Professional Documents
Culture Documents
Ngày nay trên thế giới, khái niệm” Phát triển bền vững” không còn xa lạ so với những thập kỷ
cuối của thế kỷ trước, nhất là trong những năm 70 khi mà phong trào bảo vệ môi trường thế giới
đã có những thành tựu to lớn. Và cho đến nay, cụm từ “Phát triển bền vững” (PTBV) còn được
sử dụng cho
nhiều loại hình bền vững khác nhau trong đời sống xã hội trên thế giới, trong đó có loại hình
phát triển đô thị và đô thị hoá “Phát triển đô thị bền vững” (PTĐTBV). Với xu thế đó, ở Việt
Nam trong công cuộc phát triển nói chung và phát triển đô thị, đô thị hoá nói riêng, khái
niệm “Phát triển đô thị bền vững” và quá trình đô thị hóa bền vững không còn mấy xa lạ, mặc
dù cho đến nay chưa có những khái niệm nào về phát triển đô thị bền vững thật sự được công
nhận là chuẩn mực. Để nghiên cứu về PTBV, nhất là coi PTBV như một chuyên ngành, rất cần
thiết xem xét một cách có hệ thống.
1. Khái niệm phát triển bền vững và phát triển đô thị bền vững:
1.1. Phát triển bền vững:
Lần đầu tiên, năm 1987, trong báo cáo “Tương lai của chúng ta” tại Hội đồng thế giới về
môi trường và phát triển (WCED) do cựu thủ tướng Nauy, Gro Harlem Brundtland làm chủ tịch
đã đưa ra ý tưởng và khái niệm về phát triển bền vững. Đó là “Những thế hệ hiện tại cần đáp
ứng các nhu cầu của mình, mà không làm tổn hại đến khả năng của các thế hệ tương lai trong
đáp ứng các nhu cầu của họ”..Tiếp theo sau đó, nhiều định nghĩa khác nhau lần lượt ra đời như:
“PTBV là quá trình nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân loại trong phạm vi
đáp ứng được của các hệ sinh thái” (Chương trình Môi trường của Liên hiệp quốc -
UNEP).
“PTBV chính là sự duy trì và nâng cao chất lượng cuộc sống của con người về
mặt xã hội, kinh tế, môi trường trong giới hạn khả năng chịu tải của các hệ sinh thái dịch vụ và
cơ sở tài nguyên của môi trường, nghĩa là vẫn đảm bảo tính bền vững của môi trường” (Ngân
hàng Thế giới –WB).
“Phát triển bền vững là một quá trình dàn xếp, thoả hiệp giữa các hệ thống kinh tế, tự
nhiên và xã hội”, tức là PTBV phải đảm bảo 3 mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường hài hòa
với nhau (H.Barton, International Institute for environmental and development –IIED).
Và theo Luật Bảo vệ môi trường 2005 của nước ta:“Phát triển bền vững là phát triển
đáp ứng được nhu cầu của các thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu
cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế,
bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường”.
Từ những khái niệm trên có thể thấy rằng, về bản chất, phát triển bền vững là một quá
trình biến đổi mạnh mẽ trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội nhằm tạo ra hiệu quả tối ưu nhất về
tăng trưởng để đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống của con người mà không làm tổn
hại đến hệ các sinh thái và môi trường hiện tại cũng như tương lai. Tổng quát hơn, phát triển bền
vững chính là một quá trình liên tục cân bằng và hoà nhập các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi
trường sinh thái. Nó đảm bảo sự trường tồn của nhân loại. Chính vì vậy, phát triển bền vững đã
trở thành mục tiêu chiến lược cho toàn cầu, cho từng quốc gia, từng khu vực cũng như cho từng
đô thị.
Chính vì vậy, phát triển bền vững đã trở thành mục tiêu chiến lược cho toàn cầu, cho
từng quốc gia, cho từng khu vực, vùng đô thị, cũng như cho từng đô thị.
Theo kinh nghiệm của Cộng hòa Pháp, một đất nước đã rất thành công về quy hoạch,
phát triển và bảo vệ môi trường đô thị, điển hình trong số đó là thủ đô Paris. Mặt khác, về kinh tế
đô thị, Pháp cũng là một kinh nghiệm rất tốt về tính toán giá thành chi phí cho các giai đoạn
trong quá trình đô thị hóa. Các nhà quy hoạch Pháp cho rằng có hai giai đoạn tài chinh trong việc
đầu tư xây dựng đô thị theo quy hoạch, chủ yếu như 2 sơ đồ sau:
1.2. Phát triển đô thị bền vững:
1.2.1. Khái niệm về phát triển đô thị bền vững:
Trên cơ sở khái niệm chung về Phát triển Bền vững (PTBV), phát triển đô thị bền vững
(PTĐTBV) là một đối tượng và vật thể quan trọng trong xã hội phát triển và PTBV. Đô thị phát
triển bền vững vẫn được dựa trên nguyên tắc: Kinh tế đô thị - Môi trường đô thị và Văn hoá xã
hội đô thị. Phát triển đô thị bền vững được dựa trên một hệ thống nhóm các tiêu chí (Criteria)
trong đó có rất nhiều tiểu tiêu chí (Sub - criteria) cụ thể khác.
Như vậy, có thể thấy mối quan hệ giữa các tiêu chí PTĐTBV là một thể thống nhất, chặt
chẽ, hữu cơ. Thiếu một trong các nhóm tiêu chí cũng như các tiểu tiêu chí trong các nhóm tiêu
chí, đều có thể dẫn tới đô thị sẽ không thể phát triển lành mạnh và càng không thể phát triển đô
thị bền vững.
Trên cơ sở nguyên lý Phát triển bền vững, với đặc thù của một đô thị, khái niệm về Phát
triển Đô thị Bền vững có thể được hiểu là “mối quan hệ hữu cơ, mật thiết giữa các yếu tố cấu
thành đô thị” như :
1. Kinh tế đô thị:
Phát biểu tại diễn đàn “Phát triển bền vững đô thị Việt Nam 2023”, diễn ra ngày 8/11, Bộ trưởng
Bộ Xây dựng cho biết trong Nghị quyết 06-NQ/TW về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát
triển đô thị bền vững, Bộ Chính trị đã tổng kết những thành tựu đạt được của quá trình phát triển
đô thị Việt Nam sau 35 năm đổi mới. Đó là không gian đô thị được mở rộng; hạ tầng kỹ thuật, hạ
tầng kinh tế - xã hội được quan tâm đầu tư theo hướng ngày càng đồng bộ và hiệu quả; chất
lượng sống của cư dân đô thị từng bước nâng cao; đô thị hoá và phát triển đô thị trở thành động
lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội... Tính đến tháng 9/2023, toàn quốc có 902 đô
thị.
Bên cạnh kết quả tích cực, Nghị quyết 06-NQ/TW cũng thẳng thắn nêu ra một số bất cập: tỷ lệ
đô thị hoá đạt được vẫn thấp hơn mục tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011 -
2020 và còn khoảng cách khá xa so tỷ lệ bình quân của khu vực và thế giới. Không những thế,
chất lượng đô thị hoá chưa cao, phát triển đô thị theo chiều rộng là chủ yếu, gây lãng phí về đất
đai, mức độ tập trung kinh tế thấp. Kết cấu, chất lượng hạ tầng đô thị chưa đáp ứng yêu cầu phát
triển dân số lẫn kinh tế khu vực đô thị; chưa thích ứng với biến đổi khí hậu, ứng phó với dịch
bệnh quy mô lớn. Hơn nữa, ô nhiễm môi trường tại đô thị lớn có xu hướng gia tăng và diễn biến
phức tạp, gây nhiều tác động tiêu cực. Ngoài ra, khả năng tiếp cận dịch vụ công, cùng phúc lợi
xã hội của người nghèo, lao động di cư tại đô thị nhiều bất cập; năng lực quản lý, quản trị đô thị
yếu, chậm đổi mới.
