You are on page 1of 19

Số phách

Lớp
Khóa : 40
Khoa : HLTT

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH CỘNG HÒA XÃ HỘI


CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRƯỜNG ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ
MINH Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Số phách

Số phách

BÀI THI KẾT THÚC MÔN: ……HLTTHĐ……….


HỌC LẠI ĐỢT 2 NĂM HỌC 2020-2021

Họ và tên sinh viên: …Nguyễn Thị Ái Thiện…….


Mã số sinh viên: …….. Lớp: …Võ vật….
Khóa: …40... Khoa: …HLTT……

Điểm (bằng số) Điểm (bằng chữ) CB chấm thi 1 CB chấm thi 2

ĐỀ THI:
Câu 1: Hãy trình bày những đặc trưng cơ bản của thể thao thành tích cao và
những đặc trưng cơ bản của HLTT hiện đại. (2 điểm)
Câu 2: Trình bày cơ sở khoa học của tổ chức huấn luyện nhiều năm cho VĐV
trẻ. (3 điểm)
Câu 3: Hãy trình bày những phẩm chất năng lực cần có của HLV thể thao hiện
đại và nội dung cơ bản để nâng cao trinh độ khoa học và công nghệ cho huấn
luyện viên. Cho ví dụ cụ thể trong thực tiễn huấn luyện để minh chứng cho từng
nội dung? (5 điểm)
BÀI LÀM
Câu 1:
A - Những đặc trưng cơ bản của thể thao thành tích cao:
Thể thao thành tích cao lấy tính tương đối độc lập làm thành một trong ba
lĩnh vực lớn của TDTT hiện đại, bởi vì đặc trưng cơ bản của nó có khác biệt rõ
ràng với lĩnh vực khác của TDTT.
1. Tính thi đấu của thể thao thành tích cao rõ ràng hơn:
Đặc trưng chủ yếu nhất của thể thao thành tích cao là biểu hiện rõ tính thi
đấu, bởi vì mục đích cơ bản của chúng ta khi tham gia thể thao thành tích cao
được quyết định bởi phương thức biểu hiện và nội dung hoạt động cơ bản của
thể thao thành tích cao.
2. Yêu cầu của thể thao thành tích cao đối với người tham gia:
Trình độ kỹ nghệ cao siêu, chức năng cơ thể và tâm trí cao hơn người bình
thường. Sự phối hợp tập thể dục được trải qua các quá trình chuẩn bị tỉ mỉ.
Người tham gia thể thao thành tích cao cố gắng hết sức giành được thành tích
cao nhất. Vì đặc trưng này, thể thao thành tích cao, thể thao trường học và thể
thao quần chúng có sự khác biệt rất lớn.
3. Luật thi đấu của thể thao thành tích cao:
Thi đấu là hình thức biểu hiện cơ bản của thể thao thành tích, mà luật thi đấu
là văn bản mang tính pháp luật đảm bảo cho các điều kiện thi đấu của hai bên
được ngang bằng, sự cạnh trang được được công bằng. Nếu không, ý nghĩa của
việc thi đấu dần sẽ mất đi, thể thao thành tích cao cũng không có phương pháp
nào phát triển, thậm chí không còn tồn tại.
4. Tính giải trí của thể thao thành tích cao:
Thể thao thành tích cao là sản vật văn minh cao độ của loại người. Người
tham gia và người quan sát đều thu được hiệu quả. “Người vui, mình vui” trong
quá trình tham gia thể thao thành tích cao và dự khán thi đấu thể thao.
B - Những đặc trưng cơ bản của HLTT hiện đại:
Đặc trưng cơ bản của huấn luyện thể thao hiện đại là chỉ sự khác biệt giữa
hoạt động huấn luyện thể thao với các phương diện hoạt động thể thao khác,
chủ yếu có một số điểm như sau:
1. Huấn luyện từng môn thể thao chuyên biệt và nội dung huấn luyện
mang tính chuyên môn:
Đây chính là một đặc điểm khác biệt rõ ràng của hoạt động huấn luyện thể
thao so với các hoạt động thể thao khác. Điều này được quyết định bởi mục đích
chủ yếu của huấn luyện thể thao là thành tích thể thao.
Vận động viên muốn đạt được thành tích tốt trong thi đấu thì bắt buộc phải
biến từng môn thể thao trở thành “chuyên môn” của bản thân và phải cố gắng
hết sức thực hiện cho được. Nếu như một VĐV cũng một lúc tiếp nhận huấn
luyện hai môn thể thao nào đó, thì VĐV ấy sẽ rất khó đạt được thành tích thể
thao cao.
2. Tính công danh và lợi ích của mục đích huấn luyện:
Đây cũng là một đặc đặc điểm khác biệt rõ ràng phân biệt giữa các hoạt động
huấn luyện thể thao với các hoạt động thể thao khác. Điều này quyết định bởi
đặc điểm cơ bản của thể thao thành tích cao và quan điểm về giá trị thể dục thể
thao của người tham gia huấn luyện thể thao.
Muốn đạt được lợi ích và sự tôn vinh thì cũng làm cho bản thân đạt được lợi
ích về danh lợi nào đó, mà huấn luyện thể thao là con đường cơ bản không thể
tách rời.
3. Tính trường kỳ của quá trình huấn luyện và tính cực hạn trong chịu
