan điểm “con người kĩ thuật”, “con người chính
trị”…
Khác với các quan điểm trên, lần đầu tiên trong lịch sử C. Mác đã đưa ra một
luận điểm tổng quan, khoa học về con người: “Bản chất con người không phải là cái
gì trừu tượng, vốn có của mỗi cá nhân riêng biệt, trong tính hiện thực của nó, bản
chất của con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”
Từ luận điểm trên của C.Mác, chúng ta có thể hiểu rằng con người không
phải là một tồn tại bất biến, không thể thay đổi được, và cũng không phải là một
tồn tại “sinh vật bản năng” hoặc đơn thuần “kĩ thuật - công nghệ hay chính trị”…
mà bản chất con người được hợp thành từ kết quả của hai quá trình cơ bản gắn kết
với nhau: Thứ nhất, con người là một thực thể và cũng là một sản phẩm tiến hoá cao
nhất của thế giới hiện hữu mang bản sắc tự nhiên - sinh học, tác động vào thế giới
nhưng cũng chịu sự chi phối của các quy luật tự nhiên vô cùng khắt khe của thế
giới. Thứ hai, con người cũng là một thực thể xã hội và là sản phẩm của tiến trình
phát triển xã hội qua các nền văn minh nhân loại, vì con người là chủ thể hoạt động
sáng tạo ra của cải vật chất cho bản thân và cho xã hội. Chính vì thế mà trong mọi
thời đại, đặc biệt trong cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại, việc quan
tâm đến phát triển nguồn lực con người được coi là yếu tố quyết định, tăng tốc, bền
vững của mọi quốc gia. Con người nếu xét trên bình diện loài là một cá thể, xét trên
bình diện xã hội con người là một cá nhân và xét trên bình diện hoạt động con
người là một chủ thể.
2.1.2. Khái niệm nhân cách
Theo Tâm lí học: “Nhân cách là tổ hợp các thái độ, các thuộc tính riêng
trong quan hệ hành động của từng người với thế giới tự nhiên, thế giới đồ vật do
loài người sáng tạo, với xã hội và với cá nhân. Nhân cách là bộ mặt tâm lí của một
cá nhân với tổ hợp những phẩm chất phù hợp với những giá trị và chuẩn mực xã
hội, được xã hội thừa nhận.” (Phạm Minh Hạc, Vấn đề con người trong công cuộc
đổi mới, Hà Nội, 1994)

34
Nhân cách của con người được phân tích trên ba bình diện khác nhau và được
đánh giá ở ba mức độ khác nhau:
- Mức độ bên trong cá nhân, nhân cách con người được thể hiện ở dạng cá
tính, ở sự khác biệt của người này với những người khác. Ở bình diện này, nhân
cách bộc lộ trong tính không đồng nhất với mọi người, với cái chung, giá trị của
nhân cách là ở tính tính cực của nó trong việc khắc phục những sự hạn chế của hoàn
cảnh và sự hạn chế tự nhiên của mình.
- Mức độ giữa các cá nhân, nhân cách được thể hiện trong mối quan hệ mà nó
tham gia trong quá trình hoạt động cộng đồng. Giá trị của nhân cách được thể hiện
trong các hành vi, cử chỉ xã hội của nó.
- Mức độ cao nhất, nhân cách dường như vượt ra ngoài khuôn khổ của cá tính
và ra ngoài khuôn khổ của những mối quan hệ thực sự với các cá nhân khác.
Ở đây, nhân cách được xem xét như là một chủ thể hoạt động đang thực hiện
một cách tích cực, có chủ định hay không chủ định, những biến đổi trong những
người khác (có liên quan, quen biết hoặc không liên quan, không quen biết). Giá trị
của nhân cách thể hiện ở những tác động mà nhân cách này gây ra đối với những
biến đổi của các nhân cách khác. Tất cả những biến đổi cơ bản mà cá nhân tạo ra
được ở những cá nhân khác, đặc biệt là ở bản thân mình như là “một người khác” đã
tạo thành nét đặc trưng đầy đủ và có giá trị nhất của cá nhân ấy như là một nhân
cách. Như vậy, nhân cách con người là mức độ phù hợp giữa thang giá trị và thước
đo giá trị của người ấy với thang giá trị và thước đo giá trị của xã hội, độ phù hợp
càng cao thì nhân cách càng lớn.
Theo Giáo dục học, nhân cách bao gồm tất cả các nét, các mặt, các phẩm chất
có ý nghĩa xã hội trong một con người. Nhân cách là toàn bộ các đặc điểm tâm sinh
lí của cá nhân được xã hội đánh giá tạo nên giá trị của cá nhân đó. Tùy theo trình độ
phát triển của xã hội mà các đặc điểm của cá nhân được nhìn nhận và đánh giá khác
nhau. Những đặc điểm của cá nhân cũng được đánh giá khác nhau tương ứng với
những vai trò khác nhau của họ.
Do cấu trúc nhân cách rất phức hợp nên một số nhà nghiên cứu giáo dục
thường nhấn mạnh đến các thuộc tính liên cá nhân (phản ánh mối quan hệ đa dạng,
phong phú của cá nhân với cộng đồng, xã hội) các thuộc tính nội cá nhân (phản ánh
những nét tính cách riêng, độc đáo của cuộc sống nội tâm); các thuộc tính siêu cá
nhân (phản ánh những phẩm chất, năng lực sáng chói có ý nghĩa xã hội, trở thành
một nhân cách bất tử).

35
Theo khái quát của Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt, nhân cách là toàn thể những
thuộc tính đặc biệt mà một con người có được trong hệ thống các quan hệ xã hội,
trên cơ sở hoạt động và giao lưu nhằm chiếm lĩnh các giá trị văn hoá vật chất và
tinh thần. Những thuộc tính đó bao hàm các thuộc tính về trí tuệ, đạo đức, thẩm mĩ,
thể chất...
Theo quan niệm truyền thống, nhân cách là sự thống nhất giữa phẩm chất và
năng lực của cá nhân bao gồm các phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, tác phong
và các năng lực, sở trường, năng khiếu. Người có nhân cách phải là người thống
nhất được hai mặt phẩm chất và năng lực, tức là thống nhất giữa mặt đức và tài.
Theo cách tiếp cận giá trị thì cốt lõi của nhân cách là hệ thống định hướng giá
trị mà mỗi cá nhân lựa chọn cho mình, bao gồm:
+ Các giá trị tư tưởng: lý tưởng, niềm tin…
+ Các giá trị đạo đức: lương tâm, trách nhiệm, lòng nhân ái, lòng trung
thực…
+ Các giá trị nhân văn: học vấn, nghề nghiệp, tình yêu, thời trang, tài năng…
Mặc dù các quan điểm, định nghĩa trên có hình thức diễn đạt khác nhau, xuất
phát từ cấp độ, phương diện xem xét, nhưng nhìn chung có sự thống nhất khi xem
xét nhân cách, đó là:
Những phẩm chất và năng lực có giá trị đối với cá nhân và xã hội được hình
thành và phát triển bằng hai con đường chủ yếu là hoạt động và giao lưu. Mỗi cá
nhân có một nhân cách riêng bao gồm hai mặt: Mặt tự nhiên và mặt xã hội, trong đó
mặt xã hội có ý nghĩa quan trọng đặc biệt, thể hiện đặc thù về nhân cách của mỗi
con người. Nhân cách là tổng hợp những phẩm chất, năng lực không thành bất biến
của cá nhân mà nó thường xuyên vận động, biến đổi theo chuẩn mực, giá trị xã hội.
Vì vậy, mọi cá nhân không chỉ phải thường xuyên giữ gìn, bảo vệ mà còn phải rèn
luyện, bồi dưỡng để nhân cách ngày càng hoàn thiện hơn. Nhân cách con người
được hình thành, biểu hiện và đánh giá trong hoạt động, do đó nhân cách là cách
làm người của cá nhân.
2.1.3. Khái niệm về sự phát triển nhân cách
Nhân cách là những thuộc tính tâm lí phản ánh bản chất xã hội của mỗi cá
nhân được hình thành và phát triển trong hoạt động và giao lưu. Trong quá trình
hoạt động, giao lưu thông qua: lao động, học tập, vui chơi, giải trí... đã dần dần lĩnh
hội những kinh nghiệm mà nhân loại tích luỹ được trong các loại hoạt động, từ đó
biến thành “vốn sống” của cá nhân. Đó chính là quá trình hình thành và phát triển
nhân cách của mỗi con người.

36
Sự phát triển của nhân cách là quá trình tăng trưởng, tích lũy, hoàn thiện về
thể chất, tâm lí và xã hội của cá nhân, được biểu hiện qua những dấu hiệu:
+ Sự phát triển về mặt tâm lí: Thể hiện sự biến đổi cơ bản trong quá trình
nhận thức, xúc cảm, tình cảm, nhu cầu, ý chí .
+ Sự phát triển về mặt xã hội: Thể hiện ở thái độ, hành vi ứng xử trong các
mối quan hệ với những người xung quanh, ở tính tích cực nhận thức tham gia vào
các hoạt động cải biến, phát triển xã hội.
+ Sự phát triển về mặt thể chất: Đó là sự tăng trưởng về chiều cao, trọng
lượng, cơ bắp, sự hoàn thiện chức năng các giác quan, sự phối hợp các chức năng
vận động của cơ thể.
Sự phát triển nhân cách là một quá trình cải biến toàn bộ các sức mạnh về thể
chất và tinh thần cả về lượng và chất; là quá trình tạo nên cái mới(chất lượng mới,
trình độ mới). Sự tăng trưởng về lượng và sự biến đổi về chất không chỉ diễn ra đối
với các mặt thể chất, tâm lí và xã hội do quá trình hoạt động, giao lưu trong cuộc
sống của cá nhân, do tác động của hiện thực xung quanh mà còn diễn ra với cả
những mầm mống, dấu hiệu được di truyền, hay có ngay từ khi mới sinh.
2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
2.2.1. Yếu tố tự nhiên - sinh học
Di truyền là sự tái tạo lại ở thế hệ sau những thuộc tính sinh học nhất định
giống với thế hệ trước, là sự truyền lại từ cha mẹ đến con cái những thuộc tính nhất
định đã được ghi lại trong chương trình gen, ví dụ như cấu trúc giải phẫu, sinh lí của
cơ thể, màu mắt, màu da, màu tóc, vóc dáng, thể trạng, một số đặc điểm của hệ thần
kinh và tư chất của con người,…
Một số thuộc tính mà đứa trẻ có ngay khi ra đời được gọi là những thuộc tính
bẩm sinh. Di truyền học cho rằng, chương trình mang tính di truyền về sự phát triển
con người trước hết đảm bảo cho loài người tiếp tục tồn tại và đồng thời phát triển
những quan hệ giúp con người thích ứng được với những điều kiện tồn tại của nó.
Trong lí luận giáo dục học, vấn đề di truyền những tư chất và những năng lực
thuộc một hoạt động nào đó là một vấn đề quan trọng thu hút sự quan tâm của nhiều
nhà khoa học và hoạt động thực tiễn giáo dục. Ví như, có nhiều người tự nhiên đã
có thính giác về âm nhạc, giọng hát và giọng nói tốt, trí nhớ lạ thường, óc sáng tác
thơ ca, óc toán học, thể chất đặc biệt được thể hiện ở chiều cao, sức học…
Chính những tư chất này giúp cho con người phát triển mạnh mẽ trong những
dạng hoạt động tương ứng về nghệ thuật, khoa học và lao động, và từ đó, ảnh hưởng
đến sự hình thành và phát triển nhân cách của họ.

37
Vai trò của yếu tố tự nhiên - sinh học là tạo ra tiền đề vật chất cho sự phát
triển nhân cách. Điều đó có nghĩa là, nếu cá thể không tiếp nhận được vật chất di
truyền của người thì sẽ không có được tiền đề vật chất cho sự phát triển nhân cách.
Một cơ thể lành mạnh, các giác quan đầy đủ, hệ thần kinh bình thường sẽ tạo tiền đề
thuận lợi cho sự phát triển nhân cách.
Các đặc tính cơ thể có ảnh hưởng đến tốc độ, mức độ và tính chất của việc
hình thành các kĩ năng, kĩ xảo, năng lực và khí chất của cá nhân chứ không quyết
định sẵn cho sự phát triển nhân cách con người. Những tư chất di truyền định hướng
cho con người vào các lĩnh vực hoạt động rộng rãi chứ không vào một lĩnh vực hoạt
động cụ thể và cũng không qui định trước năng lực cụ thể của cá nhân. Nhưng để tư
chất biến thành khả năng hiện thực còn tùy thuộc vào hoàn cảnh sống, vào sự giáo
dục và nhất là tùy thuộc vào ý chí rèn luyện của cá nhân.
Trong công tác giáo dục chúng ta cần chú ý đúng mức vai trò của vấn đề tự
nhiên - sinh học trong sự phát triển nhân cách để tránh những thái độ sau đây: Hạ
thấp vai trò của giáo dục qua việc tổ chức giáo dục theo mức độ phát triển đã bị qui
định bởi yếu tố di truyền; Không quan tâm đến những đặc điểm tư chất của học sinh
và đòi hỏi mọi học sinh phải có khả năng hoàn thành những nhiệm vụ học tập như
nhau hoặc không chú ý phát huy những tư chất thuận lợi ở một số học sinh cũng
như không tìm cách hỗ trợ cho những học sinh không có tư chất thuận lợi; Đề cao
ảnh hưởng của yếu tố di truyền đến mức cho nhân cách là bẩm sinh và phủ nhận
khả năng biến đổi bản chất con người.
2.2.2. Yếu tố môi trường
Lí luận giáo dục hiện đại giải thích yếu tố môi trường, hoàn cảnh tác động
đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách dựa trên quan điểm triết học duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử:
Môi trường là toàn bộ các yếu tố tự nhiên và xã hội hiện hữu có khả năng ảnh
hưởng lớn lao đến đời sống và nhân cách con người. Môi trường bao quanh con
người gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Môi trường tự nhiên gồm khí
hậu, đất, nước, sinh thái... và môi trường xã hội, đó là các điều kiện về kinh tế,
chính trị, văn hoá...
Hoàn cảnh được hiểu là một yếu tố hoặc là một môi trường nhỏ hợp thành
của môi trường lớn, môi trường nhỏ tác động trực tiếp, mạnh mẽ, quyết liệt trong
một thời gian, không gian nhất định tạo nên hướng hình thành và phát triển nhân
cách. Có thể coi đây là môi trường phát triển của cá nhân do hoạt động và quan hệ
của cá nhân ấy tạo nên. Chính môi trường này làm nên sự phát triển nhân cách cá

38
nhân. Trên thế giới đã có nhiều đứa trẻ mới sinh không may bị lạc vào rừng và được
thú rừng nuôi, sau đó được quay lại với xã hội loài người nhưng đều chết yểu trước
khi trở thành con người thực thụ.
Mỗi một con người ngay từ khi mới sinh ra đã phải sống trong một môi
trường, hoàn cảnh nhất định, có thể gặp thuận lợi hoặc khó khăn đối với quá trình
phát triển thể chất, tinh thần của cá nhân. Môi trường tự nhiên và xã hội với các
điều kiện kinh tế, thể chế chính trị, hệ thống pháp luật, truyền thống văn hoá, chuẩn
mực đạo đức... đã tác động mạnh mẽ đến quá trình hình thành và phát triển động cơ,
mục đích, quan điểm, tình cảm, nhu cầu, hứng thú... chiều hướng phát triển của cá
nhân. Thông qua hoạt động và giao lưu trong môi trường mà cá nhân chiếm lĩnh
được các kinh nghiệm, giá trị xã hội loài người, từng bước điều chỉnh, hoàn thiện
nhân cách của mình.
Tác động của môi trường đối với sự phát triển của cá nhân là vô cùng mạnh
mẽ, phức tạp, có thể rất tốt hoặc rất xấu, có thể cùng chiều hay ngược chiều, chủ
yếu là theo con đường tự phát. Nó có mức độ ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực như
thế nào, có được chấp nhận hay không trong quá trình phát triển nhân cách tuỳ
thuộc phần lớn vào trình độ được giáo dục, đó là ý thức, niềm tin, quan điểm, ý chí
và xu hướng, năng lực hoạt động, giao lưu góp phần cải biến môi trường của cá
nhân. Chính vì vậy, C. Mác đã khẳng định: Con người làm thay đổi hoàn cảnh
trong chừng mực nào thì hoàn cảnh cũng làm biến đổi con người trong chừng mực
ấy. Con người luôn luôn là một chủ thể có ý thức, tuỳ theo lứa tuổi và trình độ được
giáo dục chứ không hoàn toàn bị động bởi những tác động của môi trường... Ca
dao, tục ngữ của ta cũng đã có câu ngợi ca về những con người có khi phải sống
trong một môi trường, hoàn cảnh thấp kém nhưng phẩm chất, nhân cách vẫn không
hề hoen ố “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Trong sự tác động qua lại giữa cá
nhân và môi trường cần chú ý đến hai mặt của vấn đề: Tính chất tác động của môi
trường, hoàn cảnh vào quá trình phát triển nhân cách; Tính tích cực của cá nhân tác
động vào môi trường, hoàn cảnh nhằm điều chỉnh, cải tạo môi trường, hoàn cảnh.
Có thể khẳng định ảnh hưởng của yếu tố môi trường tự nhiên là không thể
phủ nhận, môi trường xã hội hết sức to lớn và quan trọng, trường hoạt động sống -
hoàn cảnh của cá nhân làm nên sự phát triển nhân cách cá nhân. Tuy nhiên, nếu
tuyệt đối hoá vai trò của môi trường là phủ nhận vai trò ý thức, sáng tạo của cá nhân
đó là sai lầm về nhận thức luận. Ngược lại, việc hạ thấp hoặc phủ nhận vai trò yếu
tố môi trường cũng phạm sai lầm của thuyết “Giáo dục vạn năng”. Do đó, phải đặt

39
quá trình giáo dục, quá trình hình thành và phát triển nhân cách trong mối quan hệ
tương tác giữa các yếu tố.
2.2.3. Yếu tố giáo dục
Giáo dục là một quá trình tác động tự giác có mục đích, có nội dung, phương
pháp, phương tiện... được thiết kế, tổ chức một cách khoa học giúp cho mọi cá nhân
lĩnh hội những kinh nghiệm, những giá trị xã hội của loài người bằng con đường có
hiệu quả nhất. Giáo dục mang những đặc trưng:
- Có mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện, chương trình... được
thiết kế, tổ chức một cách khoa học phù hợp với mọi đối tượng, giúp họ chiếm lĩnh
được những kinh nghiệm, giá trị xã hội của nhân loại bằng con đường ngắn nhất.
- Tác động tự giác được điều khiển bởi cơ quan, lực lượng chuyên trách, khác
với tác động tự phát, tản mạn của môi trường.
Nói tới vai trò của giáo dục, Bác Hồ cũng đã nói:
“Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”
Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với quá trình hình thành và phát triển nhân
cách, bởi vì nó được thực hiện theo định hướng thống nhất vì mục đích nhân cách lí
tưởng mà xã hội đang yêu cầu.
Giáo dục không chỉ vạch ra chiều hướng, mục tiêu hình thành và phát triển
nhân cách của học sinh mà còn tổ chức, chỉ đạo, dẫn dắt học sinh thực hiện quá
trình đó đến kết quả mong muốn.
Giáo dục là những tác động tự giác có điều khiển, có thể mang lại những tiến
bộ mà các yếu tố di truyền bẩm sinh hoặc môi trường, hoàn cảnh không thể tạo ra
được do tác động tự phát.
Giáo dục có sức mạnh cải biến những nét tính cách, hành vi, phẩm chất lệch
lạc không phù hợp với yêu cầu, chuẩn mực của xã hội. Đó chính là kết quả quan
trọng của giáo dục lại đối với trẻ em hư hoặc người phạm pháp.
Giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt đối với những người khuyết tật hoặc
thiểu năng do bệnh tật, tai nạn hoặc bẩm sinh, di truyền tạo ra. Nhờ có sự can thiệp
sớm, nhờ có phương pháp giáo dục, rèn luyện đặc biệt cùng với sự hỗ trợ của các
phương tiện khoa học có thể giúp cho người khuyết tật, thiểu năng phục hồi một
phần chức năng đã mất hoặc phát triển các chức năng khác nhằm bù trừ những chức
năng bị khiếm khuyết, giúp cho họ hoà nhập vào cuộc sống cộng đồng.
Giáo dục là những tác động có điều khiển và điều chỉnh cho nên không
những thích ứng với các yếu tố di truyền, bẩm sinh, môi trường, hoàn cảnh trong

40
quá trình hình thành và phát triển nhân cách mà nó còn có khả năng kìm hãm hoặc
thúc đẩy các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình đó theo một gia tốc phù hợp mà di
truyền và môi trường không thể thực hiện được.
Để phát huy vai trò chủ đạo của mình, giáo dục cần tích cực góp phần cải tạo
môi trường sống (gia đình, nhà trường, xã hội) làm cho nó ngày càng lành mạnh,
văn minh, tạo thành định hướng thống nhất vì mục tiêu nhân cách. Ba lực lượng
giáo dục là gia đình, nhà trường và các đoàn thể xã hội, trong đó nhà trường có vai
trò, vị trí vô cùng quan trọng trong việc thực hiện mục đích, nội dung giáo dục bằng
các phương pháp khoa học có tác động mạnh nhất giúp cho học sinh hình thành
năng lực ngăn ngừa, đấu tranh với những ảnh hưởng tiêu cực từ môi trường hoặc di
truyền bẩm sinh. Giáo dục gia đình được tiến hành sớm nhất từ khi đứa trẻ cất tiếng
khóc chào đời, tạo nên những phẩm chất nhân cách đầu tiên rất quan trọng làm nền
tảng cho giáo dục nhà trường. Giáo dục xã hội thông qua các đoàn thể, các tổ chức
nhà nước với thể chế chính trị, pháp luật, văn hoá đạo đức, góp phần thúc đẩy quá
trình phát triển nhân cách toàn diện theo sự phát triển xã hội.
Giáo dục phải diễn ra trong một quá trình có sự tác động đồng bộ của những
thành tố như mục đích, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức quá trình giáo
dục. Giáo dục phải bao gồm hoạt động tích cực, đa dạng của người giáo dục và
người được giáo dục trong mối quan hệ thống nhất; phải phát hiện và phát huy triệt
để những điều kiện bên trong (bẩm sinh, di truyền vốn có ở người được giáo dục)
để những tiềm năng trở thành hiện thực. Không nên coi “giáo dục là vạn năng”,
thậm chí còn ảo tưởng dùng giáo dục để thay đổi xã hội.
2.2.4. Yếu tố hoạt động cá nhân
Hoạt động của cá nhân là cơ sở, là nhân tố quyết định trực tiếp sự hình thành
và phát triển nhân cách cá nhân. Hoạt động của cá nhân xuất phát từ mục đích và
nhu cầu của cuộc sống cá nhân; nhu cầu luôn thúc đẩy cá nhân hoạt động và ngược
lại hoạt động lại là cơ sở, là điều kiện để nảy sinh nhu cầu trong cuộc sống cá nhân.
Hoạt động là quá trình hóa thân hay quá trình con người thực hiện mối quan hệ với
tự nhiên, với xã hội, với người khác và với bản thân. Thông qua hoạt động, con
người chuyển hoá năng lực, phẩm chất tâm lí - đạo đức của mình thành sản phẩm
(vật chất hay tinh thần), ngược lại những sản phẩm đó làm phong phú, hoàn thiện
thêm năng lực và phẩm chất nhân cách cá nhân. Thông qua hoạt động con người
tiếp thu nền văn hoá xã hội và biến nền văn hoá của loài người thành vốn riêng của
mình, vận dụng chúng vào cuộc sống, làm cho nhân cách ngày càng phát triển. Hoạt
động giúp cho cá nhân hiện thực hoá những khả năng về tố chất thành hiện thực,

41
đồng thời nó là nguồn quan trọng nhất cung cấp cho cá nhân những kinh nghiệm xã
hội - lịch sử.
Thông qua hoạt động con người có thể cải tạo những nét tâm lí và những nét
nhân cách đang bị suy thoái, hoàn thiện chúng theo chuẩn mực đạo đức của xã hội.
Mỗi con người là sản phẩm hoạt động của chính mình, đó chính là con đường để
thành đạt, để vươn tới lí tưởng. Quá trình giáo dục không chỉ là tác động một chiều
của nhà giáo dục đến người được giáo dục mà còn bao gồm các hoạt động tích cực,
chủ động tiếp thu, rèn luyện nhân cách của người được giáo dục, tạo nên mối quan
hệ tương tác giữa nhà giáo dục và người được giáo dục, hình thành cơ sở hoạt động
tự giáo dục của cá nhân. Quá trình giáo dục phải đi đến tự giáo dục, tức cá nhân
phải có ý thức nỗ lực, có ý chí quyết tâm khắc phục, vượt qua những khó khăn chủ
quan và khách quan để thực hiện việc rèn luyện, bồi dưỡng nhân cách theo một
chương trình, kế hoạch do cá nhân tự vạch ra. Nhiệm vụ vô cùng quan trọng của
nhà giáo dục là phải giúp cho người được giáo dục thông qua hoạt động biến quá
trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục để hoàn thiện nhân cách của mình dù phải
sống trong những môi trường, hoàn cảnh phức tạp.
Hoạt động của cá nhân có vai trò quyết định trực tiếp đối với sự hình thành
và phát triển nhân cách. Muốn phát huy vai trò của hoạt động cá nhân đối với sự
hình thành và phát triển nhân cách, nhà giáo dục lưu ý, tạo cơ hội đưa học sinh vào
những hoạt động đa dạng, phong phú coi hoạt động là phương tiện giáo dục cơ bản.
Giáo dục phải là quá trình tổ chức hoạt động tích cực sáng tạo của học sinh, cần
thay đổi tính chất của hoạt động, làm phong phú nội dung, phương pháp và hình
thức hoạt động, từ đó lôi cuốn học sinh vào hoạt động. Vì thế, nhà giáo dục phải
nắm được các hoạt động chủ đạo ở từng thời kì phát triển nhất định để tổ chức các
loại hoạt động chủ đạo tương ứng cho phù hợp với đặc điểm lứa tuổi người được
giáo dục.
KẾT LUẬN: Sự phát triển nhân cách của con người là toàn bộ sự phát triển
hoàn thiện về thể chất và tinh thần, nó bị chi phối bởi hàng loạt những yếu tố chủ
quan và khách quan. Nhân cách con người là tổ hợp những phẩm chất tâm lí của cá
nhân. Sự phát triển nhân cách được thực hiện dưới ảnh hưởng của hệ thống các
quan hệ xã hội mà con người sống, hoạt động và giao lưu. Giáo dục với tư cách là
một hoạt động đặc biệt có vai trò chủ đạo, có ảnh hưởng quyết định đối với sự phát
triển nhân cách. Một nhân cách tốt đẹp không thể phát triển ngoài giáo dục và một
nền giáo dục tiên tiến không thể tạo ra những con người hư hỏng.

