Professional Documents
Culture Documents
CHÚA LƯU ĐÀY ISRAEL ĐẾN ASIRI
CHÚA LƯU ĐÀY ISRAEL ĐẾN ASIRI
–
Tuyển dân đã phạm tội quá sâu,
Chúa lưu đày đi cả địa cầu,
Mười chín bốn tám họ lập quốc,
Chấm dứt án lưu đày nhiệm mầu.
–
Exe 4:4-6- Kế đó, ngươi khá nằm nghiêng mình bên tả, và để tội lỗi nhà Y-sơ-ra-ên
tại đó. Ngươi nằm như vậy bao nhiêu ngày, thì mang lấy tội lỗi chúng nó cũng bấy
nhiêu. Vì ta đã định cho ngươi một số ngày bằng với số năm của tội lỗi chúng nó,
là ba trăm chín mươi ngày, ngươi sẽ mang lấy tội lỗi nhà Y-sơ-ra-ên như vậy. Vả
lại, khi những ngày ấy đã mãn, ngươi khá nằm nghiêng mình bên hữu, và mang lấy
tội lỗi của nhà Giu-đa, trải bốn mươi ngày ta định cho ngươi mỗi một ngày thay vì
một năm.
Phục 28:64–và Đức Giê-hô-va sẽ tản lạc ngươi trong các dân, từ cuối đầu nầy của
đất đến cuối đầu kia; tại đó, ngươi sẽ hầu việc các thần khác bằng cây và bằng đá
mà ngươi cùng tổ phụ ngươi không hề biết.
Lê 26: 18,21,23-24, 27-28– Nếu đến đỗi vậy mà các ngươi không khứng nghe ta, ta
sẽ vì cớ tội phạm, thêm gấp bảy lần đặng sửa phạt các ngươi
–
Vì sau khi vào đất hứa dân Israel không giữ năm sa bát là cho đất nghỉ một năm
sau 6 năm canh tác, và họ cũng đã phạm tội thờ hình tượng nên Chúa hình phạt
Israel bằng cách cho lưu đày đi:
–
1.Lưu Đày Đến Asiri (Iraq)_
Ép ra im hay bắc quốc Israel vong quốc vào năm 721TC. Và cả 10 chi phái bị lưu
đày sang Asiri.- 2 Vua 17:6–Đoạn, vua A-si-ri đi lên xâm chiếm cả xứ, đến vây Sa-
ma-ri trong ba năm. Năm thứ chín đời Ô-sê, vua A-si-ri hãm lấy Sa-ma-ri, đem
dân Y-sơ-ra-ên sang qua A-si-ri, lập họ ở tại Cha-la và trên bờ Cha-bo, sông của
Gô-xan, cùng trong các thành nước Mê-đi. 10 chi phái nầy đi khắp địa cầu, mãi
năm 1948 có một thiểu số hồi hương.
–
2.Lưu Đày Đến Babylon— (606-536 T.C).==70 năm
Nam quốc Giu đa bị vua Nê bu cát nết Sa, của Babylon ba lần bắt dân di lưu đày.
– Lần 1 vào năm 606 TC., có Đa niên ên và nhiều người thuộc nhà quyền quý.
– Lần 2 vào triều vua Giê hô gia kin, có tiên tri Ê xê chi ên và thợ thuyền, công
nhân…
– Lần 3 vào- năm thứ 11 triều vua cuối cùng là Sê đê kia. Quân Babylon phá thành
Gierusalem và đền thờ.
Kể từ năm 606 TC. đến năm đại đế Ba tư là Siru lên ngôi (536TC) cuộc lưu đày
Giu Đa tại Babylơn chấm dứt.
Dân Israel, chủ yếu là người Giu đa (Do thái), Lê vi, thầy tế lễ, số lượng khoảng
50 ngàn người đã trở về Israel xây lại đền thờ và thành thánh. Dân hồi hương nầy
tồn tại mãi đến thời Tân ước, để sinh ra Chúa Jesus. Rồi vào năm 70 SC. Họ lại bị
lưu đày lần nữa vì ho đã giết Đấng Mê-si. Đền thờ và thành thánh cũng bị tiêu hủy
lần thứ hai.
–
3. Lưu Đày Đến Thế Giới–
Phục 28:64 nói dân israel đã bị đày khắp thế giới. như 10 chi phái Israel không
hồi hương vào năm 536 T.C, họ đã lưu lạc luôn. Rồi vào năm 70 S.C., dân Giu Đa
đã đóng đinh Chúa Jesus nên cũng bị lưu đày nốt.
Tôi biết có một người Do thái làm giám đốc ngân hàng tư nhân tại Saigon trước
năm 1975. Rõ là họ đã lưu lạc đến mọi quốc gia trên cả địa cầu nầy.
–
Theo Exechien 4, chúng ta thấy Chúa phải phạt Israel 390 năm và Giu đa 40 năm,
tổng cộng là 430 năm. Dân Giu đa đã bị lưu đày sang Babyon 70 năm- Giê rê mi
25:11 chép- Cả đất nầy sẽ trở nên hoang vu gở lạ, các nước nầy sẽ phục sự vua
Ba-by-lôn trong bảy mươi năm.
Như vậy lấy 430 năm trừ đi 70 năm, thì Israel còn phải bị án phạt lưu dày 360 năm
nữa mới đủ hạn.
–
Rồi theo Lê vi ký 26:18, 21, 24, 28, Chúa 4 lần nói: vì họ không ăn năn ở xứ người
đang khi sống lưu đày, nên Chúa phạt họ gấp 7 lần nữa.
Như vậy 360 năm x 7= 2520 năm theo kinh thánh.
Vì Năm Kinh thánh là 360 ngày một năm, mà năm dương lịch là 365 ngàyy ¼ một
năm.. Như vậy 2520 năm của Kinh thánh đổi thành 2483 năm của dương lịch quốc
tế.
–
Họ đã hồi hương sau khi lãnh hình phạt 70 năm vào năm 536 TC..
Nay chúng ta lấy năm 536 TC làm mốc, và cộng thêm 1948 bằng 2484. Lấy 2484 –
1 = 2483 ( vì năm Chúa sinh ra là ở giữa trước Chúa ( BC) và sau Chúa
( AD).).Chúng
ta sẽ có con số 1948. Đó là năm Israel tái lập quốc tại đất tổ, vào ngày 14/5.
