You are on page 1of 14

QUINOLONES

Các quinolon

Lịch sử, phân loại và những đặc điểm phân biệt: Nhóm kháng sinh
quinolon đã có những cải thiện đáng kể trong hoạt tính kháng sinh. Nói
chung, các fluoroquinolon có hiệu quả cao chống vi khuẩn gram âm hiếu
khí. Các quinolon mới hơn (như levofloxacin và sparfloxacin) cũng có hoạt
tính đáng kể chống vi khuẩn gram dương và vi khuẩn kị khí. Các
fluoroquinolon cũng có tác dụng chống Staphylococcus aureus, mặc dù đã
có báo cáo về S. aureus kháng quinolon.

Các fluoroquinolon cũ (như ciprofloxacin, ofloxacin) không phải là loại


thuốc đáng tin cậy chống lại một số chủng liên cầu và vì thế, một số thầy
thuốc phản đối mạnh mẽ việc sử dụng những thuốc này trong điều trị
nhiễm trùng da và viêm phổi mắc phải ở cộng đồng. Một số trường hợp
viêm phổi phế cầu đã tiến triển thành viêm màng não phế cầu trong khi
điều trị fluoroquinolon, có thể là do vi khuẩn kháng thuốc. Cùng với việc
triển khai những thuốc mới hơn như sparfloxacin và trovafloxacin, viêm
phổi mắc phải ở cộng đồng đã trở thành một chỉ định điều trị nữa của
fluoroquinolon được FDA phê chuẩn. Ngoại trừ sparfloxacin và
trovafloxacin, phần lớn vi khuẩn kị khí không nhạy cảm với các
fluoroquinolon. Tóm lại, các fluoroquinolon hiệu quả trong điều trị nhiễm
trùng do vi khuẩn hiếu khí gram âm và gram dương khi số liệu cho thấy có
nhạy cảm.

Sử dụng hệ thống phân loại như cephalossporin, có thể chia các


fluoroquinolon thành 4 nhóm. Các quinolon thế hệ 1 (acid nalidixic và
cinoxacin) chỉ được dùng trong diều trị nhiễm trùng đường tiết niệu (UTI)
không biến chứng. Hiện nay việc sử dụng những thuốc này bị hạn chế do vi
khuẩn kháng thuốc.

Các quinolon thế hệ 2 hay fluoroquinolon, đặc trưng bởi việc thêm nguyên
tử fluorin vào cấu trúc quinolon, được đưa ra thị trường vào giữa những
nǎm 1980. Các thuốc thế hệ 2 gồm ciprofloxacin, enoxacin, grepafloxacin,
lomefloxacin, norfloxacin và ofloxacin. Các thuốc này có dược lực học tiến
bộ hơn thuốc thế hệ đầu và có tác dụng chống nhiều loại vi sinh vật gây
nhiễm trùng. Các thuốc thế hệ 2 biểu hiện tǎng hoạt tính chống gram âm và
tác dụng toàn thân. So với các quinolon thế hệ 1, các fluoroquinolon có khá
ít tác dụng phụ, và vi khuẩn không nhanh chóng kháng thuốc. Việc sử dụng
trên lâm sàng bao gồm nhiễm trùng tiết niệu và viêm đài bể thận không
biến chứng và có biến chứng, bệnh lây qua đường tình dục (STD), viêm
tuyến tiền liệt, nhiễm trùng da và mô mềm. Norfloxacin là thuốc đầu tiên
thuộc nhóm này được đưa ra thị trường nǎm 1986 và có thời gian bán thải
ngắn nhất trong số các fluoroquinolon hiện có. Nói chung thuốc được dành
để điều trị nhiễm trùng tiết niệu vì thuốc có sinh khả dụng đường uống
kém. Norfloxacin có ở dạng uống và dạng tra mắt. Ciprofloxacin là
fluoroquinolon có hiệu lực chống Pseudomonas aeruginosa mạnh nhất.
Tuy nhiên, nhiều chủng Ps. aeruginsa và Serratia marcescens đã kháng
ciprofloxacin. Ciprofloxacin cũng xâm nhập tốt vào xương, do đó thuốc có
thể thay thế cho các kháng sinh không dùng đường uống để điều trị viêm
xương tủy do vi khuẩn nhạy cảm gây ra. Enoxacin tác động mạnh nhất đến
chuyển hóa gan của các thuốc khác. Gatifloxacin, lomefloxacin và
moxifloxacin có thời gian bán thải dài nhất nhóm và có thể uống 1
lần/ngày. Ofloxacin là thuốc được bài xuất nguyên vẹn qua thận nhiều
nhất. Ofloxacin cũng là fluoroquinolon thế hệ 2 có tác dụng nhất chống
Chlamydia trachomatis. Ofloxacin cũng có tác dụng chống Staphylococcus
aureus mạnh nhất nhóm, mặc dù nên thận trọng khi dùng các
fluoroquinolon thế hệ 2 trong điều trị vi khuẩn này. Ciprofloxacin và
ofloxacin lần lượt được cấp phép sử dụng vào tháng 10/1987 và tháng
12/1990. Chúng là những fluoroquinolon được sử dụng rộng rãi nhaaats vì
có chỉ định rộng và có ở cả dạng uống, tiêm tĩnh mạch và tra mắt.
Ofloxacin còn có ở dạng thuốc nhỏ tai (được cấp phép tháng 12/1997) để
điều trị viêm tai ngoài và viêm tai giữa. Grepafloxacin (Raxar(tm)) đã bị tự
nguyện thu hồi từ 27/10/1999 do khả nǎng gây tác dụng phụ tim mạch
nặng.