42
2.3. Giáo dục đào tạo con người Việt Nam trong thời kì Công nghiệp hóa - hiện
đại hóa
Xây dựng “con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện -
mĩ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”, coi đó là “một
mục tiêu của chiến lược phát triển”, “phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng
lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân
thủ pháp luật”.
Kế thừa những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và những bài học quốc
tế (Báo cáo phát triển con người, công bố lần đầu tiên năm 1990 trong Chương trình
Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) về xây dựng phát triển con người toàn diện), có
thể xác định một số tiêu chí con người Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay phải bao gồm: 1- Có sức khỏe tốt (gồm cả sức
khỏe thể chất, tinh thần và xã hội); 2- Có tinh thần yêu nước; 3- Có đạo đức tốt
(gồm cả đạo đức cá nhân và đạo đức nghề nghiệp); 4- Có kĩ năng sống tốt; 5- Có
trách nhiệm công dân; 6- Có phẩm chất “công dân toàn cầu”. Bên cạnh đó, cũng có
thể xác định định hướng giáo dục con người Việt Nam toàn diện trên năm mặt theo
định hướng của Đại hội XII của Đảng bao gồm 1- Đạo đức; 2- Nhân cách; 3- Lối
sống; 4- Trí tuệ; 5- Năng lực làm việc.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, sự phát triển như vũ bão
của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã làm thay đổi sâu sắc về cách sống, cách
làm việc trong mối quan hệ tương tác với nhau. Sự biến đổi không ngừng của hoàn
cảnh xã hội đòi hỏi mỗi con người cần phải liên tục cập nhật kĩ năng, hoàn thiện
mình để thích ứng với tình hình mới. Chính vì vậy, giáo dục càng phải tập trung
phát triển toàn diện năng lực của cá nhân dựa trên việc áp dụng các công nghệ đột
phá. Xu hướng cá nhân hóa học tập liên quan đến việc giảng dạy phải được thực
hiện theo nhịp độ phù hợp với nhu cầu học tập, được thiết kế theo sở thích và sự
hứng thú cụ thể của từng người học; được thực hiện bằng cách cung cấp các lựa
chọn từ nhiều chương trình giáo dục (từ nhiều trường phái, môn học, kĩ năng và
năng lực khác nhau), nhiều tiếp cận giảng dạy (trực tiếp, gián tiếp, tương tác, thực
nghiệm hoặc độc lập), trải nghiệm học tập (truyền thống như trong lớp học, phi
truyền thống như trực tuyến hoặc kết hợp) và các chiến lược hỗ trợ học tập (các
dịch vụ giáo dục sẵn có để hỗ trợ người học và thúc đẩy quá trình học tập). Về mặt
nội dung, các chương trình giáo dục phải giúp người học hình thành năng lực sáng
tạo và tư duy phản biện, khả năng giao tiếp và hợp tác, kĩ năng tự học, có kiến thức
về kĩ thuật số và dữ liệu, có kiến thức liên ngành để có thể chuyển đổi công việc. Về

43
mặt phương pháp sư phạm, phải tạo ra cơ hội để xây dựng một “hệ sinh thái” học
tập cho phép cá nhân hóa việc học tập về mặt thời gian và địa điểm. Người học phải
được hướng dẫn để có năng lực tự học và thiết kế các lộ trình học tập của riêng
mình dựa trên các mục tiêu cá nhân qua việc sử dụng linh hoạt các công cụ, như
khóa học trực tuyến theo mô hình khóa học trực tuyến đại chúng mở (Massive open
online course, viết tắt là MOOC), các lớp học, phòng thí nghiệm ảo và các trò chơi
học tập, sử dụng đa dạng các hình thức dạy học kết hợp (blended learning), dạy học
theo dự án, dạy học dựa vào kịch bản và dạy học định hướng giải quyết vấn đề.
Những yêu cầu hiện đại hóa, quốc tế hóa giáo dục với mục tiêu đào tạo ra
những “công dân toàn cầu” đã đặt ra trách nhiệm của từng học sinh là phải chủ
động với bản thân mình và với xã hội. Công dân toàn cầu là người có khả năng
hành động hợp tác, có trách nhiệm, sáng tạo giải quyết những vấn đề chung của
cộng đồng, góp phần làm cho địa phương, đất nước, thế giới tốt đẹp và phát triển
bền vững; giao tiếp, thích ứng trong những môi trường văn hóa khác nhau, môi
trường đa văn hóa; tôn trọng quyền con người, sự đa dạng; trân trọng, phát huy
những giá trị văn hóa của dân tộc, đất nước mình, đồng thời có ý thức học hỏi
những tinh hoa văn hóa của các dân tộc, quốc gia khác.
Những quan điểm về giáo dục công dân toàn diện hướng tới công dân toàn
cầu hiện đã được phản ánh trong việc xác định mục tiêu đổi mới chương trình, sách
giáo khoa, giáo dục phổ thông “phát triển con người Việt Nam toàn diện về đức, trí,
thể, mỹ, hướng tới “công dân toàn cầu” và cụ thể hóa thành những phẩm chất chủ
yếu là yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm và phát triển toàn diện
các năng lực gồm các năng lực chung, như năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao
tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực đặc thù, như năng
lực ngôn ngữ, năng lực tính toán, năng lực khoa học, năng lực công nghệ, năng lực
tin học, năng lực thẩm mĩ, năng lực thể chất.
Có thể nói, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện
nay, con người Việt Nam phát triển toàn diện phải là con người có văn hóa, mang
bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam cùng năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân
loại, thể hiện qua phẩm chất năng lực của công dân toàn cầu. Con người Việt Nam
phát triển toàn diện đức, trí, thể, mĩ phải bao gồm: Có lòng yêu nước nồng nàn từ
yêu quê hương, yêu con người và yêu những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, có lòng nhân ái thể hiện qua việc yêu thương, quý trọng con người không chỉ
trong phạm vi gia đình, nhà trường, quốc gia mà cả quốc tế. Đó còn là người có lí
tưởng sống, có ý thức trách nhiệm, có ý chí phấn đấu không ngừng, có lối sống giản

44
dị vì cộng đồng, hành động cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Phải xây dựng
nền giáo dục con người có đủ sức khỏe thể chất và tâm trí để phát huy trí tuệ, tối đa
hóa tiềm năng lao động sáng tạo của bản thân, có năng lực tự học suốt đời.
Trải qua hơn 4000 năm đấu tranh bảo vệ và xây dựng đất nước, con người
Việt Nam với bao thế hệ nối tiếp nhau đã tạo dựng, rèn luyện nên những nét nhân
cách tốt đẹp, điển hình, đậm đà bản sắc dân tộc. Con người Việt Nam xưa hoặc nay,
con người truyền thống hay hiện đại chỉ là một quan niệm phân kì tương đối trong
tiến trình phát triển liên tục của dân tộc, làm rõ thêm những nét nhân cách tốt đẹp
ngày càng được bổ sung, phát triển theo yêu cầu của thời đại. Những phẩm chất
nhân cách con người Việt Nam cần kế thừa và phát triển trong thời kì công nghiệp
hóa - hiện đại hóa là:
- Lòng yêu nước: Lòng yêu nước nồng nàn của con người Việt Nam bắt
nguồn sâu xa từ tâm thức họ đã phải đổ bao mồ hôi, nước mắt và cả xương máu để
duy trì đời sống cho cá nhân, cho gia đình, cho quê hương đất nước - nơi chôn nhau
cắt rốn của biết bao thế hệ. Lòng yêu nước đã trở thành nét đẹp truyền thống trong
nhân cách con người Việt Nam, đó là giữ gìn, bảo vệ và xây dựng quê hương đất
nước từ các thế hệ cha ông xa xưa như Lí Thường Kiệt đã khẳng định “Nam quốc
sơn hà Nam đế cư”. Lòng yêu nước và lòng tự hào dân tộc, nói chung dân tộc nào
cũng có, nhưng trên thế giới hiếm thấy dân tộc nào có một lịch sử chống ngoại xâm
oanh liệt, rực rỡ như dân tộc Việt Nam.
Lịch sử của dân tộc là những bản anh hùng ca của Hai Bà Trưng, Bà Triệu,
Trần Hưng Đạo, Quang Trung... đánh đuổi quân xâm lược phong kiến phương Bắc
và tinh thần yêu nước được thể hiện trong các cuộc kháng chiến chống Nhật, Pháp,
Mĩ với lí tưởng: “Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu làm nô lệ”, “Không
có gì quý hơn độc lập tự do”... Lòng yêu nước là truyền thống của dân tộc ta đã
được Bác Hồ khẳng định “Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta
ngày trước. Từ các cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ, từ những kiều bào
ở nước ngoài đến những đồng bào bị tạm chiếm, từ nhân dân miền ngược đến miền
xuôi, ai cũng một lòng yêu nước chống giặc”.
- Tinh thần đoàn kết: Mỗi người Việt Nam đều tự hào về dân tộc mình, suốt
hàng ngàn đời nay chung lưng, đấu cật, đoàn kết, tạo thành một sức mạnh phi
thường đánh bại bọn ngoại xâm luôn rình rập, đấu tranh chiến thắng thiên nhiên
khắc nghiệt để bảo vệ, dựng xây đất nước. Tinh thần đoàn kết như một tất yếu sống
còn của dân tộc, của tự do, hạnh phúc đã ăn sâu vào tiềm thức, trở thành một nét
nhân cách truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam.

45
Cư trú ở trên bất cứ địa vực nào, miền núi hay miền xuôi, đồng bằng hay hải
đảo họ luôn luôn sát cánh bên nhau xây dựng xóm thôn, làng bản vì cuộc sống ấm
no, thanh bình của cả cộng đồng và thể hiện lòng tương thân, tương ái, chia sẻ khó
khăn “Lá lành đùm lá rách”.
Dù theo nhiều tôn giáo khác nhau nhưng 54 dân tộc anh em đã xây dựng,
củng cố được tinh thần đoàn kết thống nhất không phân biệt Nho giáo, Phật giáo,
Thiên chúa giáo, Cao đài, Hoà hảo .v.v. như Hồ Chủ tịch đã khẳng định: “Phong
tục tập quán tuy có khác nhau ít nhiều, nhưng lòng nồng nàn yêu nước, lòng căm
thù thực dân thì muôn người như một” đã trở thành sức mạnh phi thường “nhấn
chìm lũ bán nước và lũ cướp nước” để đảm bảo lãnh thổ, giang sơn đã được khẳng
định là một giá trị truyền thống của dân tộc từ xưa đến nay. Giá trị truyền thống đó
đã được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác, trở thành ý thức thường trực trong
nhân cách mỗi người.
- Lòng nhân ái: Lòng nhân ái thể hiện ở lòng thương yêu con người, thương
yêu đồng loại, không làm điều ác nhằm hãm hại thân thể, vật chất, tinh thần của
người khác để đem lại lợi ích bất chính cho mình. Hơn thế nữa là cần làm điều thiện
để giúp đỡ mọi người khi cần thiết thể hiện tính nhân đạo, nhân hậu, nhân từ... Lòng
nhân ái cũng là một phẩm chất truyền thống trong nhân cách con người Việt Nam
được hình thành từ cội nguồn cùng chung lưng đấu cật, cùng kề vai sát cánh lao
động, chiến đấu để bảo vệ, xây dựng đất nước, đồng thời cũng chịu ảnh hưởng rất
lớn từ các quan niệm của tôn giáo đã du nhập vào Việt Nam như Nho giáo, Phật
giáo, Thiên chúa giáo. Các tôn giáo này đều đề cao quan niệm: “Nhân nghĩa, chân,
thiện, mĩ”. Chẳng hạn, Nho giáo khẳng định “Nhân chi sơ tính bản thiện” hoặc như
thuyết Nhân quả của Phật giáo “Tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác” tức là:
tích (chứa) điều thiện thì được điều lành, tích (chứa) điều ác thì được điều hoạ.
Phẩm chất, nhân cách truyền thống của dân tộc ta thể hiện ở tình thương yêu con
người. Nhân ái là truyền thống của con người Việt Nam, ngày càng phát triển phong
phú, sáng ngời.
- Hiếu thảo : Từ trải nghiệm của biết bao thế hệ, ca dao Việt Nam đã có câu:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”
Khẳng định công lao to lớn hơn trời biển của cha mẹ đã sinh thành, nuôi
dưỡng con cái từ thủa ấu thơ cho đến lúc trưởng thành, mong muốn được đền đáp
lại công lao to lớn đó của con cái đối với cha mẹ cũng như một lẽ tự nhiên đã trở
thành truyền thống tốt đẹp trong đạo lí của dân tộc. Cha ông ta cho rằng: “Hiếu là

46
cái nết đứng đầu trăm nết” và “Hiếu cũng là việc làm lớn lao của con cái đối với
cha mẹ” bởi vì nếu không yêu thương kính trọng cha mẹ mình thì cũng khó có thể
yêu thương, kính trọng cha mẹ người. Hiếu là hành động lớn của con cái nhằm đền
đáp lại công ơn của cha mẹ, là phẩm chất gốc phát sinh lòng nhân ái đối với cộng
đồng, xã hội. Hiếu thảo đối với cha mẹ, gia đình có ba điều cơ bản: thứ nhất là làm
cho cha mẹ vui vẻ, phấn khởi vì danh dự của gia đình; thứ hai là không làm cho cha
mẹ buồn phiền, lo lắng vì những hành vi, hành động lệch lạc ảnh hưởng xấu đến
thanh danh của gia đình, thứ ba là chăm sóc được cha mẹ lúc tuổi già thể hiện lòng
thương yêu, tôn kính cha mẹ.
Từ những truyền thống cơ bản là lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, quý
trọng lao động, nhân ái, hiếu trung... đã làm nảy sinh, phát triển phong phú những
phẩm chất tốt đẹp khá phổ biến ở con người Việt Nam là: hoà hợp, thuỷ chung,
trọng nghĩa, kiên trì, vượt khó, giản dị, tiết kiệm, sáng tạo, linh hoạt, lạc quan, yêu
đời... Đặc biệt, từ sau Cách mạng tháng Tám và trong hai cuộc kháng chiến chống
đế quốc Pháp, Mĩ vô cùng gian khổ, chân dung nhân cách con người Việt Nam càng
thêm hoàn thiện, phát triển một tầm cao mới bởi những phẩm chất anh hùng, bất
khuất, dũng cảm, kiên cường, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư...
Nhân cách không phải là một sản phẩm vĩnh hằng, bất biến mà nó chịu sự chi
phối của các điều kiện lịch sử xã hội. Do đó, giáo dục cần phải phát huy vai trò chủ
động, chủ đạo, tích cực tác động vào quá trình hình thành và phát triển nhân cách
của mọi lứa tuổi, đặc biệt là thế hệ trẻ để họ trở thành những công dân chân chính,
hữu ích.
- Yêu quý lao động: Khai sinh, lập quốc trên một dải đất hẹp, khí hậu khắc
nghiệt, sông ngòi chằng chịt, bão lụt thường xuyên, con người Việt Nam từ cổ xưa
đã phải dãi nắng, dầm mưa lao động cật lực: đào sông, đắp đập, xẻ núi, ngăn sông...
để bảo tồn nòi giống và xây dựng đất nước tươi đẹp như ngày nay. Vì vậy, hằn sâu
trong ý thức của con người Việt Nam từ thế hệ này sang thế hệ khác là ý thức lao
động, nghĩa vụ lao động, yêu quý lao động, đó là một phẩm chất truyền thống tốt
đẹp trong nhân cách con người Việt Nam trong tiến trình phát triển dân tộc. Họ coi
lao động như một giá trị xã hội vĩnh hằng “Có làm thì mới có ăn” hoặc “Tay làm
hàm nhai, tay quai miệng trễ”. Từ đó, họ rất tôn vinh những người cần cù, lao động
sáng tạo và phê phán gay gắt những kẻ ăn không ngồi rồi, lười nhác, sống ăn bám.
- Hiếu học: Hiếu học là ham muốn thiết tha đối với học tập, rèn luyện để đạt
kết quả cao. Hiếu thảo cũng là ham muốn thực hiện sự đền đáp công lao sinh thành,
nuôi dưỡng của cha mẹ và gia đình đối với con cái. Đây cũng là những nét truyền

47
thống tốt đẹp trong nhân cách con người Việt Nam. Bởi lẽ dân tộc Việt Nam từ
ngàn đời nay đã ý thức một chân lí sâu sắc “Nhân bất học bất tri đạo”. Đạo lí ở đây
tất nhiên là những quy luật vận hành của thế giới tự nhiên và xã hội nói chung, đặc
biệt là những quy tắc, chuẩn mực cơ bản soi sáng, hướng dẫn cho mỗi cá nhân tự
điều chỉnh được mình sống hoà hợp với người xung quanh, với xã hội.
Hiếu học là nét truyền thống của dân tộc ta đã tạo nên những tấm gương sáng
chói vượt qua đói khổ, nghèo túng, quyết tâm học tập để thành danh, tinh thần hiếu
học thời nào cũng có. Sử sách đã ghi Bùi Xuơng Trạch quê ở làng Định Công (Hà
Nội) nhà rất nghèo phải bắt đom đóm làm đèn, lấy gốc cây làm nơi ngồi đọc sách đã
đậu Tiến sĩ đời Lê Thánh Tông; Lê Quát người Đông Sơn (Thanh Hoá) mồ côi cha
từ sớm phải làm nghề quét chợ nhưng rất hiếu thảo với mẹ đã kiên trì, khổ học nên
đã đậu Trạng nguyên, có tên là Trạng Quét; Nguyễn Quốc Trịnh người Thanh Trì
(Hà Nội) nhà nghèo, mồ côi từ nhỏ, nhờ chăm chỉ học tập, đọc sách ngay trên bờ
ruộng sau khi nghỉ tay cày và đã đậu Trạng nguyên năm 1653 đời Lê Thần Tông...
Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, nhân dân lao động đã trở thành chủ nhân
của đất nước độc lập, tự do, truyền thống hiếu học càng được phát huy. Nhiều thế
hệ đã vượt qua mọi thiếu thốn gian khổ trong hai cuộc chiến tranh ác liệt dốc sức
vào học tập, rèn luyện đã trở thành những tiến sĩ, giáo sư, viện sĩ... trên nhiều lĩnh
vực khoa học. Nhiều sinh viên, học sinh nhờ tinh thần ham học quyết tâm cũng đã
nêu danh sáng ngời trong các đợt thi học sinh giỏi quốc tế.
Tóm lại, để đạt được mục tiêu đào tạo con người Việt Nam trong thời kì công
nghiệp hóa, hiện đại hóa cần:
- Thứ nhất, cần phân tích chính xác về thực trạng giáo dục toàn diện con
người tại thời điểm hiện tại từ tiếp cận liên ngành và cá nhân hóa để thấy rõ bức
tranh giáo dục con người làm trung tâm và vì con người để đề xuất các giải pháp
mang tính tổng hợp.
- Thứ hai, cần phân định rõ chức năng của các thiết chế, chủ thể giáo dục, đặc
biệt là chủ thể phi truyền thống, các phương tiện truyền thông mới, phim ảnh, video
game, thực tại ảo (VR), thực tại mở rộng (XR), sự kết nối vạn vật (IoT),... Cần có
những nghiên cứu để cụ thể hóa những điều này trong Nghị định của Chính phủ
hướng dẫn thực hiện Luật Giáo dục năm 2019 để tránh tình trạng chồng chéo hoặc
những “vùng trắng”.
- Thứ ba, cần phải quy định rõ hơn về vai trò, trách nhiệm của gia đình và các
tổ chức khác tham gia vào hoạt động giáo dục con người toàn diện, phù hợp với nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời phải triển khai phổ biến,

48
hướng dẫn thực thi các quy định đó. Nhấn mạnh trách nhiệm giáo dục con người
toàn diện phải là nhiệm vụ của cả một hệ sinh thái bao quanh đứa trẻ.
- Thứ tư, xây dựng một xã hội học tập, một xã hội văn minh với các giá trị
chân, thiện, mỹ; biết phê phán và lên án những hành động đi trái với những quy
chuẩn đạo đức xã hội; giáo dục con người toàn diện. Cần phải xây dựng mô hình
này mang “tính mở”, tức là những mô hình và hoạt động vốn từ xưa chỉ mang tính
“gia đình” và “nhà trường” nay cần chuyển sang tính “xã hội”. Chính vì vậy, đối
với nhà trường, nhiệm vụ đặt ra là xây dựng một môi trường học “mở”, có “tính
phản biện”; chương trình đào tạo theo định hướng phát triển năng lực - dựa trên trải
nghiệm; phương pháp giáo dục lấy người học làm trung tâm, sử dụng tiếp cận đánh
giá toàn diện thông qua các công cụ phù hợp trong đánh giá năng lực công dân toàn
diện. Đánh giá không chỉ dừng lại ở đánh giá kết quả học tập của người học (đánh
giá quá trình và đánh giá tổng thể), mà còn cần đánh giá chính chương trình, đặt
chương trình trong bối cảnh thực tế để đánh giá, theo dõi và kịp thời điều chỉnh, cải
thiện, duy trì giáo dục công dân toàn cầu một cách phù hợp và hiệu quả.

CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 1


1. Phân tích khái niệm con người.
2. Phân tích khái niệm nhân cách.
3. Thế nào là sự phát triển nhân cách.
4. Di truyền có vai trò như thế nào trong sự hình thành và phát triển nhân cách? Cho
ví dụ minh họa.
5. Nêu và phê phán những quan niệm sai lầm về vai trò của di truyền đối với sự
hình thành và phát triển nhân cách.
6. Môi trường và vai trò của môi trường trong sự hình thành và phát triển nhân
cách? Phê phán một số quan niệm không đúng về vai trò của môi trường đối với sự
hình thành và phát triển nhân cách.
7. Phân tích vai trò của giáo dục và tự giáo dục đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách, từ đó rút ra kết luận sư phạm cần thiết.

CHỦ ĐỀ THẢO LUẬN


Những vấn đề cần tập trung trong giáo dục - đào tạo con người Việt Nam
trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

THỰC HÀNH

49
1. Hãy sưu tầm những câu tục ngữ, ca dao nói về những yếu tố tác động vào
quá trình hình thành, phát triển nhân cách và phân tích, đánh giá, rút ra kết luận sư
phạm.
2. Theo dõi, ghi chép, mô tả những biểu hiện (nhận thức, thái độ, hành vi)
trong quá trình hình thành, phát triển nhân cách của một học sinh mà bạn gần gũi
nhất.
3. Tìm một số câu triết lí (có tác giả) và ca dao, tục ngữ ca ngợi những phẩm
chất tốt đẹp để phác họa lên nhân cách con người Việt Nam về: yêu lao động, nhân
nghĩa, dũng cảm, thuỷ chung, hiếu thảo, hiếu học...
4. Trên cơ sở tìm hiểu thực tiễn giáo dục, hãy phân tích những thách thức đặt
ra cho giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
5. Dựa vào xu thế phát triển giáo dục thế giới, hãy đối chiếu với thực tiễn
giáo dục Việt Nam để rút ra những nhận xét của cá nhân.
CHƯƠNG 3. MỤC ĐÍCH GIÁO DỤC VÀ NHIỆM VỤ GIÁO DỤC
3.1. Khái quát về mục đích giáo dục
3.1.1. Mục đích giáo dục
Mục đích giáo dục là một phạm trù cơ bản của Giáo dục học. Với tầm quan
trọng của nó, vấn đề xác định mục đích giáo dục đã được đặt ra từ rất xa xưa trong
lịch sử xã hội và được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau. Theo nghĩa thông
thường, mục đích giáo dục là cái đích cần đạt được của sự nghiệp giáo dục mỗi
quốc gia. Việc xác định mục đích giáo dục thường được tiến hành khi nhà nước tổ
chức một hệ thống giáo dục, khi nhà trường tiến hành các hoạt động giáo dục.
Mục đích giáo dục là mô hình lí tưởng về sản phẩm giáo dục, là phạm trù có
tính chất định hướng lâu dài của nền giáo dục quốc gia. Mục đích giáo dục được
xây dựng trên cơ sở những yêu cầu hiện tại và cả những yêu cầu dự kiến trong
tương lai của xã hội đối với việc đào tạo thế hệ trẻ - nguồn nhân lực của xã hội. Để
đạt được mục đích giáo dục phải huy động mọi nguồn lực của xã hội, phải có sự
phấn đấu lâu dài, bền bỉ của gia đình, nhà trường, xã hội.
Về bản chất, mục đích giáo dục là mô hình dự kiến của sản phẩm giáo dục.
Mô hình này là điểm xuất phát của quá trình giáo dục, là thành tố quan trọng, định
hướng cho quá trình giáo dục, đồng thời là cơ sở để xác định chuẩn đánh giá chất
lượng giáo dục.
Là luận điểm xuất phát của quá trình giáo dục, bởi vì xác định mục đích giáo
dục về thực chất là xác định tính chất và phương hướng lâu dài của một nền giáo
dục, là xác định chiến lược đào tạo nguồn nhân lực trong chiến lược phát triển kinh

50
tế, văn hoá, xã hội. Mục đích giáo dục trở thành tư tưởng chỉ đạo hệ thống giáo dục
quốc dân và cũng từ đó đặt ra vấn đề đầu tư, khai thác các nguồn lực để thực hiện
quá trình giáo dục.
Là thành tố quan trọng định hướng cho quá trình giáo dục, mục đích giáo dục
quy định việc lựa chọn nội dung, chương trình, phương pháp và các hình thức tổ
chức giáo dục, xác định các điều kiện để thực hiện quá trình giáo dục. Căn cứ vào
mục đích giáo dục nhà trường tiến hành các hoạt động giáo dục.
Là cơ sở để xác định chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục, bởi vì mục đích
giáo dục chính là mô hình dự kiến chất lượng sản phẩm giáo dục. Về bản chất thì
chất lượng giáo dục là mức độ đạt được của sản phẩm giáo dục so với mục đích
giáo dục đã đề ra. Căn cứ vào mục đích giáo dục, nhà trường đánh giá sản phẩm
giáo dục của mình đã đạt được ở mức độ nào, để từ đó tìm các giải pháp nâng cao
hơn nữa chất lượng giáo dục.
Đặc điểm của mục đích giáo dục: Mục đích giáo dục là một phạm trù có tính
lịch sử. Giáo dục là một hình thái ý thức xã hội, là một bộ phận của các hoạt động
xã hội, do đó trình độ phát triển kinh tế, văn hoá xã hội quy định trình độ phát triển
giáo dục. Mục đích giáo dục phản ánh quan niệm của các thời đại về con người,
phản ánh trình độ nhận thức của thời đại về các chức năng của giáo dục đối với xã
hội và đối với con người. Mục đích giáo dục là hội tụ của những yêu cầu về phẩm
chất và năng lực đối với thê hệ mới, những yêu cầu về nguồn nhân lực xã hội phục
vụ cho sự phát triển kinh tế, văn hoá xã hội trong một giai đoạn phát triển lịch sử
nhất định.
Như vậy, ở mỗi giai đoạn phát triển lịch sử xã hội có một nền giáo dục và có
mục đích giáo dục tương ứng. Mục đích giáo dục luôn biến đổi cùng sự phát triển
của lịch sử để đáp ứng các yêu cầu của từng thời đại. Mục đích giáo dục bị giới hạn
ở tầm nhìn xã hội và ngược lại, khi xác định chính xác mục đích giáo dục và các
con đường để đạt được mục đích giáo dục là góp phần đẩy nhanh sự phát triển kinh
tế, văn hoá, xã hội.
Mục đích giáo dục có tính giai cấp. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống
trị sử dụng giáo dục như một công cụ của giai cấp đó. Do lợi ích chính trị và kinh
tế, mỗi giai cấp có những quan niệm riêng về giáo dục, có những yêu cầu riêng đối
với giáo dục và đối với sản phẩm giáo dục. Mục đích giáo dục trong xã hội có giai
cấp phản ánh ý chí, quyền lợi của giai cấp thống trị. Như vậy ở mỗi chế độ xã hội
có một mục đích giáo dục đặc thù, chẳng hạn mục đích giáo dục phong kiến khác
với mục đích giáo dục của chủ nghĩa tư bản...

51
Mục đích giáo dục mang màu sắc dân tộc. Mỗi quốc gia, mỗi cộng đồng dân
tộc có những đặc điểm riêng về truyền thống và bản sắc văn hoá, về tập quán trong
cuộc sống và lao động xã hội. Do vậy, mỗi nền giáo dục có những đặc điểm độc
đáo, có những yêu cầu riêng của mình đối với giáo dục và điều đó cũng được phản
ánh vào mục đích giáo dục.
Mục đích giáo dục có tính thời đại. Trong các điều kiện kinh tế, xã hội hiện
đại, khi mà khoa học và công nghệ phát triển hết sức nhanh chóng, khi mà xu thế
toàn cầu hoá đang trở thành hiện thực, giáo dục thế kỉ XXI đặt ra nhiều vấn đề lớn
cần phải giải quyết, chúng có liên quan trực tiếp đến việc xác định mục đích giáo
dục của mỗi quốc gia.
Mục đích giáo dục được trình bày với nhiều cấp độ khác nhau như mức độ vĩ
mô (áp dụng cho cả hệ thống giáo dục quốc dân), mức độ trung gian (áp dụng cho
một cấp học, bậc học, trường học), và mức độ vi mô (áp dụng cho một quá trình dạy
học, giáo dục cụ thể). Vì thế, trong thực tiễn giáo dục sử dụng hai thuật ngữ để diễn
đạt cái đích phải đạt đến của hoạt động giáo dục là “mục đích giáo dục” và “mục
tiêu giáo dục”.
+ Mục đích giáo dục chỉ sự hướng tới, nơi muốn đến, kết quả mong đợi cuối
cùng của toàn bộ hoạt động giáo dục.
+ Mục tiêu giáo dục chỉ kết quả cần phải đạt được trong thực tế.
Mục tiêu giáo dục là những tiêu chí, chỉ tiêu, những yêu cầu cụ thể đối với
từng khâu, từng nhiệm vụ, từng nội dung của quá trình giáo dục phải đạt được sau
một hoạt động giáo dục. Mục tiêu giáo dục được xây dựng trên cơ sỏ cân nhắc
những điểu kiện hiện có và những khả năng cụ thể của nhà trường, của giáo viên và
học sinh khi thực hiện quá trình giáo dục. Mục tiêu giáo dục do nhà nước, nhà
trường đề ra cho từng hoạt động và đòi hỏi mọi người phải phấn đấu thực hiện. Mục
tiêu giáo dục là những bậc thang nối tiếp nhau dẫn đến mục đích giáo dục, khi các
mục tiêu giáo dục đạt được có nghĩa là ta đã tiếp cận tới mục đích giáo dục tổng thể.
Tóm lại, mục đích, mục tiêu giáo dục là hai khái niệm có quan hệ mật thiết
với nhau, nhưng không phải là một. Mục tiêu giáo dục là thành phần, bộ phận cấu
thành của mục đích giáo dục. Quan hệ giữa mục đích và mục tiêu giáo dục là quan
hệ giữa những mong đợi lí tưởng và khả năng hiện thực, giữa các yêu cầu tổng thể
và yêu cầu bộ phận của quá trình giáo dục. Khái niệm mục đích và mục tiêu cùng
được dùng trong một chu trình, đều nói đến kết quả mong muốn đạt được của hoạt
động giáo dục, giảng dạy, học tập.

52
Xét tổng quát, hai khái niệm này có nội hàm tương tự, nhưng khác nhau ở
mức độ rộng, hẹp và phạm vi, cấp độ vận dụng. Xuất phát từ mục đích giáo dục để
xác định mục tiêu giáo dục nhưng mục đích giáo dục sẽ được hoàn thiện ở sự thực
hiện hệ thống các mục tiêu giáo dục.
Mục tiêu giáo dục nói về kết quả cần phải đạt được, trong thực tế cho nên
phải cụ thể hơn mục đích, phải được thiết kế sao cho mục tiêu giáo dục làm được
chức năng chỉ đạo cách tổ chức thực hiện các quá trình giáo dục, đồng thời làm
chức năng đánh giá kết quả giáo dục. Trong nhiều trường hợp mục tiêu giáo dục
phải lượng hoá được, đo đạc được, quan sát được thì mới thực hiện được hai chức
năng nói trên.
Mục đích, mục tiêu giáo dục có giá trị định hướng cho tòan bộ hoạt động
giáo dục. Ở tầm vĩ mô, việc xác định mục đích giáo dục thường là do các cấp lãnh
đạo - quản lý giáo dục thực hiện, đảm bảo cho hệ thống giáo dục phát triển thống
nhất với sự phát triển về chính trị, kinh tế - xã hội, văn hóa…của đất nước; góp
phần thực hiện mục tiêu: “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”. Ở các trường học, việc xác định rõ mục tiêu của hoạt động giáo dục sẽ định
hướng cho việc chọn lựa, sử dụng và điều chỉnh nội dung, phương pháp, hình thức
tổ chức giáo dục.
Mục đích, mục tiêu giáo dục còn là tiêu chuẩn, thước đo đánh giá chất lượng
giáo dục. Xem xét chất lượng đầu vào, đầu ra để quyết định tuyển sinh, tuyển dụng,
so sánh chất lượng tuyển sinh và yêu cầu về chất lượng tốt nghiệp để quyết định tổ
chức các hoạt động giáo dục và huy động các nguồn lực đáp ứng yêu cầu của chất
lượng giáo dục.
Việc xác định đúng đắn mục đích, mục tiêu giáo dục có tác dụng kích thích
tích tích cực hoạt động của con người, tạo động lực cho họat động giáo dục. Việc
xác định mục đích, mục tiêu giáo dục thường hay quan tâm đến nhu cầu của cuộc
sống, của cá nhân do đó nó có sức hấp dẫn, tạo ra nhu cầu, động cơ cho hoạt động
của người học và cả người dạy. Vì vậy, cần hướng dẫn, tư vấn cho người học xác
định và lựa chọn mục tiêu giáo dục.
3.1.2. Cơ sở xác định mục đích giáo dục
Lịch sử phát triển giáo dục về cả thực tiễn và lí luận cho thấy có mối quan hệ
biện chứng giữa sự phát triển giáo dục, phát triển nhân cách với sự phát triển xã hội
về kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ..., với những điều kiện và hoàn cảnh thực
hiện giáo dục. Từ mối quan hệ biện chứng đó có thể tìm thấy các cơ sở lí luận và
thực tiễn của việc xác định mục đích giáo dục.

53
3.1.2.1. Quan điểm về sự hình thành và phát triển nhân cách
Nhân cách được hình thành và phát triển dưới những ảnh hưởng của các yếu
tố: di truyền, môi trường, giáo dục và hoạt động - giao tiếp cá nhân. Sự tương tác
biện chứng giữa cá nhân và môi trường thông qua hoạt động và giao tiếp cá nhân
làm cho nhân cách hình thành và phát triển. C.Mác đã nói: “Hoàn cảnh sáng tạo ra
con người trong chừng mực con người sáng tạo ra hoàn cảnh”.
Giáo dục là hoạt động được tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch, có
nội dung, phương pháp khoa học… nhằm hình thành và phát triển nhân cách con
người phù hợp với những yêu cầu của xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất
định. Tính định hướng của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân cách
biểu hiện thông qua việc giáo dục có thể thiết kế được mô hình nhân cách có tính
toàn vẹn của con người trong xu thế phát triển và tiến bộ xã hội và thiết kế được
mục tiêu giáo dục cho các giai đọan khác nhau. Quan điểm về vai trò của giáo dục
đối với sự hình thành và phát triển nhân cách là quan điểm rất cơ bản trong Giáo
dục học, nó vừa định hướng cho sự phát triển giáo dục, phát triển kinh tế - xã hội và
phát triển con người trong xã hội công nghiệp hiện đại.
3.1.2.2. Quan điểm về con người phát triển toàn diện và sự phát triển toàn
diện nhân cách
Các quan điểm hướng vào sự phát triển toàn diện nhân cách con người đã có
một bề dày trong lịch sử. Nhưng ở mỗi quốc gia, mỗi thời kì lịch sử, khái niệm phát
triển toàn diện nhân cách có một nội dung riêng. Sự phát triển của các quan điểm về
sự phát triển toàn diện nhân cách con người trong lịch sử là cơ sở lý luận để xây
dựng mục đích giáo dục.
Con người phát triển toàn diện là yêu cầu tất yếu, khách quan của xã hội công
nghiệp hiện đại (với những đặc điểm cơ bản như: thay đổi nhanh và tính đa dạng,
phong phú ngày càng cao); nhưng để phát triển toàn diện nhân cách cần có những
điều kiện nhất định tùy theo khả năng, mong muốn cùng với sự nỗ lực cố gắng của
mỗi người và cộng đồng.
Từ những cơ sở khoa học, Mác - Ăng ghen đã chỉ ra mô hình về con người
phát triển toàn diện của xã hội tương lai: là con người phát triển về cả trí tuệ, đạo
đức, sức khỏe, lao động và thẩm mĩ; hài hòa về thể chất và tâm hồn, hài hòa giữa
cuộc sống cá nhân và xã hội, giữa cái chung và cái riêng. Phát triển toàn diện nhân
cách là phát triển hết khả năng, đặc tính vốn có của từng cá nhân; chứ không phải là
làm cho tất cả mọi người đều hoàn toàn giống nhau, đều làm giỏi tất cả mọi việc
như nhau.

54
Con người phát triển toàn diện là ước mơ từ ngàn xưa của loài người và là
yêu cầu khách quan phù hợp với ước mơ chủ quan của mỗi người trong xã hội hiện
đại. Và chỉ có trong xã hội hiện đại, tiến bộ với có đủ điều kiện để phát triển con
người toàn diện.
Trong lịch sử cũng như trong xã hội hiện đại, việc phát triển toàn diện cho
thế hệ đang lớn lên với những đặc trưng bản chất trên vẫn là mục đích lí tưởng của
nền giáo dục các nước.
3.1.2.3. Những đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, khởi đầu từ giữa thế kỷ XX
ngày càng phát triển với những bước đi thần tốc. Việc áp dụng những thành tựu
khoa học - công nghệ làm thay đổi nhanh chóng và sâu sắc đời sống vật chất và tinh
thần của xã hội. Khoa học trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp và nòng cốt, là
động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế - xã hội. Cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ phát triển như “vũ bão” đã thể hiện rõ nét ở các yếu tố sau:
- “Bùng nổ” thông tin và sự lạc hậu nhanh chóng của thông tin.
- Việc sử dụng các thế hệ máy tính điện tử và các phương tiện công nghệ hiện
đại vào sản xuất và đời sống ngày càng được gia tăng nhanh chóng.
- Khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, tri thức là quyền
lực, là chìa khoá cuối cùng mở vào cánh cửa tương lai, là công cụ chủ yếu tạo ra sự
phát triển (Bacon).
- Việc ứng dụng các thành tựu mới của khoa học - công nghệ vào sản xuất và
đời sống đang là cơ hội và thách thức đối với các quốc gia đang phát triển và chính
những con người của các quốc gia ấy. Sự phát triển của khoa học - công nghệ với
những đặc điểm nói trên đòi hỏi con người phải có khả năng cập nhập và ứng dụng
thông tin - công nghệ tiên tiến, sử dụng được phương tiện hiện đại. Khả năng tự học
để học suốt đời là yêu cầu tất yếu đối với con người trong thời đại ngày nay.
- Sự hình thành nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin.
- Xu thế toàn cầu hóa, xu thế hội nhập, giao lưu quốc tế ngày càng được mở
rộng và thân thiện.
- Nhân loại bước vào kỉ nguyên mới - kỉ nguyên với nhiều hi vọng và lo lắng.
Ước muốn về chung sống hòa bình, dân chủ, bình đẳng, công bằng và khả năng gìn
giữ hòa bình trên phạm vi toàn thế giới với sự phát triển mới về khoa học công
nghệ. Các vấn đề có tính toàn cầu như xung đột về sắc tộc, dân tộc, tôn giáo; sự
bùng nổ dân số và sự di cư tìm kiếm việc làm, suy giảm môi trường và sinh thái,

55
phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng, nạn thất nghiệp... đòi hỏi các quốc gia phải
quan tâm giải quyết.
Trong tình hình kinh tế - xã hội, khoa học công nghệ của thời đại mới, quốc
gia nào đầu tư cho giáo dục nhiều nhất, quốc gia đó có cơ hội cạnh tranh trong cuộc
chạy đua vào kỉ nguyên mới - kỉ nguyên của sự bùng nổ thông tin, kỉ nguyên của
nền kinh tế tri thức. Bởi vì:
- Trong tương lai, lợi thế thuộc về những quốc gia có lực lượng lao động
được đào tạo ngang tầm với yêu cầu cao của nền công nghiệp hiện đại.
- Lợi thế thuộc về những quốc gia có đội ngũ cán bộ khoa học có trình độ cao
giữ vai trò tổ chức, điều khiển quy trình sản xuất.
- Khuynh hướng của giáo dục là hướng tới “một xã hội học tập”. Học là công
việc của tất cả mọi đối tượng trong xã hội và phải được thực hiện liên tục suốt đời.
Vì thế, không gian học tập không chỉ là học ở nhà trường mà cả trong mọi việc của
đời sống thực tế của con người.
Tệ nạn xã hội và bạo hành đang có xu hướng gia tăng trong các nhà trường.
Tất cả các vấn đề trên cần được đặt ra, xem xét và giải quyết bắt đầu từ giáo dục,
bằng giáo dục.
3.1.2.4. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay
Từ những thập kỷ 80 của thế kỷ XX, Việt Nam chuyển từ nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường, có sự điều tiết của nhà nước. Sự biến chuyển của nền kinh tế - xã
hội đã ảnh hưởng tích cực đến mỗi cá nhân như:
- Phát huy cao độ tính tích cực, sáng tạo của con người, kích thích con người
nắm bắt nhanh nhạy yêu cầu của kinh tế - xã hội.
- Đòi hỏi thế hệ trẻ Việt Nam khả năng thích nghi trước những biến đổi của
môi trường kinh tế - xã hội, năng động và sáng tạo, có tri thức văn hoá, khoa học, có
kĩ thuật nghề nghiệp vững vàng, có phẩm chất đạo đức và thái độ đúng đắn...
Đảng và Nhà nước Việt Nam đã xác định Chiến lược phát triển giáo dục và
đào tạo để phục vụ tích cực và thường xuyên cho nền kinh tế - xã hội, cụ thể là:
(1). Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực thúc đẩy, là điều
kiện cơ bản đảm bảo cho việc thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội.
(2). Giáo dục và đào tạo phải đi trước sự phát triển kinh tế - xã hội
(3). Đầu tư cho giáo dục là một hướng chính của đầu tư phát triển.
(4). Đa dạng hoá các hình thức đào tạo, thực hiện công bằng trong giáo dục.