–
Kết luận
Sau hơn 25 thế kỷ lãnh án phạt nặng nề của Đức Chúa Trời, theo nguyên tắc tổng
quát, Israel đã mản hạn án lưu đày vì tội lỗi của dân tộc mình.
Trong cơn đại nạn dân Israel còn sót lại chưa tiếp nhận Cứu Chúa Jesus, Đức Chúa
Trời sẽ có phương cách cứu họ nhưng dường như qua lửa và làm thành lời hứa đối
với tuyển dân của Ngài.
Bị bắt làm phu tù hay lưu đày sang Ba-by-lôn ý chỉ về một giai đoạn lịch sử của
nước Y-sơ-ra-ên khi người Giu-đa bị vua Nê-bu-cát-nết-sa II bắt làm phu tù dẫn về
Ba-by-lôn. Đây là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong Kinh Thánh bởi vì cả
cuộc lưu đày lẫn trở về và phục hồi của vương quốc Giu-đa chính là sự ứng
nghiệm những lời tiên tri của Cựu Ước.
Đức Chúa Trời dùng Ba-by-lôn như một công cụ để đoán phạt dân Y-sơ-ra-ên vì
tội lỗi của họ, là thờ hình tượng và chống nghịch lại chính Ngài. Thực chất trong
thời kỳ này (607 - 586 TC), người Giu-đa bị bắt giải về Ba-by-lôn theo nhiều đợt.
Với mỗi người kế vị Giu-đa nổi lên chống lại quyền cai trị của người Ba-by-lôn,
vua Nê-bu-cát-nết-sa sẽ dẫn một đạo binh để tiến đánh nước này cho đến khi đã
chiếm được thành Giê-ru-sa-lem sau khoảng thời gian một năm, giết hại rất nhiều
người và hủy phá đền thờ, bắt phu tù hàng ngàn người Giu-đa và để lại Giê-ru-sa-
lem một đống đổ nát.
Như Kinh Thánh đã tiên báo, dân Giu-đa sẽ không được phép trở về Giê-ru-sa-lem
cho tới khi kết thúc 70 năm lưu đày. Lời tiên tri ấy được ứng nghiệm vào năm 537
TC, khi người Giu-đa được vua Si-ru của Ba Tư cho trở về Y-sơ-ra-ên và bắt đầu
xây dựng lại thành phố và đền thờ. Cuộc hồi hương này dưới sự dẫn dắt của E-xơ-
ra đã dấy lên một cuộc phấn hưng giữa vòng người Giu-đa và cuộc tái thiết đền
thờ.
Dưới sự cai trị của vua Nê-bu-cát-nết-sa II, đế quốc Ba-by-lôn bành trướng khắp
khu vực Trung Đông và khoảng năm 607 TC, vua Giê-hô-gia-kim của Giu-đa đã
buộc phải quy hàng, biến mình thành chư hầu cho Nê-bu-cát-nết-sa (II Các Vua
24:1). Chính trong thời điểm đó Nê-bu-cát-nết-sa đã bắt lấy nhiều người trai trẻ tốt
tươi và thông sáng của mỗi thành trong nước Giu-đa, trong đó có Đa-ni-ên, Ha-na-
nia (Sa-đơ-rắc), Mi-sa-ên (Mê-sác) và A-xa-ria (A-bết-nê-gô). Sau 3 năm phục
dưới quyền Nê-bu-cát-nết-sa, vua Giê-hô-gia-kim của Giu-đa dấy lên nghịch cùng
Ba-by-lôn và một lần nữa hướng về Ai Cập để cầu viện. Sau khi gửi quân đội đến
trấn áp cuộc nổi dậy của Giu-đa, đích thân Nê-bu-cát-nết-sa rời Ba-by-lôn vào năm
598 TC để giải quyết vấn đề.
Vào khoảng tháng ba năm 597 TC, Nê-bu-cát-nết-sa đến được Giê-ru-sa-lem và
chiếm lấy thành, nắm quyền kiểm soát khu vực ấy, trấn lột của cải và bắt Giê-hô-
gia-kin, con trai của Giê-hô-gia-kim, cùng cả dòng vua, và hầu hết dân cư của Giu-
đa đem về Ba-by-lôn, chỉ chừa lại những người nghèo khổ nhất trong xứ (II Các
Vua 24:8-16).
Thời điểm đó Nê-bu-cát-nết-sa phong cho Sê-đê-kia làm vua thay mặt ông cai trị
Giu-đa, nhưng sau 9 năm, Sê-đê-kia - có lẽ vẫn chưa học được bài học trong quá
khứ - đã dẫn quân Giu-đa nổi loạn cùng người Ba-by-lôn một lần cuối cùng (II Các
Vua 24-25). Bị tác động bởi những lời tiên tri giả dối và phớt lờ sự cảnh báo của
tiên tri Giê-rê-mi, Sê-đê-kia quyết định liên quân cùng Ê-đôm, Mô-áp, Am-môn và
Phê-ni-xi để chống lại Nê-bu-cát-nết-sa (Giê-rê-mi 27:1-15). Hậu quả là Nê-bu-
cát-nết-sa một lần nữa tấn công thành Giê-ru-sa-lem. Giê-ru-sa-lem thất thủ vào
tháng bảy năm 587 hoặc 586 TC, và Sê-đê-kia bị bắt làm phu tù giải về Ba-by-lôn
sau khi phải tận mắt chứng kiến các con trai mình bị giết, sau đó ông bị móc mắt
(II Các Vua 25). Tại thời điểm này, Giê-ru-sa-lem bị bỏ hoang, đền thờ bị hủy phá
và tất cả nhà cửa bị thiêu rụi. Phần lớn dân Giu-đa bị bắt làm phu tù, nhưng một
lần nữa, Nê-bu-cát-nết-sa vẫn giữ lại những người nghèo để phục dịch như nông
dân hay người làm vườn nho (II Các Vua 25:12).
Sách II Sử Ký và II Các Vua đề cập đến hầu hết giai đoạn dẫn tới sự sụp đổ của cả
Vương quốc phía bắc và Giu-đa. Chúng cũng nhắc đến sự hủy phá thành Giê-ru-
sa-lem của vua Nê-bu-cát-nết-sa và thời kỳ đầu tiên của cuộc lưu đày sang Ba-by-
lôn. Giê-rê-mi là một trong các tiên tri của giai đoạn trước sự sụp đổ của Giê-ru-sa-
lem, và Ê-xê-chi-ên cùng Đa-ni-ên được viết trong thời kỳ dân Giu-đa đang bị lưu
đày. E-xơ-ra viết về sự trở về của người Giu-đa sau 70 năm như Đức Chúa Trời đã
phán hứa qua tiên tri Giê-rê-mi và Ê-sai. Sách Nê-hê-mi cũng viết về sự trở về và
tái thiết Giê-ru-sa-lem sau khi thời kỳ lưu đày kết thúc.