đựng lượng vận động của VĐV:
Cùng với sự phát triển không ngừng về trình độ thể thao thành tích cao hiện
đại thì yêu cầu đối với VĐV về trình độ phát triển chức năng cơ thể, trình độ kỹ
chiến thuật và trình độ phát triển trí lực, tâm lý ngày càng cao. Trên phương
diện khách quan thì điều này quyết định tính trường kì của quá trình huấn luyện
thể thao.
Trong quá trình huấn luyện, nếu như không tiếp nhận lượng vận động cực
hạn một cách thường xuyên, có chủ đích, có chu kỳ thì sẽ không những không
đột phá được lượng vận động cực hạn ban đầu, nâng cao thành tích thể thao
chuyên môn, mà còn có thể làm giảm sút hiệu suất nâng cao thành tích môn
chuyên sâu.
Ngoài ra, đối với đặc điểm huấn luyện thể thao vẫn còn những khái quát
những thuật ngữ miêu tả như: “tính khoa học, tính kế hoạch của huấn luyện thể
thao”, “thực thi huấn luyện với chủ đích cá nhân”, ”tính đa dạng của biện
pháp, phương pháp huấn luyện”, “ tính hệ thống trong sắp xếp huấn luyện”,
“tính phức tạp nội dung huấn luyện”,… Do đặc điểm này có những nét tương
đồng hoặc tương tự với một số đặc điểm và yêu cầu của thể dục thể thao trường
học hay tập luyện thể dục thể thao, khó mà tạo những đặc điểm cơ bản của huấn
luyện thể thao khác biệt với hoạt động thể dục thể thao khác
4. Đặc điểm năng lực thi đấu của VĐV ưu tú ở các nhóm môn khác
nhau:
Trrong quá trình phát triển không ngừng của lý luận và phương pháp huấn
luyện thể thao, cần thiết phải tăng cường nghiên cứu đặc điểm năng lực thi đấu
của VĐV ưu tú thuộc các nhóm môn khác nhau. Có thể khái quát sự cần thiết là
vừa vận dụng lý luận chung, vừa chú ý đặc điểm sở trường của VĐV về năng
lực thi đấu. Đặc điểm cơ bản này thể hiện sự khác biệt giữa các nhóm môn thể
thao.
5. Chú trọng nâng cao trình độ thể thao (trình độ tập luyện là chính) của
VĐV một cách toàn diện, hệ thống
Trình độ (năng lực) thể thao thể hiện trong tập luyện và thi đấu của VĐV. Nó
là một cấu trúc tổng hợp (như hợp kim) về thể năng, kỹ năng, năng lực, tâm lý,
… Năng lực về chiến thuật liên quan chặt chẽ tới cả năm thành phần trên. Sự
hình thành tất cả những năng lực trên chủ yếu qua huấn luyện. Nhờ huấn luyện
VĐV có được và nâng dần trình độ thích ứng mới, ngày càng cao hơn (trong
giai đoạn phát triển) hoặc duy trì hay hạn chế sự suy giảm trong giai đoạn VĐV
có thâm niên thể thao tương đối cao. Người ta gọi đó là trình độ tập luyện của
VĐV. Nó gắn liền và thể hiện hiệu quả huấn luyện của HLV (trình độ tập
luyện).
Năm thành phần trong trình độ tập luyện trên có quan hệ vừa thúc đẩy vừa
chế ước nhau. Đó là một trạng thái cân bằng, ổn định tương đối và luôn tiến
hóa. Cứ một thành phần, một mặt nào đó được nâng cao lại tác động, sinh ra
những yêu cầu mới cho những mặt kia, tức là trạng thái cân bằng động cũ bị phá
vỡ và tạo nên một trạng thái cân bằng mới. Chính nhờ sự phát triển từng bước
nâng cao. Ngược lại, nếu một mặt nào đó kém phát triển, thậm chí suy giảm, thì
sẽ ảnh hưởng không lợi tới mặt khác làm cho trình độ tập luyện giảm sút.
Mỗi môn thể thao đều có đặc điểm riêng nên yêu cầu, đặc trưng của trình độ
tập luyện cũng có khác nhau. Các VĐV ưu tú trên thế giới ngày nay vừa duy trì
và nâng cao được trình độ tập luyện chuyên sâu và sở trường của bản thân, vừa
nâng cao trình độ tập luyện toàn diện và hệ thống.
Sự nâng cao toàn diện, hợp lý trình độ tập luyện và thi đấu của VĐV là nhân
tố quyết định thắng lợi trong thi đấu hiện đại. Do đó phải chú trọng huấn luyện
toàn diện, không được lệch lạc (không đồng nghĩa với việc coi nhẹ chuyên sâu),
để VĐV có thể đạt được một thành tích trình độ tâp luyện tương ứng. Tuy vậy,
sự sắp xếp nội dung, yêu cầu trong các thời kỳ, giai đoạn huấn luyện phải dần
đều, mà căn cứ vào đặc điểm củ từng môn thể thao, từng VĐV, trọng điểm
trong từng thời đoạn của quá trình huấn luyện (qua các loại chu kỳ) mà nâng
cao toàn diện, tổng thể trình độ tập luyện để cuối cùng đạt được thành tích
mong muốn.
6. Huấn luyện thể thao thể hiện rõ ở tính kế hoạch và tính hệ thống:
Tính kế hoạch thể hiện trong cac kế hoạch tập luyện được xây dựng trên cơ
sở các tri thức khoa học và các kinh nghiệm chung rút ra từ thực tiễn đảm bảo
