You are on page 1of 28

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM


KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
--  --

MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ
PHỤ NỮ VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TRONG
VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ VỀ QUYỀN PHỤ
NỮ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
GVHD: TS. Thái Ngọc Tăng

SVTH MSSV

Lê Thị Trúc Mai 21116193

Trần Thị Thảo Na 22124203

Vũ Minh Nghĩa 21131193

Nguyễn Tiểu Ngọc 21131195

Mã LHP LLCT120314_22_2_44

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 3 năm 2023


ĐIỂM SỐ

TIÊU CHÍ NỘI DUNG BỐ CỤC TRÌNH BÀY TỔNG


ĐIỂM

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

Ký tên
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ

TT NHIỆM VỤ THỰC HIỆN KẾT QUẢ

Lê Thị Trúc Mai


Phần mở đầu
(LLCT120314_22_2_44
1 Chương 1 100%
)
Thuyết trình
(Sáng thứ 2 –Tiết 5,6)
Tổng hợp file làm tiểu Trần Thị Thảo Na
luận (LLCT120314_22_2_44
2 100%
Phần kết luận )
Thuyết trình (Sáng thứ 2 –Tiết 5,6)
Vũ Minh Nghĩa
Làm powpoint
(LLCT120314_22_2_44
3 Tổng hợp file làm tiểu 100%
)
luận
(Sáng thứ 2 –Tiết 5,6)
Nguyễn Tiểu Ngọc
Chương 2
(LLCT120314_22_2_44
4 Thuyết trình 100%
)
Làm powpoint
(Sáng thứ 2 –Tiết 5,6)
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................................1

1. Lý do chọn đề tài....................................................................................................1

2. Mục tiêu và nhiệm vụ của tiểu luận.......................................................................1

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..........................................................................2

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.............................................................2

5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn...................................................................3

6. Kết cấu tiểu luận.....................................................................................................3

NỘI DUNG.....................................................................................................................4

CHƯƠNG 1: CÁC VẤN ĐỀ VỀ PHỤ NỮ VÀ QUAN ĐIỂM CỦA TƯ TƯỞNG


HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ PHỤ NỮ......................................................................4

1.1. Khái niệm quyền phụ nữ và các quyền phụ nữ.....................................................4

1.2. Khái niệm quyền bình đẳng giới...........................................................................4

1.3. Lịch sử về phong trào nữ quyền thế giới...............................................................5

1.4. Những dấu ấn trong phong trào phụ nữ Việt Nam đến ngày nay.........................7

CHƯƠNG 2: QUAN ĐIỂM TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ PHỤ NỮ


VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ
VỀ PHỤ NỮ NƯỚC TA HIỆN NAY..........................................................................9

2.1. Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề phụ nữ:.........................................9

2.2. Quan điểm tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề phụ nữ................................................9

2.2.1. Nhận định của Hồ Chí Minh về bình đẳng giới:...................................................9

2.2.2. Tính cấp thiết trong việc thực thi quyền bình đẳng giới.....................................10

2.3. Hồ Chí Minh khẳng định vị thế và vai trò của phụ nữ trong xã hội:..................12

2.3.1. Vai trò của phụ nữ trong quan điểm của Hồ Chí Minh:......................................12

2.3.2. Chủ trương trong Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng phụ nữ............12

2.4. Nhận định của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề phụ nữ...............................13
2.5. Thực trạng công tác giải quyết các vấn đề về phụ nữ của đảng ta......................15

2.5.1. Những thành tựu tích góp được:.........................................................................15

2.5.2. Những bất lợi, khó khăn xuyên suốt quá trình....................................................16

2.6. Một số biện pháp bảo vệ và phát huy quyền phụ nữ ở nước ta hiện nay............18

KẾT LUẬN..................................................................................................................20

TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................21


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhận thức và nhu cầu của con người thay đổi khi xã hội ngày càng phát triển,
nhưng điều mà con người chúng ta luôn quan tâm và đề cao đó là quyền con người.
Đây chính là quyền tự nhiên, cơ bản và vốn có của mỗi con người từ khi sinh ra cho
đến khi mất đi. Nhưng trong quá khứ và vẫn đang còn tiếp diễn thì quyền con người
của người phụ nữ trong xã hội đã và đang bị hạn chế hoặc không được công nhận từ xã
hội. Vì lẽ đó mà các vấn đề về phụ nữ và quyền của phụ nữ luôn được sự quan tâm từ
các nhà tư tưởng và ngày nay nó cũng là vấn đề chung của cả toàn nhân loại. Bởi vì
phụ nữ cũng chính là nguồn nhân lực có vai trò đóng góp không nhỏ liên quan sự phát
triển và tồn tại của xã hội.
Bác đã từng nói rằng “ Phụ nữ ta chẳng tầm thường, đánh Đông dẹp Bắc làm
gương để đời”. Trong cả từ xưa đến nay, trong khi chiến tranh hay cả thời bình, vai trò
của người phụ nữ vừa giỏi việc nước,đảm việc nhà, hoàn toàn xứng đáng được tôn
vinh, trân trọng. Tuy nhiên, “Vẫn còn nhiều mảnh đời phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn,
đời sống còn nghèo nàn, còn lạc hậu, mù chữ. Vẫn còn nhiều chị em phụ nữ bị bạo
hành, bị xâm hại, phân biệt đối xử… gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với sức
khỏe thể chất và tinh thần” . Các quyền của người phụ nữ, quyền bình đẳng giới vẫn
được giải quyết và người phụ nữ vẫn còn đang chịu nhiều bất công cũng như chưa
nhận được quyền lợi chính đáng thuộc về mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của tiểu luận
a. Mục tiêu tiểu luận
Tìm hiểu và làm rõ khái niệm, nội dung cơ bản về vấn đề phụ nữ trong tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu mở rộng về hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền phụ nữ, quyền bình
đẳng giới. Từ đó lấy làm cơ sở để nghiên cứu, đánh giá, vận dụng chủ trương của
Đảng trong việc giải quyết các vấn đề về phụ nữ và quyền phụ nữ.
b. Nhiệm vụ của tiểu luận
Để đạt được những mục tiêu đề ra ở trên, tiểu luận cần thực hiện các nhiệm vụ
như sau:

1
Trình bày logic, có hệ thống các quan điểm, tư tưởng của Hồ Chính Minh về các
quyền phụ nữ, quyền bình đẳng giới; các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước về việc thực hiện và bảo vệ quyền phụ nữ, bình đẳng giới.
Đánh giá, phân tích những ưu và nhược điểm của các chính sách, biện pháp đã
được đề ra, những thành tựu hay hạn chế trong quá trình thực hiện.
Rút ra kinh nghiệm từ thực tiễn từ đó đề ra giải pháp về chính sách bảo vệ
quyền lợi của phụ nữ. Vận dụng, thực hiện đóng góp tích cực nhằm bảo vệ người phụ
nữ trong thời kì đổi mới phù hợp yêu cầu của tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng, Nhà
nước đề ra.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu nội dung cơ bản về quyền con người, quyền bình đẳng giới trong
thời kì đổi mới, là cơ sở cho tiểu luận nghiên cứu mở rộng về sự tiếp thu, vận dụng và
thực hiện giải quyết các vấn đề của phụ nữ trong xã hội ngày nay.
b. Phạm vi nghiên cứu
Tập trung đánh giá việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền phụ nữ thông
qua các số liệu đánh giá, phân tích chung của Đảng, Nhà nước, các bộ ngành, các báo
cáo của nhiều tổ chức trong nước và quốc tế về tình hình thực hiện, kết quả nhận được
từ bình đẳng giới trên bình diện cả nước.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
a. Cơ sở lý luận
Tiểu luận được nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc; các quan điểm, chủ trương, chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước.
b. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, thảo luận và thục hiện tiểu luận, chúng em dựa trên
hai phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng gồm chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, cùng với các quan điểm giá trị trong tư tưởng
Hồ Chí Minh mang tính Đảng, khoa học, tính lý luận và thực tiễn, tính lịch sử cụ thể,
tính toàn diện hệ thống và tính kế thừa. Các phương pháp cụ thể như: phương pháp
phân tích tổng hợp,phương pháp logic, so sánh, đối chiếu, phương pháp điều tra xã hội
học và ứng dụng.
2
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
Đóng góp vào việc khẳng định giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh, chính sách, đường
lối của Đảng trong vấn đề của phụ nữ.
Phục vụ làm tư liệu tham khảo, nghiên cứu, giảng dạy, học tập những vấn đề liên
quan.
Góp phần thúc đẩy một xã hội bình đẳng, nâng cao nhận thức đúng đắn cùng
hành động thiết thực trong việc giải quyết vấn đề của phụ nữ hiện nay.
6. Kết cấu tiểu luận
Tiểu luận có đầy đủ các phần mở đầu, nội dung, kết luận và mục tài liệu tham
khảo. Trong phần nội dung bao gồm 2 chương:
Chương 1: Các vấn đề về phụ nữ và quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề phụ nữ.
Chương 2: vận dụng tư tưởng hồ chí minh trong việc giải quyết các vấn đề về
phụ nữ của đảng trong giai đoạn hiện nay.