Cuộc lưu đày sang Ba-by-lôn có một tác động quan trọng với quốc gia Y-sơ-ra-ên
sau khi họ trở về quê hương - đó là họ không bao giờ bại hoại bởi tội thờ hình
tượng và các thần giả mạo của các dân tộc xung quanh nữa. Một cuộc phục hưng
giữa vòng người Giu-đa đã diễn ra sau khi họ được trở về Y-sơ-ra-ên và xây dựng
lại đền thờ. Chúng ta thấy những điều này được ghi chép trong sách E-xơ-ra và Nê-
hê-mi, khi dân tộc này một lần nữa trở về với Đức Chúa Trời, Đấng giải cứu họ
khỏi kè thù nghịch mình.
Cũng như Đức Chúa Trời đã hứa qua tiên tri Giê-rê-mi, Đức Chúa Trời đã đoán
phạt dân Ba-by-lôn vì tội lỗi của họ, và Đế quốc Ba-by-lôn sụp đổ dưới tay quân
đội Ba Tư và năm 539 TC. Sự kiện này một lần nữa chứng mình những lời hứa của
Đức Chúa Trời là chân thật.
Thời kỳ 70 năm lưu đày tại Ba-by-lôn là một phần quan trọng trong lịch sử Y-sơ-
ra-ên, và Cơ Đốc Nhân nên làm quen với kiến thức này. Như nhiều sự kiện khác
trong Cựu Ước, biến cố lịch sử này bày tỏ sự thành tín của Đức Chúa Trời đối với
dân sự của Ngài, sự đoán phạt của Ngài đối với tội lỗi, và sự chắc chắn trong các
lời hứa của Ngài.
I/. BỐI CẢNH: Học sách II Các Vua chúng ta phải am tường những nước làm
bối cảnh cho sách lịch sử nầy. Nước Sy-ri: Lần đầu tiên xuất hiện tên nước
Sy-ri trong II Samuên 8:5. Nhưng trong sách II Các Vua, sau khi nước Y-sơ-
ra-ên bị suy yếu vì chia rẽ, thì nước Sy-ri có liên hệ nhiều.
-------------------
TÊN
SỰ KIỆN
SÁCH
I Samuên Trung gian giữa chế độ thần quyền
và quân chủ với 3 nhân vật:
Samuên, Sau-lơ, Đa-vít.
Triều đại của vua Đa-vít với sự đắc
II Samuên
thắng và thất bại của Đa-vít.
Sách của sự phân rẽ với 40 năm cai
I Các Vua trị của Salômôn, và 80 năm đầu của
hai nước sau khi chia rẽ
Sách của sự lưu đày: Y-sơ-ra-ên bị
II Các Vua đày qua A-si-ri (17) và Giu-đa bị
đày qua Ba-by-lôn (25).
Đọc sách II Vua, chúng ta nhớ đến lời của Sứ đồ Phaolô trong Rôma 6:23, tội lỗi
của hai nước đều được tiền công là bị lưu đày.
III/. BỐ CỤC:
Đề mục; TỘI LỖI
Câu gốc: 17:20
A/. Cảnh cáo tội lỗi – 1:1 – 8:15
1. Lời cảnh cáo của Tiên tri Ê-li – 1:1 – 2:12
2. Lời cảnh cáo của Tiên tri Ê-li-sê – 2:13 – 8:15
Trong thời kỳ nầy, chúng ta thấy Đức Chúa Trời dấy lên hai Tiên tri lớn, làm rất
nhiều phép lạ, giảng dạy để cảnh tỉnh dân Chúa. Đây là một thời kỳ có nhiều phép
lạ được Đức Chúa Trời thi hành nhiều hơn hết.
B/. Hậu quả của tội lỗi – 8:16 – 17:41
1. Rối loạn trong dân Y-sơ-ra-ên – 8:16 – 16:20
2. Thành Sa-ma-ri sụp đổ – 17:1-41
Những đoạn nầy ghi lại sự thay đổi ngôi vua, cuộc sống sa đọa của các vua nước
Y-sơ-ra-ên phía bắc.
Chỉ với 9 đoạn sách ngắn ghi chép lại lịch sử hơn 120 năm lịch sử của Y-sơ-ra-ên
phía bắc, trong khi đời vua Đa-vít và Salômôn được dành những đoạn dài.
C/. Tác động của tội lỗi – 18 – 25
1. Từ tốt qua xấu – 18 -29
2. Mất sự thánh khiết – 24 - 25
Tội lỗi của Y-sơ-ra-ên phía bắc đã lôi cuốn Giu-đa phía nam, khiến Giu-đa từ một
Ê-xê-chia tốt lành đến Manase, Am-môn gian ác. Từ Giô-sia tốt đến Giô-a-cha,
Giê-hô-gia-kim ác.
Cuối cùng tội lỗi đã khiến cho Đền thánh bị đốt, Thành thánh bị mất, Dân thánh bị
lưu đày.
Chúng ta thấy sách II Các Vua ghi lại việc Đức Chúa Trời phạt rất nặng đối với tội
lỗi, không phải vì Ngài thiếu nhân từ, trái lại, Chúa rất nhân từ dấy lên nhiều tiên
tri nhất trong các thời kỳ để cảnh cáo dân Chúa.
Y-SƠ-RA-ÊN: Giô-na, A-mốt, Ô-sê.
GIU-ĐA: Áp-đia, Giô-ên, Ê-sai, Mi-chê, Na-hum, Ha-ba-cúc, Giê-rê-mi,…
Tiếc thay từ vua đến dân không ai chịu hạ mình ăn năn.