Các fluoroquinolon thế hệ 3 bao gồm gatifloxacin, levofloxacin,


moxifloxacin và sparfloxacin. Levofloxacin là đồng phân levo và là thành
phần hoạt động hơn của hỗn dược ofloxacin triệt quang (raxem). Các
fluoroquinolon thế hệ 3 có hoạt phổ rộng chống vi khuẩn gram dương, đặc
biệt là chống Streptococcus pneumoniae nhạy cảm và kháng penicillin, và
một số tác nhân gây bệnh không điển hình như Mycoplasma pneumoniae
và Chlamydia pneumoniae. Các thuốc thế hệ 3 cũng có phổ gram âm rộng
nhưng tác dụng chống Pseudomonas kém ciprofloxacin. Chỉ định lâm sàng
bao gồm viêm phổi cộng đồng, viêm xoang cấp và đợt cấp của viêm phế
quản mạn. Gatifloxacin cũng được cấp phép dùng điều trị nhiễm trùng tiết
niệu và lậu. Cả gatifloxacin và levofloxacin đều có ở dạng uống và tiêm
tĩnh mạch. Levofloxacin còn có ở dạng nhỏ mắt để điều trị viêm kết mạc
do vi khuẩn. Levofloxacin và sparfloxacin được cấp phép tháng 12/1996,
còn gatifloxacin và moxifloxacin dược cấp phép tháng 12/1999.
Các fluoroquinolon thế hệ 4 bao gồm trovafloxacin, alatrofloxacin.
Trovafloxacin là hoạt chất dùng đường uống, còn alatrofloxacin là tiền chất
của trovafloxacin được dùng đường tĩnh mạch. Trovafloxacin có tác dụng
rõ rệt chống vi khuẩn kị khí trong khi vẫn giữ được hoạt tính chống gram
âm và gram dương của các fluoroquinolon thế hệ 3. Thuốc cũng có tác
dụng chống Pseudomonas tương đương ciprofloxacin. Mặc dù chưa được
FDA phê chuẩn, song trovafloxacin cũng có tác dụng chống những vi
khuẩn kháng thuốc như Streptococcus pneumoniae kháng penicillin. Nồng
độ trovafloxacin trong huyết thanh tương đương với nồng độ sau khi sau
khi tiêm tĩnh mạch alatrofloxacin hoặc uống trovafloxacin. Trovafloxacin
được cấp phép tháng 12/1997 và là kháng sinh uống đầu tiên dùng điều trị
dự phòng cho bệnh nhân mổ. Tháng 6/1999, trovafloxacin được giới hạn sử
dụng trong những nhiễm trùng nặng nguy hiểm tính mạng hoặc đe dọa phải
cắt chi, do thuốc có thể gây những tác dụng phụ nặng trên gan.