56
(5). Giáo dục và đào tạo phải gắn chặt với yêu cầu phát triển của đất nước và
phù hợp với tiến bộ của thời đại.
3.1.2.5. Những đặc điểm truyền thống của dân tộc Việt Nam
“Giá trị truyền thống của một dân tộc là nguyên lí đạo đức lớn mà con
người trong nước thuộc các thời đại, các giai đọan lịch sử đều dựa vào để phân
biệt phải trái, để nhận định nên chăng nhằm xây dựng độc lập tự do và tiến bộ của
dân tộc đó”. (GS. Trần Văn Giàu). Dân tộc Việt Nam có bề dày lịch sử trên 4000
năm văn hiến đã hun đúc được những truyền thống có giá trị trong quá trình dựng
nước và giữ nước:
- Truyền thống yêu nước, anh hùng
- Truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, lạc quan.
- Truyền thống nhân ái
- Truyền thống văn hóa lâu đời.
Các giá trị truyền thống đó phải được kế thừa, gìn giữ và phát huy sẽ trở
thành nội lực tiềm năng, sức mạnh của con người Việt Nam…
3.2. Mục đích giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
3.2.1. Mục đích giáo dục tổng quát
3.2.1.1. Mục đích giáo dục xét trên bình diện xã hội
Mục đích giáo dục của nền giáo dục XHCN Việt Nam là hình thành và phát
triển toàn diện nhân cách con người Việt Nam. Mục đích đó được thể hiện cụ thể
trong từng giai đoạn phát triển của đất nước, gắn chặt với việc thực hiện các nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mục đích giáo dục trong
giai đoạn hiện nay đã được khẳng định trong Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp
hành trung ương Đảng khóa VII (1993): “Phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài…”.
a. Mục tiêu nâng cao dân trí
Xây dựng nền giáo dục phục vụ sự nghiệp nâng cao dân trí đó là tư tưởng chỉ
đạo toàn bộ sự phát triển giáo dục của nước ta. Bác Hồ đã đúc kết thành chân lí:
“Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Vì vậy, ngay sau khi giành độc lập vào tháng
8/1945, một trong những nhiệm vụ cấp bách là làm sao cho mọi người biết đọc, biết
viết, có kiến thức, hiểu biết được quyền lợi và bổn phận của mình. Vấn đề nâng cao
dân trí trở thành quốc sách và là mục tiêu hàng đầu của nền giáo dục nước ta.
Dân trí được hiểu là trình độ hiểu biết, trình độ văn hóa của người dân trong
từng thời kì lịch sử nhất định. Dân trí biểu hiện trữ lượng hiểu biết văn hoá của một

57
dân tộc. Mặt bằng dân trí được thể hiện bằng số năm học trung bình của người dân
một nước vào một thời điểm nhất định.
Dân trí có liên quan đến hạnh phúc, lối sống của con người, đến sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, đến các vấn đề liên quan đến dân tộc và toàn cầu như
vấn đề dân quyền, dân sinh, dân chủ… Một quốc gia có trình độ dân trí cao là quốc
gia đó có đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân cao, thể hiện trong đời sống
chính trị, văn hóa, đạo đức, truyền thống xã hội, trong ý thức, hành vi của cá nhân…
Hiện nay, nước ta đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học, nhưng với trình
độ này so với các nước trong khu vực và với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, chúng ta còn phải phấn đấu nâng cao trình độ dân trí rất
nhiều. Một số mục tiêu nâng cao dân trí:
- Củng cố và nâng cao thành quả phổ cập giáo dục Tiểu học và xoá mù chữ,
phổ cập giáo dục trung học cơ sở và tiếp tục thực hiện nhiệm vụ phổ cập giáo dục
trung học phổ thông.
- Xây dựng hoàn chỉnh và phát triển bậc học Mầm non cho hầu hết trẻ em
trong độ tuổi.
- Phát triển giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số, vùng khó khăn, phấn đấu
giảm chênh lệch về phát triển giáo dục giữa các vùng lãnh thổ.
Nâng cao dân trí là kết quả tổng hợp của nhiều lĩnh vực giáo dục như giáo
dục nhà trường, giáo dục xã hội, giáo dục gia đình, tuy nhiên, giáo dục nhà trường
trong hệ thống giáo dục quốc dân bao giờ cũng giữ vai trò nòng cốt. Để đạt đến
trình độ dân trí ngày càng cao, giáo dục luôn phải đổi mới và phát triển liên tục theo
hướng nhân văn hoá, xã hội hoá, đa dang hoá với những phương thức thích hợp,
huy động mọi lực lượng, mọi tiềm năng của xã hội làm giáo dục; nâng cao chất
lượng và bảo đảm số lượng nhà giáo cho toàn bộ hệ thống giáo dục…
b. Mục tiêu đào tạo nhân lực
Nhân lực là lực lượng lao động. Nói đến nguồn nhân lực là nói đến sức mạnh
trí tuệ, tay nghề, năng lực, phẩm chất, sức khỏe của nhân lực. Chất lượng và hiệu
quả lao động trong thời đại cách mạng khoa học - công nghệ phụ thuộc vào trình độ
đào. tạo nhân lực. Người lao động có trình độ sẽ luôn luôn tiếp cận với cái mới,
năng động sáng tạo trong sản xuất, trong công nghệ, sẽ có năng lực thích nghi cao
với những biến động và phát triển của nền kinh tế - xã hội.
Trong thực tế, nước ta dồi dào về nhân lực (khoảng trên 44 triệu người)
nhưng chất lượng thấp, chưa đáp ứng với những yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hóa - hiện đại hóa đất nước. Theo tính toán của Bộ Lao động - Thương binh và Xã

58
hội, Việt Nam mới có khoảng hơn 20% lực lượng lao động đã qua đào tạo từ sơ cấp
trở lên. Trên thực tế, chưa có con số thống kê chính xác về bao nhiêu phần trăm lao
động đáp ứng được yêu cầu sử dụng. Hiện chất lượng lao động Việt Nam còn nhiều
vấn đề cần giải quyết. Khi Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới thì
chất lượng lao động thấp sẽ có tác động xấu tới khả năng cạnh tranh của nền kinh
tế. Đây là ý kiến của phần lớn các chuyên gia lao động khi nói về chất lượng nguồn
nhân lực Việt Nam. Vì vậy, mục tiêu đào tạo nhân lực ở nước ta càng trở nên cấp
thiết.
Một số mục tiêu đào tạo nhân lực:
- Đào tạo nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, trong đó
đặc biệt chú ý nhân lực khoa học - công nghệ trình độ cao, cán bộ quản lí giỏi và
công nhân kĩ thuật lành nghề, đào tạo nhân lực cho các lĩnh vực công nghệ ưu tiên
(công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự
động hóa), đào tạo nhân lực cho nông thôn để thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu lao
động.
- Phát triển đào tạo đại học, cao đẳng. trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề.
- Thay đổi cơ cấu lực lượng lao động đáp ứng với yêu cầu công nghiệp hóa -
hiện đại hóa …
- Nâng cao chất lượng và bảo đảm đủ số lượng giáo viên cho toàn hệ thống
giáo dục. Tiêu chuẩn hóa và hiện đại hóa các điều kiện dạy và học. Phấn đấu sớm
có một số cơ sở đại học, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề đạt tiêu chuẩn quốc
tế….
Việc đào tạo nhân lực là trách nhiệm chính của hệ thống giáo dục quốc dân
mà trực tiếp ở hệ thống trường đào tạo nghề từ thấp đến cao. Các bộ phận của hệ
thống giáo dục quốc dân, hệ thống các trường dạy nghề từ thấp đến cao cần phải đổi
mới về mục tiêu, nội dung, phương thức đào tạo, cơ cấu tổ chức hệ thống; nâng cao
chất lượng đội ngữ giáo viên, đầu tư về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học để đội ngũ
người lao động được đào tạo luôn luôn tiếp cận với cái mới trong kĩ thuật, trong
công nghệ, rèn luyện tính năng động, sáng tạo trong sản xuất để họ có thể thích ứng
với quá trình biến động và phát triển của nền kinh tế - xã hội đang phát triển trong
cơ chế mới, đảm bảo chất lượng đào tạo đi liền với sự phát triển về quy mô đào tạo
c. Mục tiêu bồi dưỡng nhân tài
Nhân tài là những người có tài năng, nghĩa là người thông minh, trí tuệ phát
triển, có năng lực làm việc giỏi, có một số phẩm chất nổi bật, giàu tính sáng tạo. Tài
có cấu trúc gồm 4 tầng: khiếu (còn gọi là năng khiếu) - năng lực - tài năng - thiên

59
tài. Cấu trúc này được hình thành trên nền tảng những tác động phức tạp qua lại
giữa một bên là hoạt động của con người (chủ thể) và một bên là sự phát triển của
các yếu tố di truyền được khơi dậy nhờ hoạt động có định hướng của chủ thể.
Nhân tài có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển xã hội: Họ là những người mở
ra những mũi đột phá trong văn hóa, khoa học - công nghệ, tạo nên đà phát triển
mạnh mẽ của kinh tế - xã hội và khoa học - kĩ thuật ở một nước. Vì vậy, ở thời đại
nào, ở quốc gia nào người tài cũng được coi trọng.
Trong điều kiện đất nước ta, phải đặt ra vấn đề bồi dưỡng nhân tài có khả
năng sáng tạo cao, có khả năng khai phá nhanh chóng những con đường mới mẻ,
góp phần xây dựng cho đất nước một nền văn hóa, khoa học - công nghệ cao. Muốn
vậy:
- Hình thành từng bước những trung tâm chất lượng cao ở các cấp học, bậc
học, các trường lớp trọng điểm, có chất lượng cao.
- Mở rộng hệ thống trường lớp năng khiếu, chuyên chọn ở phổ thông. Đào
tạo lực lượng công nhân lành nghề bậc cao, phát triển hệ đào tạo bồi dưỡng sau đại
học.
- Tạo mọi điều kiện về cơ sở vật chất, kĩ thuật, tài chính để hiện thực hóa các
chủ trương, tư tưởng chiến lược về bồi dưỡng nhân tài.
- Bồi dưỡng nhân tài phải đi đôi với thu hút và sử dụng nhân tài hợp lí, tạo
điều kiện để đội ngũ trí thức, các nhà khoa học có điều kiện tiếp cận và phát huy
tiềm năng của họ.
Việc phát hiện và bồi dưỡng nhân tài là trách nhiệm của cả ba môi trường
giáo dục (gia đình, nhà trường và xã hội), trong đó, gia đình giữ vai trò quan trọng.
Tóm lại, ba mục tiêu giáo dục trên có một mối quan hệ thống nhất biện
chứng, tác động qua lại với nhau. Vì vậy, để thực hiện thành công sự nghiệp công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước phải tiến hành thực hiện đồng thời 3 mục tiêu:
“nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”.
* Một số vấn đề cơ bản trong ưu tiên mục tiêu phát triển giáo dục giai đoạn
2021-2030:
- Tiếp tục hoàn thiện các khâu, các yếu tố của quá trình đào tạo theo hướng
chuẩn hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế.
- Đẩy mạnh giao quyền tự chủ đối với các cơ sở giáo dục phổ thông.
- Giáo dục đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế.

60
- Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả chủ trương
giáo dục cùng với khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then
chốt để phát triển đất nước.
- Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao.
- Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân, đa dạng hóa các loại hình đào tạo.
Tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ phát triển giáo dục.
- Xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển giáo dục Việt Nam
trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
- Nâng cao chất lượng dạy học ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh; đẩy mạnh
ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và quản lí giáo dục; hội nhập quốc tế.
3.2.1.2. Mục đích giáo dục xét trên bình diện nhân cách
Phát triển con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội.
Mục tiêu phát triển con người thực chất là xây dựng và phát triển nhân cách con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển và tiến bộ của xã hội trong thời kì mới -
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Điều 2 của Luật Giáo dục 2005 đã nêu:
“Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức,
tri thức, sức khoẻ, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực
của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Thành phần cơ bản trong cấu trúc nhân cách con người Việt Nam trong thời
kì mới bao gồm: Thái độ - Kĩ năng - Tri thức
a. Thái độ: Hệ thống thái độ đối với tổ quốc, dân tộc, với lao động, đời sống
xã hội, với bản thân như thiết tha với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc với công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước;
kế thừa các giá trị văn hoá nhân loại đồng thời giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá
dân tộc; có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỉ luật; có đạo đức trong sáng,
phát huy tính tích cực, có sức khoẻ.
b. Kĩ năng: Kĩ năng thực hành giỏi là khả năng vận dụng đúng, thành thạo,
sáng tạo những tri thức khoa học và công nghệ đã lĩnh hội vào thực tiễn nghề
nghiệp nhằm tạo ra các sản phẩm có chất lượng, có sức cạnh tranh trên thị trường.
c. Tri thức: Làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại có nghĩa là hiểu,
nhớ và vận dụng được tri thức khoa học ở cả ba phương diện: sự kiện, hiện tượng;
quy luật chi phối sự kiện, hiện tượng (khái niệm và logic của nó); và cách thức hành
động với khái niệm để vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo tri thức khoa học đã

61
lĩnh hội trong các tình huống hoạt động khác nhau nhằm tạo ra các giá trị mới cho
xã hội và phát triển tư duy sáng tạo ở chủ thể hoạt động.
Ba thành phần thái độ - kĩ năng - tri thức trong cấu trúc nhân cách con người
mới Việt Nam có mối quan hệ nhân quả. Thái độ (thế giới quan, lí tưởng, niềm tin,
đạo đức) định hướng, hình thành động cơ cho cá nhân trong hoạt động chiếm lĩnh
các tri thức khoa học, công nghệ và vận dụng chúng vào hoạt động nghề nghiệp.
Mặt khác, tri thức, kĩ năng là điều kiện, phương tiện cho cá nhân thực hiện lí tưởng,
bồi dưỡng tình cảm, củng cố niềm tin và các giá trị đạo đức ở cá nhân.
3.2.2. Mục tiêu giáo dục của các bậc học
Điều 23 của Luật Giáo dục 2019 nêu mục tiêu của giáo dục mầm non: “Giáo
dục mầm non nhằm phát triển toàn diện trẻ em về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm
mỹ, hình thành yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào học lớp
một.”
Điều 29 của Luật Giáo dục 2019 nêu rõ mục tiêu của giáo dục phổ thông:
1. Giáo dục phổ thông nhằm phát triển toàn diện cho người học về đạo đức,
trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng
động và sáng tạo; hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa và
trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho người học tiếp tục học chương trình giáo dục
đại học, giáo dục nghề nghiệp hoặc tham gia lao động, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
2. Giáo dục tiểu học nhằm hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển về đạo
đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, năng lực của học sinh; chuẩn bị cho học sinh tiếp
tục học trung học cơ sở.

3. Giáo dục trung học cơ sở nhằm củng cố và phát triển kết quả của giáo dục
tiểu học; bảo đảm cho học sinh có học vấn phổ thông nền tảng, hiểu biết cần thiết
tối thiểu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học trung học phổ thông hoặc
chương trình giáo dục nghề nghiệp.
4. Giáo dục trung học phổ thông nhằm trang bị kiến thức công dân; bảo đảm
cho học sinh củng cố, phát triển kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện
học vấn phổ thông và có hiểu biết thông thường về kỹ thuật, hướng nghiệp; có điều
kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học chương
trình giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp hoặc tham gia lao động, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.

62
Điều 36 của Luật Giáo dục 2019 nêu mục tiêu của giáo dục nghề nghiệp:
“Giáo dục nghề nghiệp nhằm đào tạo nhân lực trực tiếp cho sản xuất, kinh doanh
và dịch vụ, có năng lực hành nghề tương ứng với trình độ đào tạo; có đạo đức, sức
khỏe; có trách nhiệm nghề nghiệp; có khả năng sáng tạo, thích ứng với môi trường
hội nhập quốc tế; bảo đảm nâng cao năng suất, chất lượng lao động; tạo điều kiện
cho người học sau khi hoàn thành khóa học có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc
làm hoặc học trình độ cao hơn”.
Điều 39 của Luật Giáo dục 2019 nêu mục tiêu của giáo dục đại học:
1. Đào tạo nhân lực trình độ cao, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài; nghiên
cứu khoa học và công nghệ tạo ra tri thức, sản phẩm mới, phục vụ nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, hội nhập quốc tế.
2. Đào tạo người học phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ; có tri thức, kỹ
năng, trách nhiệm nghề nghiệp; có khả năng nắm bắt tiến bộ khoa học và công nghệ
tương xứng với trình độ đào tạo, khả năng tự học, sáng tạo, thích nghi với môi
trường làm việc; có tinh thần lập nghiệp, có ý thức phục vụ Nhân dân.
3.3. Nhiệm vụ giáo dục
Để thực hiện mục tiêu giáo dục đã xác định, nhà trường phổ thông cần thực
hiện các nhiệm vụ giáo dục cụ thể. Những nhiệm vụ này chứa đựng những nội dung
giáo dục toàn diện nhằm phát triển toàn diện nhân cách học sinh.
3.3.1. Giáo dục đạo đức
Đức là gốc của nhân cách, Bác Hồ đã nói: “dạy cũng như học, phải biết chú
trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc rất quan trọng”.
Nhân cách của học sinh trước hết thể hiện ở bộ mặt đạo đức. Giáo dục đạo đức là
một nhiêm vụ cực kì quan trọng trong các loại hình trường, là nền tảng của các mặt
giáo dục khác.
Những nhiệm vụ cụ thể của giáo dục đạo đức:
- Giáo dục cho người học thế giới quan khoa học, hiểu được tính qui luật cơ
bản của sự phát triển tự nhiên, xã hội; nhận thức đúng về quyền lợi, nghĩa vụ và
trách nhiệm của mỗi cá nhân với tư cách là những công dân chân chính đối với xã
hội và cộng đồng, có ý thức phấn đấu thực hiện tốt nghĩa vụ của người công dân
trong việc thực hiện mục tiêu xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
- Giáo dục cho người học hiểu và nắm vững những vấn đề cơ bản trong
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, những cơ sở pháp luật của hiến pháp,
các luật pháp hiện hành, có ý thức, hành động và lối sống theo pháp luật.

63
- Giáo dục cho người học thấm nhuần các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức
do xã hội qui định về lối sống, phong cách và thái độ ứng xử trong cộng đồng như
lòng yêu nước, ý thức dân tộc, thái độ lao động, lòng nhân ái, ý thức công dân…
- Giáo dục cho người học tính tích cực tham gia các hoạt động lao động, xã
hội, chính trị... có ý thức đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực, lối sống lạc hậu,
lỗi thời không phù hợp với xã hội hiện đại.
3.3.2. Giáo dục trí tuệ
Giáo dục trí tuệ (trí dục) có vai trò to lớn trong việc phát triển trí tuệ, là điều
kiện quan trọng để phát triển toàn diện nhân cách con người. Nhờ có sự phát triển
trí tuệ, con người có phương tiện phát triển nhu cầu nâng cao trình độ học vấn và tự
hoàn thiện nhân cách…
Những nhiệm vụ cụ thể của giáo dục trí tuệ:
- Tổ chức, điều khiển người học nắm vững hệ thống tri thức khoa học, phổ
thông, cơ bản, hiện đại, phù hợp với những yêu cầu của thực tiễn về tự nhiên, xã
hội, con người.
- Rèn luyện cho người học hệ thống kĩ năng, kĩ xảo tương ứng, phát triển
năng lực và phẩm chất trí tuệ, đặc biệt là năng lực tư duy sáng tạo.
- Bồi dưỡng cho người học thế giới quan khoa học, những phẩm chất đạo đức
tốt đẹp của người công dân.
3.4.3. Giáo dục thẩm mĩ
Trong nhà trường, giáo dục thẩm mĩ là một bộ phận quan trọng của quá trình
giáo dục nhân cách, bởi vì văn hóa thẩm mĩ là một bộ phận hợp thành nền tảng của
trình độ văn hóa nói chung. Văn hóa thẩm mĩ của người học bao gồm trình độ phát
triển nhất định về mặt thẩm mĩ của ý thức, tình cảm, hoạt động và hành vi. Đó là
những rung cảm thẩm mĩ, nhãn quan thẩm mĩ (tri thức, quan niệm, lí thuyết, chuẩn
mực về những giá trị thẩm mĩ), hứng thú, nhu cầu, năng lực sáng tạo cái đẹp… Giáo
dục thẩm mĩ là quá trình hướng vào việc tổ chức cho người học lĩnh hội những nền
tảng của văn hóa thẩm mĩ.
Nhiệm vụ cụ thể của giáo dục thẩm mĩ:
- Giáo dục cho học sinh năng lực nhận thức và cảm thụ cái đẹp trong trong tự
nhiên, trong cuộc sống và trong nghệ thuật, vẻ đẹp chân chính ở mỗi con người.
- Bồi dưỡng cho học sinh những xúc cảm, tình cảm, những thị hiếu thẩm mĩ
đúng đắn trước cái đẹp… Từ đó, giáo dục học sinh thái độ đúng đắn khi nhận xét,
đánh giá cái đẹp trong cuộc sống cũng như trong nghệ thuật và vẻ đẹp của mỗi con
người.

64
- Bồi dưỡng cho học sinh năng lực vận dụng và sáng tạo cái đẹp trong tự
nhiên, trong cuộc sống và nghệ thuật, góp phần làm cho cuộc sống ngày càng đẹp
hơn.
3.4.4. Giáo dục thể chất
Phát triển thể chất là một mặt quan trọng của sự phát triển toàn diện nhân
cách, là quá trình biến đổi và hình thành những thuộc tính tự nhiên về mặt hình thái
và về mặt chức năng của cơ thể trong cuộc sống con người. Trong cuộc sống và
hoạt động của con ngừơi, việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành công. Bác Hồ nói:
“Mỗi một người dân yếu ớt, tức là nước yếu ớt, mỗi người dân mạnh khỏe tức là
nước mạnh khỏe”.
Giáo dục thể chất là một bộ phận hữu cơ của quá trình giáo dục có mục tiêu,
nội dung, phương pháp và hình thức tác động nhằm củng cố sức khỏe và bảo đảm
phát triển thể chất đúng đắn cho học sinh, đồng thời phát triển văn hóa thể chất ở
họ. Trong quá trình giáo dục, giáo dục thể chất được xem là một nhiệm vụ quan
trọng vì nó ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển chung về thể lực, điều chỉnh sự
phát triển của cơ thể con người, kể cả những khuyết tật bẩm sinh, làm cho cơ thể trở
nên cân đối hài hòa. Giáo dục thể chất cũng có tác dụng rất tích cực đối với trí dục,
đức dục, mĩ dục và giáo dục lao động…
Nhiệm vụ cụ thể của giáo dục thể chất:
- Truyền đạt và lĩnh hội hệ thống tri thức phổ thông, cơ bản, hiện đại về thể
dục, thể thao, vệ sinh thường thức, giữ gìn, chăm sóc, bảo vệ và phát triển sức khỏe,
rèn luyện kĩ năng cơ bản về các bài tập thể dục phổ thông theo chương trình giáo
dục thể chất của nhà trường phổ thông.
- Hình thành cho học sinh hứng thú, nhu cầu, ý chí, nghị lực, thói quen rèn
luyện thể dục thể thao và giữ gìn vệ sinh để nâng cao sức khoẻ; Giáo dục học sinh ý
thức giữ gìn, bảo vệ và rèn luyện sức khỏe cho học sinh, góp phần phát triển đúng
đắn thể chất và nâng cao năng lực làm việc cho cơ thể.
- Phát hiện và bồi dưỡng nhân tài thể dục thể thao
- Giáo dục cho học sinh những phẩm chất đạo đức khác.
3.3.5. Giáo dục lao động
Lao động là một loại hình đặc biệt của con người nhằm sản xuất ra các sản
phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội. Lao động là hoạt động cơ bản của con người
và là nguồn gốc của mọi sự tiến bộ xã hội. Lao động cũng là điều kiện cần thiết cho
sự phát triển nhân cách mỗi con người…

65
Giáo dục lao động là một bộ phận hữu cơ của hoạt động giáo dục, là quá trình
tổ chức đưa học sinh vào hoạt động lao động và bằng lao động mà hình thành thái
độ tích cực đối với lao động, trang bị cho học sinh những tri thức và kĩ năng lao
động cần thíêt, đồng thời bồi dưỡng những năng lực và phẩm chất của người lao
động mới.
Nhiệm vụ của giáo dục lao động:
- Truyền đạt và lĩnh hội hệ thống tri thức cơ bản về các loại hình lao động
phổ biến, giúp học sinh nắm vững nguyên tắc chung của lao động, những kĩ năng sử
dụng các công cụ lao động phổ thông, phổ biến, những hiểu biết ban đầu về kinh tế,
bước đầu hình thành tư duy kĩ thuật, sáng tạo và tổ chức lao động tập thể.
- Hình thành những cơ sở ban đầu của phẩm chất người lao động trong thời
đại mới, những thói quen và kĩ năng lao động tập thể, kết hợp lao động trí óc và lao
động chân tay, giữ gìn vệ sinh trong lao động...
- Tạo mọi điều kiện hợp lí để học sinh vận dụng tri thức, kĩ năng vào cuộc
sống. Giúp học sinh bước đầu đóng góp sức mình xây dựng xã hội. Các nhiệm vụ
giáo dục có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau, đan xen, chứa đựng
trong nhau, tạo thành nội dung giáo dục toàn diện nhân cách. Nhiệm vụ này vừa là
tiền đề, vừa là điều kiện cho sự vận động và phát triển của các nhiệm vụ khác. Vì
vậy, trong quá trình thực hiện phải đồng bộ, không được coi nhẹ một nhiệm vụ nào.

CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 3


1. Nêu khái niệm và ý nghĩa của việc xác định mục đích, mục tiêu giáo dục?
2. Trình bày những cơ sở xác định mục đích giáo dục?
3. Phân tích nội dung mục đích giáo dục tổng quát và mục đích giáo dục
nhân cách trong thời kỳ cộng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Nêu mục tiêu giáo
dục các bậc học, cấp học?
4. Trình bày các nhiệm vụ giáo dục toàn diện ở nhà trường phổ thông. Tìm
hiểu và nhận xét việc thực hiện các nhiệm vụ giáo dục toàn diện ở một trường phổ
thông cụ thể?

