You are on page 1of 12

1. Các đặc trưng của chính sách kinh tế quốc tế.

Chính sách kinh tế quốc tế là hệ thống các nguyên tắc, biện pháp kinh tế, hành
chính và pháp luật dùng để thực hiện các mục tiêu đã xác định trong lĩnh vực kinh tế
quốc tế của một nước trong thời kỳ nhất định.
❖ Tính bao quát
Chính sách kinh tế quốc tế có sự phối hợp và bao quát ở nhiều nhiều lĩnh vực,
trong đó, trọng tâm là 3 lĩnh vực chính: thương mại, đầu tư và tài chính.
Bên cạnh đó, chính sách kinh tế quốc tế gắn liền và chịu sự tác động bởi nhiều yếu
tố: chính trị, kinh tế, môi trường, xã hội trong nước và quốc tế. Những biến động về các
yếu tố trên sẽ làm ảnh hưởng rõ rệt tới chính sách kinh tế quốc tế.
❖ Tính phổ biến
Chính sách kinh tế quốc tế được thông qua và theo đuổi bởi các chủ thể như: chính
quyền, Đảng, nhà cai trị, chính khách,...Chính vì các chủ thể trên nên chính sách kinh
tế quốc tế mang tính phổ biến; các cá nhân, doanh nghiệp phải chấp hành và thực hiện
theo đúng chính sách đã đề ra.
Việc nghiên cứu chính sách kinh tế quốc tế cũng giúp cho mỗi quốc gia rút kinh
nghiệm, đánh giá thực tiễn chính sách để xây dựng, tổ chức thực hiện chính sách thương
mại quốc tế của quốc gia sao cho có hiệu quả kinh tế cao nhất và tham gia hoạch định
chính sách kinh tế khác phù hợp với điều kiện thương mại trong và ngoài nước.
❖ Tính lịch sử
Chính sách kinh tế quốc tế gắn với hoàn cảnh lịch sử của mỗi quốc gia và thế giới
trong từng giai đoạn khác nhau. Vì vậy, chính sách kinh tế quốc tế luôn được điều chỉnh,
thay đổi để phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế. Tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử cụ
thể, mỗi quốc gia thường có chính sách kinh tế quốc tế độc lập thể hiện ý chí, nguyên
tắc, mục tiêu phát triển của mình và chỉ có tác dụng trong giai đoạn đó.
❖ Tính thống nhất
Chính sách kinh tế quốc tế được xây dựng một cách thống nhất với hệ thống các
quan điểm, nguyên tắc, công cụ và biện pháp của Nhà nước áp dụng trong quản lý kinh
tế nhằm tác động, điều chỉnh, kiểm soát các hoạt động kinh tế quốc tế góp phần thực
hiện mục tiêu kinh tế vĩ mô chung của quốc gia
Chính sách kinh tế quốc tế không tồn tại độc lập mà luôn là một bộ phận trong hệ
thống chính sách kinh tế của quốc gia. Chính sách kinh tế quốc tế có quan hệ chặt chẽ
với các chính sách có liên quan như: chính sách thương mại, đầu tư, tài chính,...
❖ Phạm vi rộng lớn
Chính sách kinh tế quốc tế được thể hiện ở nhiều lĩnh vực và được áp dụng ở trong
nước lẫn quốc tế. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, chính sách kinh tế
quốc tế của một quốc gia được xây dựng không những dựa vào điều kiện kinh tế của
quốc gia đó, mà còn phải dựa vào những thông lệ, những chuẩn mực của các hiệp định
thương mại song phương và đa phương mà nước đó tham gia.
2. Phân tích ảnh hưởng của sự phối hợp chính sách kinh tế quốc tế.
❖ Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn cầu
Sự phối hợp chính sách kinh tế quốc tế giúp tình hình kinh tế trên thế giới được
ổn định và được tạo nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển. Các quốc gia tích cực giao
thương, hỗ trợ và giúp đỡ nhau. Từ đó, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn cầu.
❖ Kim ngạch xuất nhập khẩu tăng
Các chính sách kinh tế quốc tế được phối hợp giúp các quốc gia có nhiều điều kiện
thuận lợi trong thương mại. Các chính sách về thuế quan, phi thuế quan được điều chỉnh
theo quy tắc chung của các Tổ chức, Hiệp định,... mà các quốc gia tham gia. Qua đó,
việc trao đổi hàng hoá trở nên dễ dàng hơn giữa các nước, tạo động lực cho kim ngạch
xuất nhập khẩu tăng.
❖ Thúc đẩy hội nhập và phát triển
Sự phối hợp chính sách kinh tế quốc tế tạo điều kiện cho tất cả các quốc gia tham
gia phát triển ở nhiều lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội,... Các quốc gia vừa
hội nhập với thế giới vừa quảng bá được bản sắc riêng của đất nước mình. Từ đó, thuận
lợi trong việc hội nhập và phát triển với thế giới.