cho việc xây dựng một cách có hệ thống thành tích thể thao.
Phân chia càng nhiều chu kỳ lớn trong năm càng rõ ràng. Nhưng nên chia
làm bao nhiêu cho phù hợp với từng đội hoặc VĐV thì không thể có đáp án số
giống nhau. Nó phụ thuộc vào từng môn thể thao, trình độ, thành tích và nhiệm
vụ thi đấu. Tuy vậy, một chu kỳ huấn luyện lớn nào cũng phải là một quá trình
thống nhất có các giai đoạn: chuẩn bị - thi đấu - phục hồi, điều chỉnh.
7. Tính khoa học và định lượng hóa công tác huấn luyện thể thao:
Huấn luyện thể thao dựa trên các tri thức khoa học tự nhiên và khoa học xã
hội. việc sử dụng các tiến bộ khoa học trong huấn luyện thể hiện rõ ở sự phát
triển cao và không ngừng của lý luận và phương pháp huấn luyện cũng như sự
hợp tác tập thể ngày càng tăng giữa các chuyên gia của các lĩnh vực chuyên
môn khác nhau trong việc giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu và giúp đỡ thực
tiễn, trong việc lập kế hoạch điều khiển và đánh giá quá trình tập luyện. Thông
qua các mối quan hệ chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn mà các chuyên ngành
của khoa học thể thao phát triển và nâng cao hiệu quả thực tiễn của nó. Những
kinh nghiệm của cá HLV và các VĐV nổi tiếng cũng thuộc về tính khoa học
của HLTT. Những kinh nghiệm này cần phải được khái quát hóa và cần được áp
dụng một cách sáng tạo phù hợp với các điều kiện chuyên môn của các môn thể
thao.
Định lượng hóa công tác huấn luyện thể thao đó là xác định được giới hạn rõ
ràng về số lượng và các chỉ số về lượng vận động thể lực, kỹ thuật, chiến thuật,
… Kết hợp với sự đánh giá về định tính, huấn luyện theo hướng này giúp nâng
cao trình độ khoa học, hạn chế sự may rủi, mỳ quáng trong công tác đào tạo
VĐV hiện đại. Yêu cầu định lượng trên thể hiện trong kế hoạch, biện pháp
thuộc các chu kì huấn luyện to nhỏ, loại hình khác nhau, không chỉ trong xác
định các chỉ tiêu huấn luyện cần đạt tới mà còn lấy đó làm căn cứ để đánh giá,
điều khiển cũng như kịp thời điều chỉnh.
8. Huấn luyện đa dạng các phương tiện tập luyện chuyên môn và mô
phỏng theo hoạt động và trạng thái thi đấu:
Nội dung tập luyện chuyên sâu là những động tác chuyên môn tương tự với
các kỹ thuật dùng trong thi đấu. Ngày nay, những VĐV cấp cao đã qua huấn
luyện hệ thống nhiều năm, có trình độ tập luyện chung vững chắc thì thường
dùng nhiều bài tập chuyên môn hơn.
Việc chọn lọc các bài tập chuyên môn cho VĐV cao cấp hiện nay theo hướng
ít mà tinh, tối ưu hóa. Nó thể hiện trên 3 điểm:
- Cấu trúc các động tác tập luyện và thi đấu (xét về yêu cầu kỹ thuật) giống
nhau.
- Các dùng sức cơ bắp trong động tác tập luyện tương tự như khi thi đấu.
- Cuối cùng phải thể hiện được thành tích thể thao.
9. Huấn luyện tổng hợp:
Điều đó đòi hỏi phải ứng dụng nhiều thành tự của nhiều môn khoa học kỹ
thuật vào thực tiễn huấn luyện. Không chỉ là tổng hợp về các nội dung, phương
pháp huấn luyện nói chung mà còn cả huấn luyện tổng hợp về thể lực, kỹ chiến
thuật, … trên từng đơn vị thời gian. Tât nhiên quan niệm huấn luyện tổng hợp
này không có nghĩa là sự cộng ghép đơn giản, cao bằng nội dung trên.
Đặc trưng huấn luyện tổng hợp trong thể thao huấn luyện hiện đại bắt nguồn
từ tính đa dạng và nhiều mặt của quá trình nâng cao trình độ thể thao của VĐV.
Và lại, mỗi một phương pháp, nội dung, phương tiện huấn luyện nào đó cũng
chỉ có vai trò và tác dụng hữu hạn; không thể chỉ dùng một vài thứ đơn le rmaf
có thể nâng cao toàn bộ trình độ thành tích của VĐV.
10. Hồi phục sau lượng vận động
Thông thường, nếu tập và thi đấu càng nặng, càng gay go thì VĐV càng dễ
chấn thương, thậm chỉ còn mắc bệnh. Muốn giải quyết tình trạng này, một mặt
phải sử dụng lượng vân động hợp lý, mặt khác phải có biện pháp hồi phục hữu
hiệu.
Có nhiều phương pháp đa dạng giải trừ mệt mỏi và hồi phục cho VĐV. Đó là
sự sắp xếp hợp lý các nội dung, phương tiện, lượng vân động, thời gian hồi
phục, sử dụng nhịp nhàng các lượng vân động tập luyện và thi đấu, tăng cường
hoạt động điều chỉnh, hồi phục trong các buổi tập hoặc chu kì huấn luyện nhỏ.
Khéo léo sử dụng các bài tập hồi phục hữu hiệu.