Cơ chế tác dụng: ADN có hai sợi. Hai sợi này phải tách ra trước khi sao
chép hay phiên mã. Trong quá trình chia tách, ADN có thể bị xoắn cuộn
quá mức. ADN gyrase chống lại hiện tượng này. Các tế bào có nhân điển
hình không chứa ADN gyrase, nhưng chúng có enzym topoisomerase có
chức nǎng này. Fluoroquinolon là những thuốc diệt khuẩn thông qua ức chế
ADN gyrase của vi khuẩn; để ức chế topoisomerase ở động vật có vú, nồng
độ quinolon trong huyết thanh phải cao gấp 100 - 1000 lần. Chưa rõ việc
ức chế ADN gyrase làm tế bào vi khuẩn chết như thế nào. Fluoroquinolon
ức chế sự tǎng sinh của những vi khuẩn mọc nhanh cũng như những vi
khuẩn mọc chậm hơn.

Fluoroquinolon biểu hiện tác dụng sau kháng sinh (PAE) kéo dài. Vi khuẩn
không thể phát triển trở lại trong 2-6 giờ sau khi tiếp xúc với
fluoroquinolon, mặc dù không còn phát hiện được nồng độ thuốc. Ngoài ra,
fluoroquinolon tập trung trong bạch cầu trung tính của người. Điều này có
thể giải thích cho hiệu quả của ciprofloxacin trong điều trị nhiễm
mycobacteria. Hiện nay ciprofloxacin thường được dùng trong điều trị
nhiễm Mycobacterium avium phức tạp ở bệnh nhân AIDS và phối hợp với
các thuốc khác trong điều trị lao đa kháng.

Tương tác thuốc: Các quinolon thế hệ 3, trừ levofloxacin, có thể làm
khoảng QT kéo dài. Gatifloxacin, moxifloxacin và sparfloxacin bị chống
chỉ định ở bệnh nhân đang dùng những thuốc kéo dài khoảng QT.
Một vấn đề nữa cần chú ý với kháng sinh nhóm fluoroquinolon là chúng có
khả nǎng gắn với các cation hóa trị hai và hóa trị ba ở những mức độ khác
nhau, là vấn đề cũng gặp khi dùng tetracyclin. Các chất chống acid, sắt bổ
sung, và ngay cả các vitamin cùng với muối khoáng như kẽm và calci có
thể gắn và làm giảm tới 90% sinh khả dụng đường uống của kháng sinh
quinolon. Sắp xếp giờ uống thuốc sẽ ngǎn ngừa sự gắn kết trong dạ dày.
Ngoài ra, thầy thuốc không nên bỏ qua những thuốc có chứa cation hóa trị
2 và hóa trị 3. Ví dụ, sucralfat có chứa ion nhôm và gắn với ciprofloxacin.
Viên didanosin chứa những chất đệm có ion nhôm và magiê. Sinh khả
dụng của ciprofloxacin và norfloxacin giảm khi uống những thuốc này
cùng với didanosin.

Những phản ứng có hại: Các fluoroquinolon có khá ít tác dụng phụ và
độc tính. Có hai điều cần chú ý khi dùng các kháng sinh này. Do đã thấy
những dị dạng sụn ở động vật non dùng quinolon ở liều lớn gấp nhiều lần
liều dùng cho người, nên người ta khuyên không dùng thuốc cho trẻ em
dưới 16 tuổi. Nói chung, không nên dùng thuốc cho trẻ em, mặc dù nhiều
trẻ dùng fluoroquinolon không bị tổn thương sụn.