IV/. NHÂN VẬT ĐÁNG NHỚ:
1. Niên hiệu các vua Giu-đa và Y-sơ-ra-ên: (So sánh hai vương quốc).
GIU-ĐA Y-SƠ-RA-ÊN
Rô-bô-am 17 năm Giê-rô-bô-am 22 năm
A-bi-giam 3 năm Na-đáp 2 năm
Ba-ê-sa 24 năm
Ê-la 2 năm
A-sa 41 năm
Xim-ri 1 tuần
Ôm-ri 12 năm
A-háp 22 năm
Giô-sa-phát 25 năm A-cha-xia 2 năm
Giô-ram 12 năm
Giô-ram 8 năm
A-cha-xia 1 năm
Giê-hu 28 năm
Athali (Thái
6 năm
hậu)
Giô-ách 40 năm Giô-a-cha 17 năm
A-ma-xia 29 năm Giô-ách 16 năm
Giê-rô-bô-am
44 năm
II
Không có vua 12 năm
A-xa-ria Xa-cha-ri 6 tháng
52 năm
(Ôxia)
Sa-lim 1 tháng
Mê-na-hem 10 năm
Phê-ca-hia 2 năm
Giô-tham 16 năm Phê-ca 20 năm
Ô-sê 9 năm
A-cha 16 năm Kế thúc vào năm 721
TC
Ê-xê-chia 29 năm
Ma-na-se 55 năm
A-môn 2 năm
Giô-si-a 31 năm
Giô-a-cha 3 tháng
Giê-hô-gia-
11 năm
kim
Giê-hô-gia-
3 tháng
kin
Sê-đê-kia 11 năm
Kế thúc vào 586 TC
---------------------
------------------
Vào năm 597 và 587 TCN, một số cư dân của Giu-đa đã bị buộc phải lưu lưu
sang Ba-by-lôn.
Chia sẻ
Chia sẻ trên facebook
Chia sẽ trên Twitter
Tái thiết Cổng Ishtar
Sự xuất hiện từ Je-ru-sa-lem vào năm 597 TCN được ghi lại trong Kinh
Thánh Hê-bơ-rơ (2 Các Vua 24:8–12) cũng như trong Biên niên sử
Babylon.
Bằng chứng về người Ba-by-lôn chinh phục Giê-ru-sa-lem vào năm 587
TCN được tìm thấy trong Văn Thư Lachish. Những văn kiện giải quyết về
đồ gốm này có niên đại từ thời kỳ trước khi chính phục Gier-ru-sa-
lem. Những lá thư được viết bởi vị tướng quân chỉ huy tại Lachish bày tỏ
nỗi sợ hãi của ông ta về quân thù nghịch mình.
Bằng chứng khảo cổ học cho biết rằng vùng đất Giu-đa đã có cư dân
trong thời lưu lưu Ba-by-lôn.
Một số câu chuyện trong Kinh Thánh được lồng trong bối cảnh lưu đày (Ê-
xê-chiên, Đa-ni-ên).
Chuyến khai kho tài liệu cổ tại vùng Lưỡng Hà đã tiết lộ dấu vết của
những người Giu-đa bị lưu lại ở Ba-by-lôn.
Số phận của vương quốc Giu-đa là chủ đề trọng tâm của Kinh thánh tiếng Do
Thái. Theo những câu chuyện trong Kinh thánh, các vị vua Judean cai trị từ thời
David, khoảng năm 1000 trước Công nguyên, cho đến năm 586 trước Công
nguyên, khi người Tân Babylon phá hủy Judah, thủ đô Jerusalem và đền thờ,
đồng thời cưỡng bức tái định cư hầu hết người Judea ở Babylon. Mặc dù vương
quốc Giu-đa đã biến mất, các thầy thông giáo và thầy thông giáo người Giu-đa
vẫn bảo tồn và phát triển những truyền thống tôn giáo và văn học nổi bật nhất
trong Kinh thánh trong và sau thời kỳ lưu đày ở Babylon. Khi vua Ba Tư Cyrus
chinh phục người Tân Babylon vào năm 539 trước Công nguyên, ông đã bảo
đảm vùng ngoại vi của đế chế của mình bằng cách cho phép thần dân mới của
mình trở về quê hương. Mặc dù một số người Giu-đa ở lại Lưỡng Hà, nhưng
những người trở về đã xây dựng lại Giê-ru-sa-lem, đền thờ và xã hội Giu-đa.
Tình trạng của vương quốc Giu-đa trong thế giới cổ đại là gì?
Vương quốc Giu-đa có một di sản to lớn, mặc dù có quy mô nhỏ và tương đối
không quan trọng trên sân khấu chính trị Cận Đông cổ đại. Chính những người
ghi chép ở Giu-đa là người đã biên soạn phần lớn nội dung của Kinh thánh tiếng
Do Thái. Kinh thánh mà chúng ta biết ngày nay là sự thể hiện của một số thần
học Giu-đê chọn lọc bắt nguồn từ một thời gian và địa điểm cụ thể nhưng hiện
nay tác động của nó mang tính toàn cầu.
Khoảng năm 1150 TCN, các nền văn minh lớn ở Lưỡng Hà, Ai Cập và Anatolia
sụp đổ, để lại khoảng trống quyền lực ở Canaan. Các vương quốc Judah ở phía
nam và Israel ở phía bắc nổi lên trong khoảng trống quyền lực này, cùng với
Ammon, Moab, Edom, Aram-Damascus, và các thành bang Philistine và
Phoenician, giữa thế kỷ 10 và 8 TCN Khi Ai Cập, Assyria, và Babylonia được
phục hồi, lãnh thổ của Judah và các nước láng giềng trở thành vùng đệm chính
trị, chịu sự chi phối của các đế quốc này. Bối cảnh địa chính trị này đã định hình
triệt để những câu chuyện trong Kinh thánh.
Vương quốc Giu-đa trở thành chư hầu của các vị vua Tân Assyria và sau này là
các vị vua Tân Babylon, có nghĩa là các vị vua Giu-đa phải cống nạp và vẫn
trung thành với họ. Trong các tài liệu Tân Assyrian và Tân Babylon, Judah không
phải là ngoại lệ. Vào năm 728 trước Công nguyên, vị vua Tân Assyria Tiglath-
Pileser III đã đề cập đến Giu-đa trong số các vương quốc bị chinh phục khác đã
trả cho ông ta kho báu, hàng hóa và gia súc (Bản tóm tắt 7; xem 2Kss 16). Vào
năm 701 TCN, vua Tân Assyria là Sennacherib đã cướp phá các thị trấn của
Giu-đa, bao vây Giê-ru-sa-lem và lấy đi của cải khổng lồ từ vua Giu-đa là
Hezekiah (Rassam Trụ; xem 2 Các vua 18:13-19:37, Ê-sai 36-37, 2 Sử ký 32:1-
23). Mặc dù chúng ta không có tài liệu nào còn sót lại của người Babylon về việc
Nê-bu-cát-nết-sa hủy diệt Giu-đa, nhưng các tài liệu trong Kinh thánh, bao gồm
cả những lời than thở đau lòng về Giê-ru-sa-lem, cho thấy rằng ông đã dễ dàng
dập tắt cuộc nổi loạn của Giu-đa (2 Các vua 24-25, Thi thiên 79). Bất chấp sự
miêu tả trong Kinh thánh về việc Sa-lô-môn nhận cống nạp từ các vị vua láng
giềng và cai trị một vương quốc trải dài từ sông Euphrates ở Lưỡng Hà đến biên
giới Ai Cập (1V 4:21), thực tế khác xa với lý tưởng đó: chính các vị vua láng
giềng đã thống trị và chinh phục Giu-đa.