11. Coi trọng huấn luyện tâm lý:


Thực tế huấn luyện và thi đấu ngày càng chứng tỏ vait trò quan trọng của
việc này, đặc biệt trong những cuộc thi đấu quan trọng, vào những thời điểm
gay go, quyết định, bên nào tâm lý vững thì phát huy được càng tốt năng lực thể
thao của mình và dễ giành được thắng lợi.
Trong huấn luyện vầ thi đấu thể thao hiện đại, vấn đề huấn luyện tâm lý sao
cho sát với yêu cầu từng môn thể thao, đặc biệt từng VĐV, trước hết là tìm ra
các phương pháp và phương tiện huấn luyện có hiệu quả, vẫn luôn nằm trong
trọng tâm chú ý của các nhà tâm lý học thể thao thế giới.
12. Coi trọng những thông tin phản hồi từ VĐV:
Huấn luyện thể thao là một quá trình phức tạp. Trong đó, VĐV vừa là chủ thể
tập luyện vừa là đối tượng huấn luyện của HLV. Tác dụng chủ đạo rõ nhất của
HLV thể hiện rõ nhất ở chỗ phải kịp thời nắm được thông tin phản hồi từ VĐV
về quá trình này để sắp xếp, điều khiển cho sát và thích hợp. Những thông tin
đó là những căn cứ trực tiếp để HLV lập kế hoạch, tìm biện pháp và điều khiển
thực tế.
13. Tuyển chọn và đào tạo VĐV khoa học từ sớm:
Tuyển chọn ban đầu có khoa học coi như là đã bắt đầu tạo tiền đề quan trọng
cho huấn luyện thành công. Nó đòi hỏi phải làm bằng nhiều cách, từ nhiều mặt,
trên cơ sở khoa học.
Trong thể thao, ai tuyển và huấn luyện VĐV được khoa học từ sớm thì người
đó sẽ đạo tào được nhiều VĐV có trình độ cao hơn và đó là đảm bảo quan trọng
giành thắng lợi cuối cùng trong thi đấu.
Câu 2:
*Việc phát triển thành tích thể thao phụ thuộc nhiều vào hiệu quả của hệ thống
huấn luyện nhiều năm VĐV trẻ. Để thực hiện có kết quả việc huấn luyện này, ở
mỗi giai đoạn của nó cần chú ý các chỉ số sau:
1) Lứa tuổi tối ưu để đạt thành tích cao nhất môn thể thao chính.
2) Hướng huấn luyện ưu tiên trong giai đoạn này.
3) Trình độ về thể lực, kỹ thuật mà VĐV cần đạt được.
4) Tổ hợp các phương tiện, phương pháp, hình thức tổ chức HL thể thao.
5) Các lượng vận động huấn luyện và thi đấu được phép áp dụng.
6) Các tiêu chuẩn kiểm tra.
Khi tổ chức chương trình huấn luyện nhiều năm cần dựa vào các giới hạn tối
ưu về lứa tuổi trong đó VĐV đạt được thành tích cao nhất của mình. Hàng loạt
nhân tố có thể ảnh hưởng đến lứa tuổi cho những người được giải và được vào
chung kết đại hội Olympic như việc cải thiện điều kiện sống và chế độ các
VĐV, việc hoàn thiện tiếp tục hệ thống huấn luyện thể thao, …
Thành tích của các VĐV có kể hoạch đạt những kết quả tốt nhất ở thời kỳ lứa
tuổi tối ưu thường cao và ổn định. Tuổi thọ thể thao ngắn ngủi ở thanh thiếu
niên, nhi đồng, sau khi có bước nhảy vọt nhanh và đạt thành tích thể thao tương
đối cao, ở lứa tuổi sớm hơn trên cơ sở chuyên môn hóa sâu quá sớm. Đồng thời
cũng cần tính tới việc định hướng theo giới hạn lửa tuổi tối ưu đạt thành tích
cao nhất có thể đúng đối với đa số, nhưng không phải luôn luôn đúng với những
VĐV ưu tú nào đó có những đặc điểm cá nhân nổi bật.
Trong quá trình lập kế hoạch huấn luyện nhiều năm cần tính tới thời hạn cần
thiết để đạt được những thành tích thể thao cao nhất ở môn thể thao này hay
môn thể thao khác. Nhịp độ phát triển thành tích ở những VĐV mạnh nhất phụ
thuộc vào trình độ huấn luyện ban đầu và độ tuổi của họ. Song ở tất cả các
nhóm tuôi, nhịp độ phát triển cao nhất diễn ra vào hai năm đầu tiên huấn luyện
chuyên sâu.
Người ta thường chia ra 3 vùng thành tích thể thao:
- Vùng thành tích thể thao cao đầu tiên (đạt thành tích thể thao quốc tế trong
nhóm VĐV thanh thiếu niên).
- Vùng những khả năng tối ưu (đạt trình độ của những VĐV giỏi nhất thế
giới, tham gia các đại hội Olympic, vô địch thế giới và châu lục).
- Vùng duy trì các thành tích thể thao cao nhất.
Tùy thuộc vào khuynh hướng ưu tiên, quá trình huấn luyện nhiều năm của
VĐV được quy ước chia thành 4 giai đoạn: huấn luyện ban đầu, chuyên môn
hóa thể thao ban đầu, chuyên môn hóa sâu môn thể thao chính và hoàn thiện thể
thao. Thời gian các giai đoạn này phụ thuộc vào đặc điểm chuyên biệt của từng
môn thể thao, cũng như trình độ tập luyện của VĐV và không có giới hạn rõ
ràng giữa các giai đoạn này.
Trong mỗi trường hợp cụ thể, quan sát sư phạm và theo dõi y sinh sẽ có thể
giúp xác định đúng thời hạn chuyển VĐV sang giai đoạn tiếp theo trong huấn
luyện nhiều năm.