CHƯƠNG 4. NGUYÊN LÍ VÀ HỆ THỐNG GIÁO DỤC VIỆT NAM

66
4.1. Nguyên lí giáo dục Việt Nam
4.1.1. Khái niệm
Theo nghĩa thông thường, nguyên lí là những luận điểm chung nhất, có tính
quy luật của một lí thuyết khoa học, có vai trò chỉ đạo hoạt động thực tiễn trong lĩnh
vực đó. Ta vẫn thường nói: nguyên lí vận hành hệ thống thiết bị, nguyên lí tổ chức
xã hội, nguyên lí giáo dục... đó là những luận điểm chung có tính quy luật của lí
thuyết cơ học, lí thuyết xã hội học hay lí thuyết giáo dục..., khi nắm vững các
nguyên lí đó ta sẽ tổ chức công việc thực tế một cách thuận lợi và có hiệu quả.
Như vậy, nguyên lí giáo dục là những luận điểm chung nhất của lí thuyết
giáo dục, có tính quy luật, được khái quát trên các căn cứ khoa học và thực tiễn giáo
dục, có vai trò định hướng, chỉ đạo các hoạt động giáo dục trong nhà trường.
Cũng như đã phân tích về quan hệ giữa mục đích và mục tiêu giáo dục, trong
tiếng Việt còn có hai khái niệm: nguyên lí giáo dục và nguyên tắc giáo dục có nội
dung rất gần với nhau, gây không ít những khó khăn trong quá trình sử dụng, do
vậy chúng cần được phân biệt làm rõ ý nghĩa.
Như ta đã biết nguyên tắc giáo dục là những luận điểm cơ bản của lí luận
giáo dục (giáo dục nghĩa hẹp), có giá trị chỉ dẫn các hoạt động giáo dục, hình thành
phẩm chất nhân cách, đạo đức cho học sinh (tương tự như nguyên tắc dạy học là
những luận điểm cơ bản của lí luận dạy học, có giá trị chỉ dẫn quá trình dạy học,
giúp học sinh nắm vững tri thức và hình thành kĩ năng theo chương trình dạy học).
Nguyên lí giáo dục là những luận điểm khái quát mang tầm tư tưởng và có
tính quy luật của quá trình giáo dục (giáo dục nghĩa rộng), chỉ dẫn toàn bộ hệ thống
giáo dục và quá trình sư phạm tổng thể, trong đó có quá trình giáo dục và quá trình
dạy học (là những bộ phận cấu thành).
Như vậy, quan hệ giữa nguyên lí giáo dục và nguyên tắc giáo dục là quan hệ
giữa chiến lược và chiến thuật, giữa cái chung và cái riêng, mối quan hệ này cần
được lưu ý khi tổ chức quá trình sư phạm tổng thể và quá trình bộ phận.
Nguyên lí giáo dục có đặc điểm sau đây:
- Nguyên lí giáo dục là một tư tưởng giáo dục được khái quát từ bản chất của
giáo dục - như là một hiện tượng xã hội và bị chi phối bởi các quy luật xã hội.
Nguyên lí giáo dục được đút kết từ quy luật về các mối quan hệ biện chứng giữa
giáo dục với kinh tế, văn hoá, khoa học... giữa thượng tầng kiến trúc với hạ tầng cơ
sở xã hội. Giáo dục là một bộ phận của hoạt động xã hội, trình độ xã hội quy định
trình độ giáo dục. Giáo dục và xã hội gắn kết chặt chẽ với nhau.

67
- Nguyên lí giáo dục được khái quát từ bản chất của quá trình dạy học, trong
đó học tập bao gồm hoạt động nhận thức và hoạt động thực hành của học sinh và
việc giảng dạy của nhà giáo về thực chất là quá trình tổ chức các hoạt động đó một
cách có ý thức. Quá trình dạy học phải gắn lí thuyết với thực hành như một tất yếu.
- Nguyên lí giáo dục được rút ra từ bản chất của quá trình giáo dục - quá trình
tổ chức cuộc sống, hoạt động và giao lưu cho học sinh nhằm hình thành cho họ ý
thức, thái độ và hành vi trong sự phối hợp hợp lí của các lực lượng giáo dục: gia
đình, nhà trường và xã hội.
- Giáo dục là một hoạt động có mục đích, mục đích giáo dục có tính lịch sử
và thời đại. Nguyên lí giáo dục chính là một tư tưởng giáo dục được rút ra từ mục
đích giáo dục và trở thành phương thức để thực thi mục đích giáo dục.
- Nguyên lí giáo dục được đúc rút từ những kinh nghiệm giáo dục tiên tiến
của các nhà trường qua nhiều thời đại, đã làm cho giáo dục đạt tới chất lượng và
hiệu quả.
4.1.2. Nội dung nguyên lí giáo dục
Điều 3 của Luật Giáo dục 2019 đã ghi: “Hoạt động giáo dục được thực hiện
theo nguyên lý học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà
trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.”
Đây chính là một luận điểm giáo dục quan trọng của Đảng và Nhà nước ta, là
kim chỉ nam hướng dẫn toàn bộ các hoạt động giáo dục trong nhà trường và cả
trong xã hội.
Nội dung của nguyên lí này gồm bốn điểm quan trọng cần lưu ý:
- Học đi đôi với hành là một tư tưởng giáo dục vừa truyền thống vừa hiện đại,
vừa có tính khoa học vừa có giá trị thực tiễn. Bản chất của tư tưởng này như sau:
+ Học sinh đến trường để học tập (học và hành). Học là quá trình nhận thức
chân lí khoa học. Hành là luyện tập để hình thành các kĩ năng lao động và hoạt động
xã hội, tức là biến kiến thức đã tiếp thu được thành năng lực hoạt động của từng cá
nhân. Từ đó ta thấy: Mục đích giáo dục của mọi thời đại không chỉ là giúp học sinh
nắm vững kiến thức mà còn biết áp dụng kiến thức vào thực tiễn, hình thành kĩ
năng, kĩ xảo hoạt động. Tư tưởng này thống nhất với cách diễn đạt của Jacque
Dolors - nhà giáo dục Pháp trong báo cáo “Học tập là của cải nội sinh” đó là: học
để biết, học để làm.
+ Học đi đôi với hành là một phương pháp học tập có hiệu quả, bởi vì học đi
đôi với hành (vừa học, vừa làm) hỗ trợ cho nhau rất nhiều trong quá trình học tập.
Trong quá trình học tập nếu biết vận dụng kiến thức đã học để thực hành sẽ làm

68
tăng hiệu quả nhận thức, làm giảm lí thuyết “suông” và lúc đó thực hành không phải
“mò mẫm” mà được dựa trên một cơ sở lí thuyết khoa học vững chắc. Kết quả là
kiến thức trở nên sâu sắc và hành động trở nên sáng tạo, tinh thông.
+ Trong học tập cần sử dụng nhiều mức độ thực hành và phải gắn với nội
dung các môn học, với quy trình và mục tiêu đào tạo. Các trường phổ thông có hệ
thống các bài tập thực hành môn học, có các giờ thực hành, thí nghiệm trong các
phòng thí nghiệm, các vườn thí nghiệm. Các trường dạy nghề có xưởng thực hành
chuyên môn, các trường đại học có các hoạt động thực hành nghiên cứu khoa học...
Các loại thực hành có thể tiến hành trong trường, ngoài trường, các mức độ thực
hành đều làm tăng chất lượng và hiệu quả học tập của học sinh.
- Giáo dục kết hợp với lao động sản xuất là tư tưởng giáo dục của nhà trường
hiện đại, ta có thể nhận thấy như sau:
+ Giáo dục lao động là một nội dung của giáo dục toàn diện, học sinh hôm
nay là những người lao động trong tương lai, vì vậy nhà trường phải chuẩn bị cho
các em cả tâm lí, ý thức, kiến thức và kĩ năng sẵn sàng bước vào cuộc sống lao
động. Các trường phổ thông hiện nay đã đưa các môn học như: thủ công, giáo dục
hướng nghiệp và dạy nghề vào chương trình dạy học là nhằm mục đích đó. Các
trường dạy nghề, giáo dục chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học có một hệ thống các
môn học nghiệp vụ, kĩ thuật sản xuất, là điều tất nhiên.
+ Một nguyên tắc giáo dục quan trọng cho học sinh trong mọi thời đại là:
giáo dục trong lao động và bằng lao động. Lao động sản xuất vừa là môi trường vừa
là phương tiện giáo dục con người. Mọi phẩm chất nhân cách được hình thành trong
lao động và trong hoạt động xã hội. Do vậy, tuỳ theo trình độ lứa tuổi và ngành
nghề đào tạo mà các nhà trường vận dụng tư tưởng này một cách sáng tạo để giáo
dục có hiệu quả. Gia đình và nhà trường tổ chức cho học sinh lao động tự phục vụ
và tham gia lao động công ích xã hội để giáo dục ý thức và kĩ năng lao động cho
học sinh.
+ Mục đích đào tạo của các trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp là
tạo nguồn nhân lực cho các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Nguồn nhân lực này
sẽ đạt tới chất lượng cao khi quá trình đào tạo được gắn chặt với thực tiễn lao động
sản xuất trong các ngành nghề cụ thể. Các trường dạy nghề, các trường trung học
chuyên nghiệp và đại học thường xuyên đưa sinh viên tới các nhà máy, xí nghiệp để
thực tập sản xuất, đó chính là phương thức tổ chức dạy học trong lao động và học
bằng lao động.

69
- Lí luận gắn liền với thực tiễn đó là một yêu cầu quan trọng đối với quá trình
giáo dục và đào tạo trong nhà trường Việt Nam.
Chúng ta đều biết, nhà trường là một bộ phận của xã hội, giáo dục nhà trường
là một bộ phận của giáo dục xã hội, mục đích giáo dục nhà trường phục vụ cho sự
phát triển của xã hội. Nội dung giáo dục nhà trường phải phản ánh những gì đang
diễn biến trong thực tiễn xã hội.
Trong khi giảng dạy lí luận, nhà giáo thường xuyên liên hệ với thực tiễn sinh
động của cuộc sống, với những diễn biến sôi động hàng ngày, hàng giờ trong nước
và trên thế giới, đây là những minh hoạ vô cùng quan trọng giúp cho học sinh nắm
vững lí luận và hiểu rõ thực tiễn. Học tập có liên hệ với thực tiễn làm cho lí luận
không còn khô khan, khó tiếp thu mà trở nên sinh động và ngược lại, các sự kiện,
hiện tượng thực tiễn được phân tích, được soi sáng bằng những lí luận khoa học
vững chắc.
Như vậy, giáo dục lí luận gắn liền với thực tiễn cuộc sống, nội dung đào tạo
trong nhà trường phản ánh những diễn biến của cuộc sống, từ đó làm tăng chất
lượng và hiệu quả của quá trình đào tạo.
- Giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội
Bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội. Con người sống
không đơn độc mà luôn có gia đình, bè bạn và cả cộng đồng xã hội. Trong sự phát
triển cá nhân, con người bị rất nhiều yếu tố tác động và do vậy quá trình giáo dục sẽ
đạt được hiệu quả nếu ta biết phối hợp giữa các lực lượng giáo dục.
Giáo dục là quá trình có nhiều lực lượng tham gia, trong đó có ba lực lượng
quan trọng nhất: gia đình, nhà trường và các đoàn thể xã hội. Ba lực lượng giáo dục
này đều có chung một mục đích là hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ.
Để tiến hành giáo dục, các lực lượng giáo dục phải thống nhất về mục đích,
yêu cầu, về nội dung và phương pháp giáo dục, mọi sự giáo dục phân tán, không
đồng bộ, theo các khuynh hướng khác nhau đều có thể phá vỡ sự toàn vẹn của quá
trình giáo dục.
Gia đình là nơi sinh ra, nơi nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em. Giáo dục gia đình
dựa trên tình cảm huyết thống, các thành viên gắn bó với nhau trong suốt cuộc đời
và như vậy giáo dục gia đình trở nên bền vững nhất. Gia đình sống có nền nếp, có
truyền thống gọi là gia phong. Gia đình hoà thuận, cha mẹ gương mẫu, lao động
sáng tạo, có phương pháp giáo dục tốt, đó là gia đình có văn hoá. Nhiều công trình
nghiên cứu đã khẳng định giáo dục gia đình có ảnh hưởng rất lớn đối với thế hệ trẻ.

70
Giáo dục xã hội là giáo dục trong môi trường nơi trẻ em sinh sống. Mỗi địa
phương có trình độ phát triển đặc thù, có truyền thống và bản sắc văn hoá riêng. Địa
phương có phong trào hiếu học, có nhiều người thành đạt, có bạn bè tốt là môi
trường ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của trẻ em.
Giáo dục xã hội còn bao hàm cả giáo dục của các đoàn thể: Sao Nhi đồng,
Đội thiếu niên, Đoàn thanh niên, Hội Sinh viên là các tổ chức quần chúng có tổ
chức, có tôn chỉ mục đích phù hợp với mục đích giáo dục của nhà nước và nhà
trường. Hoạt động của các đoàn thể phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lí lứa tuổi, cho
nên có tác dụng giáo dục rất lớn đối với thế hệ trẻ.
Tuy nhiên, quá trình giáo dục phải lấy nhà trường làm trung tâm. Giáo dục
nhà trường có mục đích và nội dung giáo dục toàn diện, dựa trên các cơ sở khoa học
và thực tiễn, có kế hoạch, với đầy đủ các phương tiện đóng vai trò chủ đạo trong
toàn bộ quá trình giáo dục trẻ em.
Mối liên hệ giữa nhà trường, gia đình, với các tổ chức xã hội và các cơ quan
kinh tế, văn hoá đóng ở địa phương càng chặt chẽ, càng đem lại những thành công
cho giáo dục, trong đó nhà trường phải chịu trách nhiệm chính trong sự phối hợp
với tất cả các lực lượng giáo dục.
4.1.3. Phương hướng quán triệt nguyên lí giáo dục
Nguyên lí giáo dục là một luận điểm giáo dục quan trọng được đúc kết trên
các căn cứ khoa học và thực tiễn, có giá trị chỉ đạo toàn bộ quá trình giáo dục đi đến
mục tiêu.
Nhà nước, nhà trường, nhà giáo phải quán triệt nguyên lí giáo dục bằng các
biện pháp cụ thể sau đây:
- Cần xây dựng chương trình giáo dục và đào tạo có tính toán cân đối giữa
các môn lí thuyết và các môn thực hành, phải hợp lí giữa nội dung lí thuyết và thực
hành trong từng môn học.
- Quy trình đào tạo và giáo dục phải tuân thủ các quy tắc chuẩn mực, bảo
đảm sự thống nhất giữa các môn lí thuyết và thực hành, thống nhất giữa các môn
kiến thức cơ bản và các môn nghiệp vụ, chuyên ngành. Quy trình đào tạo ở các bậc
đại học đi từ lí thuyết cơ bản, cơ sở đến thực hành và phải bảo đảm cho tất cả học
sinh, sinh viên được thực tập nghiệp vụ ở các cơ sở sản xuất.
- Nhà trường phải sử dụng phương pháp giáo dục tích cực, lấy người học làm
trung tâm, phát huy vai trò tích cực, độc lập và sáng tạo của người học. Trong mỗi
bài giảng, cùng với việc cung cấp tri thức lí luận, nhà giáo phải thường xuyên liên
hệ với thực tiễn cuộc sống. Trong mỗi giờ học học sinh, sinh viên phải được thực

71
hành, thí nghiệm ở các mức độ khác nhau phù hợp với mục đích bài học và nội
dung môn học.
- Nhà trường phải tổ chức các cơ sở thực hành, thí nghiệm tuỳ theo bậc học,
ngành học, điều này cần được đặc biệt lưu ý đến ở các trường chuyên nghiệp, dạy
nghề và ở bậc đại học, cao đẳng. Ở những nơi có điều kiện cần tổ chức các cơ sở
thực hành tại địa phương, đảm bảo thời gian dành cho sinh viên trực tiếp lao động
sản xuất tạo ra của cải vật chất.
- Nhà trường cần xây dựng một môi trường giáo dục lành mạnh, phải chủ
động phối hợp với các gia đình, các cơ quan, đoàn thể để giáo dục học sinh. Sự phối
hợp này dựa trên mục đích, nội dung, kế hoạch cụ thể, có phân công trách nhiệm, có
tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm hàng năm để làm tốt hơn trong các năm sau.
- Nhà nước, nhà trường cần tạo mọi điều kiện, cơ sở vật chất và tinh thần
thuận lợi cho nhà giáo và học sinh dạy và học theo nguyên lí giáo dục; không có cơ
sở, vật chất, điều kiện đảm bảo không thể tổ chức quá trình giáo dục thành công.
Tóm lại, mục đích, nhiệm vụ và nguyên lí giáo dục là ba khái niệm quan
trọng của Giáo dục học, chúng có liên quan mật thiết với nhau và làm cho nội dung
giáo dục trở nên phong phú. Nhà trường phải tổ chức quá trình giáo dục để làm sao
đạt tới mục đích, đảm bảo các nhiệm vụ và tuân thủ các nguyên lí giáo dục, từ đó
dẫn giáo dục đến thành công.
4.2. Khái quát về hệ thống giáo dục
4.2.1. Khái niệm hệ thống giáo dục quốc dân
Theo từ điển Giáo dục học: “Hệ thống giáo dục quốc dân là tổng thể các cơ
sở giáo dục và đào tạo phục vụ nhu cầu học tập của nhân dân trong nước”.
Hệ thống giáo dục quốc dân là một tổ chức bộ máy nhà nước bao gồm trong
nó các cơ quan chuyên trách hoạt động giáo dục và đào tạo đối với mọi thành viên
trong xã hội, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Hệ thống giáo dục bao gồm nhiều tổ chức
khác nhau và được cấu trúc theo những nguyên tắc xác định tạo thành một chỉnh thể
thống nhất trong việc thực hiện mục đích và chiến lược giáo dục của quốc gia.
Ngày nay, khái niệm hệ thống giáo dục không chỉ hiểu là hệ thống nhà
trường, khái niệm này mở rộng bao gồm cả trong nhà trường và ngoài nhà trường,
tức là bất cứ cách học và cách dạy trong điều kiện nào nhằm mang lại một sự thay
đổi về thái độ, hành vi trên cơ sở người học tiếp nhận những tri thức, kĩ năng, nghề
nghiệp và khả năng mới, đó là hệ thống giáo dục với chức năng và nhiệm vụ xây
dựng xã hội học tập suốt đời.

72
Hệ thống giáo dục gồm hệ thống nhà trường, hệ thống các cơ quan văn hóa -
giáo dục ngoài nhà trường và hệ thống cơ quan quản lí giáo dục và các cơ quan
nghiên cứu khoa học về giáo dục và dạy học. Như vậy, cơ cấu hệ thống giáo dục
hiểu theo nghĩa rộng gồm các vấn đề về cơ cấu bậc học, cơ cấu loại hình giáo dục
đào tạo, cơ cấu ngành học, cơ cấu quản lí và phân bố địa lí của mạng lưới, các cơ sở
dạy học - giáo dục, văn hóa - giáo dục.
Trong các bộ phận nêu trên, hệ thống nhà trường giữ vai trò chủ đạo trong hệ
thống giáo dục. Vì lẽ đó, khi nói đến hệ thống giáo dục ngươi ta nói đến hệ thống
nhà trường. Nhà trường là hạt nhân của hệ thống giáo dục, do đó nó cũng là đơn vị
cấu trúc cơ bản của hệ thống giáo dục. Nhà trường là một thiết chế nhà nước - xã
hội có chức năng chuyên trách trong việc chuyển giao kinh nghiệm xã hội cho thế
hệ trẻ của một nước.
Như vậy, xét về mặt cơ cấu, hệ thống giáo dục quốc dân là sự liên kết hữu cơ,
đồng bộ các cấp học, bậc học từ thấp đến cao; các loại hình đào tạo chính quy, phi
chính quy, tập trung và không tập trung...; xét về mặt không gian, hệ thống giáo dục
được triển khai thống nhất trên cả nước có tính đến đặc điểm phát triển của mỗi khu
vực; xét về mặt thời gian, hệ thống giáo dục quốc dân là sự kế tiếp các giai đoạn
đào tạo bao gồm các cấp học, bậc học. Mỗi giai đoạn đào tạo phải thực hiện mục
tiêu và nội dung giáo dục - đào tạo tương ứng nhưng luôn đảm bảo tính liên thông
trong sự vận động của toàn bộ hệ thống.
Hệ thống giáo dục là một chỉnh thể hữu cơ bao gồm nhiều tầng bậc, nhiều
nhân tố, hình thái và chức năng. Hệ thống giáo dục là một hệ thống con trong hệ
thống lớn xã hội, có mối liên hệ chặt chẽ với các hệ thống khác như kinh tế, chính
trị, khoa học, văn hoá...
Hệ thống giáo dục quốc dân là sản phẩm của nền kinh tế, chính trị, văn hoá,
khoa học của một quốc gia. Quy mô, cơ cấu tổ chức, chất lượng giáo dục và đào
tạo, xu hướng và khả năng phát triển của toàn hệ thống bị quy định bởi trình độ phát
triển của đất nước.
- Mục đích xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân là nâng cao dân trí đào tạo
nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Đặc biệt, khi giáo dục trở thành quốc
sách hàng đầu, việc xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân là một trọng tâm chiến
lược xã hội, và hệ thống giáo dục quốc dân mạnh sẽ đóng góp tích cực cho sự phồn
vinh của đất nước.
Ngoài ra hệ thống giáo dục lại là một chỉnh thể độc lập tương đối. Tính độc
lập của nó biểu hiện chủ yếu ở sự khác biệt về cơ cấu so với các hệ thống con khác.