Đề cập đến vấn đề này, bà Trần Thu Hằng, Vụ trưởng Vụ Quy hoạch kiến trúc, Bộ Xây dựng,
chia sẻ thêm: thời gian qua, công tác quy hoạch còn bất cập, chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn phát
triển đô thị hiện nay, từ đó chưa phát huy tốt vai trò định hướng phát triển không gian đô thị. Cụ
thể, một số quy chuẩn, tiêu chuẩn liên quan tới quy hoạch chưa bắt kịp xu hướng, nhu cầu và mô
hình phát triển mới.
Mặt khác, về phương pháp tiếp cận, việc quy hoạch hiện chưa liên kết chặt chẽ tới quản lý phát
triển đô thị, tới quá trình thực thi quy hoạch. Bao gồm việc thiếu lồng ghép những công cụ kiểm
soát triển khai quy hoạch, huy động nguồn lực cho phát triển đô thị. Các vấn đề xuyên suốt như
biến đổi khí hậu, giảm nghèo, nhà ở cho người thu nhập thấp…. chưa tích hợp đúng mức trong
công tác quy hoạch và quản lý đô thị. Quy hoạch đô thị vẫn phải điều chỉnh khá thường xuyên,
chưa có sự tham gia xuyên suốt giữa các bên liên quan, đặc biệt là cộng đồng dân cư.
“Những tồn tại, hạn chế nêu trên đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục chung tay, tập trung nhận diện
vấn đề và giải quyết, để hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách của Nhà nước”,
chuyên gia nhấn mạnh.
Trước thực trạng trên, ông Trần Quốc Thái, Cục trưởng Cục Phát triển đô thị, Bộ Xây dựng,
thông tin: nhằm cụ thể hóa quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp nêu ở Nghị quyết
06-NQ/TW của Bộ Chính trị, Cục Phát triển đô thị đã nghiên cứu, đề xuất, tham mưu cho Bộ
Xây dựng xây dựng 5 chính sách trong quản lý phát triển bền vững đô thị Việt Nam.
Chính sách 1 về phân loại, quản lý phát triển hệ thống đô thị bền vững, đồng bộ về mạng lưới và
phù hợp vùng miền: Quy định các tiêu chuẩn chất lượng sống tại đô thị; phát triển hệ thống đô
thị bền vững theo mạng lưới, phân bổ hợp lý, phù hợp với từng vùng, miền; bảo đảm đồng bộ,
thống nhất, cân đối giữa các vùng, miền; bảo đảm tính kết nối cao giữa các đô thị trực thuộc
Trung ương, đô thị trung tâm cấp quốc gia với đô thị vùng và khu vực nông thôn.
Chính sách 2 về quản lý phát triển mới, cải tạo chỉnh trang và tái phát triển đô thị hiện đại, xanh,
thông minh, hướng tới phát triển bền vững: Bảo đảm kết hợp đồng bộ, hài hoà giữa phát triển đô
thị mới với cải tạo, chỉnh trang, tái phát triển đô thị, phát triển đô thị có quy hoạch, kế hoạch,
định hướng hiện đại, đô thị xanh, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên
tai dịch bệnh.
Chính sách 3 về quản lý phát triển hệ thống hạ tầng đô thị đồng bộ, liên kết, thích ứng với biến
đổi khí hậu: Hoàn thiện hành lang pháp lý cho công tác quản lý phát triển và cung cấp dịch vụ hạ
tầng đô thị nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư, khai thác, sử dụng công trình hạ tầng kỹ thuật và bảo
đảm an sinh xã hội, nâng cao chất lượng dịch vụ hạ tầng xã hội và phát triển đa dạng không gian
công cộng đô thị.
Chính sách 4 về quản lý phát triển không gian ngầm đô thị: Thúc đẩy phát triển, khai thác sử
dụng không gian ngầm đô thị hiệu quả, bền vững, góp phần đa dạng hóa không gian phát triển
của đô thị.
Chính sách 5 về tăng cường phân cấp, phân quyền và nâng cao năng lực quản lý phát triển đô thị:
Đẩy mạnh đổi mới, hiện đại hóa, thiết lập nền tảng để chuyển đổi sang mô hình quản lý phát
triển đô thị dựa trên kết quả, nâng cao hiệu quả quản lý phát triển đô thị, quy định chuẩn hóa
năng lực nghiệp vụ quản lý phát triển đô thị gắn với tăng cường phân cấp, phân quyền, đề cao
trách nhiệm chính quyền địa phương và vai trò của cộng đồng trong quản lý phát triển đô thị.
Đóng góp ý kiến cho diễn đàn, bà Hằng lưu ý để quy hoạch đô thị hướng tới phát triển đô thị bền
vững cần tập trung vào phương pháp tiếp cận và triển khai lập quy hoạch đô thị hiện tại Việt
Nam; những phương pháp, quan điểm tiếp cận quy hoạch mới như phương pháp tích hợp,
phương pháp tiếp cận có sự tham gia trong quy hoạch đô thị phải được hiệu chỉnh và ứng dụng
cho phù hợp.
Theo ông Đỗ Hậu, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam, để
triển khai Nghị quyết số 06-NQ/TW của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát
triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, và khắc phục những tồn
tại, các giải pháp cần nghiên cứu một cách toàn diện và đồng bộ với sự tham gia của mọi tổ chức,
mọi thành phần trong xã hội.
Tập trung xây dựng Luật Quản lý phát triển đô thị bền vững
Để công tác quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam, đáp ứng yêu
cầu đặt ra của Bộ Chính trị và thực hiện mục tiêu của Nghị quyết 06-NQ/TW, Phó trưởng Ban
Kinh tế Trung ương Nguyễn Đức Hiển đề nghị các diễn giả, chuyên gia và đại biểu trao đổi, làm
rõ 5 vấn đề.
Thứ nhất là tiếp tục đổi mới tư duy thống nhất nhận thức về đô thị hóa và phát triển đô thị bền
vững theo tinh thần của Nghị quyết 06 của Bộ Chính trị hơn nữa. Thứ hai là chọn khâu đột phá
quan trọng nhất để xây dựng và phát triển đô thị bền vững là đổi mới toàn diện về phương pháp,
quy trình, nội dung và sản phẩm quy hoạch đô thị. Thứ ba là đẩy nhanh hoàn thiện đồng bộ thể
chế, chính sách tạo thuận lợi cho quá trình đô thị hóa, công tác quy hoạch, xây dựng, quản lý và
phát triển đô thị bền vững; trọng tâm là xây dựng Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn để quản lý
phát triển đô thị bền vững.