3
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CÁC VẤN ĐỀ VỀ PHỤ NỮ VÀ QUAN ĐIỂM CỦA TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ PHỤ NỮ.
1.1. Khái niệm quyền phụ nữ và các quyền phụ nữ
trong tập thơ “Kim Vân Kiều truyện của Việt Nam”, đại thi hào Nguyễn
Du từng bộc lộ:

“Buồng riêng, riêng những sụt sùi


Nghĩ thân mà lại ngậm ngùi cho thân
Tiếc thay trong giá trắng ngần!
Đến phong trần cũng phong trần như ai”

Nữ quyền từ lâu đã luôn là vấn đề luôn được đề cập đến từ thuở phong
kiến xa xôi cho tới thời đại tiên tiến thời nay. Từ những góc khuất dưới trướng
xã hội phong kiến cho tới cuộc sống thời bình tưởng chừng ấm no ngày nay
thì đâu đó vẫn còn những tấm thân nữ nhi mong muốn được đứng lên để
giành lại quyền phụ nữ về cho riêng mình. Từ đó có thể thấy được thuật ngữ
"nữ quyền" đề cập đến cuộc đấu tranh cho bình đẳng giới, đó là một quyền
phổ quát của con người. Quyền phụ nữ gọi tắt là nữ quyền, tức quyền nữ giới hay
quyền phụ nữ, là các quyền lợi bình đẳng giới được khẳng định là dành cho phụ nữ và
trẻ em gái trong nhiều xã hội trên thế giới và có bản chất là sự công bằng, bình đẳng
giữa nam giới và nữ giới. Trên thế giới hay ngay cả ở Việt Nam, những quyền này
được quy định hoặc hỗ trợ dưới hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, vẫn còn một số nơi do
ảnh hưởng tư tưởng xưa cũ phân biệt đối xử “ trọng nam khinh nữ” đã tác động một
khoảng thời gian dài gây nên những định kiến cho rằng nữ quyền đi ngược lại truyền
thống và chống lại quyền phụ nữ.
Quyền phụ nữ theo hệ thống pháp luật Việt Nam liên quan đến các quyền như
sau: quyền được bình đẳng giới; quyền được pháp luật bảo hộ tính mạng, thân thể, bí
mật đời tư, danh dự uy tín; quyền tự do kết hôn, chế độ hôn nhân gia đình;quyền lao
động – bảo hiểm xã hội và các quyền công dân cơ bản khác nhằm bảo vệ quyền và
nâng cao địa vị, vai trò của người phụ nữ trong xã hội Việt Nam.
1.2. Khái niệm quyền bình đẳng giới
Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện
và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và

4
thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó . Mục tiêu bình đẳng giới là xóa
bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế
- xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và
thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội và gia đình.
Bình đẳng giới không phải là sự thay đổi vị trí của nam và nữ cho nhau. Đây là
biện pháp nhằm bảo đảm bình đẳng giới thực chất, do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành trong trường hợp có sự chênh lệch lớn giữa nam và nữ về vị trí, vai
trò, điều kiện, cơ hội phát huy năng lực và thụ hưởng thành quả của sự phát triển mà
việc áp dụng các quy định như nhau giữa nam và nữ không làm giảm được sự chênh
lệch này. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới được thực hiện trong một thời gian nhất
định và chấm dứt khi mục đích bình đẳng giới đã đạt được. Đây là sự chia sẻ, tạo điều
kiện và cơ hội cho cả hai giới nam và nữ cùng thể phát triển toàn diện, thúc đẩy xã hội
văn minh, tiến bộ hơn.
1.3. Lịch sử về phong trào nữ quyền thế giới
“Đến cuối thế kỷ XVIII, ở nhiều nước tư bản Châu Âu và Bắc Mỹ, sự áp bức,
bóc lột giai cấp ngày càng tăng, trong đó phụ nữ là giới chịu thiệt thòi nhất, bị đối xử
thấp hèn trong xã hội và cả trong luật pháp.Do đó, phong trào nữ quyền bắt đầu từ thế
kỷ XVIII, khi người ta ngày càng tin rằng phụ nữ bị đối xử bất bình đẳng trước pháp
luật. Tư tưởng của nữ quyền bắt nguồn từ phương Tây vào Thời đại Khai sáng, khi con
người biết rằng chính lý trí và khoa học chứ không phải tôn giáo sẽ làm cho nhân loại
tiến bộ.Phong trào nữ quyền bắt đầu vào thế kỷ XVIII khi sự áp bức, bóc lột giai cấp
ngày càng tăng.Những nhà tư tưởng của thời kỳ này có bà Mary Wortley Montagu và
Hầu tước Condorcet đấu tranh cho việc học vấn của phụ nữ. Nhiều nhà tư tưởng tự do
như Jeremy Bentham đòi quyền bình đẳng cho phụ nữ về mọi mặt.
Cách mạng Pháp bùng nổ năm 1789 với trên 5.000 phụ nữ diễu hành đến
Versailles là một trong những sự kiện trọng đại.
Năm 1792, tại Anh, đã xuất bản một tác phẩm nổi tiếng của bà Mary
Wollstonecraft: “Bản chứng minh các quyền của Phụ nữ”. Đây là ản Tuyên ngôn nữ
quyền đầu tiên. Nội dung cấp tiến nhất và cũng là ý thức hệ trung tâm của tác phẩm là
bà đã chứng minh nữ tính chỉ là hệ quả do con người tạo nên, chứ không phải là có sẵn
và bất biến.
5
Ở châu Á, Pandita Ramabai (1858 -1922) ở Ấn Độ đã phê phán sự giáo điều của
Ấn Độ giáo và bênh vực cho sự tự do của Phụ nữ ngay từ năm 1880. Kartini (1879 -
1904) ở Indonesia là người tiên phong trong phong trào giáo dục phụ nữ và giải phóng
phụ nữ, thách thức xã hội bằng cách lập một trường nữ. Jiu Jin (1875-1907) ở Trung
Quốc đã sang Nhật học và sau đó dấn thân vào phong trào phụ nữ.
Sang thế kỷ XIX, những hoạt động của phong trào phụ nữ đã dẫn đến sự ra đời ngày
Quốc tế Phụ nữ 8/3. Đó là phong trào phụ nữ công nhân trong thời kỳ đầu của công
nghiệp hóa ở Châu Âu và Bắc Mỹ.
Năm 1844, nữ công nhân thành lập Hiệp hội Cải cách Nữ công nhân vùng
Lowell, đòi chỉ làm việc 10 giờ mỗi ngày. Hoạt động của Hiệp hội đã khởi đầu cho
những cải thiện điều kiện lao động trong ngành công nghiệp dệt.
Năm 1848, phong trào nữ quyền có tổ chức được ghi nhận là từ Công ước
Seneca Falls, bản Công ước đầu tiên về Quyền của phụ nữ hoặc còn được gọi là Nghị
quyết đầu tiên về quyền bầu cử của phụ nữ Hoa Kỳ. Công ước này được thông qua vào
năm 1848.
Đến cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX có sự xuất hiện của nhiều tổ chức phụ nữ. Sớm
nhất là Hội đồng Quốc tế của Phụ nữ, thành lập năm 1888 với mục đích tập hợp tất cả
các tổ chức Phụ nữ ở các nước để đòi quyền bình đẳng cho Phụ nữ, quyền tham gia
vào đời sống chính trị – xã hội. Lúc đầu các tổ chức này chỉ có ở Tây Âu và Bắc Mỹ,
dần dần lan ra các vùng khác.
Vào đầu thế kỷ XX, phụ nữ tại nhiều nước bắt đầu có quyền đi bầu cử, nhất là
vào khoảng những năm cuối Chiến tranh thế giới lần thứ Nhất và những năm đầu sau
khi chiến tranh kết thúc. Có nhiều lý do khác nhau về việc cho phụ nữ được quyền bầu
cử, trong đó có cả lý do nhằm công nhận sự đóng góp của phụ nữ trong thời gian chiến
tranh.
Thập kỷ 1920 là khoảng thời gian quan trọng đối với phụ nữ. Ngoài việc được
quyền bầu cử, phụ nữ còn được sự công nhận của pháp luật tại nhiều nước. Tuy nhiên,
cũng có nhiều phụ nữ bị mất việc làm mà họ đã có được trong thời gian chiến tranh.
Tuy nhiên cũng còn nhiều phụ nữ làm việc tại nhà máy, nông trại và các nghề truyền
thống của phụ nữ. Phụ nữ cũng đạt sự tiến bộ trong một số ngành.