73
Thông thường, hệ thống giáo dục được hiểu theo hệ thống nhà trường (school
system) trong đó phản ánh các loại hình nhà trường, xác định vị trí, chức năng và
các mối quan hệ giữa chúng trong các bậc học và trong toàn hệ thống.
Hệ thống giáo dục các nước mặc dù có sự đa dạng về phân cấp, bậc đào tạo,
hệ thống văn bằng, chứng chỉ, phân chia lứa tuổi các bậc học... nhưng đều có những
đặc điểm phản ánh các đặc trưng chung của hệ thống giáo dục quốc tế. Tổ chức
UNESCO đã tổng kết hệ thống giáo dục các nước đều có các bậc học cơ bản sau:
- Bậc 0: Trước tuổi học (Pre-primary education)
- Bậc 1: Tiểu học (Primary education)
- Bậc 2: Trung học cơ sở (Lower secondary education)
- Bậc 3: Trung học phổ thông (Upper secondary education)
- Bậc 4: Sau trung học (Post-secondary education)
- Bậc 5: Giai đoạn đầu của giáo dục đại học (First stage of tertiary education),
chủ yếu theo hướng giáo dục thực hành, kĩ thuật công nghệ.
- Bậc 6: Giai đoạn hai của giáo dục đại học (Second stage of tertiary
education), chủ yếu đào tạo chuyên gia có trình độ cao theo hướng nghiên cứu.
4.2.2. Nguyên tắc xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân
a/ Hệ thống giáo dục quốc dân phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, văn
hoá, khoa học của đất nước, phù hợp với mục tiêu chiến lược kinh tế, xã hội quốc
gia đồng thời cũng phải tiếp cận với trình độ phát triển giáo dục thế giới.
b/ Giáo dục hướng tới phổ cập cho đông đảo quần chúng, giáo dục dành cho
mọi người và mỗi công dân đều thực hiện quyền và nghĩa vụ học tập. Muốn vậy,
phải đa dạng hoá các loại hình trường học, loại hình đào tạo và thực hiện xã hội hoá
giáo dục để thực hiện mục đích giáo dục chung.
c/ Tổ chức quá trình đào tạo mềm dẻo, tạo điều kiện thuận lợi cho người học
để phục vụ thiết thực cho nhu cầu thực tế của cuộc sống xã hội và từng cá nhân.
d/ Hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất trong cả nước, đảm bảo sự liên
thông các cấp học, ngành học; đảm bảo sự kế thừa, phát triển bền vững trong nội
dung và phương pháp.
e/ Tổ chức các trường chuyên, trung tâm giáo dục mạnh ở trung ương và địa
phương để phát huy và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
4.2.3. Những cơ sở xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân
4.2.3.1. Những tiền đề của mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
Hệ thống giáo dục quốc dân muốn ổn định và phát triển phải dựa trên những
mục tiêu của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, thực hiện được

74
mục tiêu của toàn Đảng, toàn dân chúng ta là: xây dựng một đất nước: dân giàu, xã
hội công bằng, dân chủ và văn minh. Sự chuyển đổi nền kinh tế xã hội của đất nước
kéo theo sự cần thiết phải thay đổi cấu trúc của hệ thống giáo dục quốc dân, làm cho
nhà trường thích ứng được thuận lợi hơn với những đặc điểm của cơ cấu kinh tế - xã
hội, đồng thời sẽ tạo điều kiện cho số đông người có thể được học, được lựa chọn
những con đường và cách học phù hợp với mục đích học tập, khả năng tiếp thu và
điều kiện tài chính, cuộc sống thường nhật của mỗi người. Để làm được diều đó, hệ
thống giáo dục quốc dân phải thực hiện được tính đa dạng trong cấu trúc các loại
hình đào tạo (tập trung, không tập trung, chính quy, không chính quy; đào tạo bồi
dưỡng, giáo dục từ xa...); đa dạng trong thiết lập mạng lưới trường lớp (trường
công; bán công; dân lập, tư thục); phân định các bậc, cấp học, hệ thống văn bằng,
chứng chỉ; đảm bảo sự cân dối giữa giáo dục phổ thông với giáo dục nghề nghiệp;
bố trí hợp lý mạng lưới các trường đại học và loại hình đào tạo đại học. Chỉ trên cơ
sở có được một cơ cấu phù hợp của hệ thống giáo dục quốc dân với mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, chúng ta mới có được phương hướng vững chắc
cho việc xây dựng mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục cũng như những vấn
đề về các điều kiện đảm bảo chất lượng, quy mô cho phát triển giáo dục.
4.2.3.2. Những quan điểm và mục tiêu chiến lược phát triển giáo dục ngắn
hạn, trung hạn và dài hạn nhằm đáp ứng yêu cầu chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội và nhu cầu thường xuyên nâng cao dân trí của toàn dân.
Các quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục được hình thành trên cơ sở tiếp thu
có chọn lọc kinh nghiệm phát triển giáo dục của nhiều nước, phân tích mối quan hệ
giữa giáo dục với sự phát triển kinh tế - xã hội, chính trị, văn hoá, khoa học, kĩ
thuật, công nghệ, đồng thời cũng dựa trên sự phát triển nội tại của bản thân sự
nghiệp giáo dục trước đây và hiện nay đã chỉ rõ:
- Quan điểm định hướng phát triển giáo dục: Giáo dục là quốc sách hàng đầu;
xây dựng nền giáo dục nhân dân, dân tộc và hiện đại theo định hướng xã hội chủ
nghĩa; liên kết hữu cơ giữa phát triển giáo dục với phát triển kinh tế, phát triển giáo
dục trên nền tảng những giá trị văn hoá dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại,
những thành tựu khoa học- công nghệ hiện đại; xây dựng một nền giáo dục cho mọi
người, tạo điều kiện cho mọi thành viên trong xã hội có thể học tập suốt đời.
- Mục tiêu phát triển giáo dục: Xây dựng một nền giáo dục có quy mô phù
hợp, chất lượng và hiệu quả cao, đáp ứng nhu cầu về nhân lực, dân trí và nhân tài để
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hoá đất nước và nhu cầu học tập của
nhân dân, phát huy cao độ nội lực, sử dụng có hiệu quả sự hợp tác quốc tế để hoàn

75
chỉnh hệ thống giáo dục, trong đó xây dựng một bộ phận có uy tín trong khu vực và
trên thế giới.
Những quan điểm và mục tiêu chung của định hướng chiến lược phát triển
giáo dục nêu trên sẽ là lựa chọn cho việc xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân,
đồng thời cũng là những yêu cầu mang tính chiến lược mà hệ thống giáo dục quốc
dân phải đáp ứng. Cụ thể là:
- Hệ thống giáo dục quốc dân phải được xây dựng với sự quan tâm của mọi
ngành, mọi cấp, phải được coi như một yếu tố hàng đầu trong khi xây dựng các
chính sách quốc gia.
- Xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân để thực hiện mục tiêu, lí tưởng chung
của nước ta là xã hội chủ nghĩa và độc lập dân tộc, phải đảm bảo đạt tới hiệu quả
của triển khai hệ thống là hình thành cho được nhân cách con người Việt Nam trong
thời kỳ công nghiệp hoá - hiện dại hoá và hội nhập quốc tế. Việc tổ chức, quản lí
các chính sách giáo dục phải tạo điều kiện cho sự phát triển của đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở giữ vững vai trò nồng cốt của hệ thống giáo dục
công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân, thực hiện quản lý, kiểm soát tư tưởng
trong xây dựng nội dung chương trình của mọi cấp, mọi loại hình đào tạo, thực hiện
công bằng xã hội giáo dục, đảm bảo cho những đối tượng chính sách có cơ hội và
điều kiện học tập, cần đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đi đôi với việc
điều hành, quản lý giáo dục, huy động mọi lực lượng xã hội tham gia vào sự nghiệp
phát triển giáo dục, mở rộng dân chủ và tăng cường quyền tự quản cho các cơ sở
đào tạo; xây dựng cơ sở luật pháp để tổ chức, quản lí giáo dục bằng luật, tang chứng
chống các hiện tượng tiêu cực trong giáo dục.
- Hệ thống giáo dục quốc dân phải bao gồm trong nó sự cân đối, hài hoà giữa
vốn tri thức và sự hiểu biết các giá trị văn hoá của nhân loại cũng như của dân tộc;
cơ cấu nội dung, phương nháp giáo dục giải phù hợp với môi trường, điều kiện và
đặc điểm con người Việt Nam; nội dung đào tạo đưa vào các cấp học phải cập nhật
với những thành tựu mới mẻ của khoa học - công nghệ. Hệ thống giáo dục quốc dân
phải hướng tới việc tạo chỗ mỗi người được "học để biết", "để làm", "để làm
người", "để chung sống với truyền thống giáo dục dân tộc là dạy chữ, dạy nghề và
dạy người. Hệ thống giáo dục quốc dân một mặt phải cung cấp một vốn văn hoá
lịch nền tảng đủ rộng và vững chắc để giúp mỗi người có cơ hội học suốt đời, ở mọi
nơi, mọi lúc, mọi cách nhằm thích ứng được với sự biến đổi của nghề nghiệp, có
khả năng chung sống và chủ động được mọi tình huống.

76
4.2.3.3. Hệ thống giáo dục quốc dân phải được xây dựng dựa trên những
khả năng cụ thể của đất nước
Hệ thống giáo dục quốc dân được xây dựng trong điều kiện đất nước ta đang
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đường lối phát triển kinh tế theo cơ chế
thị trường có sự định hướng xã hội chủ nghĩa, đời sống vật chất của xã hội ta còn
nghèo nàn, cơ sở kĩ thuật còn lạc hậu, ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ còn
chậm và kém hiệu quả... Thành quả giáo dục của nước ta trong những năm đổi mới
vừa qua là đáng tự hào, bởi lẽ chúng ta đã dám vượt qua những thách thức khó khăn
về thời cuộc để xây dựng được một hệ thống giáo dục phát triển đồng đều ở tất cả
các cấp học, bậc học, có điểm, có diện, đáp ứng được những nhu cầu trước mắt về
phát triển kinh tế xã hội của đất nước và một phần cho tương lai. Tuy nhiên, những
bất cập của hệ thống trong quá trình vận động là không tránh khỏi, từ mục liên tổng
thể và mục tiêu bộ phận tội nội dung, phương pháp đào tạo, loại hình trường lớp,
phân lượng, tuyển dụng, quản lí chất lượng,...
Xã hội và giáo dục là một thể thống nhất hữu cơ, một thay đổi nhỏ trong hệ
thống giáo dục cũng ảnh hưởng chung tới toàn xã hội (chẳng hạn các chính sách
giáo dục khi triển khai hệ thống giáo dục có mối liên quan chặt chẽ với các chế độ
lao động, nhân sự, tuyển chọn lao động trong xã hội. Chỉ cần một thay đổi trong thể
chế giáo dục như chuyên môn, chương trình, chuẩn hoá trình độ giáo viên, trang
thiết bị, kinh phí tổ chức v.v... sẽ dẫn đến sự biến động về chính sách nhân sự, lao
động, tiền lương, đầu tư, tuyển sinh, phân phối của nhà nước). Điều này giúp chúng
ta thấy rõ hệ thống giáo dục quốc dân chỉ có thể lệ thành giương cột cho sự phát
triển giáo dục của đất nước một khi xây dựng nó phải được tính toán, dựa trên khả
năng hiện thực của phát triển kinh tế, chính bị văn hoá, tư tưởng, luật pháp... của xã
hội, thoát ly hiện thực xã hội là ảo tưởng. Chúng ta chắt lọc tinh hoa trong sự phát
triển giáo dục của thế giới đương đại nhưng vận dụng nó vào Việt Nam phải căn cứ
vào những gì chúng ta có đang có và sẽ có.
4.2.3.4. Hệ thống giáo dục quốc dân phải được xây dựng dựa trên sự kế thừa
kinh nghiệm xây dựng và phát triển nền giáo dục của dân tộc Việt Nam.
Xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân tương ứng với sự phát triển kinh tế xã
hội hiện nay, trên một phương diện nào đó chính là sự thay đổi truyền thống giáo
dục cũ. Do vậy, hệ thống giáo dục quốc dân mới cũng khó tránh khỏi những xung
đột với hệ thống giáo dục quốc dân trước đây. Tuy nhiên, sự xung đột này không có
nghĩa là phủ nhận sạch trơn tất cả những gì của nó mà là sự kế thừa có chọn lọc
những gì đã giúp nó tồn tại phát triển và tạo cho nó một sức sống mới. Nói một cách

77
khác, xây đựng một hệ thống giáo dục mới chính là tái sinh một truyền thống giáo
dục cũ bởi những chất liệu mới, trong những điều kiện mới. Dân tộc ta có truyền
thống văn hiến hàng nghìn năm, có kinh nghiệm trong dạy dỗ con em mình để dựng
nước và giữ nước, lòng hiếu học và tính sáng tạo trong truyền thống giáo dục của
dân tộc ta là một trong những truyền thống quý báu nhất mà sự nghiệp giáo dục
chúng ta phải bắt giữ cho xã hội Việt Nam trường tồn. Hơn thế nữa, giáo dục truyền
thống tồn tại trong những phạm vi xã hội, cơ cấu xã hội xác định, đó mang những
đặc điểm thời đại riêng đã sản sinh ra nó, vì thế nó không phải là nhất thành bất
biến. Tính hợp lí của giáo dục truyền thống chỉ là tương đối, nó không ngừng được
thay thế bởi tính tất yếu mới. Nội dung và hình thức, cơ cấu và là chất của hệ thống
giáo dục trước đây vừa chứa đựng những cái không còn hợp lí với thời đại, song nó
cũng hàm chứa những cái mới, cần được kế thừa và phát triển. Cho nên, xây dựng
một hệ thống giáo dục mới nhất thiết phải xem xét lại hệ thống giáo dục đã qua để
thấy được một cách khách quan giá trị lịch sử của nó, và quan trọng hơn là nó sẽ
giúp chúng ta đoán định giá trị hiện tại và tác dụng của nó để phát hay trong giáo
dục hiện tại và tương lai, giúp chúng ta giải quyết tốt mân thuẫn giữa đổi mới và kế
thừa truyền thống, kinh nghiệm trong xây dựng hệ thống giáo dục của thời kì công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
4.2.3.5. Xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân phải dựa trên những quy luật
khách quan trong mối quan hệ hữu cơ về mục tiêu, nội dung, phương nháp đào
tạo, quản lí giáo dục giữa các giai đoạn trong hệ thống.
Hệ thống giáo dục quốc dân là một chỉnh thể bao gồm trong nó những thành
tố có mối quan hệ chặt chẽ mang tính quy luật và đồng thời mỗi thành tố trong nó
lại là một hệ thống con mang tính độc lập tương đối. Sự vận động của toàn bộ hệ
thống là sự vận động của các hệ thống con (bậc học, ngành học, kiểu loại trường...)
theo những chức năng riêng, song có sự thống nhất ở mức độ nhất định trong một
giai đoạn lịch sử, chịu sự quy định của mục tiêu kinh tế xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, việc xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân phải đạt
được sự đa dạng hoá, chuẩn hoá, liên thông liên kết từ giáo dục phổ thông, giáo dục
nghề nghiệp đại cao đẳng, đại học và sau đại học; phân luồng sau trong học cơ sở và
trung học phổ thông; phát triển mạng lưới trường lớp, cơ sở giáo dục theo hướng
khắc phục các bất hợp lí về cơ cấu trình độ, ngành nghề và cơ cấu vùng miền, gắn
nhà trường với xã hội, gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học và ứng dụng, ưu tiên
phát triển các trường cao đẳng kĩ thuật, công nghệ, ưu tiên phát triển các cơ sở giáo
dục ở các vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa.

78
Những mục tiêu nêu trên trong hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân phải
được thực hiện thực thi trong cuộc sống từng bước một, không dàn đều nhưng cũng
không thiên vị. Chẳng hạn, vấn đề đa dạng giáo dục để đáp ứng nhu cầu phát triển
dân trí của xã hội có quan hệ mật thiết với mạng lưới trường lớp, phân luồng học
sinh, gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học và ứng dụng làm nảy sinh mối quan hệ
giữa mục tiêu trí dục và mục tiêu kinh tế, ưu tiên phát triển các cơ sở giáo dục vùng
dân tộc, vùng xa xôi hẻo lánh có quan hệ tới vấn đề tuyển sinh và chất lượng, quy
trình đào tạo, phân luồng học sinh sau THCS và THPT có liên quan tới việc phát
triển mạng lưới trường nghề và bản thân nội dung tri thức, kĩ năng cần chuẩn bị cho
học sinh trong cấp học… Có thể nói, cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế xã
hội, hệ thống giáo dục có thể có những điều chỉnh cho thích hợp, song để đảm bảo
tính hệ thống của nó, cần thiết phải có một hệ thống tư tưởng chỉ đạo, từ đó quy
định cơ cấu đặc trưng, bước đi và biện pháp thực hiện. Nói một cách khác, xây
dựng hệ thống giáo dục quốc dân và sự điều chỉnh nó phải tuân thủ những quy luật
nội tại trong hệ thống để nó có thể vận hành một cách thuận lợi và suôn sẻ.
4.3. Hệ thống giáo dục Việt Nam hiện nay
4.3.1. Hệ thống chuẩn phân loại giáo dục quốc tế của UNESCO
4.3.1.1. Giáo dục tiền học đường
- Thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ 3 tháng tuổi đến 6
tuổi.
- Hoạt động chủ đạo là chơi.
- Đội ngũ giáo viên cũng cần được đào tạo.
- Cơ sở giáo dục đảm bảo đủ điều kiện cho việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục trẻ.
- Tổ chức tập trung.
- Có chương trình phù hợp
4.3.1.2. Giáo dục tiểu học
- Bậc học phổ cập (5 - 6 năm).
- Hoạt động chủ đạo là học.
- Đội ngũ giáo viên có trình độ ít nhất là tốt nghiệp trung học sư phạm.
- Cơ sở giáo dục đảm bảo đủ điều kiện cho việc giáo dục toàn diện.
- Tổ chức tập trung.
- Có chương trình và sách giáo khoa phù hợp
4.3.1.3. Giáo dục trung học cơ sở
- Bậc học phổ cập (3 - 4 năm).

79
- Hoạt động chủ đạo là học.
- Đội ngũ giáo viên có trình độ ít nhất là tốt nghiệp cao đẳng sư phạm.
- Cơ sở giáo dục đảm bảo đủ điều kiện cho việc giáo dục toàn diện.
- Tổ chức tập trung.
- Có chương trình và sách giáo khoa phù hợp
4.3.1.4. Giáo dục trung học phổ thông
- Thu nhận sinh viên có bằng tốt nghiệp THCS (3 năm).
- Hoạt động chủ đạo là học.
- Đội ngũ giáo viên có trình độ ít nhất là tốt nghiệp đại học sư phạm.
- Cơ sở giáo dục đảm bảo đủ điều kiện cho việc giáo dục toàn diện và hướng
nghiệp.
- Tổ chức tập trung.
- Có chương trình và sách giáo khoa phù hợp
4.3.1.5. Giáo dục sau trung học
- Thu nhận học sinh tốt nghiệp THPT
- Chương trình đào tạo đứng giữa giáo dục THPT và giáo dục cao đẳng, đại
học
- Thời gian học từ 1- 2 - 3 - 4 năm
- Tập trung đào tạo năng lực hoạt động nghề nghiệp
- Bộ GD&ĐT phối hợp với các Bộ chuyên ngành quy định chương trình
khung.
4.3.1.6. Giáo dục cao đẳng, đại học giai đoạn 1 và 2
4.3.2. Hệ thống giáo dục quốc dân của Việt Nam
Theo Điều 6, Luật Giáo dục 2019, hệ thống giáo dục có cấu trúc hoàn chỉnh
như sau:
+ Giáo dục mầm non: Giáo dục mầm non thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm
sóc, giáo dục trẻ em từ ba tháng tuổi đến sáu tuổi với các cơ sở nhà trẻ, trường mẫu
giáo và trường mầm non. Nhà trẻ, nhóm trẻ nhận trẻ từ 3 tháng tuổi đến 36 tháng
tuổi (3 tuổi). Trường, lớp mẫu giáo nhận trẻ từ 3 tuổi đến 6 tuổi. Trường mầm non
là cơ sở giáo dục kết hợp nhà trẻ và trường mẫu giáo.
+ Giáo dục phổ thông:
. Giáo dục tiểu học được thực hiện trong năm năm học, từ lớp một đến lớp
năm. Tuổi của học sinh vào học lớp một là sáu tuổi;

80
. Giáo dục trung học cơ sở được thực hiện trong bốn năm học, từ lớp sáu
đến lớp chín. Học sinh vào học lớp sáu phải hoàn thành chương trình tiểu học, có
tuổi trung bình là mười một tuổi;
. Giáo dục THPT được thực hiện trong ba năm học, từ lớp mười đến lớp
mười hai. HS vào học lớp mười phải có bằng tốt nghiệp THCS, có tuổi là mười lăm
tuổi.
+ Giáo dục nghề nghiệp:
. Trung cấp chuyên nghiệp được thực hiện từ ba đến bốn năm học đối với
người có bằng tốt nghiệp THCS, từ một đến hai năm học đối với người có bằng tốt
nghiệp THPT;
. Trình độ cao đẳng được thực hiện từ hai đến ba năm học tùy theo ngành
nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp THPT hoặc bằng tốt nghiệp trung
cấp; từ một năm rưỡi đến hai năm học đối với người có bằng tốt nghiệp trung cấp
cùng chuyên ngành;
. Dạy nghề được thực hiện dưới một năm đối với đào tạo nghề trình độ sơ
cấp, từ một đến ba năm đối với đào tạo nghề trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng.
+ Giáo dục đại học:
. Đào tạo trình độ đại học được thực hiện từ bốn đến sáu năm học tùy theo
ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp THPT hoặc bằng tốt nghiệp
trung cấp; từ hai năm rưỡi đến bốn năm học đối với người có bằng tốt nghiệp trung
cấp cùng chuyên ngành; từ một năm rưỡi đến hai năm học đối với người có bằng tốt
nghiệp cao đẳng cùng chuyên ngành;
. Đào tạo trình độ thạc sĩ được thực hiện từ một đến hai năm học đối với
người có bằng tốt nghiệp đại học;
. Đào tạo trình độ tiến sĩ được thực hiện trong bốn năm học đối với người có
bằng tốt nghiệp đại học, từ hai đến ba năm học đối với người có bằng thạc sĩ. Trong
trường hợp đặc biệt, thời gian đào tạo trình độ tiến sĩ có thể được kéo dài hoặc rút
ngắn theo quy định của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT.
Nghiên cứu sinh không có điều kiện theo học tập trung liên tục và được cơ sở
giáo dục cho phép vẫn phải có đủ lượng thời gian học tập trung theo quy định để
hoàn thành chương trình đào tạo trình độ tiến sĩ, trong đó có ít nhất một năm theo
học tập trung liên tục.
+ Giáo dục thường xuyên:
Giáo dục thường xuyên giúp mọi người vừa làm vừa học, học liên tục, học
suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn,

81
chuyên môn, nghiệp vụ để cải thiện chất lượng cuộc sống, tìm việc làm, tự tạo việc
làm và thích nghi với đời sống xã hội.
Nội dung giáo dục thường xuyên được thể hiện trong các chương trình sau
đây:
. Chương trình xóa mù chữ và giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ;
. Chương trình giáo dục đáp ứng yêu cầu của người học; cập nhật kiến thức,
kĩ năng, chuyển giao công nghệ;
. Chương trình đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ về chuyên môn,
nghiệp vụ;
. Chương trình giáo dục để lấy văn bằng của hệ thống giáo dục quốc dân.
Các hình thức thực hiện chương trình giáo dục thường xuyên để lấy văn bằng của
hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm: Vừa làm vừa học; học từ xa; tự học có hướng
dẫn.

82
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 4

1. Trình bày nguyên lí của giáo dục Việt Nam.


2. Trình bày những căn cứ để xây dựng nguyên lí giáo dục Việt Nam.
3. Trình bày cơ cấu khung của hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam theo
Luật giáo dục; Các loại hình trường lớp, phương thức đào tạo?

CHƯƠNG 5. LAO ĐỘNG SƯ PHẠM VÀ NGƯỜI GIÁO VIÊN

83
5.1. Đặc điểm lao động sư phạm
Theo điều 66, Luật Giáo dục năm 2019 quy định: Nhà giáo làm nhiệm vụ
giảng dạy, giáo dục trong cơ sở giáo dục, trừ Viện Hàn lâm, viện do Thủ tướng
Chính phủ thành lập theo quy định của Luật Khoa học và Công nghệ được phép
đào tạo trình độ tiến sĩ. Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục
phổ thông, cơ sở giáo dục khác, giảng dạy trình độ sơ cấp, trung cấp gọi là giáo
viên; nhà giáo giảng dạy từ trình độ cao đẳng trở lên gọi là giảng viên.
Hoạt động nghề nghiệp của người giáo viên có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát
triển của xã hội, đối với tương lai của thế hệ trẻ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá
rất cao về nghề sư phạm và vai trò của người thầy giáo trong xã hội của chúng ta là
một nghề cao quý, là một loại lao động vinh quang, là những anh hùng vô danh.
Lao động sư phạm là một dạng lao động nghề nghiệp đặc biệt, là một dạng lao động
sáng tạo, đó là sự sáng tạo ra con người về mặt nhân cách, thể hiện ở: Mục đích lao
động, đối tượng lao động, công cụ lao động, tính chất của lao động sư phạm, thời
gian/không gian của lao động sư phạm, sản phẩm của lao động sư phạm.
5.1.1. Mục đích của lao động sư phạm
Mục đích lao động sư phạm là giúp học sinh tiếp thu và chuyển hoá nền văn
hoá nhân loại thành phẩm chất và năng lực của bản thân. Nhà trường thông qua dạy
kiến thức khoa học để giúp học sinh trở thành những công dân có ý thức, có khả
năng lao động sáng tạo, đem lại hạnh phúc cho cá nhân và phồn vinh cho đất nước.
Lao động sư phạm là loại lao động có mục đích cao cả. Việc xác định mục
đích sư phạm giúp cho người thực hiện có sự định hướng trước và có căn cứ để xem
xét kết quả hoạt động sư phạm. Mục đích của lao động sư phạm là nhằm giáo dục
cho học sinh phấn đấu học tập và rèn luyện để hình thành và phát triển nhân cách
phù hợp, giúp cho học sinh có khả năng học lên bậc học cao hơn. Nói cách khác, lao
động sư phạm góp phần sáng tạo ra con người, tái sản xuất sức lao động và phát
triển mọi khả năng cho học sinh, là sự chuẩn bị cho tương lai.
Lao động sư phạm là quá trình tác động qua lại giữa giáo viên và học sinh.
Trong đó, giáo viên là những người có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ dạy học
và giáo dục; là người được xã hội trao cho nhiệm vụ chuẩn bị cho trẻ em bước vào
cuộc sống tương lai. Học sinh có nhiệm vụ học tập và rèn luyện để trở thành người
có văn hoá, tiếp thu khoa học - công nghệ hiện đại, hình thành được những kĩ năng,
kĩ xảo lao động trí óc và chân tay, sẵn sàng bước vào cuộc sống lao động và học tập
suốt đời.

