Professional Documents
Culture Documents
HÀ NỘI 9/2022
I. Giới thiệu
II.Tính chất (nguyên lý hoạt động)
III. Cấu tạo (các cấu trúc, bộ phận cơ bản)
IV. Đánh giá
1. Ưu điểm, khả năng, phạm vi áp dụng
2. Nhược điểm
V. Các công trình được sử dụng
MỤC LỤC Công trình thể thao
• 1. Tổ hợp nhà thi đấu quốc gia Yoyogi, Tokyo, Nhật Bản (1961)
• 2. Khu phức hợp thể thao Madison Square gardens, New York, Mỹ (1968)
• 3. Sân vận động Stade de Frane 1998, Pháp
• 4. Nhà thi đấu đa năng Zabreg, Croatia (2009)
• 5. Sân vận động Mose Mabhida, Durban, Nam Phi (2009)
• 6. Sân vận động Juventus (Nuovou Stadio Juventus), Ý (2011)
Công trình triển lãm
• 7. Nhà triển lãm O2 ở Luân Đôn, Anh (1999)
Công trình công nghiệp
• 8. Nhà máy sản xuất giấy Burgo Paper Mill (1964)
I. Giới thiệu
1. Mở đầu
• Kết cấu treo hay kết cấu chịu Các túp lều cổ trên (a,b) và Yurt(c) ở vùng thảo nguyên Sebiria từ 4000 năm trước
kéo là một cái tên mới mẻ tuy
nhiên kết cấu này đã xuất hiện
từ rất lâu đời. Bằng chứng là từ
rất lâu trước đây con người đã
biết ứng dụng cấu trúc chịu kéo
để dựng các túp lều, thuyền
buồm, và cả những cây cầu với
khoảng vượt bất ngờ (800
feet=243.84m) chỉ từ vật liệu tre
và dây thừng. Cột buồm(a) xuất hiện 5000 năm trước, rạp xiếc(b) vào thế kỷ 20, Cầu treo được làm từ
dây thừng và tre xuất hiện 4000 năm trước(c)
• Tuy nhiên kết cấu chịu kéo chưa bao giờ thực sự phát triển
cho đến sau thế chiến thứ II. Có rất nhiều nhà tiên phong đã
có những cống hiến và nỗ lực để đóng góp cho sự phát triển Tháp Shabolovaka, Moscow, 1922, Kts.Vladimir Shukhov
cho kết cấu này như Kts.Kenzo Tange, Kts.Gunnar Birkers,
Kts.Vladimir Shukhov, Kts.Iakov Chernikhov,...
Các thử nghiệm của Iakov Chernikhov với cấu trúc kiến trúc, 1925-1932
• Cấu trúc tuyến tính • Cấu trúc ba chiều • Cấu trúc ứng xuất trước
- Mái dây 1 lớp - Vành bánh xe đạp - Mái dây hình yên ngựa
- Mái dây 2 lớp - Cấu trúc Tensegrity - Màng căng
- Giàn dây
- Hỗn hợp dây và thanh cứng
II.Tính chất (nguyên lý hoạt động)
• Lớp dây võng xuống là lớp dây chịu lực gọi là lớp dây chú
• Lớp dây vồng lên là lớp dây căng, gọi là lớp dây ổn định, làm
tăng độ ổn định hình dạng cho hệ dây, làm cho hệ có độ cứng Mái dây 2 lớp của sân vận động Yubileinui ở Nga
và có khả năng chịu được tải trọng đổi chiều. Để dây căng có
đủ khả năng làm việc với dây chủ, lực căng trước trong lớp
dây này phải lớn hơn nội lực nén do tải trọng
• Nối hai lớp dây trên là các thanh chống cứng chịu nén hoặc
chịu kéo
• Dây chịu lực cao hơn dây căng — các hệ thanh chịu lực đều
chịu kéo tốt
• Dây căng cao hơn dây chịu lực tiết kiệm được 1 vành trong
hệ thanh chống chịu nên không tốt.
3. Giàn dây
• Là dạng đơn giản nhất, làm việc tương tự như consol. Đây là hệ
kết cấu mái kết hợp giữa dây và kết cấu cứng. Hệ kết cấu gồm các
xà consol và các dây cáp treo các xà này, các dây liên kết chắc vào
xà kèo vượt qua đỉnh cột trụ neo vào kết cấu phụ.
• Hệ kết cấu đáp ứng nhu cầu sử dụng không gian rộng lớn và yêu
cầu kinh tế của công trình.
• Có thể tăng số lượng dây neo và điều chỉnh lực kéo trong chúng
có thể giảm tối đa mơmen uốn trong xà hợp lý hơn.