* Các phương pháp của quá trình huấn luyện nhiều năm các VĐV trẻ:
- Huấn luyện nhiều năm các VĐV ở mọi lứa tuổi cần xem xét như một quá
trình sư phạm một cách thống nhất, một hệ thống nhất với những đặc điểm vốn
có của chúng. Điều quan trọng là phải đảm bảo tính kế thừa của các nhiệm vụ,
phương tiện, phương pháp huấn luyện cho VĐV năng khiếu và các VĐV trưởng
thành trên tất cả các giai đoạn của huấn luyện nhiều năm. Thành tích thể thao là
biểu hiện cuối cùng của việc điều khiển hợp lý quá trình huấn luyện là chỉ tiêu
hiệu quả của quá trình đó. Theo cách xem xét thành tích thể thao như vậy, cần
tính đến thành tích cao nhất và giới hạn lửa tổi tối ưu mà VĐV đạt được thành
tích đó.
- Khối lượng các phương tiện huấn luyện thể lực chung và chuyên môn tăng
liên tục, tương quan giữa chúng dần dần được thay đổi: từ năm này sang năm
khác, tỷ trọng của khối lượng huấn luyện luyện thể lực chuyên môn tăng lên (so
với khối lượng chung của lượng vận động tập luyện) và tỷ trọng của huấn luyện
thể lực chung giảm đi một cách tương ứng.
- Cần không ngừng hoàn thiện kỹ thuật thể thao. Nhiệm vụ chủ yếu của các
giai đoạn chuyên môn hóa ban đầu là nắm vững các nguyên lý kỹ thuật thể thao
hợp lý. Ở giai đoạn hoàn thiện thể thao cần đạt được trình độ phối hợp động tác
cao, “trau chuốt” các chi tiết của kỹ thuật.
- Cần lập kế hoạch lượng vận động tập luyện và thi đấu đúng. Trên cơ sở tăng
dần khối lượng và cường độ của lượng vận động tập luyện và thi đấu trong quá
trình huấn luyện nhiều năm, có thể nâng cao các khả năng chức năng và hoàn
thiện có kết quả những kỹ năng và kỹ xảo vận động của các VĐV trẻ. Cần đảm
bảo tính kế thừa trong quá trình tăng khối lượng và cường độ của lượng vận
động tập luyện, phát triển liên tục chúng trong suốt quá trình huấn luyện nhiều
năm. Mỗi một thời kì của chu kỳ năm kế tiếp, cần đạt được bắt đầu và kết thúc
ở mức kế tiếp ở mức lượng vân động tập luyện cao hơn so với thời kỳ tương
ứng của chu kỳ năm trước đó.
- Cần tuân thủ nghiêm ngặt quy tắc nâng dần lượng vận động tập luyện và thi
đấu trong quá trình huấn luyện nhiều năm của các VĐV trẻ. Trình độ tập luyện
của VĐV chỉ được nâng cao một cách thích đáng trong trường hợp nếu như
lượng vân động trong tất cả giai đoạn huấn luyện nhiều năm hoàn toàn phù hợp
với các khả năng chức năng riêng của cơ thể và lứa tuổi của VĐV. Tuân thủ quy
tắc nâng dần lượng vận động tập luyện sẽ tạo điều kiện cho việc nâng cao và
hoàn thiện khả năng thích nghi của cơ thể VĐV với các bài tập có thời gian thực
hiện khác nhau.
- Cần thực hiện phát triển đồng thời các tố chất thể lực của VĐV trong tất cả
các giai đoạn huấn luyện nhiều năm, cũng như phát triển tối ưu các tố chất nào
đó vào thời kỳ lứa tuổi thuận lợi nhất. Tác động sư phạm để phát triển các tố
chất thể lực của VĐV trẻ có tác dụng làm biểu hiện đầy đủ nhất những tố chất
thể lực đang có sự tăng trưởng rõ rệt nhất ở lứa tuổi nào đó của học sinh phổ
thông và có vai tro đặc biệt quan trọng đối với việc hình thành các kỹ năng vận
động.
- Định hướng mức lượng vận động của các VĐV trẻ theo các chỉ số tương
ứng mà các VĐV mạnh nhất của quốc gia đạt được.
- Nên nâng cao dần dần lượng vận động trước hết ở giai đoạn chuyên môn
hóa thể thao ban đầu và tặng nhịp độ phát triển của chúng ở giai đoạn tiếp theo
để có thể tiếp cận một cách nhịp nhàng lượng vận động mà những VĐV trưởng
thành mạnh nhất đã thực hiện được.
- Bảo đảm cho hệ thống sử dụng lượng vân động phù hợp với những đặc
điểm lứa tuổi và trình độ huấn luyện của VĐV trẻ.
- Có tính đến những quy luật phát triển và mối quân hệ qua lại giữa các hệ
thống khác nhau của cơ thể đang phát triển của VĐV trẻ; trong trường hợp giữa
các hệ thống có mối quan hệ tương đối chặt chẽ, cần áp dụng lượng vận động có
khối lượng cao.