Tình trạng của vương quốc Giu-đa quyết định thần học trong Kinh thánh
như thế nào?
Nhiều người đọc Kinh thánh tiếng Do Thái như một cuốn sách phổ quát, vượt
thời gian. Tuy nhiên, các tác giả của nó chủ yếu quan tâm đến số phận của Giu-
đa, đặc biệt là Giê-ru-sa-lem và các vị vua Đa-vít cai trị từ đó. Các thầy thông
giáo Giu-đa đưa ra những lời tuyên bố về số phận của vương quốc Giu-đa trong
những câu chuyện về 12 chi phái chiếm được đất cũng như sự thành lập Y-sơ-
ra-ên và Giu-đa (ví dụ, Lê-vi Ký 26:39-45; Phục truyền Luật lệ ký 4:25-31; Giô-
suê 23 :16; 1V 9:7). Họ liên kết sự ổn định của vương quốc với các giao ước của
Đức Giê-hô-va với Đa-vít và dân Y-sơ-ra-ên: Con cháu của Đa-vít sẽ luôn cai trị,
Giê-ru-sa-lem sẽ luôn đứng vững và dân Y-sơ-ra-ên sẽ sở hữu đất hứa. Các tác
giả người Judea đã củng cố những ý tưởng này khi họ phản ứng trước sự tàn
phá của vương quốc Israel ở phía bắc vào năm 722 trước Công nguyên.
Trong lịch sử, người Tân Assyria đã phá hủy vương quốc phía bắc vì lý do chính
trị: Y-sơ-ra-ên từ chối cống nạp trong khi Giu-đa thì không (2 Các vua 17:4-6, 2
Các vua 18:9-13). Các thầy thông giáo xứ Giu-đa giải thích sự sụp đổ của Y-sơ-
ra-ên và sự sống sót của chính họ bằng cách phát triển những lời giải thích thần
học nhằm khẳng định tính hợp pháp của Giu-đa (2 Các Vua 17:7-18). Họ miêu tả
các vị vua và người dân Israel một cách tiêu cực, biện minh cho sự sụp đổ của
Israel và coi thảm họa chính trị là bài học cho các vị vua và người dân Judean.
Các tác giả người Judean phải đối mặt với cuộc khủng hoảng của riêng họ vào
năm 586 TCN, khi người Tân Babylon tàn phá Giu-đa. Họ xin lỗi về thảm họa
này bằng cách đổ lỗi cho người dân Giu-đa, các vị vua, thầy tế lễ và các nhà tiên
tri, cáo buộc họ đã vi phạm giao ước với Đức Giê-hô-va. Giê-rê-mi 21:3-6 mô tả
Đức Giê-hô-va chiến đấu cùng với quân đội Tân Ba-by-lôn, và Ê-xê-chiên 9 mô
tả Đức Giê-hô-va sai các thần đến hủy diệt Giê-ru-sa-lem và giết người Giu-
đa! Hình ảnh gây sốc này nhằm duy trì ý tưởng rằng Đức Giê-hô-va không chỉ
kiểm soát người Giu-đa mà còn cả người Tân-Babylon, những người mà Ngài
đã trao quyền để loại bỏ Giu-đa khỏi vùng đất hứa. Những phản ứng khác trước
sự hủy diệt của Giu-đa bao gồm một giao ước được đổi mới (Giê-rê-mi 31:31, Ê-
xê-chiên 36:27, Ê-sai 59:21).
Trong xứ Giu-đa hậu lưu đày, do người Ba Tư kiểm soát, Nê-hê-mi (Nê-hê-mi
9:6-37) mang lại hy vọng bằng cách kể lại câu chuyện nền tảng của Y-sơ-ra-ên
và Giu-đa, bắt đầu từ sự sáng tạo, qua các tộc trưởng, cuộc xuất hành và các
vương quốc cho đến thời điểm hiện tại, hậu lưu đày. Ông mô tả người Giu-đa
lập giao ước mới với Đức Giê-hô-va (Neh 8-10). Đành rằng, nước Giu-đa được
tái thiết này không có vua Đa-vít, nhưng thông qua việc xem xét lại câu chuyện
nền tảng và biên soạn hầu hết nội dung của Kinh thánh tiếng Do Thái, những tác
giả người Giu-đa này, được đánh dấu bằng trải nghiệm bị hủy diệt và lưu đày,
đã phong ấn di sản của vương quốc Giu-đa.
THƯ MỤC
Grabbe, Lester L. Israel cổ đại: Chúng ta biết gì và làm thế nào để biết
điều đó? Luân Đôn: T&T Clark, 2007.
Cline, Eric H. “David và Solomon có tồn tại không?” Kinh Thánh và Giải
thích , tháng 10 năm 2009.
Schneider, Tammi J. “Qua con mắt của Assyria: Mối quan hệ của Israel
với Giu-đa.” Tạp chí thám hiểm 44.3 (tháng 11 năm 2002).
Miller, J. Maxwell và John H. Hayes. Lịch sử của Israel cổ đại và Giu-
đa. tái bản lần thứ 2. Louisville, KY: Westminster John Knox, 2006.
Fleming, Daniel E. Di sản của Israel trong Kinh thánh của Giu-đa: Lịch sử,
Chính trị và Việc ghi chép lại Truyền thống. Cambridge, Anh.: Nhà xuất bản Đại
học Cambridge, 2012.