6
Nhìn chung, qua hai cuộc Thế chiến I (1914-1918) và Thế chiến II (1939-
1945), do thiếu nhân lực, phụ nữ đã bước vào những ngành nghề trước đây có truyền
thống là của nam giới như: chế tạo vũ khí, đạn dược và máy móc…
Bằng cách chứng tỏ rằng phụ nữ có thể đảm nhận các “công việc của nam giới”
và nhấn mạnh sự lệ thuộc của xã hội vào sức lao động của phụ nữ, sự chuyển đổi công
việc này đã khuyến khích phụ nữ tiến tới bình đẳng với nam giới.
Lúc đầu phong trào phụ nữ có xu hướng đấu tranh cho quyền bầu và ứng cử thì
đến đầu thế kỷ XX bắt đầu có xu hướng đấu tranh cho phúc lợi của phụ nữ (nhiều
nước ở Châu Á) như: Phát triển Giáo dục, phát huy địa vị phụ nữ. Ở Bắc Mỹ và Châu
Âu, có các phong trào tổ chức dịch vụ cho phụ nữ như: xây dựng trung tâm công tác
xã hội ở thành phố ở Mỹ, làm ký túc xá cho phụ nữ trẻ, sau này phát triển thành Hội
Phụ nữ trẻ Thiên chúa giáo (YWCA), hội phụ nữ ngành nghề, đại học.
Đến cuối Chiến tranh Thế giới thứ I, đã có hàng triệu phụ nữ thuộc các tổ chức
phụ nữ này. Các chủ đề chính vẫn là: Phụ nữ tham chính và tham gia cải cách xã hội…
Thời gian sau Chiến tranh Thế giới thứ II, phong trào phụ nữ ở các nước công
nghiệp có phần lắng vì phụ nữ đã có quyền đi bầu, đã giành được các phúc lợi xã hội.
Từ thập niên 1960 và nhất là từ thập niên 1970, phong trào nữ quyền phát triển mạnh.
Nhiều nhóm đấu tranh cho nữ quyền đã hình thành ở các nước phát triển và cả ở
những nước đang phát triển. Điều đáng chú ý ở những nước đang phát triển là ảnh
hưởng của phong trào phụ nữ tiến bộ ở các nuớc XHCN.
Sự phát triển mới của phong trào phụ nữ với các chủ đề mới như: tăng số phụ
nữ làm công tác quản lý, phụ nữ và phát triển… bởi mặc dù có những tiến bộ về kinh
tế, xã hội, chính trị, phụ nữ vẫn chưa được tham gia một cách bình đẳng.
Năm 1975, với việc ra đời cuốn sách “Một tiếng nói nữa”, Marcia Millman và
Rosabeth Kanter đã đánh dấu sự khởi đầu của kỷ nguyên nâng tư tưởng nữ quyền trở
thành một môn khoa học xã hội.”
1.4. Những dấu ấn trong phong trào phụ nữ Việt Nam đến ngày nay
Ngày 20/10/1930: Hội nghị Trung ương lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông
Dương đã ra Nghị quyết về Phụ nữ vận động. Đây là cơ sở đầu tiên đề hình thành tổ
chức Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Năm 1978: Phong trào “Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

7
Năm 1989: Hội LHPN Việt Nam phát động hai cuộc vận động “Phụ nữ giúp
nhau làm kinh tế gia đình” và “Nuôi dạy con tốt, góp phần hạn chế trẻ em suy dinh
dưỡng và bỏ học”.
Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ VII (1992): Tiếp tục thực hiện hai cuộc vận
động “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình”, “Nuôi dạy con tốt, góp phần hạn chế trẻ
em suy dinh dưỡng và bỏ học”.
Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ VIII (19/5/1997): phát triển hai phong trào thi đua từ
Đại hội VII thành phong trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, nuôi dạy
con tốt, xây dựng gia đình hạnh phúc” và “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia
đình, cần kiệm xây dựng đất nước”; Phong trào “Ngày tiết kiệm vì Phụ nữ nghèo”;
Liên đoàn Lao động Việt Nam tiếp tục phát động phong trào “Giỏi việc nước, đảm
việc nhà” thực hiện trong nữ công nhân viên chức và người lao động;
Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ IX (2002): tiếp tục phát động phong trào thi
đua: “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”.
Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ X (01/10/2007): tiếp tục phát động phong trào
thi đua: “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”
gắn với thực hiện Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh; vận động các tổ chức, cá nhân ủng hộ xây dựng Mái ấm tình thương cho phụ nữ
nghèo.
Năm 2010, gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”,
hưởng ứng chương trình xây dựng nông thôn mới, Hội phát động cuộc vận động “Xây
dựng gia đình 5 không 3 sạch”.
Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ XI (2012) phát động phong trào thi đua “Phụ
nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”; đồng thời triển
khai sâu rộng 2 cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” góp phần xây
dựng nông thôn mới, đô thị văn minh và “Rèn luyện các phẩm chất đạo đức: Tự tin, tự
trọng, trung hậu, đảm đang” gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh.
Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ XII (2017): Phong trào thi đua: “Phụ nữ tích
cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” và hai cuộc vận động:
“Rèn luyện phẩm chất đạo đức: Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang”gắn với học tập

8
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh: “Xây dựng gia đình 5 không,
3 sạch” góp phần xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh.