Người ta cũng chú ý tới tình trạng đứt gân có liên quan tới những liệu trình
fluoroquinolon ngắn ngày. Bệnh nhân dùng quinolon nên tránh tập nặng
trong khi điều trị và một vài tuần sau khi ngừng thuốc.

Quang độc tính hay gặp khi dùng sparfloxacin và lomefloxacin hơn các
fluoroquinolon khác.

Trừ levofloxacin, các quinolon thế hệ 3 gây kéo dài khoảng QT và chống
chỉ đinh ở bệnh nhân đang dùng những thuốc kéo dài khoảng QT.

Hai fluoroquinolon có tác dụng phụ nặng đã bị thu hồi hoặc hạn chế sử
dụng một thời gian ngắn sau khi đưa ra thị trường. Grapfloxacin được tự
nguyện thu hồi khỏi thị trường từ ngày 27/10/1999 do khả nǎng gây tác
dụng phụ nặng ở tim mạch. Thuốc chỉ được bán ở thị trường Mỹ trong
khoảng 2 nǎm. Trong vòng gần một nǎm bán trovafloxacin (được cấp phép
ngày 20/10/1997), việc giám sát hậu mãi đã cho thấy 140 trường hợp tổn
thương gan, gồm 14 ca suy gan, có quan hệ nhân quả với việc sử dụng
trovafloxacin. Tháng 6/1999, trovafloxacin được giới hạn sử dụng cho một
số nhiễm trùng đe dọa tính mạng hoặc có thể phải cắt chi mà sự cần thiết
phải dùng thuốc vượt quá nguy cơ bệnh gan. FDA đã giới hạn chỉ bán và
sử dụng thuốc ở các bệnh viện và các cơ sở khám chữa bệnh dài ngày.
Tóm lại, fluoroquinolon là những kháng sinh mới. Mỗi thế hệ mới lại được
bổ sung thêm một tác nhân gây bệnh vào phổ tác dụng. Nếu các
fluoroquinolon được sử dụng thận trọng, chúng sẽ tiếp tục là những thuốc
quan trọng trong điều trị nhiễm vi khuẩn hiếu khí gram âm và gram dương.