Câu 3:
A - Phẩm chất năng lực cần có của HLV thể thao hiện đại:
1. HLV phả
i có ý thức và lòng yêu nghề sâu sắc.
Ý thức và lòng yêu nghề sâu sắc gắn liền với tinh thần trách nhiệm, với sự
nghiệp chung của đất nước và nền TDTT. Không có lòng yêu nghề sâu đậm thì
không thể kiên trì đảm nhận công tác đào tạo VĐV dài lâu, gian khổ mà được
thành công và khen thưởng thường khó, ít hơn là sai sót, thất bại và chê trách,
cho dù HLV đã có lúc đào tạo được những nhà vô địch phá được kỹ lục cao.
Ví dụ có rất nhiều HLV bóng đã chấp nhận sống xa quê hương để dẫn dắt đội
tuyển nước ngoài và làm rạng danh bóng đá nước đó. Điển hình nhất ở Việt
Nam có HLV Park Hang Seo.
2. HLV cần có kinh nghiệm thực tiễn và hiểu biết phong phú.
HLV cần có đầy đủ cả hai thì mới có thể chỉ đạo tốt công tác huấn luyện thể
thao hiện đại mà yêu cầu, xu thế phát triển của từng thời kì của TDTT. Cả 2 mặt
đó sẽ giúp cho HLV thông hiểu và nhạy bén trong xây dựng ý đồ cải tiến, lập kế
hoạch tiến hành huấn luyện và chỉ đạo thi đấu thực tế với những biến đổi nhanh
chóng. Thậm chí có lúc giải pháp sáng tạo mà cá nhân phải chịu trách nhiệm
lớn, rõ ràng trước công luận đông đảo nếu thất bại.
Nhiều HLV ngày nay phần lớn xuất thân từ VĐV ưu tú. Nếu đã từng là VĐV
ưu tú thì khi làm HLV dễ sát và tạo được uy tín với VĐV. Nhưng không phải cứ
là VĐV ưu tú thì mặc nhiên sẽ trở thành HLV ưu tú. Do đó kinh nghiệm thực
tiễn và hiểu biểu phong phú rất quan trọng nhưng không phải điều kiện tuyệt đối
và duy nhất. Nó phải được kết hợp với kiến thức, phẩm chất tương ứng cùng các
kỹ năng giáo dục, tổ chức.
Những hiểu biết chuyên môn của HLV cần bao gồm:
- Lý luận huấn luyện chung và môn thể thao chuyên sâu
- Những hiểu biết khoa học cở sở về sinh học thể thao như y sinh học, sinh
hóa học, sinh cơ học, sinh lý học, giải phẫu học, …
- Những hiểu biết khoa học về khoa học xã hội và nhân văn TDTT như xã hội
học, tâm lý học, giáo dục học, phương pháp giáo dục, … nói chung hoặc từng
môn thể thao chuyên sâu.
- Những hiểu biết có liên quan tới đặc điểm môn thể thao chuyên sâu hoặc
đồi tượng tập luyện chuyên biệt. Ví dụ HLV bơi lội phải biết thủy động học,
HLV đua xe phải biết khí động học, …
- Nắm vững những thông tin tập luyện của VĐV. Ví dụ về mặt hình thái cơ
thể, xem xét các số liệu về thể lực, … HLV cần ghi chép, phê duyệt nhật ký tập
luyện của VĐV, thực hiện các bài test định kì để nắm vững và kịp thời điều
chỉnh chế độ tập luyện phù hợp với VĐV.
- Để xây dựng kế hoạch huấn luyện, HLV cần phải xem xét thời kỳ giai đoạn
huấn luyện nào cho VĐV. Các yếu tố khách quan như điều kiện sân bãi, khí
hậu, đồng đội, môi trường, … cũng là những yếu tố cần được xem xét.
- HLV cũng cần ham học hỏi và có những kiến thức rộng rãi ở mức cần thiết
về khoa học, công nghệ, văn hóa nói chung. Thực tế đó là những nhân tố, điều
kiện làm tăng khả năng giao tiếp, liên kết, nâng cao tcs dụng, vai trò cũng như
uy tín của HLV trong công tác và trước xã hội.
3. HLV cần phải có hiểu biết sâu sắc và kỹ năng giáo dục (dạy học, huấn
luyện, hướng dẫn, tổ chức, …) thành thạo.
Muốn truyền đạt được những hiểu biết kinh nghiệm và đào tạo cho VĐV nói
chung, HLV cần phải có “tay nghề”, tức là có những hiểu biết và kỹ năng vân
dụng hợp lý các hình thức, nguyên tắc tổ chức giáo dục, rèn luyện trong thực tế
huấn luyện đạt hiệu quả tối ưu. Yêu cầu này càng có ý nghĩa quan trọng với
hoạt động huấn luyện và huấn luyện thể thao với những đặc điểm nổi bật về sự
vận động thân thể và sức mạnh.
4. Chịu khó tìm tòi và mạnh dạn cải tiến.
Huấn luyện thể thao là một quá trình sáng tạo. Tùy từng giai đoạn phát triển
của khoa học, công nghệ mà nền thể thao cũng thay đổi không ngừng, chưa kể
đến đặc điểm riêng biệt của từng dân tộc, đội thể thao, cá nhân VĐV trong từng
tình huống cụ thể. Do đó những HLV không bảo thủ, thụ động mà luôn học hỏi
tìm tòi, đổi mới nào đó về lý luận, quan niệm, phương pháp và tổ chức huấn
luyện sẽ luôn có cơ hội có được thành tích cao hơn.
5. HLV cần phải có đạo đức và tình cảm cao thượng.
Không coi trọng nền tảng đạo đức và tình cảm cao thượng mà chỉ thiên về
nhưng thủ pháp chuyên môn hoặc đối xử “khéo léo” trong làm việc thì trước