❖ Tạo cơ hội cho nhiều nước tham gia sâu rộng vào phân công lao động quốc
tế
Các chính sách kinh tế quốc tế được phối hợp giúp các quốc gia tận dụng và phát
huy được lợi thế so sánh của mình. Các quốc gia có lợi thế so sánh ở sản phẩm nào sẽ
chú trọng sản xuất sản phẩm đó để xuất khẩu, thu lợi nhuận cho đất nước. Vì vậy, sẽ
xuất hiện các dòng dịch chuyển lao động giữa các nước, các nước đều có cơ hội tham
gia vào phân công lao động quốc tế.
❖ Xã hội ngày càng phát triển và văn minh
Sự phối hợp chính sách kinh tế quốc tế tạo điều kiện cho tất cả các nước phát triển:
tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy giao thương, tăng cường hội nhập-phát triển, tạo cơ hội
tham gia vào phân công lao động quốc tế,... Những lợi ích này giúp mỗi quốc gia đạt
được nhiều thành tựu về kinh tế, là cơ sở để ổn định đất nước và phát triển ở các lĩnh
vực khác. Xã hội trở nên phát triển và văn minh hơn.
3. Các mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế mở.
❖ Cân đối bên trong: việc làm đầy đủ và mức giá
Cân đối bên trong đòi hỏi phải sử dụng đầy đủ các nguồn lực của một nước và ổn
định mức giá cả trong nước.
Khi các nguồn lực sản xuất của một nước được sử dụng đầy đủ và mức giá của
nước đó ổn định thì nước đó ở trong tình trạng cân đối bên trong.
Điều rõ ràng là lãng phí và khó khăn xuất hiện khi các nguồn lực không được sử
dụng đầy đủ.
Tuy nhiên, nếu nền kinh tế của một nước bị “quá nóng” và các nguồn lực bị sử
dụng quá mức thì lãng phí ở một dạng khác (mặc dù ít tác hại hơn) sẽ xảy ra.
Ví dụ: máy móc hoạt động nhiều hơn bình thường sẽ có xu hướng hỏng thường
xuyên hơn và giảm giá trị nhanh hơn.
❖ Cân đối bên ngoài: mức tối ưu của tài khoản vãng lai
Trong thực tế, chỉ hạn hữu ngoại thương của một nước mới hoàn toàn cân bằng.
Sự khác nhau giữa xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ với nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ
được gọi là cán cân tài khoản vãng lai (Ta thường gọi là tài khoản vãng lai). Nếu ta gọi
tài khoản vãng lai là CA, ta có thể thể hiện định nghĩa này như sau: CA = EX - IM
Khi nhập khẩu của một nước vượt quá xuất khẩu của nước đó, ta nói rằng nước
đó có thâm hụt tài khoản vãng lai. Một nước có thặng dư tài khoản vãng lai khi xuất
khẩu nước đó vượt quá nhập khẩu.
“ Trong khi nhìn chung mục tiêu của tài khoản vãng lai không phải bằng không,
các chính phủ thường cố gắng tránh tình trạng dư thừa hoặc thâm hụt quá lớn…”
Những vấn đề do thiếu hụt tài khoản vãng lai quá lớn gây ra. Một sự thâm hụt tài
khoản vãng lai (có nghĩa là nền kinh tế đó đang đi vay ở nước ngoài).
Những vấn đề do dư thừa tài khoản vãng lai quá lớn gây ra. Sự dư thừa trong tài
khoản vãng lai nói lên rằng một nước đang tích tụ tài sản của họ ở nước ngoài.
4. Từ chính sách thương mại quốc tế, liên hệ đến điều chỉnh chính sách thương
mại quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
❖ Chính sách thương mại quốc tế
Chính sách TMQT là hệ thống các quan điểm, nguyên tắc, công cụ và biện pháp
nhằm tác động, điều chỉnh, kiểm soát các hoạt động TMQT, góp phần thực hiện những
mục tiêu kinh tế vĩ mô của quốc gia.
Chính sách thương mại quốc tế bao gồm chính sách tự do thương mại và chính
sách bảo hộ thương mại.
❖ Bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Ngày 7/11/2006, Việt Nam gia nhập WTO và kể từ ngày 11/1/2007, Việt Nam
chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại lớn nhất thế giới này.
Đến năm 2020, Việt Nam có 30 đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện;
có quan hệ ngoại giao với 189/193 nước, có quan hệ kinh tế với 160 nước và 70 vùng
lãnh thổ.
Đặc biệt, WTO cùng với hơn hơn 500 hiệp định song phương và đa phương trên
nhiều lĩnh vực, trong đó có 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam tham
gia (15 hiệp định đã ký kết, có hiệu lực và 2 hiệp định đang đàm phán) là những cánh
cửa lớn, đa chiều để Việt Nam định hướng hoàn thiện khung khổ thể chế phát triển kinh
tế thị trường và tự tin hội nhập toàn cầu ngày càng sâu, rộng, đầy đủ, hiệu quả hơn.