Chia sẻ
Chia sẻ trên facebook
Chia sẽ trên Twitter
Một bộ lạc không chỉ là những người sống trong đó. Bộ lạc tạo ra bản sắc riêng
cho mình dựa trên truyền thống, anh hùng, thành tích, lãnh thổ và biểu tượng
của mình. Trước khi thiết lập chế độ quân chủ ở Israel cổ đại, những đặc tính cá
nhân này sẽ là nguồn tự hào gắn kết các hộ gia đình và thị tộc của bộ tộc lại với
nhau và đánh dấu họ là duy nhất trong số các bộ tộc khác. Trong các thời kỳ sau
này, khi các bộ lạc yếu hơn bị nhấn chìm về mặt chính trị vào các bộ lạc lớn hơn
như Judah hoặc Ephraim (sau này là liên minh của các bộ lạc phía bắc liên kết
với Joseph), bản sắc bộ lạc cũng bị thu hẹp lại để phù hợp với quyền lực của cả
hai chế độ quân chủ thống nhất và bị chia rẽ ( xem các đơn vị quan liêu của
Solomon ở1 Các Vua 4:1-19). Mối đe dọa của bộ lạc này đối với chính quyền
trung ương được thể hiện rõ ràng khi các bộ lạc phía bắc ly khai khỏi vương
quốc Davidic (1Các Vua 12:1-19).
Chi phái Giu-đa nổi bật trong số mười hai chi phái vì có mối liên hệ với nhà Đa-
vít, vương quốc phía nam của Giu-đa và thủ đô của nó ở Giê-ru-sa-lem. Những
câu chuyện đầu tiên trong câu chuyện Kinh thánh xác lập tầm quan trọng của
người cha sáng lập bộ tộc, Judah, và nói rộng ra là các thành viên của bộ
tộc. TRONGSáng 37:26-27, Judah cứu mạng anh trai Joseph bằng cách thuyết
phục những người anh em khác bán Joseph cho một số người Ishmaelites thay
vì giết anh ta. Sau đó anh ta cam kết chịu trách nhiệm về Benjamin trongSáng
43:3-10và cầu xin Joseph cho sự sống của Benjamin trongSáng 44:18-34. Sự
lãnh đạo của Giu-đa và việc ông chấp nhận tính ưu việt của luật pháp trong cách
đối xử với con dâu Tamar (thế hệ thứ 38) đẩy anh ta trở nên nổi bật trong số các
thủ lĩnh bộ lạc.
Tất nhiên, không phải mọi thành viên của chi phái Giu-đa đều gương mẫu (so
sánh tên trộm A-can trongGiô-suê 7:16-26), nhưng vẫn có cảm giác ưu việt trong
các câu chuyện xác định chi phái Giu-đa là người đứng đầu trong số các chi
phái. Vì thế chi tộc Giu-đa dẫn đầu đoàn rước rời Núi Si-nai (Dân Số
10:14). Caleb tuyên bố Hebron (sau này là nơi nắm quyền lực của Đa-vít, trước
Giê-ru-sa-lem) và các vùng phụ cận của nó đối với bộ tộc Giu-đa là quyền của
ông để đưa ra một báo cáo trung thực khi các điệp viên của bộ lạc khác không
làm tròn nhiệm vụ của họ (Giô-suê 14:6-14). Trong thời kỳ chinh phục và trong
cuộc nội chiến giữa các bộ tộc, Chúa luôn chỉ thị rằng “Giuđa sẽ đi lên” đầu tiên
trong trận chiến (Quan xét 1:2,Quan xét 20:18).
Cuối cùng, người Giu-đa quan trọng nhất là Vua Đa-vít. Chi phái Giu-đa là người
đầu tiên tôn ông lên làm vua ở Hếp-rôn (2Sam 2:1-4) và là người đầu tiên triệu
hồi ông trở lại ngai vàng sau cuộc nổi dậy của con trai ông là Absalom (2 Sa-mu-
ên 19:11-15). Chỉ có bộ tộc Judah vẫn trung thành khi các bộ tộc phía bắc ly khai
(1V 12:16-17), và tác giả Thi Thiên coi sự ly khai là sự phản bội và là lý do để
Chúa từ chối các bộ lạc phía bắc (Tv 78:68-72). Trong thời lưu đày, Đa-ni-ên
thuộc chi tộc Giu-đa trở thành tấm gương về cách cư xử đúng mực và lòng trung
thành (Đan 1:6). Khi vận mệnh của chế độ quân chủ Israel sa sút, khải tượng về
Đấng Mê-si cho rằng tương lai nằm trong tay một hậu duệ Đa-vít trong bộ tộc
Giu-đa, người sẽ khôi phục quốc gia và mối quan hệ của nó với Đức Chúa Trời
(Ê-sai 11:1,Mic 5:2).
THƯ MỤC
Miller, J. Maxwell và John H. Hayes. Lịch sử của Israel cổ đại và Giu-
đa. tái bản lần thứ 2. Louisville, KY: Westminster John Knox, 2006.
McKenzie, Steven. Giới thiệu về Sách Lịch sử: Chiến lược Đọc . Grand Rapids, Michigan.:
Eerdmans, 2010.
Fleming, Daniel E. Di sản của Israel trong Kinh thánh của Giu-đa: Lịch sử, Chính trị và Việc ghi
chép lại Truyền thống. Cambridge, Anh.: Nhà xuất bản Đại học Cambridge, 2012.
Chia sẻ
Chia sẻ trên facebook
Chia sẽ trên Twitter
Steven L. McKenzie
- Vương quốc Giu đa, ở phương Nam , thủ đô là Jerusalem gồm hai chi phái Giu-đa và Bên gia min.
- Vương quốc Ysơraên, miền Bắc, thủ đô Samari gồm 10 chi phái còn lại là Ru-bên, Si-mê-ôn, Lê-vi, Y-sa-ca, Eùp-ra-him,
Sa-bu-lôn, Ðan, A-se, Nép-ta-li, Gát, Giô sép, (con là Ma-na-se và Ép-ra-him)
Năm 721 trước CN, vương quốc miền Bắc Ysơraên bị A-si-ri xâm chiếm và bị tiêu diệt khỏi bản đồ. Dân của vương quốc
này bị lưu đày và vua Asiri di những dân ở chung quanh vào vùng đất này định cư và cưới gả với đám dân còn ở lại.
Vương quốc Ysơraên và 10 chi phái miền bắc đã biến mất từ đó.
Vương quốc miền Nam Giu-đa cũng chung số phận khi đế quốc Babylôn tấn công và chiếm đóng vào năm 587 trước CN.