Thứ tư là thực hiện phân cấp và phân quyền mạnh mẽ hơn cho chính quyền các đô thị để việc
quản lý đô thị được thực hiện tốt hơn, hiệu quả hơn. Thứ năm là quán triệt quan điểm phát huy
và khai thác tốt các nguồn lực từ chính đô thị để nuôi dưỡng và phát triển đô thị. Thứ sáu là cấu
trúc lại không gian phát triển kinh tế đô thị; nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng mật độ kinh tế và
tính liên kết vùng, liên kết giữa các đô thị, liên kết giữa đô thị và nông thôn trong phát triển kinh
tế đô thị.
Đô thị hóa là tất yếu, là động lực của phát triển đô thị
Phát biểu khai mạc, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị cho biết: Diễn đàn đô thị Việt
Nam năm nay diễn ra trong bối cảnh các đô thị Việt Nam bước vào năm đầu tiên triển khai Nghị
quyết 06-NQ/TW ngày 24/01/2022 của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát
triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Bộ trưởng Nguyễn Thanh Nghị nhấn mạnh: Đây là lần đầu tiên Bộ Chính trị có một Nghị quyết
chuyên đề riêng về lĩnh vực quản lý và phát triển đô thị, qua đó khẳng định vai trò của hệ thống
đô thị Việt Nam, đồng thời định hướng chiến lược với những yêu cầu, nhiệm vụ, giải pháp rất
quan trọng cho phát triển đô thị Việt Nam trong giai đoạn mới.
Bên cạnh những thành tựu đạt được trong phát triển đô thị Việt Nam sau 35 năm đổi mới, Nghị
quyết 06-NQ/TW cũng đã thẳng thắn nêu ra những bất cập trong phát triển đô thị như: Tỷ lệ đô
thị hóa đạt còn thấp; Chất lượng đô thị hóa chưa cao; Mức độ tập trung kinh tế còn thấp; Kết cấu,
chất lượng hạ tầng đô thị chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển dân số và kinh tế khu vực đô thị;
Chưa thích ứng với biến đổi khí hậu, ứng phó với dịch bệnh quy mô lớn...
Để khắc phục các tồn tại nêu trên, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 148/NQ-CP về Chương
trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TW. Chương trình xác định đến
năm 2030, Việt Nam sẽ đẩy nhanh tốc độ và nâng cao chất lượng đô thị hóa, phát triển đô thị bền
vững theo mạng lưới, hình thành một số đô thị, chuỗi đô thị động lực thông minh kết nối với khu
vực và thế giới; Đến năm 2045, tỷ lệ đô thị hóa ở Việt Nam sẽ thuộc nhóm trung bình cao của
khu vực ASEAN và châu Á, xây dựng được ít nhất 5 đô thị đạt tầm cỡ quốc tế, giữ vai trò đầu
mối kết nối và phát triển với mạng lưới khu vực và quốc tế.
Bộ trưởng nhận định: Diễn đàn đô thị Việt Nam 2023 sẽ là cơ hội để các chính quyền đô thị, nhà
quản lý, chuyên gia, tổ chức và cộng đồng đối thoại, chia sẻ các tri thức, bài học, thực tiễn quan
trọng để cùng có những đề xuất, định hướng, cách làm hay để hiện thực hóa những nhiệm vụ
trọng tâm mà Nghị quyết 06-NQ/TW và Nghị quyết 148/NQ-CP.
Trên cơ sở này, Bộ trưởng Nguyễn Thanh Nghị đã đưa ra một số đề nghị về định hướng thúc đẩy
phát triển đô thị Việt Nam. Trong đó, chính quyền đô thị tại các địa phương cần quan tâm, phát
huy tính chủ động, bố trí nguồn lực, vật lực và nhân lực cho sự nghiệp phát triển đô thị tại địa
phương, tập trung đầu tư nâng cấp, cải thiện chất lượng đô thị song song với quá trình đô thị hóa.
Cán bộ thực hiện công tác quản lý phát triển đô thị cần chủ động nâng cao trình độ chuyên môn,
nâng cao năng lực hợp tác và phối hợp trong quá trình thực hiện công tác quản lý phát triển đô
thị.
Các tổ chức, cộng đồng dân cư cần tiếp tục nâng cao nhận thức về vai trò, trách nhiệm cộng đồng
đối với sự phát triển đô thị, chủ động đề xuất, tham vấn và đóng góp với các cơ quan tại địa
phương và Trung ương.
Bộ trưởng nhận định: Với tỷ lệ đô thị hóa toàn quốc ở mức 42,6% như hiện nay, Việt Nam vẫn
còn rất nhiều dư địa để phát triển đô thị. Vì vậy, Việt Nam cần có sự chuẩn bị tốt nhất trong thời
gian tới, để đô thị thực sự phát huy vai trò mà Bộ Chính trị đã chỉ ra, góp phần nâng cao hơn nữa
chất lượng sống của cộng đồng và gia tăng những giá trị thặng dư mới cho phát triển kinh tế, xã
hội và môi trường.
Chủ trương ứng dụng GIS trong quản lý phát triển đô thị bền vững tại Việt Nam
GIS là từ viết tắt của Geographic Information System, được hiểu là Hệ thống thông tin địa lý.
Hiện nay, GIS được ứng dụng phổ biến và rộng rãi trong nhiều lĩnh vực, nhưng chủ yếu nhất vẫn
là các ứng dụng trong lĩnh vực liên quan đến quản lý tài nguyên và môi trường.
Trong khoảng 5 năm trở lại đây, GIS ngày càng được quan tâm hơn và bắt đầu được nghiên cứu,
ứng dụng trong công tác khảo sát đo đạc, quản lý quy hoạch, cũng như quản lý hạ tầng kỹ thuật
(cây xanh, cấp nước,…)
Ý thức được vai trò và tầm quan trọng của GIS trong ngành xây dựng nói chung và trong công
tác quản lý đô thị nói riêng, Chính phủ và Bộ Xây dựng đã ban hành những chủ trương, văn bản
nhằm đưa ra chỉ đạo, định hướng về ứng dụng GIS trong công tác quản lý phát triển đô thị bền
vững. Một số văn bản, chỉ đạo cụ thể được đề cập đến trong:
Quyết định số 950/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển đô thị thông minh bền vững Việt
Nam giai đoạn 2018 – 2025 và định hướng đến năm 2030.
Quyết định số 950/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển đô thị thông minh bền vững Việt
Nam giai đoạn 2018 – 2025 và định hướng đến năm 2030.
Công văn số 1247/BXD-PTĐT về việc Hướng dẫn tổ chức thiết lập Hệ thống CSDL đô
thị liên thông trên nền GIS phục vụ phát triển đô thị thông minh.
Cùng với chủ trương đó, nhiều địa phương trên cả nước đã từng bước ứng dụng GIS vào công
tác quản lý đô thị và đạt được kết quả đáng chú ý như TPHCM, Bình Dương, Thái Bình, Bắc
Ninh, Sơn La, Huế,… Tại nhiều khu vực, GIS đã được sử dụng để quản lý cơ sở dữ liệu về quy
hoạch xây dựng thông qua thể hiện một cách trực quan trên nền tảng Web GIS; kết hợp GIS với
công nghệ viễn thám được sử dụng trong giám sát môi trường, quản lý tài nguyên nước, rừng,…
cùng với nhiều ứng dụng khác.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, mặt khác việc ứng dụng GIS trong quản lý phát triển đô thị
vẫn gặp phải nhiều khó khăn từ vướng mắc chính sách cũng như quy định chưa có tính thống
nhất và đầy đủ. Không những vậy, nhiều địa phương vẫn chưa thật sự quan tâm và sẵn sàng về
chuyên môn để ứng dụng GIS.