❖ Điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam
- Giai đoạn 1975-1986: Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và nền kinh tế đóng.
Khối lượng nhập khẩu được xác định dựa trên dự báo chênh lệch giữa giữa cung và cầu
nội địa; khối lượng xuất khẩu được xác định nhằm bù đắp nhập khẩu theo kế hoạch.
Các công cụ trong chính sách thương mại không được sử dụng để hỗ trợ cho chính sách
công nghiệp. Rất ít các công ty được cấp phép tham gia các hoạt động ngoại thương.
- Cải cách thương mại trong chính sách đổi mới năm 1986:
+ Tự do hoá giá trong nước, kết nối với giá thế giới.
+ Gia tăng số lượng các công ty ngoại thương.
+ Sử dụng các công cụ bảo hộ như thuế quan, hạn ngạch, và giấy phép.
+ Xoá bỏ biến dạng của tỷ giá hối đoái.
+ Khuyến khích các ngành có định hướng xuất khẩu thông qua việc giải quyết tình
trạng thiên lệch chống xuất khẩu do chính sách bảo hộ.
- Các biện pháp cụ thể:
+ Nới lỏng các biện pháp hạn chế tham gia hoạt động ngoại thương.
+ Xoá bỏ sự biến dạng của tỷ giá hối đoái.
+ Hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
+ Triển khai các công cụ bảo hộ trong chính sách thương mại trong giai đoạn đầu;
sau đó lại tự do hoá thương mại đáng kể nhằm cải thiện các động cơ khuyến
khích xuất khẩu.
- Xóa bỏ rào cản tham gia kinh doanh ngoại thương:
+ 1988, định hướng nới lỏng dần các quy định hạn chế việc thành lập các công ty
ngoại thương.
+ 1995, bãi bỏ quy định các nhà nhập khẩu phải có giấy phép nhập khẩu trên cơ sở
hàng chuyến đối với nhiều hàng hóa tiêu dùng và sản xuất.
+ 2001, cho phép mọi pháp nhân và thể nhân (công ty và cá nhân) xuất khẩu hầu
hết mặt hàng trong giấy phép kinh doanh của mình.
- Xoá bỏ các biến dạng của tỷ giá hối đoái:
+ 1988, các doanh nghiệp được tự do nắm giữ ngoại tệ, mở tài khoản ngoại tệ, sử
dụng chuyển khoản để thanh toán nhập khẩu và hoàn trả các khoản vay nước
ngoài.
+ 1989, thống nhất hệ thống tỷ giá hối đoái.
+ 1991, sàn giao dịch ngoại tệ được mở ở Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
+ 2004, bãi bỏ quy định bán ngoại tệ cho Nhà nước.
- Hội nhập kinh tế khu vực và thế giới:
+ 1994, Việt Nam đạt tư cách quan sát viên GATT.
+ 1995, Việt Nam gia nhập ASEAN và là thành viên AFTA.
+ 2000, ký kết hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ.
+ 2007: Gia nhập WTO
+ 2016: Ký kết CPTPP
+ 2020: Ký kết EVFTA
- Triển khai các công cụ chính sách thương mại (nhằm bảo hộ sản xuất nội
địa):
+ Hạn ngạch nhập khẩu và các rào cản phi thuế quan khác:
● 1989, bãi bỏ hạn ngạch xuất khẩu đối với tất cả ngoại trừ 10 mặt hàng xuất khẩu;
● 2003, áp dụng hạn ngạch thuế quan cho sữa nguyên liệu, sữa đặc, trứng gia cầm,
bắp, muối, sợi cotton, …
● Các trở ngại về thủ tục cấp phép.
+ Thuế quan nhập khẩu:
● 1988, ban hành Luật thuế XNK.
● 1998, việc quản lý nhập khẩu hầu hết hàng hóa tiêu dùng chuyển sang thuế quan
thay cho hạn ngạch hay cấp phép.
+ Phương pháp miễn thuế cho đầu vào nhập khẩu (bắt đầu năm 1991).
+ Bãi bỏ thuế xuất khẩu (đến năm 1998 chỉ còn 2 sản phẩm dầu thô và kim loại
phế liệu).
+ Miễn thuế nội địa.

=> Tính chung 6 tháng năm 2022, tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam
đạt 371,32 tỷ USD, tăng 16,4% tương ứng tăng 52,32 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2021.
Sau 6 tháng, cán cân thương mại tiếp tục nghiêng về xuất siêu với 743 triệu USD. Việt
Nam lọt vào nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế.
5. Công thức tính tỷ lệ bảo hộ có hiệu quả với nhiều yếu tố đầu vào và ý nghĩa
của nó.