9
CHƯƠNG 2: QUAN ĐIỂM TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ PHỤ NỮ
VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ
VỀ PHỤ NỮ NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề phụ nữ:
Từ những năm 1800, Marx và Engels đã lập luận rằng việc lật đổ chế độ mẫu
hệ là sự thất bại toàn cầu của giới tính nữ. Trong gia đình, đàn ông làm chủ còn phụ nữ
bị hạ thấp, bị biến thành nô lệ, bị biến thành nô lệ cho dục vọng của đàn ông. Họ nói
rằng sự bình đẳng thực sự giữa phụ nữ và nam giới chỉ có thể đạt được khi hệ thống
bóc lột của chủ nghĩa tư bản bị xóa bỏ và khi công việc gia đình được tách thành
ngành riêng trong gia đình. ( khúc này chịu khó sử dụng kiến thức văn học
paraphrase lại các ý chứ đừng nói y nguyên nha)
Bởi lẽ V.I. Lênin chủ trương cho rằng “Phụ nữ có quyền như nam giới về mọi
mặt”, “Bãi bỏ chế độ đẳng cấp; bình đẳng đầy đủ của mọi công dân, không phân biệt
giới tính, tôn giáo hay chủng tộc”; … Vì Lênin ủng hộ quyền và bình đẳng của phụ nữ
nên chúng ta có thể yên tâm nói rằng ông tin vào nguyên tắc bình đẳng cho tất cả mọi
người. Ngoài ra, các chính sách của ông phản ánh niềm tin này, chẳng hạn như bổ
nhiệm các nữ thanh tra trong các ngành mà lao động nữ chiếm đa số và loại bỏ mọi
hạn chế, không có ngoại lệ, đối với các quyền chính trị của phụ nữ. Như vậy, rõ ràng
Lênin tin vào nguyên tắc bình đẳng cho tất cả mọi người, đó là lý do tại sao chúng ta
có thể nói rằng ông là người ủng hộ quyền của phụ nữ.
2.2. Quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề phụ nữ
2.2.1. Nhận định của Hồ Chí Minh về bình đẳng giới:
“Bác ơi tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông một kiếp người”.
Một trong những vần thơ hay nhất, xúc động nhất mà nhà thơ Tố Hữu đã dành
để ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam. Trong
suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người đã cống hiến, hy sinh cho sự
nghiệp cách mạng, giải phóng dân tộc vì độc lập, tự do, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc
của nhân dân. Người có tình yêu thương đồng bào, đồng chí bao la và đặc biệt quan
tâm đến vấn đề bình đẳng giới. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Phụ nữ chiếm một nửa nhân
loại, nói đến phụ nữ là nói đến một nửa xã hội, theo Người, “Nếu phụ nữ chưa được
giải phóng thì xã hội chưa được giải phóng "; “Nếu không giải phóng phụ nữ là xây
10
dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa". Chủ tịch Hồ Chí Minh trăn trở về vị trí của phụ
nữ trong xã hội và Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên rằng phụ nữ có vai trò quan
trọng trong chính trị. Ông cho rằng, nếu cán bộ lãnh đạo là nữ mà ít là do nhiều người
còn đánh giá thấp khả năng của phụ nữ, hoặc còn định kiến. Chủ tịch Hồ Chí Minh
cho rằng nguyên nhân của tình trạng này là do nhân dân còn đánh giá thấp khả năng
của phụ nữ, hoặc có thành kiến với phụ nữ.
Bác Hồ luôn quan tâm đến quyền bình đẳng của phụ nữ Việt Nam và thường
xuyên phê phán những thái độ không tốt đối với phụ nữ. Ví dụ, Người thường chỉ trích
những người đối xử thiếu tôn trọng với phụ nữ, những người không tin tưởng phụ nữ
hoặc những người đánh vợ của họ. Khi có đại biểu nữ dự các hội nghị, Bác thường
mời lên tận đầu và rất ân cần. Người sẽ hỏi họ về gia đình và con cái, về cuộc sống và
những khó khăn của chính họ. Bác Hồ còn không cho đoàn đại biểu tỉnh nào chụp ảnh
cùng vì đoàn không cử phụ nữ đi. Quyền lợi chính trị của phụ nữ luôn được Bác Hồ
chú ý. Bác từng nói Đảng, Chính phủ sẵn sàng tạo mọi điều kiện để phụ nữ được xem
xét, giao những trọng trách quan trọng.Tư tưởng trao quyền bình đẳng cho phụ nữ của
Bác Hồ rất quan trọng vì nó đã giúp phụ nữ Việt Nam đấu tranh đòi quyền lợi của
mình và đạt được mức độ bình đẳng cao hơn. Tất cả chúng ta đều có thể học được điều
gì đó từ tấm gương của Bác Hồ và thể hiện sự tôn trọng hơn đối với người khác bằng
cách cố gắng hết sức để giúp đỡ mọi người. Đảng và Nhà nước ta đã quán triệt và thực
hiện đầy đủ lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bình đẳng giới trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chúng tôi đang làm việc để biến đổi đất nước của
mình bằng cách thực hiện đồng thời các ý tưởng của anh ấy về bình đẳng và chống lại
bạo lực gia đình. Nam giới bình đẳng về của cải, sức mạnh và trí tuệ, và phải được
hưởng các quyền và trách nhiệm như nhau trong xã hội.
Những nội dung này thể hiện một bước tiến quan trọng đối với địa vị pháp lý
của phụ nữ Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử, phụ nữ Việt Nam được pháp luật
thừa nhận và bảo vệ trên mọi lĩnh vực. Điều này thể hiện sự tiến bộ của pháp luật Việt
Nam, đồng thời thể hiện tính nhân văn sâu sắc, tầm nhìn vượt thời đại, tư duy chính trị
sắc sảo của lãnh tụ Hồ Chí Minh.
2.2.2. Tính cấp thiết trong việc thực thi quyền bình đẳng giới
Bình đẳng giới là lý tưởng mà Hồ Chí Minh hằng ấp ủ. Người tin rằng tất cả
mọi người nên được đối xử bình đẳng, bất kể giới tính của họ. Đây là một nguyên tắc
11
tuyệt vời mà mọi người nên tuân theo, bất kể nền tảng văn hóa hay niềm tin cá nhân
của họ. Những tư tưởng ấy bao gồm:
Thứ nhất, phụ nữ có vai trò quan trọng trong xã hội không chỉ bởi họ là lực
lượng lao động đông đảo mà còn bởi họ là những người tích cực tham gia xây dựng và
đổi mới xã hội. Họ không bị giới hạn bởi các vai trò giới truyền thống và có khả năng
như nam giới trong việc thực hiện trách nhiệm của mình.
Thứ hai, nếu sự giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội không do những người
phụ nữ được giải phóng thực sự lãnh đạo thì cũng chỉ giải phóng phụ nữ một phần mà
thôi. Điều này là do phụ nữ là một nửa của xã hội, và nếu họ không được giải phóng
hoàn toàn, thì toàn xã hội sẽ không được giải phóng. Bởi lẽ đó, sự giải phóng phụ nữ
không thể trọn vẹn nếu họ không được giải phóng khỏi cả chế độ gia trưởng và chủ
nghĩa tư bản, vì họ là một nửa của nhân loại.
Thứ ba, dưới chính quyền của chúng ta, toàn dân là chủ của xã hội. Nam nữ
bình đẳng về địa vị, đều có quyền như nhau. Người phụ nữ phải có vị trí xứng đáng
với vai trò của mình trong xã hội, như lịch sử dân tộc ta đã chỉ ra. Phụ nữ Việt Nam có
khả năng làm tốt mọi công việc lớn lao mà đất nước chúng ta giao cho và có năng lực
ngang với nam giới.
Thứ tư, để thực sự giải phóng phụ nữ, chúng ta phải xóa bỏ cho xã hội những
tàn tích của chế độ phong kiến trọng nam khinh nữ, bài trừ quan niệm: “Nhất nam viết
hữu, thập nữ viết vô”, coi thường khả năng tham gia của họ vào xã hội. Chỉ khi đó,
phụ nữ mới thực sự được tự do, làm lợi cho cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo một cách có ý nghĩa và nhân văn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng công tác huấn luyện đội ngũ và Người đặc
biệt đánh giá cao những đóng góp của cán bộ nữ đối với cách mạng. Trong bài diễn
văn năm 1960, sau khi biểu dương những tiến bộ của phụ nữ trong mọi lĩnh vực của
đời sống, Hồ Chí Minh viết: “Đảng và Chính phủ luôn hoan nghênh những đóng góp
của phụ nữ và sẵn sàng đề bạt họ vào những vị trí quan trọng. Chính vì lẽ đó, bản thân
một cá nhân phụ nữ cần phải đạt được:
- Nên theo đuổi giáo dục về chính trị, văn hóa và công nghệ để hiểu rõ hơn về thế
giới xung quanh và đóng góp quan điểm độc đáo của họ.
- Có trách nhiệm nâng cao tinh thần yêu nước và giác ngộ xã hội chủ nghĩa trong
xã hội.
12
- Tự hào vì đã tiếp bước ông cha xây dựng đất nước giàu mạnh bằng cách tiết
kiệm và cẩn thận với đồng tiền của mình.
- Đoàn kết chặt chẽ, nỗ lực hết mình tham gia sự nghiệp “xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc, đấu tranh thống nhất nước nhà và giữ gìn hòa bình thế giới”.
2.3. Hồ Chí Minh khẳng định vị thế và vai trò của phụ nữ trong xã hội:
2.3.1. Vai trò của phụ nữ trong quan điểm của Hồ Chí Minh:
Nhận thức của Bác Hồ về quyền của phụ nữ rất rõ ràng và thuyết phục. Người