Nhằm khắc phục và giải quyết những khó khăn, vướng mắc khi ứng dụng GIS, ngày 14/04/2022,
Bộ Xây dựng đã ban hành công văn số 1247/BXD-PTĐT về hướng dẫn các tổ chức thiết lập hệ
thống cơ sở dữ liệu đô thị liên thông trên nền GIS.
Thế mạnh của GIS trong quản lý phát triển đô thị bền vững tại Việt Nam
Quản lý phát triển đô thị bền vững là một quá trình quản lý trong đó yếu tố bền vững là trọng
tâm cho sự phát triển. Sự phát triển đô thị bền vững được thể hiện qua 3 mặt, đó là kinh tế, xã hội
và môi trường.
Quản lý phát triển đô thị bền vững được thế hiện qua 3 mặt.
Công cụ quản lý, kỹ thuật hiện đại là những yếu tố không thể thiếu để có thể quản lý phát triển
đô thị bền vững. GIS được xem là một công cụ hiệu quả, chính xác cao với những thế mạnh như
mô hình hóa, phân tích không gian; cải thiện lưu trữ và tương tác dữ liệu; nâng cao khả năng truy
cập và chia sẻ. Cụ thể, các thế mạnh của GIS được ứng dụng trong quản lý phát triển đô thị bền
vững tại Việt Nam được thể hiện qua:
GIS được sử dụng trong đánh giá và mô hình hóa đô thị bằng cách gắn các vấn đề, tiêu
chí cụ thể cùng với các yếu tố vị trí, không gian địa lý, cung cấp dữ liệu trực quan, chính
xác, đáng tin cậy.
GIS giúp kiểm soát và đo lường các nguồn lực sẵn có, nhờ đó xác định được các ưu tiên
phát triển.
Ứng dụng GIS giúp hỗ trợ ra quyết định quản lý phát triển đô thị bền vững tại Việt Nam
Để đánh giá khả năng ứng dụng GIS trong quản lý phát triển đô thị bền vững, cần xem xét đến
mối liên hệ cùng với các tiêu chí về phát triển bền vững của đô thị. Trong nghiên cứu “Phân tích
chính sách đô thị hóa trong quá trình đô thị hóa tác động đến phát triển bền vững đô thị ở Việt
Nam” đã đề xuất 10 nhóm tiêu chí, bao gồm:
(1) Quy hoạch vùng và quy hoạch đô thị phù hợp với các vùng địa lý và điều kiện sinh
thái tự nhiên, bảo vệ môi trường;
(2) Kinh tế đô thị phát triển ổn định và bền vững tạo nhiều việc làm cho mọi thành phần
kinh tế và mọi người dân đô thị;
(3) Trình độ dân trí đô thị và nguồn lực phát triển đủ mạnh;
(4) Trình độ quản lý quy hoạch và phát triển đô thị bền vững;
(5) Dịch vụ đô thị đáp ứng yêu cầu phục vụ đô thị ngày càng cao;
(6) Cơ sở hạ tầng xã hội đô thị đáp ứng kịp thời và đầy đủ;
(7) Cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị đáp ứng kịp thời và đầy đủ;
(8) Lồng ghép quy hoạch môi trường trong quy hoạch xây dựng đô thị;
(9) Huy động cộng đồng tham gia công tác quy hoạch và quản lý xây dựng đô thị;
(10) Hợp tác, điều hành và quản lý xây dựng đô thị.
Dựa trên các nhóm tiêu chí trên, GIS có thể được ứng dụng trong hỗ trợ đưa quyết định về quản
lý phát triển đô thị bền vững, với các ứng dụng cụ thể bao gồm:
Tổng hợp, phân tích dữ liệu về kinh tế và xã hội nhằm hỗ trợ quy hoạch, lên kế hoạch xây
dựng.
Kiểm soát xung đột, lồng ghép yếu tố môi trường, đảm bảo tính bền vững.
Huy động cộng đồng tham gia vào quy hoạch và quản lý thông qua thu thập ý kiến, giám
sát,…
Kiểm soát tài nguyên, tình trạng môi trường, đánh giá tác động của môi trường.
Giám sát các chỉ số phát triển, quản lý đô thị hóa, kiểm soát thời gian thực tình hình xây
dựng,…
Giải pháp thu thập và tích hợp GIS hỗ trợ quản lý phát triển đô thị đang được cung cấp tại Đất
Hợp
Có thể nhận thấy rằng, hệ thống thông tin địa lý GIS ngày nay đã góp phần quan trọng trong
công tác quản lý phát triển đô thị bền vững tại Việt Nam. Đất Hợp hiện đang là một trong các
đơn vị hàng đầu về cung cấp trọn bộ thiết bị và phần mềm có thể đáp ứng được nhu cầu thu thập
và tích hợp GIS của quý khách hàng:
Trimble TerraFlex
Trimble Terra Office
Trimble Penmap for
Hãng Trimble
Android
Trimble Connect
Phần mềm
Global Mapper
Hãng Blue Marble Global Mapper Pro
Geographics Global Mapper Mobile
Hiện nay, tại thủ đô Hà Nội là nơi ô nhiễm nhằm trong top thế giới và đây cũng chính là ảnh
hưởng một phần nặng nề của biến đổi khí hậu do con người tạo nên. Bên cạnh đó, Việt Nam còn
bị ảnh hưởng của biến đổi khí hậu tác động đến nông nghiệp, đô thị hoá, và môi trường biển.
Về nông nghiệp, biến đổi khí hậu đã gây ra thay đổi trong mùa mưa tại Việt Nam, dẫn đến sự
khó khăn trong việc quản lý nguồn nước cho cây trồng. Nhiệt độ cao gây ra hạn hán lâu dài làm
ảnh hưởng đến sự phát triển của cây trồng và gia súc, gây ra sự mất mát trong sản lượng nông
sản. Trong đó, Đồng bằng sông Cửu Long là một trong những đồng bằng lớn nhất thế giới, hiện
là nơi sinh sống của 17 triệu người và cung cấp hơn một nửa sản lượng lúa gạo của Việt Nam.
Khu vực này đang phải đối mặt với một số mối đe dọa: một số phát sinh từ biến đổi khí hậu đang
diễn ra và một số khác từ các hoạt động của con người ở vùng đồng bằng hoặc thượng nguồn
Về đô thị hoá, tại các thành phố lớn như Hà Nội và TP.HCM, hoặc các vùng cao, vùng ven biển,
… hiện tượng mực nước biển dâng cao có thể gây ra nguy cơ ngập úng và sạt lở, sút lún đất đai.
Việc xây dựng không quản lý hợp lý và việc khai thác nước dưới đất làm gia tăng sự yếu đuối
của hạ tầng đô thị trước các hiểm hoạ này. Tầm nhìn trong ngắn hạn và trung hạn, một số khu
vực đồng bằng có thể tụt xuống dưới mực nước biển không phải do biến đổi khí hậu mà do các
hoạt động của con người ở đồng bằng. Đồng bằng thực sự đang mất đi độ cao, với tốc độ cao
hơn nhiều so với mực nước biển dâng toàn cầu. Việc khai thác quá mức nước ngầm đang gây ra
hiện tượng sụt lún, tức là sự hạ thấp dần bề mặt đất do trầm tích bị nén chặt. Tỷ lệ sụt lún có thể
đạt tới vài cm mỗi năm ở một số nơi. Ảnh hưởng của băng tan dẫn đến tốc độ nước biển dâng
hiện nay khoảng 3,6 mm/năm trong khi tốc độ sụt lún có thể lên tới 5 cm/năm.