Thủ đô là Giêrusalem bị tiêu phá và dân Giu-đa bị bắt mang về Babylôn làm nô lệ. Tuy nhiên 50 năm sau, khi đế quốc
Babylôn sụp đổ và đế quốc Mê-đi Phê rơ sơ (Ba tư ) thay thế đã cho phép dân Giu đa trở về quê cũ, họ xây lại thành
Giêrusalem và đền thờ Ðức Chúa Trời ( II Sử ký 36:22-23)
CÂU HỎI:
Sau đây là những tài liệu dựa vào khảo cổ giúp chúng ta trả lời câu hỏi này.
1. Benjamin ở Tudela: Benjamin, con của Giô-na ở Tudela, Tây Ban Nha vào năm 1165 đã quyết định du lịch sang Ba tư và
sống tại các cộng đồng Do Thái ở phía Ðông và Tây của Ba tư. Sau này, trong quyển sách” Book of Travels”, ông ta ghi: “
Ðó là những người Ysơraên tại Ba tư. Họ cho biết trên vùng núi có 4 chi phái Dan, Sa-bu-lun, A-sê và Nép-ta-li. Họ tự trị
với vị lãnh đạo riêng của họ là Giô-sép của phái Lê-vi. Họ có những bác học dạy dỗ họ. Họ giỏi về trồng trọt và tham gia
các cuộc chiến với dân Cút”
Khi ông ta thăm viếng Á-râïp, ông thấy một cộng đồng Do Thái ở đây lớn hơn. Cộng đồng này là những dân thuộc chi Phái
Ru-bên, Gát và phân nửa chi phái Ma-na-se. Họ xây dựng nhiều thành phố lớn và họ chiếm chính quyền vùng Bắc và trên
núi cao.
2. Bartholene de Las Casas, một giáo sĩ Tây Ban Nha, vào thế kỷ 16 đã dùng thời gian để chăm sóc người thổ dân của
vùng đất Tân thế giới tức là người America Indians, người Peru, người Guatamala. Ông quả quyết rằng những người này
là những người Ysơraên thời cổ xưa.” Tôi có thể dùng Kinh Thánh để chứng minh họ là người của 10 chi phái bị thất lạc”.
Rất tiếc, ông không trình bày chi tiết về lời công bố này.
3. Edward King, còn gọi là Viscount of Kingsborough, là người dùng cả gia tài của mình để tìm kiếm bằng cớ của 10 chi
phái này ờ vùng Nam Mễ tây cơ, Guatamala, Belize và Bắc Hondura (tức vùng Trung Mỹ). Ông đã bỏ 18 năm tìm kiếm và
viết 9 quyển tài liệu. Mỗi quyển tài liệu cân nặng 65 pounds gồm hàng trăm trang tài liệu. Tổng cộng trị giá 40,000 Anh
Kim. Nên nhớ thời đó, người ta chỉ cần 500 Anh kim là có thể sống thoải mái cho một gia đình cho một năm.
Ông đưa ra nhiều chứng cớ như :
- dân Indians có tục rửa chân như Do Thái,
- dùng chiêm bao để nói tiên tri,
- dùng bánh không men cho lễ Atatmal (như người Do Thái trong Lễ Vượt qua),
- thổi kèn trong các ngày lễ hội lớn như người Do Thái.
- Ngoài ra họ có những câu chuyện truyền kỳ tương tự như lịch sử cổ của Do Thái như câu chuyện Môi-se đưa dân Do
Thái ra khỏi xứ Ai cập, câu chuyện Môi se có người anh là A-rôn và có người em gái là Miriam .. .
4. Năm 1842, Joseph Smith, người sáng lập đạo Mormon đã dùng tài liệu của John Lloyd Stephens để công bố có ba nhóm
di cư sang Tân Thế Giới. Nhóm thứ nhất từ Iran di cư sang vào khoảng 2800 trước CN tức là dưới thời Tháp Ba-bên.
Nhóm thứ hai của dân Nephites vào thế kỷ thứ 6 trước CN và nhóm thứ ba của dân Lamanites cùng thời với nhóm thứ nhì.
5. Vùng tam biên giữa Pakistan, Afganistan và Kashmir có một nhóm dân tên là Pathans độ 15 triệu người sống rải rác
trong 60 bộ lạc, Họ tự xưng là con cháu của Kish, cha của vua Sau-lơ trong Kinh Thánh ( I Sam 9:1). Nhiều bộ lạc tự xưng
là thuộc các chi phái Ysơraên bị thất lạc. Người Pathans áp dụng việc cắt bì vào ngày thứ tám cho các con trai, họ mặc y
phục giống như người Do Thái, dùng đèn cày vào đêm thứ sáu.
6. Zimbabwe và Mozambique, với hàng ngàn người da đen cũng công bố họ thuộc chi phái Do Thái bị thất lạc. Họ biết rất
nhiều những câu trong Kinh Thánh Cựu Ước và giữ tục lệ không cưới gả với các dân tộc chung quanh.
7. Nhật bản có một số ngôn ngữ phát âm như tiếng Do Thái ví dụ như
Mikado, một Hoàng đế Nhật là thuộc dòng dõi chi phái Gát. Mikado có âm theo tiếng Hebrew có nghĩa là Hoàng đế ( tiếng
Hebrew là “Malchuto”).
8. Chi phái Ma-na-se ở Ấn độ. Tác giả Hillel Halkin trong quyển sách “Across the Sabbath River : In search of a Lost Tribe
of Israel” đã quả quyết rằng chi phái Ma-na-se đã di cư đến vùng Ðông Bắc Ấn độ , gần biên giới Miến điện ngày nay. Nên
nhớ quyển sách của ông được báo New York Times, The New Republic and Wall Street Journal giới thiệu là quyển sách có
giá trị.
Theo tác giả thì dân địa phương đó là sắc tộc Hualngo và Hmar tự cho là con cháu của Manmasi. Manmasi có âm đọc
giống như chi phái Ma-na-se. Họ có câu chuyện truyền kỳ là dân tộc họ đã có lần vượt qua biển như dân Do Thái rời xứ Ai
cập do Môi se hướng dẫn và vượt qua Biển đỏ.
Họ cũng có câu chuyện bị một con Mèo hoang đuổi họ ra khỏi vùng đất mà họ ở trước khi đến định cư tại vùng này. Con
Mèo Hoang theo thổ âm của họ là Sanga Meichol. Có âm giống như tên của vua Asiri là Shalmanseser, vị vua đã bắt dân
Yrơraên lưu đày ra khỏi quê hương họ.