sau cũng thất bại, không có uy tín trong xã hội, đặc biệt trước các VĐV của
mình. HLV cần phải nói lời hay ý đẹp, nhất quán trong việc nói và làm, thắng
không kiêu bại không nản, phải càng “Fair-play” trước tiên.
6. HLV cần có giác ngộ chính trị cao.
Những yêu cầu về giác ngộ chính trị đối với HLV như sau:
- Yêu nước và trung thành với Tổ quốc, nhân dân, nhiệt tâm với nghề nghiệp,
không ngừng phấn đấu trở thành một HLV có đức và tài hoàn thiện.
- Chịu khó học tập chính trị và nghiệp vụ thể thao; luôn tìm tòi, sáng tạo,
không ngại gian khổ khó khắn để thực hiện nhiệm vụ chính trị của bản thân, góp
phần đáng có vào sự nghiệp chung.
- Quan tâm và làm tốt công tác chính trị tư tưởng và giáo dục toàn diện cho
VĐV.
- Thương yêu, gần gũi, chăm sóc VĐV; công bằng, chu đáo, có lý có tình.
Không đánh chửi, làm nhục, thành kiến với VĐV; có lối làm việc dân chủ
nhưng biết quyết đoán hợp lý.
- Giải quyết đúng đắn mối quan hệ sự nghiệp, công tác, học tập và gia đình;
mối quan hệ đoàn kết hợp tác với đồng nghiệp, bạn bè.
- Gương mẫu về các mặt công tác, học tập, lối sống, làm gương cho VĐV noi
theo.
- Tôn trọng luật pháp, có ý thức tổ thức, kỷ luật; tích cực đấu tranh với các
hiện tượng bất lương, tiêu cực.
- Những yêu cầu, biểu hiện trên cũng không tách rời ý thức, trách nhiệm của
một công dân trong xã hội nói chung.
B - Nội dung cơ bản để nâng cao trình độ khoa học và công nghệ cho
HLV:
Muốn nâng cao trình độ khoa học và công nghệ cho HLV phải có một hệ
thống tác động nhiều mặt, nhiều nội dung theo nhiều cấp độ. Trước hết nó đòi
hỏi được sự quan tâm, chỉ đạo, đầu tư đúng mức của lãnh đạo các cấp bộ có liên
quan; coi việc ứng dụng và nâng cao trình độ khoa học công nghệ cho HLV là
một trọng điểm, đảm bảo quan trọng hàng đầu cho công tác huấn luyện thể thao.
Trong đó điều kiện chủ trương, chính sách, chế độ, điều kiện vật chất, tinh thần,
thời gian, việc nâng cao trình độ này chủ yếu phụ thuộc vào sự nổ lực của từng
HLV về những mặt chính sau:
1. Nâng cao ý thức khoa học và kinh nghiệm.
- Ý thức trên là tổng hòa quá trình tâm lý về mặt tình cảm, tư duy, nhận thức,
… của HLV với khoa học và công nghệ. Nó quyết định hành động của khoa học
và công nghệ của HLV trong công tác của mình. Muốn thế phải xác lập được ý
thức vững chắc “khoa học công nghệ là sức sản xuất thứ nhất”; nó quyết định
trực tiếp sinh mệnh chuyên nghiệp cùng sự thành bại của từng HLV trong việc
giải quyết các nhiệm vụ huấn luyện thực tế trên cơ sở bám chắc vào khoa học và
công nghệ, chú trọng tìm đón xu thế và tích cực ứng dụng những thành tựu khoa
học công nghệ mới, trông trọng và hợp tác tốt với các cán bộ khoa học và công
nghệ khác; rèn luyện thành một thói quen tìm hiểu, suy nghĩ đến cùng trong
công việc huấn luyện thể thao theo trình tự “vì sao? – làm gì? – làm thế nào?”.
* Ví dụ HLV tìm tòi, học hỏi và ứng dụng những thành tự khoa học y học,
đặc biệt là những thành tựu y học trong khả năng hồi phục, bên cạnh đó áp dụng
những công nghệ mới như: ghế massage, máy xông hơi, … để VĐV có thể
nhanh chóng hồi phục sau những buổi tập căng thẳng, giúp VĐV đạt trạng thái
sung sức ở những buổi tập tiếp theo.
2. Không ngừng học hỏi và đổi mới hiểu biết về khoa học và công nghệ
để mở rộng diện và lượng thông tin.
Chỉ có miệt mài, liên tục, tranh thủ thời gian có thể trong đời, tích nhỏ thành
lớn, mới mong đem lại hiệu quả tốt đẹp. Ngoài những thông tin “chết” thu lượm
được từ các sách báo, tư liệu, còn cần tìm tòi mọi cách thu thập những thông tin
“sống” qua quan sát, trao đổi, thảo luận, nghe giảng, báo cáo khoa học, … Việc
mở rộng diện đọc và tiếp xúc với các tư liệu, kiến thức khoa học khác nhau
cũng rất quan trọng.
* Ví dụ như HLV có thể tìm hiểu và sử dụng các mạng xã hội như google,
facebook,… để tìm hiểu các xu thế thể thao, đọc các tin tức thể thao trong và
ngoài nước, đọc những bài báo cáo khoa học trên mạng xã hội, tham gia những
cuộc tọa đàm về thể thao ,…
Ngoài những tài liệu và những đồng nghiệp chuyên sâu, mở rộng quan hệ,
hiểu biết theo chiều ngang cũng có thể thu được những thông tin và gợi ý quý
giá cho sự sáng tạo trong công việc của mình. Mặt khác, kết hợp học và hành,
