Professional Documents
Culture Documents
LÝ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT NHÓM 4
LÝ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT NHÓM 4
Nhóm 4
LÝ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Nhóm 4
LÝ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
NỘI DUNG
1. Khái niệm án lệ
Pháp luật Việt Nam quy định: Án lệ là những lập luận, phán quyết
trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một
vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao lựa
chọn và được Chánh án Toà án nhân dân tối cao công bố là án lệ để
các Toà án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử.
việt kiểu ở các nước khác hay thậm chí là người nước ngoài thuần túy
thì án lệ này vẫn được áp dụng trong các trường hợp đó nếu như tình
tiết vụ án tương đồng nhau.
(hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh”; căn cứ Điều 42 Bộ luật Hình sự, các điều
606, 610 Bộ luật Dân sự buộc bị cáo C phải bồi thường cho gia đình
người bị hại số tiền 122.600.000 đồng, đã bồi thường 95.000.000
đồng, còn lại phải bồi thường 27.600.000 đồng; buộc cấp dưỡng cho
cháu Nguyễn Hồng M 600.000 đồng/tháng; đối với con mới sinh của
anh Nguyễn Hồng Q, chị Lại Thị Minh T có quyền khởi kiện về yêu
cầu cấp dưỡng bằng một vụ án dân sự khác Khi có yêu cầu.
Ngày 22-5-2017, đại diện hợp pháp người bị hại chị Lại Thị Minh T
kháng cáo đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 93 Bộ Luật Hình Sự đối với
Trần Văn C và tăng hình phạt; đồng thời, đề nghị tăng mức cấp
dưỡng đối với cháu Hồng M và yêu cầu xác định trách nhiệm cấp
dưỡng cho con mới sinh cùa anh Q cháu Hải Đ.
Ngày 24-5-2017, anh Trần Văn C kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 200/2017/HSPT ngày 10-8-2017.
Tòa án nhân dân cấp cao tại Đắk Lắk.
+ Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Văn C.
+ Chấp nhận kháng cáo của đại diện hợp pháp người bị hại.
Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 15/2018/KN-HS ngày
22-5-2018, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định kháng nghị
Bản án hình sự phúc thẩm số 200/2017/HSPT ngày 10-8-2017 của
Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và đề nghị Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thấm hủy bản án hình
sự phúc thẩm nêu trên về phần trách nhiệm hình sự đối với Trần Văn
C và giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đê
xét xử phúc thẩm lại.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao
nhất trí với quyết định kháng nghị giám đốc thẩm của Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao quyết định hủy bản án phúc thẩm, giữ nguyên quyết định của
bản án sơ thẩm về phần tội danh và hình phạt đối với Trần Văn C.
Nhóm 4
LÝ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
II. Nội dung lập luận những vấn đề sự kiện pháp lý chỉ ra
nguyên tắc và quy phạm để áp dụng vào “ Án lệ số
28/2019/AL về tội “Giết người trong trạng thái tinh thần
bị kích động mạnh”
Anh Q nhiều lần đến chỗ C ngồi hỏi mượn tiền, nhưng C nói không có
tiền. Có lần, anh Q đến chỗ anh C đưa 2 chiếc điện thoại di động của
mình nói C cầm cố để mượn tiền, C vẫn không đồng ý nên anh Q bỏ
về.
Ít phút sau, anh Q đi đến chỗ C, tay phải đấm mạnh vào má trái của C
làm chảy máu. Bị đánh bất ngờ, C tức giận cầm dao đứng lên ghế mình
ngồi. Thấy vậy, anh Q lao đến, C dùng dao quơ ngang qua lại trúng vào
mặt anh Q làm chảy máu. Anh Q xông đến dùng hai tay kéo C xuống
ghế, kẹp cổ C lại. Bị kẹp cổ, C cầm dao đâm 1 nhát trúng ngực anh
Q. Lúc này anh Q ngã xuống nền nhà, sau đó C và một số người có mặt
trong quán đưa anh Q đến bệnh viện cấp cứu, đến nơi anh Q tử vong.