Về dự báo khí hậu trong tương lai, vào cuối thế kỷ này, nhiệt độ được dự báo sẽ tăng từ ~1,3°C
theo kịch bản phát thải toàn cầu khí nhà kính thấp (kịch bản RCP2.6) và lên ~4,2°C theo kịch
bản phát thải cao (kịch bản RCP8.5), với tốc độ tăng nhanh hơn ở miền Bắc so với miền Nam.
Lượng mưa hàng năm được dự báo cũng sẽ tăng ở hầu hết các khu vực, nhưng với sự phân bổ
theo mùa khác nhau.
Sự gia tăng nhiệt độ trong thời gian dài và kỷ lục đang ảnh hưởng mạnh đến hệ sinh thái biển,
đặc biêt là rạn san hô và cáp đá, mà Việt Nam có một số lượng lớn. Rạn san hô bị ấm lên có thể
gây ra hiện tượng chết rạn, mất mát động thực vật biển, và ảnh hưởng dến nguồn cung cáp thực
phẩm và đặc biệt là về mặt kinh tế từ du lịch biển hay đánh bắt thuỷ hải sản.
Việc ứng phó với biến đổi khí hậu cần sự hợp tác từ cả cộng đồng quốc tế và cấp chính phủ, địa
phương. Việt Nam cần đẩy mạnh các biện pháp bảo vệ môi trường, giảm thiểu hiệu ứng nhà
kính, và phát triển nông nghiệp bền vững. Chúng ta cần chấp nhận thực tế rằng biến đổi khí hậu
đã và đang ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta và cần phải có kế hoạch dự phòng để giảm
thiểu tác động xấu.
Chính vì thế nên có những biện pháp làm thay đổi cục diện khí hậu của Việt Nam như khuyến
khích sử dụng năng lượng tái tạo chuyển từ năng lượng từ các nguồn nhiên liệu hoá thạch sang
năng lượng tái tạo như điện gió, năng lượng mặt trời và thuỷ điện sẽ giúp giảm lượng khí nhà
kính thải ra môi trường và giảm tác động của biến đổi khí hậu. Bảo vệ rừng và hệ sinh thái biển
đóng vai trò quan trọng trong việc hấp thụ CO2 và duy trì sự cân bằng sinh thái
Trung tâm Dự báo Khí tượng thủy văn Quốc gia đã đưa ra các dự báo cụ thể về lượng mưa từ
tháng 8 đến tháng 12/2023 ở các khu vực trên phạm vi toàn quốc. Cụ thể, khu vực Bắc Bộ, từ
tháng 8-9/2023, tổng lượng mưa tại khu vực vùng núi phổ biến thấp hơn trung bình nhiều năm từ
5-10%. Vùng trung du ở mức xấp xỉ trung bình nhiều năm. Khu vực đồng bằng và ven biển cao
hơn khoảng 5-15% so với trung bình nhiều năm cùng thời kỳ. Tháng 10/2023 tổng lượng mưa
phổ biến xấp xỉ trung bình nhiều năm cùng thời kỳ. Tháng 11-12/2023, tổng lượng mưa phổ biến
cao hơn khoảng từ 10-25% so với trung bình nhiều năm cùng thời kỳ.
Tại khu vực Trung Bộ, tháng 8/2023, tổng lượng mưa cao hơn khoảng 5-20% so với trung bình
nhiều năm cùng thời kỳ, tháng 9/2023 ở mức xấp xỉ trung bình nhiều năm, tháng 10/2023 thấp
hơn từ 10-25%. Riêng Nam Trung Bộ thấp hơn 5-15% so với trung bình nhiều năm cùng thời kỳ.
Tháng 11/2023, tổng lượng mưa tại khu vực Thanh Hóa đến Quảng Bình cao hơn từ 10-20% so
với trung bình nhiều năm. Tổng lượng mưa tại khu vực Quảng Trị đến Bình Thuận phổ biến thấp
hơn từ 10-20%. Tháng 12/2023, khu vực từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên - Huế phổ biến cao hơn
từ 10-20%. Khu vực từ Đà Nẵng đến Bình Thuận phổ biến xấp xỉ so với trung bình nhiều năm
cùng thời kỳ.
Tại khu vực Tây Nguyên và Nam Bộ, tháng 8/2023, tổng lượng mưa phổ biến cao hơn khoảng 5-
20%, tháng 9/2023 cao hơn khoảng 5-15%, riêng tháng 10 tổng lượng mưa ở mức thấp hơn
khoảng 5-10% so với trung bình nhiều năm cùng thời kỳ. Tháng 11/2023 tổng lượng mưa ở mức
thấp hơn từ 5-20% so với trung bình nhiều năm cùng thời kỳ; tháng 12/2023 phổ biến ít mưa
(tổng lượng mưa phổ biến xấp xỉ trung bình nhiều năm cùng thời kỳ).
Do có thể gây thiếu hụt lượng mưa trong các tháng cuối năm 2023 và ít mưa trong những tháng
đầu năm 2024, các cấp chính quyền và người dân cần có những biện pháp sử dụng nguồn nước
tiết kiệm, hiệu quả, thay đổi những loại cây trồng có khả năng chịu hạn trong những tháng mùa
đông xuân năm 2023-2024, đặc biệt ở các khu vực phía Nam.
Nước biển dâng ở Việt Nam
Theo đánh giá của các tổ chức nghiên cứu quốc tế có uy tín, như: Ngân hàng Thế giới (WB),
Trung tâm Nghiên cứu các Hệ thống môi trường (CESR), Cơ quan Hàng không và Không gian
Mỹ (NASA),… Việt Nam là một trong 05 quốc gia trên thế giới bị ảnh hưởng nghiêm trọng do
nước biển dâng. Các số liệu quan trắc tại các trạm hải văn ven biển nước ta giai đoạn 1993 -
2010 cho thấy, mực nước trung bình ở Biển Đông tăng khoảng 4,7 mm/năm; trong đó, riêng Việt
Nam có mức tăng trung bình khoảng 2,8 mm/năm. Gần đây, các dự báo cũng đều khẳng định,
mực nước biển của nước ta có thể tăng thêm 33,3 cm vào năm 2050, 45 cm vào năm 2070 và
khoảng 01 m vào năm 2100. Nếu kịch bản này diễn ra, nhiều khu vực đất liền ven biển và vùng
đất trũng sẽ bị chìm trong nước; thậm chí, có khu vực sẽ bị ngập sâu vĩnh viễn. Ví dụ, nếu nước
biển dâng cao 01 m thì 4,4% lãnh thổ Việt Nam bị ngập vĩnh viễn, 10% dân số bị ảnh hưởng trực
tiếp và tỷ lệ các khu vực bị ngập nặng theo thứ tự là, đồng bằng sông Hồng: 17,57%, các tỉnh
ven biển miền Trung (từ Thanh Hóa đến Bình Thuận): 1,47%, Thành phố Hồ Chí Minh: 17,84%
và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu là 4,79%. Đặc biệt, đồng bằng sông Cửu Long sẽ là khu vực có nguy
cơ ngập cao nhất (khoảng 39,40% diện tích); trong đó, tỉnh Kiên Giang có thể ngập đến 75%
diện tích. Các đảo có nguy cơ ngập cao nhất là: Vân Đồn, Côn Đảo và Phú Quốc
Việt Nam được đánh giá là một trong các quốc gia chịu ảnh hưởng nghiêm trọng do nước biển
dâng, đặc biệt là đối với khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) – có nền địa hình thấp so
với mực nước biển trung bình. Theo nghiên cứu của Minderhoud và cộng sự (2017), giai đoạn
1991-2016, ĐBSCL ở Việt Nam bị sụt lún trung bình ~ 18 cm do hậu quả của việc khai thác
nước ngầm, với tỷ lệ sụt lún cao nhất ước tính là 11 mm năm 2015 (Minderhoud và cộng sự,
2017) [8].