chỉ ra rất đúng rằng nếu không có quyền bình đẳng cho phụ nữ thì chúng ta không thể
đạt được tiến bộ xã hội thực sự. Là những người yêu nước, chúng ta nên làm tất cả
những gì có thể để hỗ trợ giải phóng phụ nữ – đó là một phần quan trọng trong việc
xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn cho tất cả chúng ta.
Một số người còn đánh giá thấp khả năng của phụ nữ, hoặc có thành kiến, hẹp
hòi. Điều đó rất sai lầm. Người thực sự mong mọi người hãy sửa chữa những định kiến
và sự hẹp hòi đối với phụ nữ. Bác Hồ nhấn mạnh tầm quan trọng của phụ nữ Việt Nam
và vai trò của họ trong lịch sử: “Từ đầu thế kỷ thứ I, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa,
đánh giặc, cứu dân, đến nay, mỗi khi nước ta yên, trong gian nguy, phụ nữ đều hăng
hái đứng lên, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, nên ta
có câu tục ngữ: 'Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh'. Nhân dân ta rất biết ơn các mẹ hai
miền Nam - Bắc đã sinh thành, nuôi nấng biết bao thế hệ anh hùng của đất nước ta.”
2.3.2. Chủ trương trong Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng phụ nữ
Đảng Cộng sản Việt Nam có chính sách về giải phóng phụ nữ, nhấn mạnh tầm
quan trọng của việc giải phóng phụ nữ đối với sự phát triển của toàn xã hội. Chính
sách này công nhận rằng phụ nữ không chỉ là những thành viên thụ động trong xã hội
mà còn là những người tham gia tích cực trong việc tạo ra một tương lai tốt đẹp hơn
cho bản thân và gia đình họ. Đảng cũng nhận rõ, giải phóng phụ nữ là một nhiệm vụ
phức tạp, đầy thách thức, nhưng là nhiệm vụ thiết yếu cho thành công chung của Cách
mạng Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, sở dĩ giải phóng phụ nữ có ý nghĩa quan trọng vì nó là một
bộ phận của cuộc cách mạng rộng lớn hơn là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp
và giải phóng con người. Hồ Chí Minh cho rằng nếu phụ nữ và trẻ em gái được tự do
thì cả nước được tự do. Ngược lại, nếu phụ nữ và trẻ em gái vẫn còn sống trong cảnh
nô lệ thì con cái của họ cũng sẽ phải chịu sự áp bức tương tự.
13
Nguyên nhân giải phóng phụ nữ bao gồm nhiều vấn đề, từ gia đình đến các lĩnh
vực xã hội, kinh tế và chính trị. Giải phóng phụ nữ, theo nghĩa rộng, là trao quyền và
nâng cao vị thế của họ trong mọi mặt của đời sống xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng,
bước đầu tiên để giải phóng phụ nữ là giải phóng họ khỏi tư tưởng “trọng nam khinh
nữ”, thoát khỏi những bất công mà họ phải chịu trong chính gia đình mình.
Giải phóng phụ nữ về kinh tế là cần thiết để đạt được sự bình đẳng thực sự giữa
nam và nữ. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, phụ nữ là một bộ phận quan trọng của lực
lượng lao động nên trọng tâm của giải phóng kinh tế là giải phóng sức lao động của
phụ nữ và tạo điều kiện để phụ nữ có thể tham gia các hoạt động kinh tế bình đẳng với
nam giới. Cuối cùng, sự giải phóng xã hội của phụ nữ đòi hỏi sự tiếp cận bình đẳng
đối với tất cả các khía cạnh của nền kinh tế, để phụ nữ có thể tham gia đầy đủ vào tất
cả các khía cạnh của xã hội.
Đối với việc giải phóng phụ nữ về mặt chính trị, theo Người, phải bắt đầu từ
việc trang bị cho họ những lý luận cần thiết để họ tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh
giải phóng chính mình khỏi dân mất nước để thành công. Điều này chỉ có thể được
thực hiện bằng cách hình thành một phong trào mạnh mẽ và có tổ chức của những phụ
nữ sẵn sàng đấu tranh cho sự giải phóng của chính họ.
2.4. Nhận định của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề phụ nữ:
Đầu những năm 1930 chứng kiến sự phát triển của một đề cương cho Đảng
Cộng sản Việt Nam vạch ra ý tưởng về quyền bình đẳng giữa nam và nữ. Luận cương
chính trị này cũng nằm trong đường lối tổng thể của Đảng đối với cách mạng Việt
Nam lúc bấy giờ.
Trong nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương (10-1930), khi nói về
phong trào phụ nữ, Đảng ta đã nhận rõ: “Quyền lực cách mạng của phụ nữ là lực
lượng rất quan trọng, cách mạng không thể thắng được”. Đảng đòi “quyền bình đẳng”
cho phụ nữ: “Đàn bà, đàn ông, thanh niên đều có việc làm. trả công bằng nhau phải
bằng nhau. Người lao động phải nghỉ phép có lương tám tuần trước và sau khi sinh
con”; “Không được bắt phụ nữ và trẻ em làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm”.
Đảng đặt ra các yêu cầu đối với phụ nữ đấu tranh cho các quyền của họ: "Đảng Cộng
sản đưa ra các yêu cầu đối với phụ nữ lao động và nông dân để bình đẳng với nam
giới... ngoài ra còn có các yêu cầu sau từ phụ nữ: Bãi bỏ mọi luật lệ và phong tục đồi
14
bại khiến phụ nữ nam nữ bất bình đẳng. Bỏ chế độ áp bức cha đối với con gái, chồng
đối với vợ (cưỡng ép, xúc phạm đàn bà con gái). Cấm tục ngũ thê thiếp.
Suốt 80 năm qua, Đảng ta đã quán triệt các chỉ thị, nghị quyết để ra các quyết
sách, đường lối, chỉ đạo công tác vận động (vận động) phụ nữ, chăm lo bồi dưỡng, rèn
luyện đội ngũ cán bộ nữ. Nhờ đó, đội ngũ cán bộ nữ ngày càng tăng cả về số lượng và
chất lượng, có phẩm chất đạo đức cao, bản lĩnh vững vàng. Ngoài ra, làm việc với nam
giới đã giúp đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Bộ Chính trị ra Nghị quyết 04-NQ/TW ngày 7/12/1993 chỉ rõ cần đẩy mạnh công
tác vận động phụ nữ trong tình hình mới. Hai bên nhấn mạnh cần xây dựng, sửa đổi,
hoàn thiện luật pháp, chính sách xã hội liên quan đến phụ nữ và lao động nữ, có các
chủ trương, chính sách phù hợp với nhu cầu của phụ nữ dân tộc thiểu số, phụ nữ có
đạo, phụ nữ nghèo, phụ nữ đơn thân, và phụ nữ khuyết tật.
Chỉ thị 37-CT/TW của Ban Bí thư về “Một số vấn đề về công tác cán bộ nữ trong
tình hình mới” tái khẳng định sự cần thiết phải xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng
và sử dụng lao động. Phụ nữ nói chung và cán bộ nữ nói riêng cần được chú trọng
trong các chương trình đào tạo, nhất là cán bộ làm việc trong các lĩnh vực khoa học -
công nghệ, kinh tế, pháp luật, hành chính, quản lý nhà nước. Cán bộ nữ dân tộc thiểu
số cũng cần được chú trọng trong các chương trình đào tạo, vì họ chiếm đa số ở Trung
Quốc. Tôn giáo, vùng sâu vùng xa và phụ nữ làm việc trong các lĩnh vực do nam giới
thống trị cũng sẽ cần các chương trình đào tạo để đáp ứng nhu cầu cụ thể của họ.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng chỉ rõ, chúng ta cần
phải tăng cường tăng trưởng kinh tế kết hợp với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
trong từng bước của quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải được thể hiện ở việc
tạo điều kiện để mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình.
Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng nói rằng chúng ta
phải cố gắng thực hiện các luật và chính sách nhằm giúp đỡ phụ nữ, bao gồm đào tạo
để giúp họ tìm việc làm mới và nâng cao trình độ học vấn. Chúng ta cũng cần bảo đảm
để phụ nữ có cơ hội tham gia nhiều hơn vào các cơ quan lãnh đạo, quản lý, có điều
kiện chăm sóc sức khỏe cho bản thân và con cái. Cuối cùng, chúng ta hãy cùng nhau
xây dựng một gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tái khẳng định cam kết
nâng cao trình độ mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần, trong đó có bình đẳng giới.
15
Chúng ta muốn tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò công dân, người lao động,
người mẹ, người thầy đầu tiên của nhân dân. Chúng ta mong muốn giúp phụ nữ tham
gia ngày càng nhiều hơn vào các hoạt động xã hội và vai trò lãnh đạo, đồng thời bảo
vệ sức khỏe của họ. Chúng ta cũng sẽ bổ sung, hoàn thiện các chính sách bảo hộ lao
động, bảo hiểm xã hội, thai sản và quyền lợi đối với lao động nữ. Chúng ta sẽ đấu
tranh chống tệ nạn xã hội và các hành vi bạo lực, xâm hại, xúc phạm nhân phẩm phụ
nữ.
2.5. Thực trạng công tác giải quyết các vấn đề về phụ nữ của đảng ta