❖ Công thức

❖ Ý nghĩa
- Suy ra từ công thức:
+ Nếu ai = 0 => g = t
+ Với giá trị ai và ti cho trước, g ↑ => t ↑
+ Với giá trị t và ti cho trước, g ↑ => ai ↑
+ Giá trị của g vượt quá, bằng, hay nhỏ hơn t khi ti nhỏ hơn, bằng, hoặc lớn hơn t
+ Khi aiti vượt quá t, g < 0
- Chỉ ra tỷ lệ thuế quan thực tế đánh vào ngành công nghiệp sản xuất ra hàng hoá
đó. Chỉ ra mức độ bảo hộ thực sự dành cho các nhà sản xuất nội địa khi xuất khẩu hàng
hoá.
- Bất cứ khi nào các yếu tố đầu vào được nhập khẩu tự do hay chịu mức thuế thấp
hơn hàng hóa cuối cùng được sản xuất bằng các yếu tố đầu vào nhập khẩu đó, thì tỷ lệ
bảo hộ hiệu quả sẽ vượt quá tỷ lệ thuế quan danh nghĩa.
- Khi thuế quan đánh vào các yếu tố đầu vào nhập khẩu, các nhà sản xuất nội địa
sẽ tăng chi phí sản xuất, tỷ lệ bảo hộ bị giảm và không khuyến khích sản xuất nội địa.
- t không thể hiện được tỷ lệ bảo hộ thực sự cho các nhà sản xuất nội địa khi sản
xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu.
- Các nước công nghiệp đều có cơ cấu thuế quan leo thang với t rất thấp hay bằng
0 đối với nguyên liệu thô và tỷ lệ ngày càng cao trong quá trình sản xuất => g đối với
H cuối cùng sử dụng các yếu tố đầu vào nk > t.
- Tỷ lệ bảo hộ hiệu quả ở các nước công nghiệp thường được sử dụng nhiều nhất
ở những hàng hóa sử dụng nhiều lao động đơn giản như dệt may - những ngành ở các
nước ĐPT có lợi thế cạnh tranh, và đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển
của họ.
- Các tỷ lệ thuế quan tăng dần cùng với quá trình sản xuất nội địa.
- Tỷ lệ bảo hộ càng lớn thì mức độ bảo hộ thực sự cho các nhà sản xuất trong nước
càng cao và ngược lại nếu tỷ lệ bảo hộ âm thì sản xuất đình đốn, doanh thu không bù
đắp nổi chi phí dẫn tới phá sản, lúc này tỷ lệ bảo hộ không có ý nghĩa.
- Tỷ lệ bảo hộ hiệu quả đối với các ngành sản xuất yếu tố đầu vào có thể bù đắp
sự bảo vệ đối với các ngành nhập khẩu yếu tố đầu vào đó để sản xuất ra sản phẩm.
- Có tác động đến việc phân bổ nguồn lực vì thuế quan danh nghĩa chỉ tác động
đến hàng hóa nhập khẩu cuối cùng nhưng chưa tác động đến nguyên vật liệu thô để làm
ra hàng hóa đó. Do đó để phát hiện ra các tác động phân bổ nguồn lực của một cơ cấu
thuế quan, người ta phải tính tỷ lệ bảo hộ cho mỗi hoạt động đó là tỷ lệ bảo hộ hiệu quả.
6. Từ chính sách FDI quốc tế, liên hệ đến điều chỉnh chính sách FDI của Việt
Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
❖ Chính sách FDI quốc tế
- Chính sách FDI là một bộ phận thuộc các chính sách phát triển kinh tế của một
quốc gia và được hoạch định để điều chỉnh các hoạt động FDI, từ đó đạt được các mục
tiêu phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội của quốc gia trong từng giai đoạn.
- 3 nhóm chính sách FDI:
+ Nhóm chính sách liên quan đến luật và thủ tục hành chính
+ Nhóm chính sách liên quan đến tài chính và tín dụng
+ Nhóm chính sách khác
❖ Bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Trên phạm vi quốc tế cũng như trong khu vực, cuộc cạnh tranh thu hút FDI đang
diễn ra gay gắt do ngày càng nhiều quốc gia chuyển hướng theo kinh tế thị trường và
hội nhập quốc tế, mở cửa để buôn bán và đầu tư với thế giới.
Ngày 7/11/2006, Việt Nam gia nhập WTO và kể từ ngày 11/1/2007, Việt Nam
chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại lớn nhất thế giới này.
Đến năm 2020, Việt Nam có 30 đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện;
có quan hệ ngoại giao với 189/193 nước, có quan hệ kinh tế với 160 nước và 70 vùng
lãnh thổ.
Đặc biệt, WTO cùng với hơn hơn 500 hiệp định song phương và đa phương trên
nhiều lĩnh vực, trong đó có 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam tham
gia (15 hiệp định đã ký kết, có hiệu lực và 2 hiệp định đang đàm phán) là những cánh
cửa lớn, đa chiều để Việt Nam định hướng hoàn thiện khung khổ thể chế phát triển kinh
tế thị trường và tự tin hội nhập toàn cầu ngày càng sâu, rộng, đầy đủ, hiệu quả hơn.