84
Mục đích giáo dục quy định cách thức tổ chức hoạt động giáo dục, chọn lựa
nội dung, phương pháp giáo dục và thiết lập các mối quan hệ giáo dục. Nếu mục
đích giáo dục là đào tạo học sinh thành những người phục tùng vô điều kiện quyền
uy của kẻ thống trị thì phương pháp giáo dục sẽ là áp đặt, cưỡng bức, roi vọt. Còn
mục đích giáo dục là hình thành và phát triển nhân cách tích cực, chủ động, sáng tạo
thì nội dung và phương pháp giáo dục phải phù hợp với nguyện vọng, ước mơ của
học sinh và những yêu cầu khách quan của cuộc sống tương lai, tạo điều kiện cho
học sinh tự giác tự giáo dục.
5.1.2. Đối tượng của lao động sư phạm
Ứng với mục đích nêu trên, nghề dạy học có đối tượng tác động là con người
(chủ yếu là thế hệ trẻ) mang trong mình những nhân cách xác định tồn tại và phát
triền như là một thực thể xã hội, có ý thức chủ động tiếp thu sự giáo dục. Với một
đối tượng như vậy, kết quả lao động nghề nghiệp của người giáo viên không chỉ
phụ thuộc vào đặc điểm nhân cách của học sinh, vào thái độ tiếp nhận sự giáo dục
của họ và quan hệ của họ với giáo viên. Việc hiểu biết đối tượng giáo dục của mình
càng cụ thể, toàn diện bao nhiêu thì hiệu quả lao động sư phạm càng có cơ sở vững
chắc bấy nhiêu. K.Đ.Usiuxki đã khẳng định: “Muốn giáo dục con người về mọi
phương diện thì trước hết phải hiểu con người về mọi phương diện”. Đối tượng lao
động sư phạm là con người, một thế giới thu nhỏ. Người học không chỉ là đối tượng
chịu sự tác động giáo dục mà là những chủ thể có ý thức, có những nét đặc thù về trí
tuệ, về tâm lí, tình cảm và đang phát triển theo quy luật tâm lí lứa tuổi. Học sinh
tiếp thu có chọn lọc từ những tác động giáo dục và có những tác động trở lại môi
trường giáo dục.
Đối tượng của lao động sư phạm có những đặc điểm cụ thể sau:
- Học sinh không chỉ chịu sự tác động của các giáo viên, của các lực lượng
giáo dục ở nhà trường mà còn chịu ảnh hưởng của các nhân tố khác như : gia đình,
bạn bè, các lực lượng xã hội, các phương tiện thông tin và các phương tiện giao tiếp
khác. Tất cả các tác động khác nhau đó có khi thống nhất theo hướng tích cực
nhưng cũng có khi không thống nhất với nhau, có định hướng rõ ràng nhưng cũng
có cả những ảnh hưởng ngẫu nhiên, tự phát theo nhiều mức độ và cách thức khác
nhau, các tình huống diễn ra sự tác động cũng mang màu sắc riêng, cụ thể. Vì vậy,
chủ thể lao động sư phạm cần có khả năng phối hợp, thống nhất các ảnh hưởng và
tác động theo hướng tích cực; chuẩn bị cho học sinh có khả năng tự giáo dục.
- Học sinh - đối tượng của lao động sư phạm phát triển nhân cách vừa theo
quy luật của tự nhiên vừa theo quy luật của sự phát triển xã hội chứ không phải theo

85
ý muốn chủ quan của nhà giáo dục; theo quy luật của sự hình thành và phát triển
nhân cách con người, của tâm lí, thể chất và xã hội. Có khi cùng một tác động sư
phạm nhưng kết quả có thể khác nhau do nhiều lí do như sự hưởng ứng như thế nào
của trẻ, hoàn cảnh điều kiện cụ thể, tình cảm, thái độ trong những tình huống nhất
định.
- Trong quá trình sư phạm, học sinh không phải chỉ là đối tượng tác động của
giáo viên mà còn là chủ thể của các hoạt động sư phạm. Quá trình tác động của giáo
viên đến học sinh chỉ có thể có kết quả tích cực khi phát huy được vai trò chủ thể
tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ em khi tham gia hoạt động giáo dục. Kết quả
của lao động sư phạm phụ thuộc vào nhân cách của giáo viên; vào mối quan hệ của
giáo viên với học sinh và với những người khác.
5.1.3. Công cụ của lao động sư phạm
Giáo viên khi thực hiện lao động sư phạm cần sử dụng những công cụ đặc
biệt, không chỉ là các phương tiện, đồ dùng dạy học và giáo dục mà còn bằng cả trí
tuệ, tâm hồn, tình cảm, nhân cách của người thầy giáo. Thầy giáo không chỉ là một
người có nhân cách tốt mà còn biết sử dụng cái tốt như một phương tiện giáo dục để
hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh. Nghề dạy học với đối tượng là con
người; chỉ có con người chân chính mới có thể giáo dục học sinh thành người chân
chính. Lao động sư phạm là một loại lao động đòi hỏi rất cao không chỉ về năng lực
sư phạm mà còn cả những phẩm chất nghề nghiệp đặc biệt như đạo đức, lí tưởng
tích cực.
Có thể nói rằng: nếu trong lĩnh vực sản xuất vật chất, công cụ lao động là
những đồ vật cụ thể mà người lao động sử dụng chúng tác động lên đối tượng lao
động của mình, thì trong nghề dạy học, phần lớn công cụ lao động của người giáo
viên lại chính là những thành phần gắn bó hữu cơ với chính bản thân họ (trữ lượng
tri thức, năng lực thiết kế, tổ chức, nhân cách của chính mình…).
5.1.4. Sản phẩm của lao động sư phạm
Sản phẩm lao động sư phạm là nhân cách của học sinh; không phải làm ra để
trao đổi, mua bán mà là sự gởi gắm vào đó những hi vọng cao cả, là ước mơ vươn
tới của dân tộc, của con người. Trải qua quá trình sư phạm, nhân cách của trẻ được
hình thành và phát triển nhằm đáp ứng được những yêu cầu tích cực của tương lai
đối với con người. Sự vinh quang của nghề dạy học thể hiện ở giá trị làm người của
học sinh; ở nhân cách học sinh - sản phẩm của lao động.
Sản phẩm của lao động sư phạm phản ánh chất lượng giáo dục, chính là chất
lượng nhân cách của học sinh. Kết quả của lao động sư phạm của người giáo viên

86
tiểu học là kết quả học tập và rèn luyện của học sinh đáp ứng được các mục tiêu về
kiến thức, kĩ năng, thái độ đạt chuẩn và vượt chuẩn về chất lượng giáo dục tiểu học.
Việc đánh giá sản phẩm giáo dục không thể tuỳ tiện theo suy nghĩ chủ quan của
thầy và trò mà cần phải đảm bảo tính khách quan theo yêu cầu học lên và hoàn thiện
nhân cách theo các yêu cầu mới đang đặt ra của sự phát triển kinh tế - xã hội và
khoa học - công nghệ.
5.1.5. Thời gian và không gian của lao động sư phạm
- Thời gian lao động sư phạm của nhà giáo về mặt pháp lí là thời gian quy
định trong các văn bản của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Đó chính là thời
gian lao động bắt buộc tuỳ theo vào từng bậc học, cấp học. Vấn đề này thường được
hiểu là quy định về số giờ giảng dạy và các công tác khác. Thời gian làm việc ngoài
giờ quy định như: thời gian chuẩn bị bài giảng, chấm bài, tự bồi dưỡng nghiệp vụ,
tham gia các công việc ngoài nhà trường và hoạt động xã hội.
- Không gian lao động sư phạm của người nhà giáo tiến hành ở hai phạm vi
là ở trong và ngoài nhà trường. Ở ngoài nhà trường thì rất đa dạng, phong phú như:
Tổ chức thực tế, tham quan, tham gia các hoạt động xã hội hoặc đến thăm gia đình
các học sinh. Đây là vấn đề cần được chú ý nghiên cứu để có chế độ chính sách
thích hợp, tạo điều kiện cho nhà giáo hoàn thành nhiệm vụ.
5.1.6. Hệ thống những kĩ năng đảm bảo cho hoạt động giáo dục của người
giáo viên đạt hiệu quả
- Nhóm kĩ năng thiết kế: Nhóm kĩ năng này giúp cho giáo viên nhìn thấy
trước công việc mình sẽ làm và sẽ đạt tới, đó là: nội dung, hình thức, phương pháp
tiến hảnh các dạng hoạt động giáo dục của mình và của học sinh, dự toán những gì
sẽ xảy ra trong quá trình giáo dục và các phương thức, biện pháp khắc phục những
khuyết tật đó.
- Nhóm kĩ năng tổ chức: giúp cho người giáo viên điều phối các lực lượng
giáo dục nhằm thực hiện nội dung “thiết kế” đã vạch ra.
- Nhóm kĩ năng giao tiếp: Giúp giáo viên biết cách nhập mình vào đối tượng
giáo dục cũng như có được mối dây liên hệ mật thiết với các tổ chức và lực lượng
xã hội có liên quan tới quá trình giáo dục.
- Nhóm kĩ năng nhận thực: Giúp giáo viên biết tự mình đánh giá được tiến
trình và kết quả hoạt động giáo dục của bản thân và đồng nghiệp, đặc biệt là của học
sinh để không ngừng hoàn thiện, điều chỉnh tác động sư phạm cho phù hợp với quy
luật giáo dục.
- Hệ thống những kĩ năng chuyên biệt, bao gồm:

87
+ Nhóm kĩ năng giảng dạy: bao gồm những kĩ năng lựa chọn nội dung
phương pháp, hình thức tổ chức dạy học; kĩ năng xác định các bước lí luận dạy học
cụ thể (cấu trúc bài giảng) và các thành phần có liên quan tới mỗi bước (mục đích,
nhiệm vụ…); kĩ năng soạn giảng bài lên lớp; kĩ năng tổ chức các dạng hoạt động
học tập cá nhân và tập thể của học sinh; kĩ năng phát hiện và bồi dưỡng học sinh
giỏi cũng như học sinh cá biệt; kĩ năng sử dụng phương tiện kĩ thuật và đồ dùng dạy
học; kĩ năng phân tích, đánh giá, rút kinh nghiệm các dạng hoạt động dạy học; kĩ
năng kiểm tra, đánh giá tri thức, kĩ năng, kĩ xảo học tập của học sinh.
+ Nhóm kĩ năng giáo dục: Bao gồm những kĩ năng như xác định mục đích,
nhiệm vụ giáo dục học sinh; xây dựng tập thể học sinh do mình phụ trách; phối hợp
và vận động các tổ chức, lực lượng xã hội tham gia giáo dục; tổ chức, hướng dẫn
các hoạt động lao động, hướng nghiệp; giáo dục học sinh cá biệt; phân tích, đánh
giá, rút kinh nghiệm các hoạt động giáo dục, kiểm tra, đánh giá kết quả rèn luyện, tu
dưỡng của học sinh.
+ Nhóm kĩ năng hoạt động xã hội: Bao gồm kĩ năng lập kế hoạch và tổ chức
bồi dưỡng về chuyên môn; vận dụng các phương pháp và biện pháp tự học để cập
nhật với những thay đổi của sự phát triền khoa học, kĩ thuật; kĩ năng tự đánh giá, tự
điều chỉnh hoạt động tự đào tạo của bản thân.
+ Nhóm kĩ năng nghiên cứu khoa học nói chung và khoa học giáo dục nói
riêng: Xác định các bước nghiên cứu; vận dụng những phương pháp và tổ chức
nghiên cứu; phân tích và xử lí các tài liệu thu thập được trình bày và bảo vệ đề tài
nghiên cứu.
+ Nhóm kĩ năng hoạt động xã hội: Bao gồm những kĩ năng tham gia các hoạt
động xã hội như vận động, tuyên truyền, tổ chức quần chúng tham gia giáo dục và
tổ chức học sinh tham gia các hoạt động xã hội.
Tóm lại, lao động sư phạm đòi hỏi người giáo viên tập trung tâm sức, thời
gian và tài năng vì lợi ích của học sinh, của xã hội; chứ không phải vì mưu cầu lợi
ích cho riêng cá nhân giáo viên. Việc dạy và học cần phải đem lại cho nhân dân,
cho học sinh lợi ích cơ bản lâu dài, góp phần cho sự phát triển phồn vinh của xã hội
và hoàn thiện nhân cách. Thầy giáo dạy cho học sinh trở thành những con người
hữu ích cho quốc gia, cho nhân loại. Lao động sư phạm là một loại lao động đặc
biệt khác với các loại lao động khác thể hiện ở mục đích, đối tượng, công cụ và sản
phẩm lao động là con người, là nhân cách. Sinh viên sư phạm nên nghiêm túc suy
ngẫm về đặc điểm của lao động sư phạm để rút ra được những bài học cần thiết cho

88
sự hình thành và phát triển nhân cách người giáo viên phù hợp với yêu cầu của thời
đại, của đất nước và hi vọng, niềm tin của học sinh, của nhân dân.
5.2. Vai trò và nhiệm vụ của người giáo viên
5.2.1. Vai trò của người giáo viên
Hiện nay, với bối cảnh đổi mới giáo dục nhằm đáp ứng được những yêu cầu
mới cho sự phát triển của cá nhân và cộng đồng; theo xu thế biến đổi tất yếu của
kinh tế - xã hội và khoa học - công nghệ thì vị trí và vai trò của người giáo viên
cũng cần được xem xét cụ thể và phù hợp hơn. Người giáo viên cần định hướng tới
việc đảm bảo cho tất cả trẻ em đều được học và học được; cần phải phát huy được
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập và rèn luyện
để hình thành và phát triển nhân cách.
Giáo viên và nhà trường đặt nền móng vững chắc cho sự hình thành và phát
triển nhân cách lâu dài, phù hợp với yêu cầu mới cho học sinh. Ở nước ta, tất cả trẻ
em đều được học tập và giáo dục, được thầy cô giáo và xã hội quan tâm tạo điều
kiện và giúp đỡ tận tình, tất cả thế hệ trẻ đều được học tập và giáo dục, được chịu sự
tác động của nhà trường, của các thầy cô giáo. Tác động của các thầy cô giáo là
những tác động có mục đích, với chương trình, nội dung và phương pháp giáo dục
được chọn lựa phù hợp nên có thể giúp cho quá trình phát triển nhân cách của học
sinh vững chắc, toàn diện, là nền móng cơ bản cho tương lai của trẻ. Cố Tổng Bí
thư Lê Duẩn đã khẳng định: Đảng ta và nhân dân ta giao phó việc dạy dỗ con em
của mình cho các thầy cô giáo, cũng tức là phó thác cho các thầy cô sứ mạng đào
tạo thế hệ tương lai cho dân tộc.
Để thực hiện tốt vai trò nói trên, người giáo viên phải tổ chức, hướng dẫn,
giảng dạy và giáo dục cho học sinh thật chu đáo, thật khoa học. Thầy cô giáo cần nỗ
lực cố gắng vươn lên để có đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng được yêu cầu của
công tác giáo dục. Xác định đúng vai trò cực kì quan trọng của người giáo viên
trong việc đào tạo thế hệ tương lai, chuẩn bị được nguồn nhân lực, nhân tài cho sự
phát triển đất nước, cho công nghiệp hoá và hiện đại hoá, Đảng và Nhà nước ta đã
khẳng định: Người giáo viên có vai trò đặc biệt quan trọng, là nhân vật trung tâm
trong nhiệm vụ nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Muốn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi phải có
những người công dân, người cán bộ, người lao động rất mực trung thành với nhân
dân, với dân tộc, biết hi sinh vì Tổ quốc, có trình độ kiến thức hiện đại và tay nghề
chất lượng, có khả năng làm ra các sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong
và ngoài nước.

89
Không một ai, không một cơ quan nào có thể thay thế được vai trò đào tạo
nguồn nhân lực, đào tạo thế hệ tương lai cho đất nước của người giáo viên, của các
tổ chức giáo dục.
Việc đào tạo người giáo viên và quá trình phấn đấu của người giáo viên cần
hướng tới mục tiêu phát triển đất nước, cần nghiêm túc suy nghĩ về vai trò cực kì
quan trọng của người giáo viên, cần đánh giá cao và nghiêm túc về nhân cách của
sinh viên sư phạm, của người giáo viên.
Vai trò của người giáo viên được xác định gắn liền với các chức năng xã hội
của giáo dục hiện nay và ước mơ của trẻ em, nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Giáo dục là quá trình truyền đạt và lĩnh hội những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo và
những kinh nghiệm nhằm chuẩn bị cho con người bước vào cuộc sống lao động và
sinh hoạt xã hội; là một nhu cầu tất yếu của xã hội loài người, đảm bảo cho sự tồn
tại và phát triển của con người và xã hội.
Bài phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh tại cuộc họp với Bộ
Giáo dục và Đào tạo ngày 26 tháng 4 năm 2002 đã khẳng định: “Trải qua 16 năm
đổi mới, trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII), hệ thống giáo
dục đã có những bước phát triển mới. Quy mô giáo dục tăng nhanh. Trình độ dân
trí và chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên. Đã xuất hiện những đơn vị và cá
nhân điển hình tiên tiến, tiêu biểu cho sự nỗ lực của ngành giáo dục trong quá trình
đáp ứng yêu cầu của xã hội. Chủ trương xã hội hoá được đẩy mạnh; gia đình và
cộng đồng chăm lo nhiều hơn cho sự nghiệp giáo dục, đồng thời cũng đòi hỏi cao
hơn về cơ hội học tập và chất lượng giáo dục”.
Giáo dục của Việt Nam đang đứng trước những vấn đề lớn cần phải giải
quyết nhằm đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước và nhu cầu, nguyện vọng của
nhân dân. Trước hết, nhà trường cần phải thực hiện tốt hơn nữa các chức năng của
giáo dục. Thực hiện tốt các chức năng của giáo dục là nhằm hướng tới mục tiêu
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Đảng và Nhà nước ta đã
xác định giáo dục là quốc sánh hàng đầu, là chìa khoá mở cửa vào tương lai, là động
lực thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Để thực hiện tốt các chức năng trên, giáo dục cần phải bám sát các yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ và cuộc cách mạng tư tưởng - văn
hoá trong thời đại ngày nay. Nhà trường cần phải xem xét cụ thể việc tiếp cận đổi
mới mục tiêu, nội dung, phương pháp, hoàn cảnh, điều kiện, phương tiện và các
hình thức tổ chức giáo dục nhằm đáp ứng được các yêu cầu phát triển con người và
xã hội trong giai đoạn hiện nay.

90
Giáo viên là lực lượng chủ đạo trong sự nghiệp truyền đạt, bảo tồn và phát
triển tinh hoa văn hoá của dân tộc và nhân loại.
Sự nghiệp phát triển văn hoá giáo dục là sự nghiệp cách mạng của quần
chúng nhân dân nên có nhiều lực lượng tham gia. Đặc biệt trong xã hội ngày nay,
khi mà chúng ta đang thực hiện “xã hội hoá giáo dục” thì tất cả mọi tổ chức, cá
nhân trong xã hội đều có trách nhiệm và vai trò tham gia vào sự nghiệp văn hoá -
giáo dục.
Song lực lượng đóng vai trò chủ yếu, cốt cán trong sự nghiệp này chính là đội
ngũ các thầy cô giáo. Quy mô, tốc độ phát triển và chất lượng nền văn hoá - giáo
dục của đất nước tuỳ thuộc phần lớn vào số lượng, chất lượng đội ngũ các thầy cô
giáo. Nếu đất nước có đội ngũ thầy giáo, cô giáo đông đảo về số lượng, vững vàng
về chất lượng thì sự nghiệp phát triển văn hoá - giáo dục sẽ nhanh hơn, mạnh hơn
và vững chắc hơn, đáp ứng đầy đủ mọi yêu cầu của đất nước. Với vai trò đó, Bác
Hồ đã khẳng định: Không có thầy giáo thì không có giáo dục, không có cán bộ và
không nói gì đến kinh tế - văn hoá.
Trong nhà trường, bên cạnh đội ngũ các thầy cô giáo còn có các thành viên,
các lực lượng khác cùng tham gia giáo dục học sinh như : Đoàn, Đội, Hội cha mẹ
học sinh... Các lực lượng này cũng có vai trò quan trọng, không thể thiếu được.
Nhưng các hoạt động giáo dục của các lực lượng này chỉ có tác dụng hỗ trợ, tạo
điều kiện thúc đẩy để hoạt động giảng dạy, giáo dục của các thầy cô giáo đạt chất
lượng và hiệu quả cao hơn chứ không thể thay thế được vai trò của các thầy cô giáo.
Mặt khác, lứa tuổi học sinh là lứa tuổi hình thành nhân cách, có nhiều ảnh
hưởng, tác động, nhiều lực lượng tham gia, nhưng ảnh hưởng tác động của giáo
viên đối với học sinh giữ vai trò quyết định nhất vì hoạt động của giáo viên bao giờ
cũng có mục đích, có kế hoạch, nội dung và nghệ thuật sư phạm, người giáo viên
được chuẩn bị về mọi mặt, có đầy đủ phẩm chất và năng lực để dạy dỗ và giáo dục
học sinh. Hơn nữa, người giáo viên là người trực tiếp tổ chức hoạt động và giao lưu
để học sinh hình thành nhân cách.
Trong nhà trường có nhiều biện pháp để nâng cao hiệu quả giáo dục. Nhưng
điều đó phụ thuộc rất nhiều vào người giáo viên, vì nếu giáo viên không có nhân
cách tốt, không được đào tạo chu đáo, thiếu lương tâm, không gương mẫu thì biện
pháp cũng chỉ là hình thức mà thôi.
Trong điều kiện hiện nay, dù cho các phương tiện kĩ thuật có hiện đại đến
đâu vẫn không thể thay thế được vai trò của người giáo viên. Vì vậy, giáo viên đóng
vai trò chủ đạo trong sự nghiệp phát triển văn hoá - giáo dục của đất nước.