Quay trở lại thời kì phong kiến, ta k khó bắt gặp những vóc dáng của những
người phụ nữ đang ngày ngày tìm ra đc ánh sáng của cuộc đời mình, k ngừng van
xin số phận cơ hàn của mình đc một lần nhìn thấy ánh sáng của cuộc đời, của sự
tự do. Đó là hình ảnh chị Dậu cực khổ với các loại sưu thế trong tp “Tắt đèn’ của
Ngô Tất Tố, hay người đàn bà làng chài hi sinh bản thân, sống trong sự nghèo
túng khổ sở vì đàn con nheo nhóc. Dù ở đâu đi nữa thì số phận nữ nhi vẫn luôn là
bài toán hóc búa cần đc giải thoát khỏi số mệnh cơ hàn. Nhưng rồi thời thế cũng
thay đổi, ngày nay phụ nữ thế giới nói chung và phụ nữ việt nam nói riêng sau
một quá trình đấu tranh dài đằng đẵng thì phụ nữ cũng đã giành được quyền tự
quyết cho số phận, cho cuộc đời của mình. Điều đó được thể hiện qua việc ngày
càng nhiều phụ nữ được tham gia đóng góp vào công cuộc xây dựng đời sống xã
hội (tự dẫn ra nha má, mệt r, dẫn sao mà nối tới các thành tựu á nha)