• Tải trọng được đặt trên kết cấu cứng
• Hệ số giản nở nhiệt độ tương đối lớn. Vì vậy, gối tựa không thể
ngàm cứng được mà phải là liên kết khớp.
• Khi căng dây, tải trọng mái đè xuống, làm cho kết cấu bị căng.
Mái cong ở trên truyền tải thẳng xuống -> Làm consol ổn định.
5. Vành bánh xe
• Dùng thích hợp cho mặt bằng hình tròn, bầu dục, đa giác đều.
• Hệ đơn giản nhất: Hệ chỉ 1 lớp dây. Hệ chịu lực chỉ có một lớp
dây. Lúc này các tấm lợp phải đặt dốc hướng vào trong -> Khó
thóat nước.
• Hệ vỏ hai lớp: Vỏng ngòai vẫn giữ nguyên một lớp, còn vòng
trong được tách ra làm đôi.Hệ dây dưới sẽ là hệ chịu lực, hệ dây
trên là hệ cáp căng. Vật liệu lợp đặt trên cáp căng và hệ mái dốc
thóat nước ra phía ngoài
• Có thể tách vòng ngoài thành hai lớp, vòng trong hai lớp, làm hệ
dây nối từ tầng trên vòng ngoài nối tầng dưới vòng trong và ngược
lại. Giữa hai hệ này đặt thêm các thanh chống đứng, làm cho cả hệ
bị căng.
• Trường hợp tách vòng ngoài và vòng trong ra làm đôi, tạp khối Sơ đồ kết cấu mái kiểu vành bánh xe đạp
cứng đủ sức chịu lực căng dây. Người ta căng các hệ cáp căng, và
nối hai hệ này bằng các thanh chống.
6. Cấu trúc Tensegrity
• Cấu trúc Tensegrity là một cấu trúc khung không gian ba chiều ổn
định được hình thành từ các dây cáp và thanh chống, trong đó dây
cáp nối tiếp nhau liên tục nhưng các thanh chống không chạm với
nhau. Được điêu khắc gia Kenneth Snelson sáng chế năm 1948, và Khối 12 mặt tensegrity
được Buckminster Fuller phát triển và lấy bằng sáng chế năm
1961
• Những cấu trúc này ổn định nhờ vào những thanh chống chịu nén
được đỡ chịu giữa các bộ dây cáp căng đối nhau.
7. Mái dây hình yên ngựa
• Được tạo nên từ hai lớp dây trực giao, neo chắc chắn vào các gối
cứng là các vành biên và dầm biên
• Lớp dây chủ chịu lực võng xuống
• Lớp dây căng (dây vồng lên) đặt trực tiếp lên dây chủ và được
căng trước sao cho nội lực trong các dây luôn chịu nén tăng độ
cứng, độ ổn định hình dáng, giảm độ võng của mái
Sơ đồ kết cấu mái dây hình yên ngựa
• Các tấm mái cứng được liên kết để tạo thành vỏ cứng
• Ổn định hình dạng và chuyển vị động học của hệ dây phụ thuộc
vào hình dạng của mặt cong. Mặt cong Paraboloid Hyperbolic cho
chuyển vị động nhỏ nhất.
8. Màng căng
• Cấu trúc màng căng là một màng mỏng, cong hai chiều ngược
nhau, được chịu bởi vòng cung hay cột chống chịu nén. Có thể
xem đây là một biến dạng của cấu trúc dây cáp võng hai chiều
cong mà khoảng cách giữa các dây cáp nhỏ bằng không và bề mặt Hypar Form
là 1 màng liên tục.
• Trong cấu trúc màng căng, tấm màng chịu tất cả hoặc một phần
lực kéo. Khi khoảng vượt gia tăng, lựu kéo gia tăng, diện tích bề
mặt phải được chia nhỏ bởi các dây cáp – chịu tải trọng kéo chủ
yếu – và màng căng vượt giữa các dây cáp tựa chịu nén khác
nhau.