không ngừng nâng cao trí năng. Trí năng của HLV chủ yếu gồm những năng lực
tư duy, dạy học, tổ chức quản lý, nghiên cứu khoa học, giao tiếp, …
* Ví dụ HLV có thể giao lưu và học hỏi từ những HLV môn chuyên sâu
khác, những người có kinh nghiệm lâu năm trong công tác huấn luyện, tham gia
các cuộc trò chuyện trên các nền tảng mạng xã hội dành cho các HLV.
3. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và công nghệ thể thao.
Dù ý thức nhiều ít thì bản thân HLTT vẫn là một hoạt động, công tác có tính
thăm dò, thực nghiệm, nghiên cứu khoa học. Do đó từng HLV phải có ý thức
như vậy đối với công tác huấn luyện thể thao của mình. Hợp tác và được giúp
đỡ của các cán bộ khoa học kỹ thuật khác, HLV cần có ý thức kiên trì, hệ thống
thu thập được cứ liệu khách quan, điển hình quan trọng về huấn luyện, … rồi
gia công, xử lý, tổng kết kinh nghiệm, khám phá các quy luật mới của quá trình
này để vân jdunjg tốt hơn. Cũng có thể kết hợp mà sáng chế ra các phương tiện,
mấy móc tập luyện chuyên dùng hữu hiệu hơn. Hoặc tạo nên các tiền đề cơ sở
để chỉ đạo, kiểm tra làm chỗ dựa cho công tác huấn luyện thể thao. Cao hơn
nữa, người ta có thể xây dựng thành các lý luận, học thuyết, trường phái huấn
luyện. Do đó, HLV hiện đại phải cố phấn đầu trở thành một cán bộ vừa huấn
luyện thể thao vừa nghiên cứu hoa học và công nghệ thể thao.
* Ví dụ qua giao lưu với những HLV môn thể thao khác, qua đọc các bài báo
cáo, hội đàm hội thảo của những nhà khoa học về thể thao, HLV có thể tổng kết
được những bài tập, những lý luận phù hợp để phát triển môn thể thao chuyên
sâu của mình, từ đó áp dụng và nâng cao trình độ cho VĐV.
4. Nâng cao năng lực ứng dụng khoa học và công nghệ vào công tác huấn
luyện thể thao.
Muốn đưa tất cả thành tựu khoa học và công nghệ về thể thao vào thực tiễn
để biến thành “sản xuất trực tiếp” thì phải qua khâu “cầu” HLV. Trong công
việc kết hợp, chuyển giao và ứng dụng này, HLV đóng vai trò chính và có lợi
ích thân thiết trước tiên. Quá trình ứng dụng trên không phải đơn giản, dễ dàng.
Ngoài những quan niệm bảo thủ, kinh nghiệm chủ nghĩa, khoa học phiền toái,
cản trở, thậm chí phá vỡ các nề nếp, đường mòn và vị trí vốn có của mình, việc
sát hiểu và phấn đấu nâng cao trình độ khoa học và công nghệ để có thể giải
quyết những vấn đề thực tế phức tạp của thể thao cũng không dễ dàng. Ở đây
cũng không còn những con đường bằng phẳng và đòi hỏi phải có nhiều nghị
lực.
Chúng ta phải vận dụng các lý luận, phương tiện, phương pháp, kỹ thuật và
công nghệ tương đối hiện đại và phù hợp để phục vụ cho công tác huấn luyện
thể thao nước nhà.
* Ví dụ HLV xem xét và tính toán để có thể áp dụng các phương pháp tập
luyện, lý luận thể thao mới mà mình đúc kết được từ nhiều nguồn vào tập luyện
trong một thời gian ngắn để đánh giá sự phát triển của VĐV. Từ những thử
nghiệm ấy, HLV có thể rút ra những điểm hợp lý hoặc không hợp lý đối với
môn chuyên sâu, để có thể thay đổi từ từ phương pháp huấn luyện và khiến quá
trình huấn luyện trở nên hiệu quả hơn.
5. Dựa vào liên kết với các cán bộ khoa học và công nghệ.
Các cán bộ này thường có chuyên môn sâu, hiểu biết cơ bản và rộng, vốn tích
lũy thông tin về khoa học và công nghệ tương đối nhiều, có năng lực và kinh
nghiệm nhất định, đáng quý về mặt này. Liên kết và dựa vào họ, HLV dễ mở
rộng được thông tin, tích lũy kiến thức, rộng đường suy nghĩ sáng tạo cách giải
quyết vấn đề; trước sau cũng phải đem lại lợi ích trực tiếp hoặc gián tiếp cho
công tác. Do đó, HLV nên chân thành, nhiệt tình, khiêm tốn, làm quen, kết bạn,
tranh thủ sự ủng hộ giúp đỡ của họ và lẫn nhau. Tinh thần, thái độ đó mà giữ
được nhất quán trước và sau mỗi thành công của thể thao sẽ giúp giữ được hợp
tác lâu dài, tạo đà thúc đẩy thật sự cho công tác huấn luyện thể thao.
* Ví dụ như HLV có thể tìm gặp và kết nối với những cán bộ khoa học về thể
thao qua các trang mạng xã hội, hoặc các hội đàm hội thảo về thể thao, từ đó kết
bạn, giao lưu, nhờ những cán bộ đó giải đáp những thắc mắc về các kiến thức
thể thao, trao đổi những kiến thức thể thao mình có được để được góp ý và mở
rộng hiểu biết.

You might also like