Ngoài những công bố về các dự tính sự thay đổi của các yếu tố tự nhiên trong thông báo của
IPCC thì còn có nhiều kết quả dự tính của các nhà nghiên cứu độc lập, trong số đó có các nhà
khoa học của tổ chức Climate Central.
Năm 2019, Scott A. Kulp và Benjamin H. Strauss thuộc Climate Central đã công bố một kết quả
nghiên cứu trên tạp chí Nature Communications, trong đó đã đưa ra những nhận định về nguy cơ
ngập gây ra bởi nước biển dâng cho các khu vực trũng thấp ven biển trên thế giới, trong đó có
Việt Nam. Các tác giả nhận định nước biển dâng có thể ảnh hưởng đến số lượng người cao hơn
gấp ba lần so với những dự báo trước đó, thậm chí là xóa sổ một số thành phố ven biển [7].
Cũng trong năm đó, Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu (Viện
KHKTTV&BĐKH) đã có thông tin chia sẻ để có cái nhìn rõ hơn trong việc đánh giá nguy cơ
ngập đối với ĐBSCL nói chung và TPHCM nói riêng. Quan điểm của Viện KHKTTV&BĐKH
cho rằng: thông tin “vào năm 2050, TP Hồ Chí Minh và ĐBSCL sẽ bị “xoá sổ”” là chưa đủ cơ sở
khoa học và mới chỉ dựa trên các giả định cực đoan.
Năm 2021, Climate Center tiếp tục công bố những cảnh báo mới về nguy cơ ngập đối với các
khu vực trũng thấp ven biển trên thế giới [10]. Trong thông báo mới, Climate Central cảnh báo 9
thành phố lớn ven biển, trong đó có TP. Hồ Chí Minh có thể bị ngập sớm hơn và số lượng người
dân chịu ảnh hưởng sẽ nhiều hơn so với dự tính trước đây. Điều đáng quan tâm là TP. Hồ Chí
Minh tiếp tục được cảnh báo có thể bị “nhấn chìm” trước năm 2030 (tức là chưa đầy 1 thập kỷ
tính từ bây giờ) đặc biệt là khu vực phía Đông thành phố có thể bị ngập trước.
Các nhận định này được đưa ra dựa trên kết quả tính toán bản đồ nguy cơ ngập mới nhất được
xây dựng của Climate Central. Số liệu phục vụ xây dựng các bản đồ nguy cơ ngập dựa trên dự
tính nước biển dâng mới được IPCC công bố và bộ số liệu mô hình độ cao số ven bờ
(CoastalDEM). CoastalDEM (Kulp và Strauss, 2018) được phát triển dựa trên số liệu SRTM 3.0
từ radar vệ tinh của NASA vào năm 2000 [6]. SRTM có chứa lỗi ngẫu nhiên do các yếu tố như
cấu trúc liên kết, thảm thực vật, các tòa nhà và nhiễu. Climate Central đã sử dụng kỹ thuật học
máy (từ 51 triệu điểm khảo sát thực địa trên toàn thế giới) để ước tính sai số độ cao SRTM ở các
khu vực ven biển trong khoảng độ cao từ 1 đến 20 mét (3,3 và 65,6 feet) và là độ cao danh nghĩa.
Mỗi điểm ảnh (pixel) của dữ liệu CoastalDEM được tạo ra đại diện cho độ cao đã hiệu chỉnh tại
điểm đó, có tính đến bù trừ lỗi ước tính cho SRTM 3.0. Climate Central đã chuyển đổi dữ liệu độ
cao được tham chiếu trên mực triều cao trung bình của địa phương (tính toán từ số liệu độ cao bề
mặt biển đo bằng vệ tinh và sử dụng các mô hình thủy triều toàn cầu), và so sánh các độ cao này
với dự tính mực nước biển dâng theo Kopp và cộng sự (2014) [5] để tìm các khu vực có thể vĩnh
viễn nằm dưới mức triều cường trong những thập kỷ tới. Climate Central đã bổ sung vào số liệu
thống kê nguy cơ ngập lụt ở địa phương một mức xấp xỉ mực nước hồi kỳ một năm (Muis và
cộng sự, 2016), cho phép phân tích kết hợp mực nước của các đợt ngập lụt cùng với mực nước
biển dâng dự tính khi xác định khu vực có nguy cơ rủi ro cao [9]. Dưới đây là kết quả thể hiện
nguy cơ ngập ở khu vực Đông TP. Hồ Chí Minh (bao gồm Quận 2, Quận 9 và Quận Thủ Đức)
với các mực nước biển dâng là 0.2m và 1m, tương ứng với nước biển dâng theo kịch bản cao của
Việt Nam vào năm 2050 và 2100.
(a) (b)
Hình 1. Mức độ ngập khu vực TP. Hồ Chí Minh với mực nước dâng 0.2 m (a) và 1 m (b)
Như vậy, bản đồ nguy cơ ngập mới nhất của Climate Central chỉ có sự cập nhật số liệu
dự tính mực nước biển dâng của IPCC mà chủ yếu là nhận định mực nước biển dâng toàn cầu
vào cuối thế kỷ 21 cao hơn do sự đóng góp nhiều hơn của lượng băng tan ở Nam Cực.
Đối với TP. Hồ Chí Minh, nếu căn cứ vào các cơ sở dữ liệu được sử dụng trong các công
bố quốc tế thì độ cao trung bình của thành phố hiện xấp xỉ mực nước biển trung bình. Những lúc
triều cường, mực nước biển sẽ cao hơn địa hình thành phố. Dù tốc độ tan băng được cho là xảy
ra nhanh hơn so với dự tính trước đây, nhưng mực nước biển dâng trung bình chỉ vào khoảng 2-4
mm/năm; nghĩa là từ nay đến năm 2030, mực nước biển tăng khoảng 2-4 cm, chỉ tương đương
mức độ sụt lún (2-4 cm/năm). Ngoài ra, thành phố còn nhiều khu vực có hệ thống đê bao, cống
ngăn triều, đường giao thông có mặt bằng cao hơn mực nước biển trung bình.
Vì vậy, việc cảnh báo TP Hồ Chí Minh có thể bị chìm dưới mực nước biển vào năm 2030
là lời cảnh báo đáng quan tâm nhưng không nên hiểu là nó sẽ xảy ra thực sự, gây bất an cho
người dân. Cũng cần lưu ý là kết quả dự tính mực nước biển dâng có tính bất định (không chắc
chắn) rất cao do các mô hình chưa mô tả được một cách đầy đủ và chính xác các quá trình nhiệt
động lực học băng (cả băng biển và băng lục địa).