Nguon : http://www.thuoc-suckhoe.com/khainiem/baiviet/phanloai043.htm

Tổng kết kháng sinh nhóm quinolon

1. Có thể chia các quinolon thành 4 nhóm.


Các quinolon thế hệ 1: (acid nalidixic và cinoxacin) chỉ được dùng trong
diều trị nhiễmtrùng đường tiết niệu không biến chứng. Hiện nay việc sử
dụng những thuốc này bị hạn chếdo vi khuẩn kháng thuốc.
Các quinolon thế hệ 2: hay fluoroquinolon, đặc trưng bởi việc thêm nguyên
tử fluorinvào cấu trúc quinolon. Các thuốc thếhệ 2 gồm ciprofloxacin,
enoxacin, grepafloxacin, lomefloxacin, norfloxacin và ofloxacin. Các thuốc
này có dược lực học tiến bộ hơn thuốc thế hệ đầu và có tác dụng chống
nhiều loại vi sinh vật gây nhiễm trùng. Các thuốc thế hệ 2 biểu hiện hoạt
tính chống gram âm và tác dụng toàn thân. So với các quinolon thế hệ 1, các
fluoroquinolon có khá ít tác dụng phụ, và vi khuẩn không nhanh chóng
kháng thuốc. Việc sử dụng trên lâm sàng bao gồm nhiễm trùng tiết niệu và
viêm đài bể thận khôngbiến chứng và có biến chứng, bệnh lây qua đường
tình dục (STD), viêm tuyến tiền liệt,nhiễm trùng da và mô mềm.
Norfloxacin là thuốc đầu tiên thuộc nhóm này có thời gian bán thải ngắn
nhất trong số các fluoroquinolon hiện có.Nói chung thuốc được dành để điều
trị nhiễm trùng tiết niệu vì thuốc có sinh khả dụng đường uống kém.
Norfloxacin có ở dạng uống và dạng tra mắt. Ciprofloxacin là
fluoroquinolon có hiệu lực chống Pseudomonas aeruginosa mạnh nhất.
Tuy nhiên, nhiều chủng Ps. aeruginsa và Serratia marcescens đã kháng
ciprofloxacin. Ciprofloxacin cũng xâm nhập tốt vào xương, do đó thuốc có
thể thay thế cho các kháng sinh không dùng đường uống để điều trị viêm
xương tủy do vi khuẩn nhạy cảm gây ra. Enoxacin tác động mạnh nhất đến
chuyển hóa gan của các thuốc khác. Gatifloxacin, lomefloxacin và
moxifloxacin có thời gian bán thải dài nhất nhóm và có thể uống 1 lần/ngày.
Ofloxacin là thuốc được bài xuất nguyên vẹn qua thận nhiều nhất.
Ofloxacin cũng là fluoroquinolon thế hệ 2 có tác dụng nhất
chống Chlamydia trachomatis. Ofloxacin cũng có tác dụng chống
Staphylococcus aureus mạnh nhất nhóm, mặc dù nên thận trọng khi dùng
các fluoroquinolon thế hệ 2 trong điều trị vi khuẩn này. Ciprofloxacin và
ofloxacin là những fluoroquinolon được sử dụng rộng rãi nhaát vì có chỉ
định rộng và có ở cả dạng uống, tiêm tĩnh mạch và tra mắt. Ofloxacin còn có
ở dạng thuốc nhỏ tai để điều trị viêm tai ngoài và viêm tai giữa.
Grepafloxacin khoâng sử dụng do khả năng gây tác dụng phụ tim mạch
nặng.
Các quinolon thế hệ 3: bao gồm gatifloxacin, levofloxacin, moxifloxacin và
sparfloxacin. Levofloxacin là đồng phân levo và là thành phần hoạt động
hơn của hỗn dược ofloxacin triệt quang. Các quinolon thế hệ 3 có hoạt phổ
rộng chống vi khuẩn gram dương, đặc biệt là chống Streptococcus
pneumoniae nhạy cảm và kháng penicillin, và một số tác nhân gây bệnh
không điển hình như Mycoplasma pneumoniae và Chlamydia pneumoniae.
Các thuốc thế hệ 3 cũng có phổ gram âm rộng nhưng tác dụng chống
Pseudomonas kém ciprofloxacin. Chỉ định lâm sàng bao gồm viêm phổi
cộng đồng, viêm xoang cấp và đợt cấp của viêm phế quản mạn. Gatifloxacin
cũng được cấp phép dùng điều trị nhiễm trùng tiết niệu và lậu. Cả
gatifloxacin và levofloxacin đều có ở dạng uống và tiêm tĩnh mạch.
Levofloxacin còn có ở dạng nhỏ mắt để điều trị viêm kết mạc do vi khuẩn.
Các quinolon thế hệ 4: bao gồm trovafloxacin, alatrofloxacin.
Trovafloxacin là hoạtchất dùng đường uống, còn alatrofloxacin là tiền chất
của trovafloxacin được dùng đường tĩnh mạch. Trovafloxacin có tác dụng rõ
rệt chống vi khuẩn kị khí trong khi vẫn giữ được hoạt tính chống gram âm
và gram dương của các quinolon thế hệ 3. Thuốc cũng có tác dụng chống
Pseudomonas tương đương ciprofloxacin. Trovafloxacin cũng có tác dụng
chống những vi khuẩn kháng thuốc như Streptococcus pneumoniae kháng
penicillin. Nồng độ trovafloxacin trong huyết thanh tương đương với nồng
độ sau khi sau khi tiêm tĩnh mạch alatrofloxacin hoặc uống trovafloxacin.
Trovafloxacin được giới hạn sử dụng do thuốc có thể gây những tác dụng
phụ nặng trên gan.
2. Dược động học
Các quinolon được hấp thu tốt qua đường tiêu hóa, bài thải chủ yếu qua