Hiện nay, Việt Nam tham gia nhiều Tổ chức và ký kết nhiều FTA thế hệ mới vừa
là cơ hội vừa là thách thức cho việc thu hút nguồn vốn FDI vào Việt Nam. Do vậy,
Chính phủ các nước thường xuyên điều chỉnh các chính sách trực tiếp tác động và chính
sách có liên quan đến FDI nhằm phát huy lợi thế so sánh của từng quốc gia.
❖ Điều chỉnh chính sách FDI của Việt Nam
- Điều chỉnh Luật:
Trong giai đoạn khởi đầu thời kỳ “mở cửa” với thế giới, khi Việt Nam còn xa lạ
với dòng vốn FDI, đại bộ phận chuyên gia kinh tế và pháp lý không đủ trình độ giao
tiếp bằng tiếng Anh, chúng ta đã dịch ra tiếng Việt hàng chục luật đầu tư nước ngoài
của nhiều nước để tham khảo.
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 có 6 chương, 42 điều, khá ngắn
gọn nhưng thể hiện minh bạch và nhất quán chính sách thu hút FDI. So với luật đầu tư
nước ngoài của một số nước trong khu vực thì Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
được dư luận quốc tế đánh giá là thông thoáng và hấp dẫn hơn. Luật Đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam năm 1987 cũng có những nhược điểm về chính sách, trong đó có vấn đề
liên quan đến nhận thức và quan điểm.
Sau 2,5 năm thi hành, ngày 30/6/1990, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam để khắc phục một số nhược
điểm của Luật ban hành năm 1987.
Ngày 23/12/1992, Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 2 tiếp tục sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định thêm các hình thức và
phương thức đầu tư mới như khu chế xuất, xí nghiệp chế xuất, hợp đồng xây dựng -
kinh doanh - chuyển giao (BOT).
Ngày 12/11/1996, Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 10 ban hành Luật Đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam theo xu hướng giảm bớt ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế
nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên liệu để xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh.
Năm 2005 đánh dấu cột mốc quan trọng trong tư duy chính sách đầu tư và kinh
doanh trên nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp Việt Nam với doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài bằng sự ra đời của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp.
Sau 9 năm thực hiện, cả hai Luật này đã bộc lộ nhiều nhược điểm, gây khó khăn
cho hoạt động đầu tư và kinh doanh. Do đó, từ đầu năm 2014, Chính phủ đã chủ trương
sửa đổi một cách cơ bản nội dung của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp năm 2005 và
có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2015. Mặc dù có những người chưa thật hài lòng
với một số nội dung trong hai luật này, nhưng phải thừa nhận khách quan rằng, những
quy định trong hai luật này đã thật sự đổi mới theo hướng coi đầu tư và kinh doanh là
công việc của doanh nghiệp và nhà đầu tư, họ có toàn quyền quyết định từ dự án đầu tư
cho đến việc hình thành và kinh doanh của doanh nghiệp. Nhà nước chỉ hướng dẫn, tạo
môi trường pháp lý thông thoáng, có cơ chế và thủ tục thuận lợi, giám sát, kiểm tra thực
thi luật pháp.
Năm 2020, Luật đầu tư và Luật doanh nghiệp 2020 được Quốc hội thông qua kỳ
vọng sẽ nâng cao hơn nữa chất lượng đầu tư và hoạt động của doanh nghiệp sẽ hiệu
quả, bền vững hơn.
Cùng với Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp, Quốc hội đã điều chỉnh, bổ sung
một số chính sách có liên quan đến FDI được quy định tại nhiều luật thuế, luật kinh
doanh bất động sản, luật nhà ở, nới “room” cho nhà đầu tư nước ngoài khi thực hiện
phương thức mua bán & sáp nhập (M&A) tại Việt Nam.
Có thể khẳng định rằng, về cơ bản việc bổ sung, sửa đổi một số luật lần này đã
đáp ứng được chuẩn mực quốc tế, hình thành hành lang pháp lý thông thoáng, minh
bạch, nhất quán, tạo ra môi trường đầu tư và kinh doanh tốt hơn, do đó thúc đẩy “làn
sóng” FDI mới tại Việt Nam.
- Điều chỉnh chính sách:
Từ đầu thế kỷ XXI, Chính phủ đã điều chỉnh chính sách thu hút FDI theo hướng
gắn với quá trình tái cấu trúc nền kinh tế theo mô hình tăng trưởng mới đã được Đại hội
lần thứ IX của Đảng năm 2001 đề ra. Đó là cùng với việc tiếp tục khuyến khích các dự
án thâm dụng lao động thì coi trọng hơn các dự án công nghệ cao, dịch vụ hiện đại, đầu
tư vào khu kinh tế, khu công nghiệp, khu công nghệ cao.