Nguy cơ ngập khu vực Thành phố Hồ Chí Minh theo kịch bản biến đổi khí hậu
Để đánh giá nguy cơ ngập khu vực thành phố Hồ Chí Minh theo kịch bản biến đổi khí hậu, Viện
KH KTTVBĐKH tiến hành nghiên cứu dựa trên các nguồn số liệu về: (1) dự tính mực nước biển
dâng; (2) Số liệu địa hình chi tiết, mới nhất của Bộ TNMT; (3) Kết quả đánh giá mức độ sụt lún;
(4) mức độ ngập do triều cường. Cụ thể như sau:
Năm 2019, IPCC đã công bố Báo cáo đặc biệt về biến đổi khí hậu và băng quyển đại dương
(SROCC). Báo cáo đề cập đến kết quả của các nghiên cứu gần đây cho thấy, mực nước biển
đang tăng nhanh do băng tan ở cả 2 khu vực Greenland và Nam Cực (độ tin cậy rất cao). Tan
băng ở Nam Cực trong giai đoạn 2007 – 2016 gấp ba lần so với giai đoạn 1997 – 2006. Đối với
Greenland, khối lượng băng tan gấp hai lần trong cùng giai đoạn. Việc băng tan nhanh ở Nam
Cực được quan sát thấy ở vùng biển Amundsen ở Tây Nam Cực và ở Wilkes Land, Đông Nam
Cực (độ tin cậy rất cao) dẫn đến mực nước biển trung bình toàn cầu dâng cao hơn so với dự tính
trước đây. Trong báo cáo này, kịch bản nước biển dâng đã có những thay đổi đáng kể do đã đánh
giá lại đóng góp của băng tan ở Nam Cực. Cụ thể, dự tính mực nước biển trung bình toàn cầu
vào năm 2100 theo kịch bản RCP8.5 trong SROCC là 84 cm cao hơn 10 cm so với số liệu trong
AR5.
Dự tính mực nước biển dâng toàn cầu thay đổi dẫn đến dự tính ở các khu vực khác nhau trên thế
giới cũng thay đổi. Vì vậy, kịch bản nước biển dâng cho Việt Nam phiên bản 2020 đã được cập
nhật theo số liệu công bố mới nhất này (SROCC, 2019).
Kết quả dự tính mới nhất cho thấy mực nước biển dâng khu vực Biển Đông và ven biển Việt
Nam không có sự khác biệt đáng kể so với dự tính trước đây (kịch bản năm 2016, khi chưa tính
đến sự đóng góp nhiều hơn của băng tan ở Nam Cực).
Đối với khu vực thành phố Hồ Chí Minh, các dữ liệu sau phản ánh về xu thế nước biển dâng ở
khu vực [3]:
Số liệu đo mực nước tại trạm Vũng Tàu cập nhật đến năm 2018 cho thấy tốc độ tăng mực nước
là 2,9mm/năm. Theo số liệu đo từ vệ tinh thì mực nước có xu thế tăng chậm hơn ở các tỉnh từ
TP. Hồ Chí Minh đến Trà Vinh với mức tăng là 2,2÷2,5 mm/năm.
Như vậy, xu thế tăng mực nước khu vực TP. Hồ Chí Minh ước tính lớn nhất khoảng 3 mm/năm.
Nếu so với thời kỳ 1986 – 2005, đến năm 2030 (sau 25 năm) thì mực nước biển khu vực
TP. Hồ Chí Minh sẽ dâng khoảng 7,5 cm và đến 2050 (sau 45 năm) là 13,5 cm.
Kết quả dự tính mực nước biển dâng theo kịch bản cực đoan nhất (RCP 8.5) so với thời kỳ 1986-
2005 cho khu vực TP. Hồ Chí Minh cho thấy:
– Năm 2030: mực nước biển dâng 14 cm (7 cm – 18 cm), so với kết quả dự tính trong phiên bản
2016 là 12 cm (8 cm- 17 cm).
– Năm 2050: mực nước biển dâng 27 cm (14 cm – 37 cm), so với kết quả dự tính trong phiên bản
2016 là 25 cm (16 cm- 35 cm)
Có thể thấy những giá trị dự tính trong phiên bản 2020 không có sự khác biệt đáng kể so với dự
tính trong kịch bản 2016. Điều này chứng tỏ rằng mặc dù mực nước biển dâng toàn cầu được dự
tính cao hơn và diễn ra nhanh hơn nhưng ảnh hưởng đến khu vực ven biển Việt Nam là
không lớn.
Về mức độ chi tiết của số liệu địa hình dựa trên Cơ sở dữ liệu địa lý khu vực thành phố Hồ Chí
Minh và lân cận mới nhất đến năm 2021 (DEM):
Hình 2. Sơ đồ bay chụp vùng quét Lidar hai phân khu thành phố Hồ Chí Minh 1 (c8a-19 và
c9a19) (Nguồn: Cục Đo đạc Bản đồ và Thông tin địa lý Việt Nam)
– Cơ sở dữ liệu địa lý quốc gia ở tỷ lệ 1:2.000 khu vực nội thành gắn với mô hình số độ
cao độ chính xác 0,15m, tương đương với 429 mảnh.
– Cơ sở dữ liệu địa lý quốc gia ở tỷ lệ 1:2.000 khu vực ngoại thành gắn với mô hình số độ
cao độ chính xác 0,30m, tương đương với 489 mảnh.
– Cơ sở dữ liệu địa lý quốc gia ở tỷ lệ 1:2.000 khu vực thị trấn Cần Thạnh gắn với mô
hình số độ cao độ chính xác 0,30m, tương đương với 30 mảnh.
– Cơ sở dữ liệu địa lý quốc gia ở tỷ lệ 1:5.000 khu vực phía Tây, Nam thành phố bao gồm
các huyện Hóc Môn, Bình Chánh, một phần của quận Bình Tân và một phần huyện Nhà Bè gắn
với mô hình số độ cao độ chính xác 0,30m, tương đương với 31 mảnh.
– Cơ sở dữ liệu địa lý quốc gia ở tỷ lệ 1:5.000 khu vực huyện Cần Giờ (trừ thị trấn Cần
Thạnh) gắn với mô hình số độ cao độ chính xác 0,80m, tương đương với 73 mảnh.
Kết quả đo đạc cùng một giai đoạn với ước tính của Climate Central (2005-2016) và hiện trạng
sụt lún, triều cường năm 2021 cho thấy tốc độ sụt lún ở TP. Hồ Chí Minh là lớn nhất ở khu vực
trung tâm và có tốc độ sụt lún khoảng 10 cm chủ yếu tại khu vực phía Nam và 1 phần nhỏ tại
phía Đông, phía Tây theo phương thẳng đứng và có xu thế dịch chuyển chính về phía Đông Nam
thành phố theo phương nằm ngang, các khu vực ngoại thành có tốc độ thấp hơn (Đông TP. Hồ
Chí Minh). Dựa trên các số liệu dự tính về mực nước biển dâng, số liệu DEM lidar của thành
phố, bản đồ nguy cơ ngập cho khu vực TP. Hồ Chí Minh đã được xây dựng cho các mức nước
biển dâng gồm 13 cm vào năm 2030 (được xây dựng và công bố trong Kịch bản biến đổi khí
hậu) [3].