- Họ thờ phượng thần “Pathem” có tên bí mật là Ya mà tác giả tin rằng tên Ya có liên hệ với Yahweh ( Giê-hô-va) là tên của
Ðức Chúa Trời của Do Thái.
- Ngoài ra dân này có tục cắt bì cho các con trai mới sanh.
- Họ cũng hạn chế ăn thịt heo
- Họ có lễ đầu mùa như người Do Thái.
- Họ cũng dâng chiên con làm sinh lễ cho một lễ đặc biệt như lễ Vượt qua của Do Thái.
Ngoài ra tác giả còn liệt kê một số danh từ có âm giống nhau và cùng nghĩa nhau giữa dân này và Do Thái. Bởi lẽ đó, ông
kết luận rằng một số ít dân thuộc chi phái Ma-na-se đã đi đến đây và định cư tại đây.
9. Trung Hoa- Ê-sai 49:12 “ Họ đến từ xứ Sinim” Lời tiên tri này hứa hẹn sự trở về của các chi phái bị thất lạc từ phương
Bắc và từ phương Tây và từ xứ Si-ni. Si-ni là tiếng Hebrew để chỉ nước Trung Hoa (China) ngày nay.
Có những làng ở miền núi dọc theo biên giới Tàu và Tây tạng là dân Chiang-Min ở phía tây tỉnh Szechuan tự cho là con
cháu của Ysơraên. Họ đến định cư ở vùng này mấy trăm năm trước khi Chúa Jesus xuất hiện.
Giáo sĩ Torrance, người Scottland. hồi đầu thế kỷ 20 có đến viếng thăm vùng này và ông xác nhận rằng họ chính là dòng
dõi Do Thái thuộc dòng Sem. Ông quan sát thấy họ còn giữ những phong tục cổ của Do Thái. Họ dùng một loại cuốc xới
đất giống của Do Thái dùng, họ dùng ách để bò kéo cày hay xe cũng giống với người Do Thái. Người Chiang-min tin vào
độc thần như người Do Thái chỉ tin vào Ðức Chúa Trời.
Trong các buổi lễ họ gọi tên vị thần của họ có âm thanh như gọi Giê-hô-va. Người tế lễ của dân này mặc y phục giống như
thầy tế lễ Do Thái . Họ mang một giây nịt và cây gậy bằng đồng hình con rắn như Môi se ngày xưa.
( Gần đây, theo tài liệu tìm thấy trong Dead Sea Scrolls, người ta được biết Sinim cũng có thể là chữ số nhiều của chữ Sy-
e-nê là một thành phố thuộc phía nam thuộc xứ Ai-cập và sách Êxêchiên 29:10 và 30:6 có nói đến địa danh này).
10. Chi Phái Ðan và Ê-thi-ô-bi. Gần đây, khoảng gần giữa thế kỷ 20, người ta có nghe một truyền kỳ về một giám mục tên
là John Prester , ông ta cai trị một nước nhỏ giàu có theo Cơ đốc giáo ở vùng nước Ethopia. Họ tự xưng là Falashas, tiếng
Armaic để chỉ những người Do Thái không nhà không đất du mục . Vào thập niêm 1970 và 1980, Do Thái nhìn nhận họ và
cung cấp phi cơ để chở họ về Do Thái.
11. Anh Quốc cũng là nơi mà chi phái Ep-ra-him di dân đến.
1. II Sử Ký 11: 13, 16 cho biết ngay khi nước này bị chia đôi thì chi phái Lê-vi trở lại Giê-ru-sa-lem ở cùng với Rô-bô-am. Và
câu 16 cho biết dân trong các chi phái khác cũng có nhiều người theo Lê-vi mà quay về định cư tại Giê-ru-sa-lem. Như vây
vương quốc phía bắc, nước Ysơraên chỉ còn 9 chi phái và cũng không hoàn toàn đầy đủ.
2. Ê-xêchiên 9:9, Tiên tri Êxêchiên cho biết thành Giêrusalem lúc bấy giờ gồm có dân Ysơraên và dân Giu đa. Ðây là giai
đoạn trước khi Babylôn tấn công và chiếm thành này.
3. Nêhêmi 11:4, 20 sau khi trở về Giêrusalem và lập sổ thì chúng ta biết có chi phái Giu-đa, Bên-gia-min, Lêvi và các chi
phái Ysơraên
- Theo tài liệu sử của A-si-ri, họ chỉ bắt theo những thành phần có học thức cao và để phần dân Ysơraên nghèo dốt ở lại
đất của họ. Thành phần này về sau cưới gả với dân mới di cư đến và trở thành dân Samari.
- Theo nhà khảo cổ Do Thái là ông Magen Broshi, nhiều người Ysơraên đã bỏ miền Bắc mà di cư xuống miền Nam để
tránh sự giết hại của Asiri. Họ sống hoà hợp và lẫn lộn với người Giu đa. Nghiên cứu cẩn thận hơn, người ta thấy thành
Giêrusalem có sự mở rộng rầm rộ vào thế kỷ thứ 8 trước CN. Thành phố này đã tăng gấp ba hay bốn lần về dân số cũng
như mở rộng ranh giới ba bốn lần so với trước.
KẾT LUẬN:
Theo II Sử ký 21:7 , Ðức Chúa Trời lập giao ước với Ðavít: sẽ ban một ngọn đèn cho người và con cháu người đến đời
đời, Ngài không muốn diệt nhà Ða vít. Ðọc thêm trong sách Thi Thiên 89:36, Ô-sê 1:11, A-mốt 9: 14 , Êxêchiên 37:19-28.
Trong sách Khải thị, Giăng nghe số người được đóng ấn thuộc 12 chi phái dân Ysơraên ( đoạn 7). Như vậy 10 chi phái này
vẫn còn và hiện diện.
Chúng tôi tin rằng một số dân của 10 chi phái bị bắt lưu đày đã sống tràn lan khắp năm châu nhưng số còn ở lại, không bị
lưu đày thì một phần đã di chuyển về miền Nam chung với nước Giu-đa và phần khác ở lại để trộn giống với các dân
chung quanh và trở thành dân Samari. Nước Do Thái bây giờ không phải chỉ gồm hai chi phái như lúc ban đầu mà đã pha
trộn với 10 chi phái miền Bắc. Tất cả đều là con cháu của tổ phụ Ap-ra-ham.
Thiên Ðăng