đường tiết niệu ở dạng còn hoạt tính tạo độ an toàn cao với hệ tiết niệu. Vào
tủy xương và dịch não tủy thấp. Sử dụng đường tiêm: điều trị những bệnh ở
ruột non do thuốc có chu kỳ gan-mật-ruột. Sử dụng đường uống vừa điều trị
nhiễm trùng đường ruột vừa điều trị nhiễm trùng toàn thân vì tỷ lệ hấp thu
trên 80%. Thuốc không bài thải qua sữa nhưng qua được trứng. Thuốc
không được các cơ quan dự trữ lâu trong cơ thể.
Các quinolon thế hệ 1phân bố kém ở các mô, được đào thải chủ yếu qua thận
với một phần ở dạng có hoạt tính.
Các quinolon thế hệ 2 được phân bố rất tốt ở mô, nhất là mô phổi, xương,
tuyến tiền liệt, tai mũi họng… riêng norfloxacin phân bố ở mô kém hơn các
fluoroquinolon khác. Pefloxacin được đào thải phần lớn qua mật.
3. tác dụng phụvà tương tác thuốc:
Các quinolon thế hệ 3, trừ levofloxacin, có thể làm khoảng QT kéo dài.
Gatifloxacin, moxifloxacin và sparfloxacin bị chống chỉ định ở bệnh nhân
đang dùng những thuốc kéo dài khoảng QT.
Một vấn đề cần chú ý với kháng sinh nhóm quinolon là chúng có khả năng
gắn với các cation hóa trị hai và hóa trị ba ở những mức độ khác nhau, là
vấn đề cũng gặp khi dùng tetracyclin. Các chất chống acid, sắt bổ sung, và
ngay cả các vitamin cùng với muối khoáng như kẽm và calci có thể gắn và
làm giảm tới 90% sinh khả dụng đường uống của kháng sinh quinolon. Sắp
xếp giờ uống thuốc sẽ ngăn ngừa sự gắn kết trong dạ dày. Ngoài ra, thầy
thuốc không nên bỏ qua những thuốc có chứa cation hóa trị 2 và hóa trị 3. Ví
dụ, sucralfat có chứa ion nhôm và gắn với ciprofloxacin. Viên didanosin
chứa những chất đệm có ion nhôm và magiê. Sinh khả dụng của
ciprofloxacin và norfloxacin giảm khi uống những thuốc này cùng với
didanosin.
Các thuốc kháng acid làm giảm hấp thu các quinolon
Phần lớn các quinolon làm tăng hoạt tính của thuốc chống đông máu.
Cimetidine làm giảm chuyển hóa các quinolon( nhất là pefloxacin) và làm
tăng thời
gian bán thải.
Hiệu lực của các quinolon ở đường tiểu bị giảm khi sử dụng các chất acid
hóa nước tiểu và gia tăng khi dùng các chất kiềm hóa nước tiểu.
Có hai điều cần chú ý khi dùng các kháng sinh này. Do đã thấy những dị
dạng sụn ở động vật non dùng quinolon ở liều lớn gấp nhiều lần liều dùng
cho người, nên người ta khuyên không dùng thuốc cho trẻ em dưới 16 tuổi.
Nói chung, không nên dùng thuốc cho trẻ em, mặc dù nhiều trẻ dùng
fluoroquinolon không bị tổn thương sụn. Người ta cũng chú ý tới tình trạng
đứt gân có liên quan tới những liệu trình quinolon ngắn ngày. Bệnh nhân
dùng quinolon nên tránh tập nặng trong khi điều trị và một vài tuần sau khi
ngừng thuốc.
Liều dùng của một số thuốc phổ biến:
a. Ciprofloxacin: điều trị các nhiễm khuẩn đường tiêu hóa, Nk đường hô
hấp (trù nhiễm khuẩn do phế cầu), NK xương khớp, Nk huyết, viêm
màng não do não mô cầu.liều dùng từ 250-750mg/lần x 2 lần/ngày tùy
tình trạng mà có thể dùng từ 2-10 ngày.
b. Ofloxacin: Nk tiêt tiết niệu, Nk da và mô mềm, NK tiểu khung… liều
thường là 200-400mg/lần x 1 lần/ngày, nếu tình trạng nặng có thể tăng
lên 2 lần/ngày. liều chung cho cả đường uống và tiêm.
c. Levofloxacin: liều 250mg/ngày duy nhất một liều trong 3 ngày, giảm
liều ở suy thận như sau: Mặc dù ban đầu liều (xem) sẽ không thay đổi
ở bệnh nhân suy thận, các liều levofloxacin nên được điều chỉnh.
Tại Vương quốc Anh, sau đây là liều được khuyến khích theo creatinin
thanh thải tại cầu thận (CC):
TS 20 đến 50 ml / phút: liều được chia đôi ( bớt đi một nửa).
TS 10 đến 19 mL / phút: các liều được giảm đến một phần tư của liều thuốc
đạt tiêu chuẩn (của một regimen 250 mg hàng ngày nên được giảm đến 125
mg mỗi ngày khác)
CC ít hơn 10ml / phút: (bao gồm cả chạy thân nhân tạo và lọc màng bụng):
tiêu chuẩn của liều 250 mg hay 500 mg / ngày là giảm đến 125 mg mỗi 48
hoặc 24 giờ tương ứng
Ở Mỹ, sau đây là liều thuốc được đề nghị sửa đổi, bổ sung:
Sau khi ban đầu là một liều 750 mg / ngày,
TS 20 đến 49 mL / phút: liều là 750 mg mỗi 48 giờ
CC lên đến 19 mL / phút: (bao gồm cả chạy thân nhân tạo và lọc màng
bụng): các liều là 500 mg mỗi 48 giờ
Sau khi ban đầu là một liều 500 mg / ngày,
TS 20 đến 49 mL / phút: các liều là 250 mg mỗi 24 giờ