2.5.1. Những thành tựu tích góp được:


Bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế tiếp tục được thực hiện và đạt được những
kết quả thiết thực, bền vững. Hiện nay, phụ nữ chiếm 50% lực lượng lao động và tỷ lệ
nam nữ tham gia hoạt động kinh tế gần như ngang nhau. Phụ nữ có vai trò ngang bằng
với nam giới trong việc tham gia tạo ra của cải vật chất, với hầu hết các công việc liên
quan đến phụ nữ. Theo Ngân hàng Thế giới, vị thế của phụ nữ trong gia đình và ngoài
xã hội cũng không ngừng được nâng cao. Việt Nam là một trong những quốc gia dẫn
đầu về tỷ lệ phụ nữ tham gia hoạt động kinh tế và có tốc độ thu hẹp khoảng cách giới
nhanh nhất Đông Á.

16
Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, tỷ lệ phụ nữ biết đọc biết viết đã tăng từ
82,3% năm 1993 lên 90,5% năm 2011. Tỷ lệ nam giới từ 10 tuổi trở lên biết chữ chỉ
cao hơn nữ giới 6%. Khoảng cách về tỷ lệ nhập học giữa nam và nữ ở các cấp học, bậc
học trong những năm gần đây đã được thu hẹp gần như đồng đều. Hiện tượng trẻ em
gái bỏ học sớm được cải thiện đáng kể. Tính trung bình, tỷ lệ tốt nghiệp của sinh viên
nữ cao hơn sinh viên nam. 100% trẻ em gái từ 11-14 tuổi tốt nghiệp tiểu học và vào
học lớp 6. Nhờ đó, tỷ lệ nhập học chung của trẻ em gái ở cấp trung học cơ sở tăng lên
trên 90%, ở cấp trung học phổ thông tăng 50%. Điều này cho thấy rằng các em gái có
khả năng đạt được thành công trong giáo dục, ngay cả khi các em bắt đầu học ở độ
tuổi trẻ hơn.
Một số chỉ tiêu cụ thể đã cơ bản đạt được: 90% phòng GD-ĐT có nữ tham gia
ban lãnh đạo; 90% cơ sở giáo dục đại học có nữ tham gia hội đồng trường, ban giám
hiệu, ban giám đốc; 40% nữ tiến sĩ đang công tác trong các cơ sở GD-ĐT
Tại Việt Nam, các chính sách và chương trình đã được thực hiện nhằm nâng
cao chất lượng chăm sóc y tế cho phụ nữ cũng như huy động các nguồn lực trong xã
hội nhằm nâng cao sức khỏe phụ nữ. Điều này đã làm tăng tỷ lệ phụ nữ tiếp cận các
dịch vụ y tế, cũng như tăng tuổi thọ trung bình của người dân Việt Nam - điều này đặc
biệt đáng chú ý đối với phụ nữ, hiện có độ tuổi trung bình là 75,6 tuổi. Ngoài ra, ngày
càng có nhiều phụ nữ được chăm sóc tiền sản, đây là một bước quan trọng để chuẩn bị
cho một thai kỳ khỏe mạnh.
Ngoài ra, phụ nữ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị ở
Việt Nam, với nhiều người giữ các vị trí cấp cao như cấp ủy viên trong các cơ quan
quản lý nhà nước, giám đốc điều hành doanh nghiệp, đại biểu của các cơ quan dân cử
như Quốc hội. Nhiệm kỳ 2011-2016, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội là 24,4%. Tỷ lệ này
vẫn cao hơn so với tỷ lệ nữ đại biểu ở các quốc gia khác trong khu vực châu Á - Thái
Bình Dương và thể hiện cam kết của Việt Nam trong việc tạo cơ hội cho phụ nữ tham
gia vào tiến trình chính trị.
Trong gia đình, phụ nữ có quyền đưa ra những quyết định quan trọng đối với
cuộc sống của họ, chẳng hạn như họ muốn học ngành gì và họ muốn đảm nhận những
vấn đề quan trọng nào. Đây là một sự thay đổi lớn so với khi xã hội dựa trên ý tưởng
rằng con trai nên làm những việc như học toán và khoa học, trong khi con gái nên tập
trung vào những việc như nấu ăn và dọn dẹp. Giờ đây, nhờ sự bảo vệ của pháp luật
17
dành cho phụ nữ, các cô gái có thể làm bất cứ điều gì họ muốn về sự nghiệp và cuộc
sống cá nhân.
Những tiến bộ phi thường mà Việt Nam đã đạt được trong việc thúc đẩy bình
đẳng giới và quyền con người là không thể phủ nhận. Bất chấp những nỗ lực dai dẳng
của các thế lực thù địch nhằm làm mất uy tín của những thành tựu này, sự thật vẫn
không thay đổi – Việt Nam là quốc gia tiên phong đấu tranh cho bình đẳng giới và
nhân quyền, và người dân cũng như các tổ chức của Việt Nam nhận ra thực tế này.
Không thế lực nào có thể phủ nhận những thành công này dù có rất nhiều thế lực gièm
pha phủ nhận điều này.
2.5.2. Những bất lợi, khó khăn xuyên suốt quá trình
Có thể suy luận rằng, xã hội ngày nay có mức độ bình đẳng giới rất cao, với các
chính sách và luật pháp được áp dụng để đảm bảo rằng tất cả các cá nhân đều có cơ
hội bình đẳng trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Điều này đặc biệt đúng trong lĩnh vực
chính trị, nơi phụ nữ hiện được đại diện một cách công bằng trong chính phủ và trong
nền kinh tế, nơi phụ nữ có thể nắm giữ những công việc được trả lương cao và sở hữu
tài sản. Chăm sóc sức khỏe và cuộc sống gia đình cũng ngày càng trở nên bình đẳng
hơn đối với phụ nữ, với nhiều tiến bộ đạt được trong việc thúc đẩy quyền sinh sản và
bảo vệ họ khỏi bạo lực gia đình. Nhìn chung, có thể nói rằng bình đẳng giới đang có
những bước tiến lớn theo đúng hướng và sẽ ngày càng tốt hơn trong tương lai.
Trong khi khoảng cách giữa nam và nữ đã giảm trong một số lĩnh vực, chẳng
hạn như giáo dục và việc làm, thì có nhiều lĩnh vực mà phụ nữ vẫn phải chịu những
bất lợi lớn. Ví dụ, sự tham gia của phụ nữ vào chính trường còn hạn chế, tỷ lệ tham gia
của họ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo còn thấp. Vẫn còn nhiều định kiến giới truyền
thống về vai trò của phụ nữ, coi phụ nữ là công việc chăm sóc gia đình còn nam giới là
công việc kiếm tiền. Ngoài ra, còn thiếu một chính sách và cơ chế đồng bộ cho cán bộ
nữ, làm hạn chế khả năng đạt được thành công của họ.
Có thể dễ dàng thấy rằng, cơ hội của phụ nữ trong lĩnh vực kinh tế vẫn thấp hơn
so với nam giới. Một số chỉ tiêu đề ra trong Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới về
lao động, đào tạo... chưa đạt được. Theo Tổng cục Thống kê, tỷ lệ lao động nữ nông
thôn dưới 45 tuổi được đào tạo nghề kỹ thuật đạt 11,8% năm 2013, đạt gần một nửa
chỉ tiêu kế hoạch. Tỷ lệ phụ nữ tham gia các công việc dễ bị tổn thương cao hơn nam
giới; Phụ nữ chiếm tỷ lệ cao hơn trong khu vực phi chính thức của thị trường lao động.
18
Họ kiếm được ít thu nhập hơn và ít được luật lao động bảo vệ hơn và ít được tiếp cận
trực tiếp hơn với bảo trợ xã hội.
Ngoài ra, khả năng tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ
ở vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số còn hạn chế, tỷ lệ tử vong mẹ còn cao. Định
kiến giới, tư tưởng “trọng nam, khinh nữ” còn phổ biến đang tạo ra những rào cản đối
với cơ hội phát triển của phụ nữ. Tình trạng bạo lực đối với phụ nữ diễn ra khá nghiêm
trọng, nhận thức pháp luật của cán bộ và nhân dân về phòng, chống bạo lực gia đình
còn hạn chế. Ở nhiều địa phương, chính quyền và cộng đồng, bạo lực gia đình được
coi là chuyện riêng của mỗi gia đình, dẫn đến chế tài thi hành Luật Phòng, chống bạo
lực gia đình còn yếu.
Bên cạnh đó, về mặt pháp luật, đã có một số văn bản hướng dẫn thể chế hóa các
quy định của pháp luật liên quan đến bình đẳng giới nhưng các văn bản này thường
mất nhiều thời gian để ban hành. Việc thực hiện quy định về lồng ghép bình đẳng giới
trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và đánh giá việc lồng ghép bình đẳng giới
trong xây dựng, thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật đều đạt kết quả tốt.
Tuy nhiên, những nỗ lực này không thành công như họ có thể.

2.6. Một số biện pháp bảo vệ và phát huy quyền phụ nữ ở nước ta hiện nay
Cuối cùng, chúng ta nên làm việc để nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của
các quyền của phụ nữ và vai trò của phụ nữ trong xã hội, đồng thời thúc đẩy ý tưởng
rằng phụ nữ là thành viên bình đẳng của loài người. Chúng ta cũng nên làm việc để
tăng cơ hội giáo dục và nghề nghiệp cho phụ nữ, đồng thời thúc đẩy quyền và lợi ích
của họ trong mọi lĩnh vực của xã hội. Chúng ta cũng nên làm việc để thúc đẩy quyền
của phụ nữ được hưởng cuộc sống khỏe mạnh và an toàn, không bị bạo lực và lạm
dụng. Trước hết, chúng ta cần đảm bảo rằng phụ nữ có các quyền và cơ hội như nam
giới, cả về các quyền hợp pháp và khả năng tham gia vào mọi mặt của xã hội. Chúng
ta cũng cần đảm bảo rằng phụ nữ được đối xử công bằng và tôn trọng, và họ không bị
phân biệt đối xử dưới bất kỳ hình thức nào. Để nâng cao quyền của phụ nữ ở nước ta
hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh cần thực hiện tốt các biện pháp sau:
Thứ nhất, Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ là một bước quan
trọng trong việc thiết lập các quyền của phụ nữ. Dự luật này sẽ giúp bình đẳng hóa
quyền của nam giới và nữ giới trong mọi lĩnh vực của đời sống, bao gồm chính trị,
19
kinh tế, văn hóa, đời sống xã hội và lĩnh vực dân sự. Việc chấm dứt mọi hình thức bạo
lực đối với phụ nữ cũng rất quan trọng. Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác
thông tin, truyền thông về phòng, chống bạo lực có thể góp phần xóa bỏ bạo lực đối
với phụ nữ. Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, mở rộng giáo dục pháp luật và các quy
định của pháp luật về bảo đảm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của phụ
nữ.
Thứ hai, chúng ta sẽ tích cực tìm kiếm và đề bạt các nữ cán bộ tài năng để họ
có thể được đào tạo và phát triển cần thiết để hoàn thành xuất sắc vai trò của mình.
Chúng tôi sẽ tập trung vào phụ nữ dân tộc thiểu số, những người có thể cần thêm trợ
giúp để phát huy hết tiềm năng của họ. Đầu tiên, chúng tôi sẽ tăng cường giáo dục và
đào tạo cán bộ nữ để đảm bảo rằng họ có những kỹ năng và kiến thức cần thiết để thực
hiện công việc của họ một cách hiệu quả. Điều này sẽ tạo ra một nguồn tài năng nữ có
giá trị với ý chí chính trị và trình độ chuyên môn cần thiết để thành công tại nơi làm
việc ngày nay. Để hỗ trợ phát triển đội ngũ cán bộ nữ có năng lực và trách nhiệm, cơ
sở sẽ xác định những người phù hợp nhất để đào tạo, bồi dưỡng kiến thức phù hợp với
vị trí công việc. Điều này sẽ đặc biệt quan trọng ở những khu vực có đông phụ nữ nắm
giữ các vị trí quyền lực, chẳng hạn như vùng dân tộc thiểu số.