Từ năm 2006, Chính phủ phân cấp cho chính quyền tỉnh, thành phố quyền hạn
lớn hơn đối với FDI, bên cạnh mặt tích cực là có nhiều sáng kiến trong thu hút FDI, đã
xảy ra tình trạng “xé rào trong ưu đãi đầu tư” mà các nhà kinh tế thế giới gọi là “cuộc
chiến chào mời, khuyến khích đầu tư” gây tác động tiêu cực đến phúc lợi xã hội của
dân cư do những ưu đãi không cần thiết, chỉ nhằm mục đích để cạnh tranh với địa
phương lân cận.
Năm 2007, tổng kết 20 năm thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam,
Chính phủ đã điều chỉnh theo hướng nâng cấp chính sách FDI, coi trọng hơn chất lượng
và hiệu quả kinh tế - xã hội.
Trong 5 năm (2011 - 2015), việc điều chỉnh chính sách FDI gắn với cải cách thủ
tục hành chính đã làm cho hoạt động FDI khởi sắc, đặc biệt là từ 2013 đến nay, nhiều
nhà đầu tư tiềm năng đang thực hiện những dự án công nghệ cao với quy mô vốn hàng
tỷ USD như Samsung, LG, Microsoft - Nokia, Intel… đã giúp Việt Nam dần trở thành
địa điểm sản xuất hàng điện tử của thế giới.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam tham gia các Tổ chức và kí
kết các Hiệp định thương mại tự do như: WTO, CPTPP. EVFTA, UKVFTA,... đã tác
động tích cực đến nguồn vốn FDI vào Việt Nam. Chính phủ Việt Nam ban hành nhiều
chính sách thu hút FDI hấp dẫn như ưu đãi về đất đai, miễn giảm thuế, chuyển giao
công nghệ, …Nhờ vậy, Việt Nam Việt Nam đã trở thành điểm đến tiềm năng của các
nhà đầu tư nước ngoài với sự ổn định về chính trị, nguồn nhân lực dồi dào và giá lao
động rẻ.
=> Bảy tháng đầu năm 2022, dù vốn FDI đăng ký mới sụt giảm, nhưng vốn FDI thực
hiện lại tăng, đạt 11,57 tỷ USD, là giá trị cao nhất cùng kỳ trong 5 năm trở lại đây. Vốn
điều chỉnh tiếp tục tăng mạnh, quy mô điều chỉnh vốn bình quân/dự án tương đối cao
so với cùng kỳ. Doanh nghiệp (DN) FDI tiếp tục tăng vốn đầu tư vào Việt Nam, mở
rộng dự án hiện hữu cho thấy niềm tin của họ vào nền kinh tế, môi trường đầu tư hiện
nay. Diện mạo tích cực của dòng vốn ngoại được dự báo còn kéo dài trong thời gian tới,
nhờ làn sóng đầu tư, chuyển dịch chuỗi sản xuất toàn cầu.
7. Vấn đề bảo hộ sản xuất trong nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Chặng đường hội nhập kinh tế dù mới chỉ hơn 6 năm nhưng đã đem đến cho Việt
Nam những tác động không hề nhỏ. Hội nhập kinh tế quốc tế như một con dao hai lưỡi,
không chỉ ban tặng cho những cơ hội phát triển mà đồng thời còn mang lại những thách
thức vô cùng cam go cho mảnh đất hình chữ S này.
Nguồn FDI phong phú với môi trường đầu tư, thủ tục hành chính thông thoáng
hơn, hàng rào thuế quan giảm bớt, hàng hóa phong phú với nhiều mẫu mã cho sự lựa
chọn của người tiêu dùng, xuất khẩu tăng, cơ hội làm việc với mức lương cao hơn nhưng
Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều vấn để bất lợi như: cạnh tranh mạnh mẽ của hàng
hóa nhập khẩu với chất lượng cao hơn mà giá cả phải chăng, phải thực hiện nhiều cải
cách về mặt pháp luật, các doanh nghiệp mất đi sự trợ cấp, ưu đãi của chính phủ.
Để bảo vệ được quyền lợi quốc gia khi hội nhập với thế giới, Việt Nam cần phải
thực hiện những chính sách bảo hộ phù hợp nhưng vẫn phải tuân thủ các cam kết với
WTO.
Một là, Việt Nam áp dụng chủ yếu là các biện pháp thuế quan trong chính sách
bảo hộ sản xuất nội địa.
Đây là công cụ bảo hộ thích hợp được WTO cho phép áp dụng kèm theo việc thực
hiện cắt giảm thuế quan theo lộ trình đã cam kết và phải tuân thủ theo các ràng buộc
thuế quan mà WTO đề ra.