CC lên đến 19 mL / phút (bao gồm cả chạy thân nhân tạo và lọc màng bụng):
các liều là 250 mg mỗi 48 giờ
Sau li ều đầu là liều 250 mg / ngày,
TS 10 đến 19 mL / phút: liều là 250 mg mỗi 48 giờ
Nguồn: http://kijuto.wordpress.com/2010/01/23/t%E1%BB%95ng-k
%E1%BA%BFt-khang-sinh-nhom-quinolone/

Tên chung quốc tế: Nalidixic acid.


Mã ATC: G04A B01.

Loại thuốc: Quinolon kháng khuẩn.

Dạng thuốc và hàm lượng

Viên nén 0,25 g, 0,5 g, 1,0 g acid nalidixic.

Hỗn dịch uống 5 ml có chứa 0,25 g acid nalidixic.

Dược lý học và cơ chế tác dụng

Acid nalidixic là thuốc kháng khuẩn phổ rộng, tác dụng với hầu hết các vi
khuẩn ưa khí Gram âm E. coli, Proteus, Klebsiella. Enterobacter thường
nhạy cảm với thuốc. Tuy nhiên, đã xảy ra kháng thuốc. Pseudomonas
aeruginosa, vi khuẩn Gram dương (Enterococcus và Staphylococcus), vi
khuẩn kỵ khí thường kháng acid nalidixic. Phần lớn các nhiễm khuẩn đường
tiết niệu cấp và mạn tính do vi khuẩn đường ruột Gram âm. Vì vậy, acid
nalidixic hay được dùng để trị nhiễm khuẩn đường tiết niệu.

Các cầu khuẩn đường ruột (Enterococcus) và Staphylococcus saprophyticus,


nguyên nhân chủ yếu gây viêm đường tiết niệu, kháng lại acid nalidixic.

Acid nalidixic không ảnh hưởng đến vi khuẩn kỵ khí đường ruột, đây là điều
quan trọng để giữ cân bằng sinh thái vi khuẩn đường ruột.