III. Cấu tạo (các cấu trúc, bộ phận cơ bản)
+ Dây cáp
+ Thanh chống
7. Mái dây hình yên ngựa
màng mỏng
8. Màng căng
dây cáp
• Ưu điểm
- Là kết cấu chịu kéo nên sử dụng được hết khả năng chịu lực của cáp
- Trọng lượng kết cấu chịu lực nhỏ, khả năng vượt nhịp lớn, dễ vận chuyển và thi công
- Có khả năng lắp ráp nhanh không cần dàn giáo
- Hình dáng kiến trúc đa dạng và phong phú
• Khả năng
- Khả năng chịu lực của kết cấu dây treo được xác định theo độ bền, bởi chúng chỉ có nội lực kéo
- Kết cấu làm việc chịu kéo nên cho phép sử dụng triệt để khả năng chịu lực của dây cáp, đồng thời với cường độ cao của
vật liệu nên trọng lượng của kết cấu ở đây tương đối nhỏ
• Phạm vi áp dụng
- Dùng cho các công trình có nhịp lớn với dạng kết cấu khác nhau: Hệ dây một lớp, hệ dây hai lớp, hệ dàn dây, mái dây
hình yên ngựa, mái dây theo kiểu vành bánh xe đạp, mái hỗn hợp dây và thanh cứng,…
2. Nhược điểm
• Có biến dạng lớn do mô-đun đàn hồi của cáp thấp (E=1.5 – 1.8.106 daN/ cm2) nhỏ hơn thép cán và khả năng làm việc
của thép cường độ cao lại lớn hơn thép thường nên biến dạng tỉ đối của cáp trong giai đoạn đàn hồi lớn hơn so với thép
CT3 vài lần.. Có tính biến hình lớn, rất rễ mất ổn định khí động. Khi sơ đồ tác dụng của tải trọng thay đổi thì sơ đồ hình
học của hệ thay đổi lớn.
V. Các công trình được sử dụng
+ Kết cấu: mái dây hình yên ngựa.Sử dụng nguyên tắc kết cấu như nhà thi
đấu chính, tuy nhiên ở nhà thi đấu phụ KTS chỉ sử dụng một cột kết cấu
chịu lực và một gối tựa tạo nên một cột buồm khổng lồ Dầm treo
Pista
+ 48 dây cáp căng tráng kẽm( D= 13/4, chiều dài) :Tổng trọng lượng 163
tấn, mỗi sợi cáp được cấu thành từ 272 dây thép, tải trọng tối đa có thể chịu
được là 822 tấn. Hai giữ mỗi dãy cáp có trọng lượng 659lb (299kg)
Hệ cấp căng chịu lực đỡ tấm lợp mái bằng BTCT và hệ khung thép hai lớp
tạo thành tầng kỹ thuật trên mái chứa các tháp giải nhiệt thứ cấp và thiết bị
cơ khí,giảm chấn
+ Vành cứng chịu nén: Được tạo thành tử 48 phần hộp thép hàn đặt trên 48
đầu cột, kích thước mỗi hộp thép là : dài 8.5m x rộng 2.4m x cao 0.9m.
- Thi công lắp dựng:
+ Khi lắp dựng khung thép nặng 14.000 tấn, các cột thép được nâng
vào vị trí bằng các cấu trục nặng 60 tấn với 70 tấn.
+ Sân thi đấu được xây dựng cao hơn cote mặt đất 13,716m.
+ Phần lớn nhất của đoạn dầm chính để nối vào dầm kết hợp dùng làm
khung đỡ cho sân thi đấu có kích thước 47mx0.9mx4m, nặng 6 tấn,
Đảm kết hợp dài 86m và nặng 213 tấn.
+ Khi lắp dựng tầng kỹ thuật sử dụng xe tải cầu dài 51.8m và cầu dài
9m.
+ Hệ cấp công tầng kỹ thuật trên mới được kéo từ vành cứng tạo thành
vòng tròn có đường kính 12m và nặng 100 tấn ở cữa.
+ Nền móng của khu phức hợp MSG SỬ dụng tổng cộng 15000 tấn
thép.
3. Sân vận động Stade de Frane 1998, Pháp
- Vị trí : ZAC du Cornilon Nord Saint Denis, Pháp
- Kiến trúc sư : Claude Costantini, Michel Regembai,
Aymeric Zublend Michel Macary
- Năm xây dựng: 2/6/1995 – 28/1/1998
- Quy mô: 80000 chỗ ngồi
- Giới thiệu chung:
+ Stade de France là sân vận động lớn nhất mà Pháp cho
xây dựng sau 70 năm nhằm để phục vụ cho FiFa World
Cup 1998 thay thế sân vận động Parc des Princes, với sức
chứa 80000 chỗ ngồi trong đó có 25000 chỗ ngồi di động
cho phép không gian bên trong có thể linh hoạt cho từng sự
kiện khác nhau. Thiết kế của Stade de France được lấy cảm
hứng từ nhà ga Pan Am Worldpof thuộc sân bay quốc tế
JFK.
Vòng elip lớn
có chu vi 1km
được thiết kế để chịu được sức gió lên tới 145km/h Mái che bằng kính có
diện tích 1ha
mạnh hơn tốc độ gió mạnh nhất từng được ghi nhận ở
Paris. Dây cáp căng Mái che bằng kính có diện tích 1ha