Ngay sau đó, C đến Công an đầu thú.
2. Sơ lược về bản án
Trong thực tiễn, việc phân biệt 2 tội danh giết người và giết người
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh rất khó, chủ yếu dựa vào
cảm quan đánh giá của Thẩm phán, vì vậy, khi xét xử các vụ án này
vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau.
Như trong vụ án nêu trên tại Bản án hình sự phúc thẩm số
200/2017/HSPT ngày 10/8/2017, Tòa án nhân dân cấp cao cho rằng
hành vi của anh C phạm tội giết người. Trong vụ án, nhận thấy việc anh
Q vô cớ đánh C đã gây ra bức xúc, sau đó mặc dù C đã cầm dao đứng
lên ghế - đây như một lời cảnh báo cho Q biết nhưng bất chấp Q vẫn
tiếp tục thực hiện 1 chuỗi các hành vi như kéo, kẹp cổ - những hành vi
này đã tác động đến tinh thần của C và việc dùng dao đâm Q là 1 phản
xạ tự nhiên, mang tính tức thời vì không còn cách nào khác để tự giải
thoát cho bản thân khi rơi vào tình huống này.
Nội dung án lệ số 28/2019/AL là cơ sở để làm rõ hơn tội giết người
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
Hành vi của bị hại là trái pháp luật, xâm phạm sự an toàn về thân thể
của bị cáo. Trong trạng thái bị kích động dẫn đến mất khả năng tự
chủ, không nhận thức hết được tính chất và mức độ nguy hiểm của
hành vi của mình, bị cáo dùng dao đâm vào ngực bị hại là nhằm
Nhóm 4
LÝ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
- Hành vi của bị hại là trái pháp luật, xâm phạm sự an toàn về thân thể
của bị cáo. Trong trạng thái bị kích động dẫn đến mất khả năng tự
chủ, không nhận thức hết được tính chất và mức độ nguy hiểm của
hành vi của mình, bị cáo dùng dao đâm vào ngực bị hại là nhằm
thoát khỏi sự tấn công => Do đó, có đủ cơ sở xác định anh C đã bị
kích động mạnh về tinh thần. Tòa án cấp sơ thẩm kết án Trần Văn C
về tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” là
có căn cứ.
- Bị hại (anh Q) đã thực hiện một chuỗi hành vi trái pháp luật tấn
công bị cáo (anh C) liên tục, kéo dài làm cho bị cáo bị ức chế tâm
lý, kích động về tinh thần. Trong trạng thái bị mất khả năng tự chủ,
bị cáo dùng dao đâm bị hại nhằm thoát khỏi sự tấn công. Bị cáo
không nhận thức hết được tính chất và mức độ nguy hiểm của hành
vi mà mình đã thực hiện. Hậu quả dẫn đến bị hại chết.
Nhóm 4
LÝ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
2. Án lệ có khả năng khắc phục những lỗ hổng pháp luật một cách
nhanh chóng, kịp thời
* Một số bất cập , vướng mắc:
- Thứ nhất, quy định pháp luật chưa có tính thống nhất trong xác định “trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh”. Đây là vướng mắc cơ bản nhất chưa giải quyết
được khi định tội danh tội "Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh". Chưa có một quy định chi tiết, cụ thể để xác định trạng thái tinh thần bị
kích động của một người như thế nào. Chính vì lý do trên, nên xảy ra rất nhiều
trường hợp có nhiều quan điểm khác nhau về tội danh của tội phạm, gây nên sự
không thống nhất về định tội danh.
- Thứ hai, các quy định hiện nay chưa đề cập đến căn cứ để xác định mức độ
nghiêm trọng của hành vi trái pháp luật của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc
người thân thích phạm tội. Chưa có sự thống nhất trong quan điểm xác định hành
Nhóm 4
LÝ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
vi trái pháp luật khiến người phạm tội rơi vào trạng thái bị kích động mạnh, gây
khó khăn cho quá trình tố tụng.