91
5.2.2. Vai trò của nhà giáo trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo
Điều 66, Luật Giáo dục 2019 nêu rõ: “Nhà giáo có vai trò quyết định trong
việc bảo đảm chất lượng giáo dục, có vị thế quan trọng trong xã hội, được xã hội
tôn vinh.”
a. Vai trò người thiết kế
Người giáo viên nói chung và giáo viên tiểu học nói riêng là những người
thiết kế chương trình hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh. Căn cứ vào
mục đích, nội dung giáo dục và lôgic của quá trình sư phạm; trên cơ sở đặc điểm
tâm sinh lí của học sinh; dựa trên các khả năng và điều kiện cho phép, người giáo
viên phân tích mục tiêu giáo dục để thiết kế quá trình hình thành và phát triển nhân
cách cho học sinh. Người giáo viên thiết kế để hướng dẫn cho học sinh tích cực tự
thiết kế và tự giác thi công. Giáo viên chọn lựa nội dung giáo dục, xây dựng quy
trình hoạt động, sử dụng phối hợp các phương pháp giảng dạy, giáo dục, thiết kế
hoạt động chung của tập thể, đồng thời chú ý đến những trường hợp cá biệt của học
sinh.
b. Vai trò người tổ chức
Giáo viên là người chỉ đạo lớp học, tổ chức các hoạt động và giao lưu cho
học sinh trong quá trình giáo dục - dạy học, làm cho mỗi học sinh phát huy đầy đủ
năng lực và trách nhiệm, phát huy tính sáng tạo trong các hoạt động của mình, đồng
thời giáo viên cũng là người hướng dẫn quá trình tự giáo dục của học sinh. Giáo dục
học sinh là tổ chức các loại hình hoạt động phong phú và đa dạng; tổ chức các mối
quan hệ nhiều mặt của họ với người khác và xã hội, với thế giới xung quanh; là tổ
chức các dạng hoạt động và giao lưu giữa các học sinh với nhau và giữa học sinh
với những người khác.
c. Vai trò người lãnh đạo, chỉ huy, động viên, cổ vũ
Ngoài vai trò là người thiết kế, tổ chức, người giáo viên cũng lãnh đạo, chỉ
huy, điều khiển, điều chỉnh, khích lệ quá trình học tập và rèn luyện của học sinh.
Giáo viên giữ vai trò hướng dẫn, uốn nắn, điều chỉnh, động viên, nhắc nhở cho học
sinh chủ động hình thành và phát triển nhân cách.
d. Vai trò người đánh giá
Trên cơ sở những thông tin thu nhận được về quá trình học tập và rèn luyện
của học sinh, giáo viên thẩm định, đánh giá học lực và hạnh kiểm của học sinh.
Giáo viên là người trọng tài cho quá trình học tập và rèn luyện của tập thể học sinh.
Người giáo viên phải có đầy đủ năng lực, có trách nhiệm để chỉ ra cái hay, cái độc

92
đáo, đánh giá đúng những giá trị thật sự năng lực và phẩm chất nhân cách của học
sinh để từ đó tiếp tục hoàn thiện quá trình giáo dục.
5.2.3. Các chức năng cơ bản của người giáo viên
Chức năng cơ bản của người giáo viên là giảng dạy và giáo dục học sinh.
- Trong giảng dạy, người giáo viên không những truyền đạt thông tin, kiến
thức cho học sinh mà còn tổ chức, hướng dẫn, điều khiển quá trình nhận thức của
học sinh.
- Mặt khác, người giáo viên còn tổ chức cho học sinh các hoạt động giáo dục,
tạo điều kiện để học sinh có thể hình thành và phát triển những phẩm chất, năng lực
cần thiết cho việc lao động và sinh hoạt trong một xã hội đang không ngừng biến
đổi.
- Ngoài ra, người giáo viên còn nghiên cứu khoa học và tham gia nhiều hoạt
động xã hội khác phục vụ cho việc giảng dạy và giáo dục học sinh.
5.2.4. Nhiệm vụ và quyền của nhà giáo
5.2.4.1. Các căn cứ để xác định nhiệm vụ và quyền của nhà giáo
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước đã và đang đặt ra cho
ngành giáo dục và đào tạo nói chung, người giáo viên nói riêng những nhiệm vụ hết
sức khó khăn và nặng nề. Dạy học không chỉ đơn thuần là truyền thụ tri thức cho
học sinh mà thông qua việc dạy chữ để dạy người, làm cho người học trở thành
những người có nhân cách tốt.
Mặt khác, chức năng của người giáo viên cũng đã thay đổi. Trước kia chức
năng chủ yếu của người giáo viên là cung cấp cho người học hệ thống tri thức. Song
ngày nay người giáo viên không những phải tổ chức, hướng dẫn, điều khiển để
người học lĩnh hội hệ thống tri thức khoa học, phổ thông cơ bản, hiện đại, phù hợp
với thực tiễn Việt Nam, rèn luyện hệ thống kĩ năng, kĩ xảo tương ứng mà còn phải
hình thành cho người học sinh cơ sở của thế giới quan khoa học, các phẩm chất đạo
đức, phát triển năng lực tư duy sáng tạo.
5.2.4.2. Nhiệm vụ của nhà giáo
Điều 69, Luật Giáo dục 2019 nêu rõ:
1. Giảng dạy, giáo dục theo mục tiêu, nguyên lý giáo dục, thực hiện đầy đủ
và có chất lượng chương trình giáo dục.
2. Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, điều lệ nhà trường, quy tắc ứng
xử của nhà giáo.
3. Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo; tôn trọng, đối xử công
bằng với người học; bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của người học.

93
4. Học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ chính trị,
chuyên môn, nghiệp vụ, đổi mới phương pháp giảng dạy, nêu gương tốt cho người
học.
5.2.4.3. Quyền của nhà giáo
Điều 70, Luật Giáo dục 2019 nêu rõ:
1. Được giảng dạy theo chuyên môn đào tạo.
2. Được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp
vụ.
3. Được hợp đồng thỉnh giảng, nghiên cứu khoa học tại cơ sở giáo dục khác
hoặc cơ sở nghiên cứu khoa học.
4. Được tôn trọng, bảo vệ nhân phẩm, danh dự và thân thể.
5. Được nghỉ hè theo quy định của Chính phủ và các ngày nghỉ khác theo
quy định của pháp luật.
5.2.4.4. Nhiệm vụ cụ thể của giáo viên tiểu học
- Giáo viên làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục học sinh trong trường tiểu học
và cơ sở giáo dục khác thực hiện chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học.
Giáo viên có những nhiệm vụ sau:
+ Thực hiện chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học và kế hoạch giáo
dục của nhà trường. Chủ động thực hiện và chịu trách nhiệm về kế hoạch giáo dục;
tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ chuyên môn (nội dung, phương
pháp giáo dục, kiểm tra đánh giá học sinh) và chất lượng, hiệu quả giáo dục từng
học sinh của lớp mình phụ trách, bảo đảm quy định của chương trình giáo dục, phù
hợp với đối tượng học sinh và điều kiện cụ thể của nhà trường.
+ Tham gia xây dựng kế hoạch giáo dục của tổ chuyên môn và nhà trường;
thường xuyên cập nhật những chỉ đạo của ngành; chuẩn bị, tổ chức dạy học và đánh
giá học sinh theo quy định; thực hiện các hoạt động chuyên môn khác.
+ Xây dựng mối quan hệ thân thiện, dân chủ giữa giáo viên với học sinh, với
cha mẹ học sinh và cộng đồng; giúp học sinh chủ động, sáng tạo, tự tin, tự chủ trong
học tập và rèn luyện.
+ Giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo; ứng xử văn hóa, đoàn kết,
giúp đỡ đồng nghiệp; gương mẫu trước học sinh; thương yêu, đối xử công bằng và
tôn trọng học sinh; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của học sinh.
+ Thực hiện tự đánh giá theo chuẩn nghề nghiệp giáo viên; tự học, tự bồi
dưỡng nâng cao năng lực nghề nghiệp; thực hiện nhiệm vụ bồi dưỡng thường xuyên

94
giáo viên theo quy định; trao đổi chia sẻ chuyên môn cùng đồng nghiệp trong và
ngoài nhà trường thông qua các đợt sinh hoạt chuyên môn, tập huấn.
+ Ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, học tập và sinh hoạt
chuyên môn; sáng tạo, linh hoạt trong việc tự làm đồ dùng dạy học.
+ Tham gia lựa chọn sách giáo khoa theo quy định; đề nghị nhà trường trang
bị các xuất bản phẩm tham khảo, thiết bị dạy học theo quy định, phù hợp để sử dụng
trong quá trình dạy học.
+ Tham gia kiểm định chất lượng giáo dục.
+ Tham gia thực hiện giáo dục bắt buộc, phổ cập giáo dục và xóa mù chữ ở
địa phương.
+ Phối hợp với Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh, gia đình học sinh,
cộng đồng và các tổ chức xã hội liên quan để thực hiện nhiệm vụ giáo dục.
+ Quản lí, tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục tại điểm trường khi được hiệu
trưởng phân công.
+ Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật và theo sự phân
công của hiệu trưởng.
- Giáo viên làm công tác chủ nhiệm, ngoài các nhiệm vụ quy định tại khoản
1 của Điều này, còn có các nhiệm vụ sau đây:
+ Chủ động nắm bắt thông tin từng học sinh của lớp được phân công làm
công tác chủ nhiệm; xây dựng các hoạt động giáo dục của lớp thể hiện rõ mục tiêu,
nội dung, phương pháp giáo dục đảm bảo tính khả thi, phù hợp với đặc điểm học
sinh, với hoàn cảnh và điều kiện thực tế nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp và của
từng học sinh.
+ Thực hiện các hoạt động giáo dục theo kế hoạch đã xây dựng và được hiệu
trưởng phê duyệt.
+ Phối hợp chặt chẽ với cha mẹ học sinh hoặc người giám hộ, giáo viên, tổng
phụ trách Đội, các tổ chức xã hội có liên quan để tổ chức các hoạt động giáo dục và
hỗ trợ, giám sát việc học tập, rèn luyện của học sinh lớp mình chủ nhiệm; tổng hợp
nhận xét, đánh giá học sinh cuối kỳ I và cuối năm học; hướng dẫn học sinh bình bầu
và đề nghị khen thưởng; lập danh sách học sinh đề nghị ở lại lớp; hoàn chỉnh việc
ghi học bạ cho học sinh.
+ Báo cáo thường kì hoặc đột xuất về tình hình của lớp với hiệu trưởng.
- Giáo viên làm Tổng phụ trách Đội chịu trách nhiệm trước hiệu trưởng về
việc xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch hoạt động Đội thiếu niên tiền phong

95
Hồ Chí Minh và Sao Nhi đồng Hồ Chí Minh góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục
toàn diện học sinh.
5.3. Những tiêu chuẩn, yêu cầu đối với người giáo viên
5.3.1. Tiêu chuẩn của nhà giáo
Điều 67, Luật Giáo dục 2019 nêu rõ: Nhà giáo phải đáp ứng các tiêu chuẩn
sau đây:
1. Có phẩm chất, tư tưởng, đạo đức tốt;
2. Đáp ứng chuẩn nghề nghiệp theo vị trí việc làm;
3. Có kỹ năng cập nhật, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ;
4. Bảo đảm sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp.
5.3.2. Về phẩm chất chính trị
- Chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước; thi hành nhiệm vụ theo đúng quy định của pháp luật. Không
ngừng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ lý luận chính trị để vận dụng vào hoạt
động giảng dạy, giáo dục và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
- Có ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành nghiêm sự điều động, phân công của
tổ chức; có ý thức tập thể, phấn đấu vì lợi ích chung.
- Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, tích cực tham gia các hoạt động
chính trị, xã hội.
5.3.3. Về lối sống, tác phong
- Sống có lí tưởng, có mục đích, có ý chí vượt khó vươn lên, có tinh thần
phấn đấu liên tục với động cơ trong sáng và tư duy sáng tạo; thực hành cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
- Có lối sống hoà nhập với cộng đồng, phù hợp với bản sắc dân tộc và thích
ứng với sự tiến bộ của xã hội; biết ủng hộ, khuyến khích những biểu hiện của lối
sống văn minh, tiến bộ và phê phán những biểu hiện của lối sống lạc hậu, ích kỉ.
- Tác phong làm việc nhanh nhẹn, khẩn trương, khoa học; có thái độ văn
minh, lịch sự trong quan hệ xã hội, trong giao tiếp với đồng nghiệp, với người học;
giải quyết công việc khách quan, tận tình, chu đáo.
- Trang phục, trang sức khi thực hiện nhiệm vụ phải giản dị, gọn gàng, lịch
sự, phù hợp với nghề dạy học, không gây phản cảm và phân tán sự chú ý của người
học.
- Đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp cùng hoàn thành tốt nhiệm vụ; đấu tranh,
ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật và các quy định nghề nghiệp. Quan hệ,

96
ứng xử đúng mực, gần gũi với nhân dân, phụ huynh học sinh, đồng nghiệp và người
học; kiên quyết đấu tranh với các hành vi trái pháp luật.
- Xây dựng gia đình văn hoá, thương yêu, quý trọng lẫn nhau; biết quan tâm
đến những người xung quanh; thực hiện nếp sống văn hoá nơi công cộng.
5.3.4. Về giữ gìn, bảo vệ truyền thống đạo đức nhà giáo
- Không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện hành vi trái pháp luật, quy
chế, quy định; không gây khó khăn, phiền hà đối với người học và nhân dân.
- Không gian lận, thiếu trung thực trong học tập, nghiên cứu khoa học và
thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục.
- Không trù dập, chèn ép và có thái độ thiên vị, phân biệt đối xử, thành kiến
người học; không tiếp tay, bao che cho những hành vi tiêu cực trong giảng dạy, học
tập, rèn luyện của người học và đồng nghiệp.
- Không xâm phạm thân thể, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người học,
đồng nghiệp, người khác. Không làm ảnh hưởng đến công việc, sinh hoạt của đồng
nghiệp và người khác.
- Không tổ chức dạy thêm, học thêm trái với quy định.
- Không hút thuốc lá, uống rượu, bia trong công sở, trong trường học và nơi
không được phép hoặc khi thi hành nhiệm vụ giảng dạy và tham gia các hoạt động
giáo dục của nhà trường.
- Không sử dụng điện thoại di động và làm việc riêng trong các cuộc họp,
trong khi lên lớp, học tập, coi thi, chấm thi.
- Không gây bè phái, cục bộ địa phương, làm mất đoàn kết trong tập thể và
trong sinh hoạt tại cộng đồng.
- Không được sử dụng bục giảng làm nơi tuyên truyền, phổ biến những nội
dung trái với quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Không trốn tránh trách nhiệm, thoái thác nhiệm vụ, tự ý bỏ việc; không đi
muộn về sớm, bỏ giờ, bỏ buổi dạy, cắt xén, dồn ép chương trình, vi phạm quy chế
chuyên môn làm ảnh hưởng đến kỉ cương, nề nếp của nhà trường.
- Không tổ chức, tham gia các hoạt động liên quan đến tệ nạn xã hội như : cờ
bạc, mại dâm, ma tuý, mê tín, dị đoan; không sử dụng, lưu giữ, truyền bá văn hoá
phẩm đồi trụy, độc hại.
5.3.5. Yêu cầu về chuyên môn nghiệp vụ
- Đối với giáo viên mầm non: Có bằng tốt nghiệp cao đẳng sư phạm trở lên
đối với giáo viên mầm non.

97
- Đối với giáo viên tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông: Có bằng
cử nhân thuộc ngành đào tạo giáo viên trở lên.
Nếu môn học chưa đủ giáo viên có bằng cử nhân thuộc ngành đào tạo giáo
viên thì phải có bằng cử nhân chuyên ngành phù hợp và có chứng chỉ bồi dưỡng
nghiệp vụ sư phạm.
- Đối với giảng dạy trình độ đại học: Có bằng thạc sĩ.
- Đối với giảng dạy, hướng dẫn luận văn thạc sỹ, luận án tiến sĩ: Có bằng tiến

- Đối với trường hợp giảng dạy trong cơ sở giáo dục nghề nghiệp: Trình độ
chuẩn được đào tạo của nhà giáo tuân thủ quy định tại Luật Giáo dục nghề nghiệp.
5.4. Bồi dưỡng về phẩm chất và năng lực của người giáo viên hiện nay
Phẩm chất và năng lực là hai mặt thống nhất của cấu trúc nhân cách. Các
thành phần cốt lõi trong nhân cách của người giáo viên là phẩm chất đạo đức và
năng lực sư phạm.
Thứ nhất: Thế giới quan khoa học, niềm tin và lí tưởng sư phạm, đạo đức
cách mạng và trình độ văn hoá cao.
Thứ hai : Thái độ tích cực đối với hoạt động sư phạm, chí hướng và xu hướng
sư phạm. Đây là phẩm chất nghề nghiệp thiết yếu của người giáo viên.
Thứ ba : Năng lực sư phạm.
Thứ tư: Hệ thống tri thức, kĩ năng, kĩ xảo nghề sư phạm.
Bốn thành tố trên sẽ cùng với một số đặc điểm tâm lí đặc trưng của nhân cách
về mặt trí tuệ, tình cảm và ý chí liên quan mật thiết với nhau, tạo thành một tổng thể
thống nhất, phù hợp với những yêu cầu của hoạt động sư phạm.
Nghiệp vụ sư phạm trong cấu trúc nhân cách của người thầy giáo bao gồm
nghiệp vụ dạy học và giáo dục.
* Các nghiệp vụ dạy học bao gồm: Thiết kế; Lựa chọn tri thức; Phân loại,
phối hợp các phương pháp dạy học; Nắm vững đối tượng; Khả năng ngôn ngữ, diễn
đạt ý tưởng; Sử dụng các phương tiện dạy học; Tổ chức, quản lí, điều khiển học
sinh; Ứng xử nhanh, đúng các tình huống có vấn đề trong dạy học; Thuyết phục học
sinh; Kiểm tra đánh giá kết quả dạy học.
* Các nghiệp vụ giáo dục: Xây dựng kế hoạch; Tổ chức, chỉ đạo các hoạt
động giáo dục; Khả năng đối xử cá biệt; Điều chỉnh hoạt động giáo dục; Thuyết
phục, cảm hoá học sinh; Vận động, lôi cuốn, phối hợp giáo dục; Xây dựng tập thể
học sinh; Giao tiếp, ứng xử sư phạm.

98
Nghiệp vụ dạy học và giáo dục thống nhất biện chứng cùng với các yếu tố
khác trong nhân cách người thầy giáo.
Yêu cầu về mặt sức khoẻ: Giáo viên cần phải có sức khoẻ tốt thì mới có thể
hoàn thành tốt được nhiệm vụ của mình.
Trong giai đoạn hiện nay, người giáo viên cần có bảy nhóm năng lực cần
thiết để đáp ứng yêu cầu của người giáo viên:
Thứ nhất, giáo viên phải có năng lực tìm hiểu học sinh và môi trường giáo
dục để dạy học và giáo dục phù hợp. Theo đó, giáo viên phải biết sử dụng các
phương pháp thu thập, xử lý thông tin trong việc tìm hiểu cá nhân học sinh như: về
thể chất, tâm lí, đạo đức, quan hệ xã hội, khả năng học tập...
Ngoài ra, giáo viên phải tìm hiểu đặc điểm môi trường nhà trường, cộng đồng
và sử dụng kết quả tìm hiểu vào dạy học và giáo dục học sinh.
Thứ hai, giáo viên phải có năng lực giáo dục nhằm phát triển toàn diện nhân
cách học sinh. Cụ thể là: Biết thực hiện giáo dục qua giảng dạy môn học; biết tổ
chức và phát triển tập thể lớp trở thành một tập thể lành mạnh, đoàn kết giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ;
Có phương pháp và kĩ năng tổ chức các hoạt động giáo dục trải nghiệm; giáo
dục học sinh cá biệt; có phương pháp và kĩ năng đánh giá kết quả rèn luyện đạo đức
của học sinh; có kĩ năng tư vấn và tham vấn cho học sinh và cha mẹ học sinh về các
vấn đề liên quan đến học tập và rèn luyện đạo đức của các em.
Thứ ba, giáo viên phải có năng lực dạy học môn học trong chương trình giáo
dục. Cụ thể là: Nắm vững kiến thức, kĩ năng về môn học được phân công dạy; biết
lập các loại kế hoạch dạy học;
Biết vận dụng các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học hợp lí theo hướng
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo ở học sinh thực hiện phân hóa, cá nhân
hóa và rèn luyện kĩ năng học tập cho các em; sử dụng hiệu quả thiết bị dạy học, đặc
biệt là công nghệ thông tin và truyền thông; có kiến thức, kĩ năng về kiểm tra, đánh
giá kết quả học tập của học sinh...
Thứ tư, giáo viên phải có năng lực giao tiếp để thực hiện tốt nhiệm vụ dạy
học và giáo dục. Cụ thể là: Biết giao tiếp với học sinh, phụ huynh, với đồng nghiệp
và với cộng đồng: cởi mở, thân thiện, gây được niềm tin với đối tượng giao tiếp,
biết lắng nghe kiềm chế bản thân, biết thuyết phục người khác…
Thứ năm, giáo viên phải có năng lực đánh giá trong giáo dục. Cụ thể là: Có
kĩ năng thiết kế các công cụ đánh giá kết quả giáo dục thể hiện ở mức độ đạt được
các năng lực cần hình thành và phát triển ở học sinh;

99
Bết cách thu thập thông tin từ nhiều nguồn bảo đảm khách quan, chính xác về
học sinh; biết sử dụng hợp lí kết quả đánh giá định tính và định lượng vào quá trình
dạy học, giáo dục học sinh; có kĩ năng sử dụng các phần mềm hỗ trợ đánh giá.
Thứ sáu, giáo viên phải có năng lực hoạt động xã hội. Biết cách tuyên truyền,
vận động những người xung quanh tham gia vào các hoạt động phát triển cộng
đồng, xây dựng môi trường văn hóa - xã hội bằng hiều hình thức, phương pháp khác
nhau; biết chủ trì tổ chức hoạt động xã hội.
Thứ bảy, giáo viên phải có năng lực phát triển nghề nghiệp. Biết xây dựng kế
hoạch tự học, tự bồi dưỡng phù hợp cho từng giai đoạn và có phương pháp, kĩ năng
tự học; biết phát hiện vấn đề nẩy sinh trong thực tiễn giáo dục và thiết kế đề tài
nghiên cứu giải pháp giải quyết.
Bảy nhóm năng lực trên cấu thành phẩm chất nghề nghiệp của người giáo
viên trong nhà trường phổ thông hiện đại.
Quá trình hình thành và phát triển nhân cách của giáo viên là quá trình lâu
dài, khó khăn và phức tạp. Để xứng đáng là thầy giáo thì cần phải tự học và rèn
luyện liên tục.
Quá trình đào tạo ở trường sư phạm mới chỉ mang lại cho sinh viên những
kiến thức và kĩ năng tối thiểu để dạy học và giáo dục. Muốn trở thành một thầy giáo
giỏi thì phải vừa công tác vừa rút kinh nghiệm, nghiên cứu khoa học giáo dục, học
tập đồng nghiệp và luôn luôn kiểm tra đánh giá bản thân nhằm không ngừng điều
chỉnh và hoàn thiện nhân cách sư phạm.
Thế hệ trẻ ngày một khác, yêu cầu mới xuất hiện ngày càng nhiều và đòi hỏi
cao, năm nay khác với năm trước, thì người giáo viên cũng phải không ngừng học
tập, thay đổi bản thân cho phù hợp với yêu cầu mới.
Quá trình hình thành và phát triển nhân cách của người giáo viên:
- Quá trình học tập và rèn luyện ở trường phổ thông với sự tiếp xúc, quan hệ
trong môi trường nhà trường đã hình thành nên những phẩm chất và khả năng ban
đầu của người sinh viên sư phạm trong tương lai.
- Quá trình học tập, nghiên cứu, phấn đấu, rèn luyện theo mục tiêu và chương
trình đào tạo người giáo viên ở các trường sư phạm.
+ Học các học phần chung với định hướng và làm cơ sở cho các học phần
chuyên ngành sư phạm.
+ Nghiên cứu các học phần chuyên ngành sư phạm cơ bản và nâng cao.
+ Định hướng và rèn luyện nghiệp vụ sư phạm.
+ Học tập kinh nghiệm giảng dạy của các giảng viên.

100
+ Thực hiện các học phần thực tế và thực tập sư phạm.
+ Tham gia các hoạt động Đoàn, Hội và các hoạt động xã hội khác gắn với
định hướng nghề sư phạm.
- Quá trình công tác giảng dạy, giáo dục
+ Luôn luôn rút kinh nghiệm nghề nghiệp.
+ Tích cực rèn luyện hoàn thiện nghiệp vụ sư phạm.
+ Tích cực tự học và tham gia các lớp bồi dưỡng giáo viên.
+ Sinh hoạt chuyên môn, dự giờ, trao đổi với đồng nghiệp.
+ Tổ chức các hoạt động dạy học, giáo dục và các hoạt động khác ở trên lớp
và ngoài giờ lên lớp.

101
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 5

1. Hãy phân tích vị trí, vai trò của nhà giáo?


2. Trình bày nhiệm vụ của nhà giáo, liên hệ thực tế việc thực thi các nhiệm
vụ của nhà giaó hiện nay?
3. Phân tích các đặc đểm lao động của nhà giáo?
4. Những yêu cầu đối với nhà giáo, phương hướng phấn đấu trở thành nhà
giáo trong tương lai của bản thân?
5. Hãy trình bày hiểu biết của bạn về:
- Trình độ chuẩn của giáo viên tiểu học
- Quyền và nghĩa vụ của giáo viên tiểu học
- Những điều nhà giáo không được làm

CHỦ ĐỀ THẢO LUẬN

1. Phương hướng tự bồi dưỡng phẩm chất và năng lực của người giáo viên
hiện nay.
2. Vấn đề đào tạo nhà giáo trong các trường sư phạm hiện nay.

102

You might also like