Hình 3. Sơ đồ phân vùng lún giai đoạn 2005-2015 tại TP. Hồ Chí Minh
(Nguồn: Cục Đo đạc Bản đồ và Thông tin địa lý Việt Nam, 2019)
Hình 4. Bản đồ nguy cơ ngập do nước biển dâng 13cm
khu vực TP. Hồ Chí Minh
Hình 5. Bản đồ nguy cơ ngập do nước biển dâng 13 cm khu vực Đông TP. Hồ Chí Minh (Nguồn:
IMHEN, 2021)
Đối với mực nước biển dâng 13 cm, diện tích ngập trên khu vực TP. Hồ Chí Minh chủ yếu xảy
ra ở phía Tây thuộc các huyện Củ Chi, Hóc Môn và Bình Chánh với diện tích ngập khoảng
6.34%, còn ở TP. Thủ Đức chỉ có các điểm ngập cục bộ với diện tích ngập khoảng 10.34%.
(a)
(b)
Hình 6. So sánh kịch bản ngập do triều cường cấp độ III với kịch bản ngập 100 cm
của Climate Central: (a) IMHEN, 2021; (b) Climate Central, 2021
Nghiên cứu diện tích ngập thông qua chỉ số độ mặn đại diện cho sự xâm nhập của nước biển khi
triều cường dâng cao vào trong thành phố. Kết quả cho thấy diện tích bị ngập do triều cường
trong thành phố cũng chủ yếu ở khu vực phía Tây thành phố, khu vực TP. Thủ Đức có tỷ lệ ngập
ít hơn. Xét trên toàn thành phố tỷ lệ diện tích bị ngập khi triều cường ít hơn nhiều so với kết quả
thể hiện trên bản đồ ngập của Climate Central.
Nhận xét
Có thể thấy các kết quả dự tính của Climate Central dựa trên số liệu quy mô toàn cầu và các kịch
bản cực đoan nên đã đưa ra các cảnh báo có mức độ trầm trọng hơn. Kết quả tính toán của các
nhà khoa học Việt Nam được dựa trên các nguồn số liệu chi tiết, chính xác và cập nhật hơn nên
có mức độ cảnh báo ít trầm trọng hơn. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng trong tất cả các dự tính
đều có sự chưa chắc chắn do các mô hình chưa thể mô phỏng đầy đủ và chính xác các quá trình
nhiệt động lực học băng và nhiều nguyên nhân khác.
Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường chuẩn bị công bố cập nhật kịch bản BĐKH phiên bản
năm 2021. Trong đó các bản đồ nguy cơ ngập đã được xây dựng dựa trên số liệu mô hình số độ
cao tỉ lệ 1:2.000 chi tiết và cập nhật đến năm 2020. Theo các dữ liệu dự tính của các nhà khoa
học Việt Nam thì khu vực ĐBSCL và TP. Hồ Chí Minh vẫn là khu vực có nguy cơ cao nhất chịu
tác động của nước biển dâng do BĐKH. Về mức độ và thời gian có thể chưa đến mức nguy cơ
báo động như thông báo của Climate Central. Tuy nhiên đây cũng là một thông điệp cần quan
tâm để có chiến lược, phương án quy hoạch hợp lý phòng chống tác động của nước biển dâng
đang hiện hữu và có thể nghiêm trọng hơn trong tương lai.
Đường đi của các cơn bão đổ bộ vào Biển Đông và Việt Nam trong 70 năm qua
Tiêu chí và phạm vi đánh giá được P-GIS thống nhất như sau:
Lựa chọn những cơn bão đổ bộ vào đất liền: Đường đi của bão phải đi qua địa phận đất
liền của Việt Nam. Những cơn bão chỉ đi vào vùng biển Việt Nam nhưng không vào đất
liền thì không được tính.
Một cơn bão đi qua địa phận một tỉnh thì tỉnh đó được coi là có bão đi qua. Những tỉnh
lân cận tuy chịu ảnh hưởng của bão nhưng vẫn không được tính là có bão đi qua.
Với quy ước như trên, phân tích này có thể chưa thực sự phản ánh mức độ ảnh hưởng của bão
đối với các tỉnh cận kề đường đi của bão nhưng không được tính là có bão đi qua. Tuy nhiên,
nhìn vào các thống kê qua nhiều năm, chúng ta có thể thấy đất nước và con người Việt Nam đã
và đang trải qua nhiều khó khăn do ảnh hưởng của thiên tai. Dưới đây là một số tiêu chí phân
tích do P-GIS tiến hành:
Tỉnh nào có bão đi qua nhiều nhất
Tỉnh nào có mức độ cảnh báo cao nhất
Năm nào xuất hiện nhiều bão nhất
Tháng nào bão vào nhiều nhất
Tốc độ gió lốc phổ biến nhất
Cái tên nào xứng danh đệ nhất bão
Tỉnh nào có bão đi qua nhiều nhất
Tỉnh Số lượng
Tp. Đà Nẵng 41
Khánh Hòa 32
Quảng Ninh 30
Hà Tĩnh 24
Thanh Hóa 23
Quảng Bình 22
Bình Định 18
Nghệ An 18
Gia Lai 17
Đắk Lắk 14
Trong 70 năm qua, Tp. Đà Nẵng và Khánh Hòa có số lượng các cơn bão đi qua lớn nhất. Số liệu
này chưa tính đến cường độ của bão mà chỉ phản ánh số lượng. Tính trung bình, ở hai tỉnh này,
mỗi năm có 1 cơn bão trực tiếp đi qua địa phận tỉnh.
Tp. Hải
PARMA 68 2009
Phòng
ED Nghệ An 54 1990
Bà Rịa-Vũng
TERESA 52 1994
Tàu
ED Hà Tĩnh 52 1990
Bà Rịa-Vũng
THELMA 51 1991
Tàu
Mức độ cảnh báo trong bảng trên thể hiện giá trị trung bình của tất cả các cơn bão đi qua địa
phận tỉnh trong 70 năm. Có thể thấy, ba tỉnh Hải Phòng, Thanh Hóa và Nghệ An luôn phải hứng
chịu những cơn bão có mức độ cảnh báo rất cao.
Mức độ cảnh báo trung bình 70 năm của các tỉnh xếp đầu bảng
Trong công tác quy hoạch sản xuất nông nghiệp, việc sử dụng các thông tin về mức độ cảnh báo
bão sẽ giúp các nhà hoạch định lựa chọn chính xác các nhóm cây trồng phù hợp với điều kiện địa
phương hơn, đặc biệt khả năng chống chịu gió mạnh và mưa lớn.
Dưới đây là danh sách tốp 10 các năm có số lượng bão lớn nhất trong 70 năm qua.
1973 23
1972 18
1990 18
1964 15
2018 15
1952 14
1983 14
1994 14
1995 14
1974 13
Đây là con số thống kê trên toàn lãnh thổ Việt Nam qua các năm. Có thể thấy, 1973 là năm
"đỉnh" của số lượng các cơn bão đổ bộ vào Việt Nam. Cho dù cường độ của chúng có thể không
mạnh bằng những cơn bão năm 1989 hay 1994, chúng ta cũng có thể thấy kỷ lục này còn lâu mới
có thể bị phá vỡ.
Tốp 10 các năm có số lượng các cơn bão đổ bộ vào Việt Nam nhiều nhất
3 4
4 4
5 9
6 28
7 50
8 66
9 94
10 97
11 82
12 21
Trong 70 năm qua, các tháng 9 và 10 dương lịch là hai tháng "vô địch" về số lượng các cơn bão
đổ bộ vào đất liền thuộc địa phận Việt Nam.
Số lượng các cơn bão đổ bộ vào Việt Nam phân bố theo tháng trong 70 năm qua