Đối với từng loại mặt hàng nhập khẩu nhất định, thuế suất nhập khẩu biến động
theo từng giai đoạn phù hợp với chính sách của nhà nước. Đối với mặt hàng ôtô mới
chưa qua sử dụng, trong suốt hai năm 2007 và 2008 thuế suất nhập khẩu liên tục thay
đổi. Trong năm 2007 ngay sau khi Việt Nam gia nhập WTO, thuế suất đối với mặt hàng
ôtô mới nguyên chiếc cắt giảm từ 90% xuống 80%, và tiếp tục giảm xuống lần lượt cho
đến cuối năm 2007 là 70% và 60%.
Trong những năm qua mặt hàng biến động nhiều nhất có lẽ là thép. Sản xuất thép
trong nước gặp nhiều khó khăn đòi hỏi sự can thiệp hỗ trợ từ phía nhà nước, điều này
dẫn đến việc các chính sách thuế đánh với mặt hàng này biến động theo.
Trước tình hình khủng hoảng kinh tế, để hướng người tiêu dùng sử dụng các hàng
hóa được sản xuất trong nước, Chính phủ Việt Nam đã nâng mức thuế nhập khẩu nhằm
giảm giá tương đối mặt hàng nội địa so với mặt hàng ngoại nhập. Tuy việc tăng thuế
quan này đi ngược lại cam kết về tự do thương mại hóa và cắt giảm bảo hộ nhưng trong
thời điểm hiện tại, chính sách này được chấp nhận bởi đây là tình trạng chung trên toàn
thế giới.
Bên cạnh đó, Việt Nam trước kết quả tăng trưởng mạnh mẽ đã cắt giảm thuế trước
lộ trình so với cam kết. Do vậy trong thời điểm hiện nay việc nâng thuế nhập khẩu sẽ
không bị phản đối mạnh mẽ và coi như là biện pháp chống suy giảm kinh tế dù phạm
vi áp dụng không lớn.
Hai là, các biện pháp thuế quan được sử dụng một cách hạn chế với nhiều lý
do cả về khách quan lẫn chủ quan.
Đầu tiên, các biện pháp thuế quan mang tính chất thiếu minh bạch và khó dự đoán
nên WTO không khuyến khích sử dụng và Việt Nam là thành viên WTO nên cam kết
thực hiện theo đúng quy định. Thứ hai, trong việc ban hành các văn bản pháp luật về
các biện pháp phi thuế quan cũng như áp dụng các biện pháp này, Việt Nam gặp rất
nhiều khó khăn và hạn chế bởi nguồn nhân lực còn chưa nhận thức rõ về các biện pháp
phi thuế quan cũng như bộ máy thủ tục hành chính còn cồng kềnh, rườm rà, cản trở quá
trình áp dụng.
Khi tham gia WTO, Việt Nam đã cam kết không áp dụng các biện pháp hạn chế
định lượng cũng như hạn ngạch và minh chứng cho cam kết này, Việt Nam đã bãi bỏ
hoàn toàn việc cấm nhập khẩu thuốc lá điếu, xì gà, ô tô cũ vào thị trường nội địa.
Đối với việc áp dụng giấy phép nhập khẩu, ngày 2/3/2005 Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành quyết định về quy chế cấp phép nhập khẩu hàng hóa và 23/1/2006, Chính
phủ ban hành nghị định trong đó có rất nhiều mặt hàng thuộc diện phải cấp phép nhập
khẩu, và những năm sau được tiếp tục duy trì hoặc điều chỉnh bởi Bộ công thương bằng
một số thông tư
Ngoài ra, bộ công thương cũng đã phải ban hành thêm rất nhiều văn bản bổ sung
như văn bản số 8237/BCT-XNK để quy định để giảm bớt một số mặt hàng phải kiểm
soát nhưng lại kéo theo nhiều mặt hàng lẽ ra không nên nằm trong diện kiểm soát chặt
chẽ như các thiết bị điện sử dụng năng lượng mặt trời,thiết bị làm sạch... Nhiều thủ tục
phát sinh không cần thiết như bản sao giấy phép kinh doanh...
Các biện pháp về rào cản kỹ thuật bước đầu đã được áp dụng tuy còn nhiều hạn
chế bởi khả năng cạnh tranh của Việt Nam đối với sản phẩm nhập khẩu còn yếu. Do
vậy, nếu để các biện pháp này hiệu quả hơn, nhà nước cần kết hợp các biện pháp bảo
hộ khác để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa nội địa.
Đối với việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và bản quyền, tình trạng vi phạm bản
quyền tại Việt Nam còn rất nghiêm trọng dù đã được cải thiện khá nhiều từ khi gia nhập
WTO. Tình trạng đĩa lậu, ăn cắp bản quyền, sử dụng hình ảnh chưa có sự cho phép về
bản quyền vẫn chưa được quản lý chặt chẽ bởi bộ ngành quản lý. Tuy đã kí kết hiệp
định TRIPS, Việt Nam vẫn cần thời gian để giải quyết vấn nạn này.