- Thứ ba, trong thực tế xét xử việc xác định ranh giới giữa tội "Giết người trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh" với một số tội khác như: giết người, tội
giết người do vượt quá phòng vệ chính đáng,… gây nên nhiều khó khăn trong quá
trình xét xử vụ án, xác định tội danh.
Nhận định của Toà án về tội danh: Căn cứ vào lời khai của Trần Văn C
phù hợp với lời khai của các nhân chứng Tòa án cấp sơ thẩm kết án
Trần Văn C về tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh” là có căn cứ.Toà án cấp phúc thẩm chuyển tội danh từ “Giết
người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” sang “Giết người”
đối với Trần Văn C là không đúng.
Nhóm 4
LÝ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
- Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt Trần Văn C về tội “Giết người trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh”. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định
Trần Văn C bị kích động về tinh thần nhưng chưa đến mức bị kích động
mạnh. Như vậy, có sự khác nhau giữa Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp
phúc thẩm trong việc xác định anh C “bị kích động về tinh thần” hay “bị
kích động mạnh về tinh thần”, dẫn đến việc áp dụng pháp luật để giải
quyết vụ án không thống nhất.
- Đây là một án lệ có giá tri cao trong việc bảo đảm áp dụng thống nhất
pháp luật trong thực tiễn xét xử các vụ án có tình tiết tương tự. Đó là bị
hại đã thực hiện một chuỗi hành vi trái pháp luật tấn công bị cáo liên
tục, kéo dài làm cho bị cáo bị ức chế tâm lý, kích động về tinh thần.
Trong trạng thái bị mất khả năng tự chủ, bị cáo dùng dao đâm bị hại
nhằm thoát khỏi sự tấn công. Bị cáo không nhận thức hết được tính chất
và mức độ nguy hiểm của hành vi mà mình đã thực hiện. Hậu quả dẫn
đến bị hại chết. Trường hợp này, bị cáo phải bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”.
- Tuy nhiên, khi áp dụng án lệ này cần cẩn trọng trong việc phân biệt tội
“Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”, tội “Giết
người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” và tội “Giết người”
với tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh
thần do hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc người khác gây ra”.
Tội giết người với tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội trong trường hợp bị kích
động về tinh thần thì chỉ do hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc
người khác gây ra” còn tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh” thì phải do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn
nhân. Tội “Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” phải
thỏa mãn dấu hiệu bắt buộc của phòng vệ chính đáng (là sự tương xứng
tương đối giữa hành vi chống trả của bị cáo với hành vi tấn công của bị
hại).
- Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 15/2018/KN-HS ngày 22-
5-2018, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định kháng nghị Bản
án hình sự phúc thẩm số 200/2017/HSPT ngày 10-8-2017 của Tòa án
nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao xét xử giám đốc thấm hủy bản án hình sự phúc thẩm
nêu trên về phần trách nhiệm hình sự đối với Trần Văn C và giao hồ sơ
vụ án cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đê xét xử phúc thẩm lại.
- Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao
nhất trí với quyết định kháng nghị giám đốc thẩm của Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
Nhóm 4
LÝ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
cao quyết định hủy bản án phúc thẩm, giữ nguyên quyết định của bản án
sơ thẩm về phần tội danh và hình phạt đối với Trần Văn C.
Phán quyết của tòa giám đốc thẩm về vụ án hình sự cụ thể này là
một phán quyết rất đúng đắn, hoàn toàn dựa trên các phân tích
khách quan, công minh và sâu sắc của hội đồng thẩm phán đã sửa
chữa những sai phạm, thiếu sót của bản án phúc thẩm từ đó đưa ra
quyết định đúng đắn, có sức thuyết phục cao, làm mẫu cho các tòa
án cấp dưới, tạo được sự “tâm phục, khẩu phục”của đương sự và
công luận của xã hội.
Nhóm 4