Thứ ba, trao quyền cho phụ nữ để nâng cao hiệu quả thực hiện quyền của
phụ nữ ở Việt Nam hiện nay. Đây là một biện pháp và vai trò quan trọng trong việc cải
thiện tình hình cho phụ nữ Việt Nam. Thông qua việc trao quyền cho phụ nữ trong mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quyền tham gia
quản lý nhà nước, quyền kinh doanh, thương mại và hội nhập thị trường quốc tế,
quyền hưởng thụ, làm việc và đóng góp cho xã hội, chúng ta có thể giúp cải thiện tình
hình chung cho phụ nữ ở Việt Nam.
Từ đó ta có thể dễ dàng thấy rằng, trao quyền cho phụ nữ cần gắn với động
lực thúc đẩy phụ nữ hành động, vươn lên và khuyến khích mỗi cá nhân phụ nữ khẳng
định quyền và khả năng của mình. Phụ nữ cần sẵn sàng đứng lên vì chính mình, và nỗ
lực để loại bỏ cảm giác tự ti và bất an. Họ cũng nên phấn đấu để thành công trong mọi
lĩnh vực của cuộc sống, để tiếp tục khẳng định quyền và khả năng của mình.

20
KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phụ nữ là một trong những nội dung quan trọng
trong hệ tư tưởng của Người. Đó là một tư tưởng đầy sáng tạo, toàn diện và tiên tiến.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn coi trọng và quan tâm đến vai trò, vị trí của phụ nữ
trong xã hội. Chính vì lí do đó, Đảng ta đã áp dụng tư tưởng này để xây dựng và triển
khai những chính sách, giải pháp cụ thể nhằm nâng cao vị trí, vai trò của phụ nữ trong
lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề bình đẳng giới và quyền phụ nữ là vấn đề
được quan tâm và đặt lên hàng đầu. Để giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền phụ
nữ, Đảng ta đã và đang sử dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng và triển khai các
chính sách, giải pháp cụ thể. Các chương trình hỗ trợ kinh tế và phát triển nghề nghiệp
cho phụ nữ được đẩy mạnh, động viên và giúp đỡ phụ nữ tham gia vào các hoạt động
kinh tế và xã hội. Đồng thời, việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức về quyền lợi của
phụ nữ và sự cần thiết của bình đẳng giới cũng được đẩy mạnh.
Ngoài ra, trong cuộc sống hiện đại 4.0 ngày nay, việc áp dụng công nghệ thông
tin và kỹ thuật tiên tiến để tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ trong việc truy cập đến
các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục, tài chính cũng được Đảng ta ưu tiên đưa ra.
Tuy nhiên, vấn đề bình đẳng giới và quyền phụ nữ vẫn còn tồn tại nhiều thách thức và
khó khăn. Các trường hợp phụ nữ bị kỳ thị, phân biệt đối xử trong công việc, học tập
hay trong cuộc sống vẫn còn xảy ra khá phổ biến. Ngoài ra, một số phụ nữ vẫn đang
gặp khó khăn trong việc truy cập và sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục,
tài chính...
Do đó, việc giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền phụ nữ trong giai đoạn
hiện nay còn đòi hỏi sự cố gắng nhiều hơn nữa của Đảng, chính quyền và toàn xã hội.
Để đạt được mục tiêu bình đẳng giới và tiến tới xã hội dân chủ, công bằng và văn
minh, ta cần có những chính sách, giải pháp mới, hiệu quả và phù hợp với thực tiễn.
Đặc biệt là giới trẻ hiện nay, những học sinh, sinh viên cần phải nâng cao hơn nhận
thức về bình đẳng giới. Đây là một hành trình dài và khó khăn, yêu cầu sự cố gắng,
quyết tâm và trách nhiệm của toàn bộ xã hội.

21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cổng thông tin điện tử Bộ Nội vụ. Rà Soát ngay việc hỗ trợ Phụ nữ và Trẻ em
Gặp Khó Khăn; khẩn Trương Xây Dựng đề án đào tạo cán BỘ nữ. Truy cập 2/4/ 2023,
nguồn https://moha.gov.vn/kstthc/baocao/ra-soat-ngay-viec-ho-tro-phu-nu-va-tre-em-
gap-kho-khan-khan-truong-xay-dung-de-an-dao-tao-can-bo-nu-47358.html
2. Thảo My. (20/2/2023). Quyền của phụ nữ trong hệ Thống Pháp Luật Việt Nam.
Luật ACC. Truy cập 2/4/2023, nguồn https://accgroup.vn/quyen-con-nguoi-cua-phu-
nu/
3. Luật SỐ 73/2006/QH11 Của Quốc Hội: Luật Bình đẳng giới. Truy cập
2/4/2023, nguồn https://chinhphu.vn/default.aspx?pageid=27160&docid=28975
4. Phunuvietnam. (26/3/2023). Lịch SỬ Phong Trào Nữ Quyền Thế Giới.
phunuvietnam. Truy cập 2/4/2023, from https://phunuvietnam.vn/lich-su-phong-trao-
nu-quyen-the-gioi7285.htm#:~:text=Phong%20tr%C3%A0o%20n%E1%BB%AF%
20quy%E1%BB%81n%20b%E1%BA%AFt%20%C4%91%E1%BA%A7u%20v
%C3%A0o%20th%E1%BA%BF%20k%E1%BB%B7%20XVIII,ph%E1%BB
%A5%20n%E1%BB%AF%20v%E1%BB%81%20m%E1%BB%8Di%20m%E1%BA
%B7t.
5. Ngọc. (24/3/2023). Quan điểm Của đảng Cộng Sản Việt Nam về công Tác Phụ
nữ và vấn đề bình đẳng Giới Trong Thời KỲ đổi Mới - ACC Group. Luật ACC. Truy
câp 2/4/2023, nguồn https://accgroup.vn/quan-diem-cua-dang-ve-binh-dang-gioi/
6. Bonbon. (19/3/2020). Nhận định Của đảng Cộng Sản Việt Nam về Bối Cảnh
Quốc tế đối Với Phát triển Kinh tế xã Hội Của Nước ta trong thời đại Ngày Nay? Áo
kiểu đẹp. Truy cập 2/4/2023, nguồn https://aokieudep.com/doc/nhan-dinh-cua-dang-
cong-san-viet-nam-ve-boi-canh-quoc-te-doi-voi-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-cua-nuoc-ta-
trong-thoi-dai-ngay-nay/
7. Đại đoàn Kết Toàn Dân Tộc – Cội Nguồn sức Mạnh, động Lực Chủ Yếu Của
Cách Mạng việt nam. ĐẢNG BỘ TỈNH QUẢNG NGÃI. Truy cập 2/4/2023, nguồn
https://www.quangngai.dcs.vn/baovenentang//asset_publisher/TYL11bLVlGOH/
content/-ai-oan-ket-toan-dan-toc-coi-nguon-suc-manh-ong-luc-chu-yeu-cua-
cachmang-viet-nam
8. Bài dự Thi Giải Búa liềm vàng lần thứ IV - năm 2019: quan điểm của đảng
Cộng Sản Việt Nam về vấn đề Tôn Giáo, Tín Ngưỡng. Cổng TTĐT Đảng Ủy Khối
22
DNTW. 2/4/ 2023, nguồn
http://doanhnghieptrunguong.vn/giai-bua-liem-vang/201910/bai-du-thi-giai-bua-liem-
vang-lan-thu-iv-nam-2019-quan-diem-cua-dang-cong-san-viet-nam-ve-van-de-ton-
giao-tin-nguong-5655113/
9. Quan điểm Của Chủ Nghĩa Mác-Lênin, Tư Tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về
Bình đẳng giới. Tạp chí nghiên cứu lập pháp. Truy câp 2/2/ 2023, nguồn
http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=207473
10. Trung ương hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam 90 năm, Những mốc son Lịch sử
của Hội Liên Hiệp Phụ nữ Việt Nam (20/10/1930 - 20/10/2020). VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM. Truy cập 2/4/ 2023, nguồn https://vass.gov.vn/
bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/90-nam-nhung-moc-sonlich-su-27
11. Tapchicongsan.org.vn.Truy cập 2/4/2023, nguồn https://www.tapchicongsan
org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang//2018/821700/van-dung-tu-tuong-ho-chi-
minh-ve-giai-phong-phu-nu-trong-su-nghiep-day-manhtoan-dien%2C-dong-bo-cong
-cuoc-doi-moi%2C-hoi-nhap-va-phat-trien-dat-nuoc.aspx

23

You might also like