Các biện pháp tự vệ thương mại như chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ
của doanh nghiệp Việt Nam thì còn khá mới mẻ mà đây được coi là những công cụ bảo
vệ hiệu quả phù hợp với luật chơi thương mại quốc tế. Trong vài năm gần đây, Việt
Nam cũng dần sử dụng các công cụ PVTM thường xuyên hơn như một phương thức hỗ
trợ doanh nghiệp nội địa để ứng phó với sự cạnh tranh tăng cao. Tính đến tháng 11/2020,
Việt Nam đã tiến hành tổng cộng 13 vụ điều tra chống bán phá giá, 01 vụ điều tra chống
trợ cấp và 06 vụ điều tra tự vệ. Các biện pháp phòng vệ thương mại được áp dụng đã
phần nào bảo vệ được lợi ích một số ngành sản xuất trong nước và giúp nhiều doanh
nghiệp Việt Nam vượt qua khó khăn, khủng hoảng. Bên cạnh đó, các biện pháp này
cũng giúp làm giảm bớt rủi ro hàng hóa Việt Nam bị điều tra lẩn tránh biện pháp PVTM,
giúp hàng hóa Việt Nam có uy tín tốt hơn trên thị trường quốc tế.
8. Phân tích nội dung các đặc điểm của chính sách FDI.
Thứ nhất, chính sách FDI có tính hệ thống cao, bao gồm các nguyên tắc, công cụ
và biện pháp được chính phủ áp dụng để điều chỉnh hoạt động ĐTNN. Để đảm bảo tính
hệ thống, các nguyên tắc, công cụ và biện pháp phải tương thích, bổ sung và hỗ trợ lẫn
nhau. Mặt khác, chính sách FDI phải tương thích với các chính sách phát triển của nền
kinh tế, đặc biệt là các chính sách thương mại, tài chính, tiền tệ. Ngoài ra, tính hệ thống
còn thể hiện ở sự gắn kết giữa chính sách FDI với định hướng phát triển chiến lược
quốc gia trong từng giai đoạn và sự phù hợp với các nguyên tắc, cam kết quốc tế.
Thứ hai, đối tượng điều chỉnh của chính sách FDI là hoạt động đầu tư có yếu tố
nước ngoài. Toàn bộ vốn, tài sản, bí quyết kinh doanh, nhãn hiệu hàng hóa, kỹ năng
quản lý… thuộc sở hữu nhà ĐTNN sẽ được chính sách FDI bảo hộ quyền sở hữu. Ngôn
ngữ, tập quán kinh doanh, ý thức pháp luật…của nhà ĐTNN khác với nước sở tại. Và
chỉ khi nào tin tưởng vào chính sách, thái độ đối xử của nước sở tại, nhà ĐTNN mới
tham gia đầu tư. Vì vậy, quá trình hoạch định, sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh các quy định
của chính sách, pháp luật và quy định liên quan đến nhà ĐTNN phải có quy định rõ
ràng, minh bạch, có thể dự báo và phải có hệ thống thông báo rộng rãi, tránh gây ra thiệt
hại về lợi ích cho nhà đầu tư nước ngoài.
Bên cạnh đó, cần quy định rõ ràng các quan hệ giao dịch với các cấp, ngành, doanh
nghiệp để nhà đầu tư có thể yên tâm đầu tư lâu dài; cần xử lý tốt các vấn đề liên quan
đến sự an toàn cho nhà đầu tư và gia đình của họ, vấn đề thủ tục xuất - nhập cảnh, thủ
tục hải quan, các dịch vụ như giáo dục, y tế, vui chơi, giải trí cho nhà đầu tư… cũng
như các quan hệ dân sự, hình sự, hôn nhân gia đình…có yếu tố nước ngoài.
Thứ ba, phạm vi đối tượng điều chỉnh rộng, bao gồm nhiều nhà đầu tư đến từ các
quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhau. Hơn nữa, FDI liên quan chặt chẽ đến mạng lưới sản
xuất quốc tế, do đó môi trường đầu tư của nước sở tại hoặc khu vực thay đổi sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến quyết định đầu tư của nhà ĐTNN.
Thứ tư, chính sách FDI tác động mạnh mẽ tới sự phân hóa giữa các nhóm lợi ích
ở nước sở tại, đặc biệt dễ dẫn đến mâu thuẫn, xung đột giữa các nhà đầu tư trong nước
và nhà ĐTNN. Ở các nước đang phát triển, FDI đóng vai trò hết sức quan trọng nên
chính phủ nước sở tại thường đưa ra nhiều yếu tố khuyến khích thu hút nhà ĐTNN. Vì
thế, trong nhiều trường hợp, nhà ĐTNN lấn án nhà đầu tư trong nước, khai thác lợi thế
độc quyền, gây hậu quả ô nhiễm môi trường…và dẫn tới sự xung đột lợi ích giữa các
nhóm trong xã hội.

You might also like