Acid nalidixic cản trở quá trình sao chép của DNA vi khuẩn bằng cách ức
chế hoạt tính DNA gyrase (topoisomerase).

Kháng thuốc: Vi khuẩn kháng thuốc xảy ra nhanh, đôi khi trong vòng một
vài ngày đầu điều trị, nhưng không lan truyền hay qua trung gian R -
plasmid. Kháng chéo xảy ra với acid oxolinic và cinoxacin. Trực khuẩn lỵ
và thương hàn kháng cloramphenicol/sulfamethoxazol/ampicilin vẫn nhạy
cảm với acid nalidixic.

Dược động học

Acid nalidixic hấp thu nhanh và gần như hoàn toàn từ đường tiêu hóa và đạt
nồng độ đỉnh 20 - 50 micro-gam/ml, 2 giờ sau khi uống liều 1 g. Nửa đời
huyết tương khoảng 1 - 2,5 giờ.

Acid nalidixic chuyển hóa một phần thành acid hydroxy nalidixic, có tác
dụng kháng khuẩn giống acid nalidixic và ứng với khoảng 30% tác dụng của
thuốc ở trong máu. Khoảng 93% acid nalidixic và 63% acid hydroxy
nalidixic liên kết với protein huyết tương. Cả hai acid nalidixic và acid
hydroxy nalidixic chuyển hóa nhanh thành dẫn chất glucuronid và
dicarboxylic không có hoạt tính. Thường chỉ phát hiện được chất chuyển hóa
không hoạt tính chính là acid carboxynalidixic ở trong nước tiểu.

Acid nalidixic và các chất chuyển hóa được đào thải nhanh qua nước tiểu
trong vòng 24 giờ. Khoảng 80 - 90% thuốc đào thải qua nước tiểu là những
chất chuyển hóa không có tác dụng, nhưng nồng độ trong nước tiểu của
thuốc không biến đổi và của chất chuyển hóa có tác dụng ở khoảng từ 25 -
250 microgam/ml, sau khi uống liều 1 g (hầu hết các vi khuẩn nhạy cảm bị
ức chế ở nồng độ 16 microgam/ml).

Acid hydroxy nalidixic chiếm 80 - 85% tác dụng trong nước tiểu.
Probenecid làm giảm bài tiết thuốc qua nước tiểu.

Acid nalidixic qua nhau thai và vào sữa mẹ rất ít. Khoảng 4% liều đào thải
qua phân.

Chỉ định

Nhiễm khuẩn đường tiết niệu dưới chưa có biến chứng do vi khuẩn Gram
âm, trừ Pseudomonas.

Acid nalidixic trước đây đã được dùng trong điều trị nhiễm khuẩn đường
tiêu hóa do các chủng nhạy cảm Shigella sonnei, nhưng hiện nay có những
thuốc kháng khuẩn khác (như các fluoroquinolon, co - trimoxazol,
ampicilin, ceftriaxon) được ưa dùng hơn để điều trị nhiễm khuẩn do
Shigella.
Chống chỉ định

Suy thận, loạn tạo máu (thiếu máu), động kinh, tăng áp lực nội sọ, trẻ em
dưới 3 tháng tuổi, mẫn cảm với acid nalidixic hoặc các quinolon khác.

Thận trọng

Nguy cơ tích lũy thuốc đặc biệt gặp ở trường hợp giảm chức năng thận, chức
năng gan và thiếu enzym G6PD. Tránh dùng thuốc cho trẻ nhỏ dưới 3 tháng
tuổi vì acid nalidixic và các thuốc liên quan gây thoái hóa các khớp mang
trọng lượng cơ thể ở động vật chưa trưởng thành. Tránh ánh nắng trực tiếp
trong khi điều trị.

Thời kỳ mang thai

Acid nalidixic đi qua hàng rào nhau thai. Chưa có những nghiên cứu đầy đủ
và được kiểm tra chặt chẽ trên người. Tuy nhiên, acid nalidixic và các hợp
chất liên quan đã gây bệnh khớp ở động vật còn non, vì vậy không nên dùng
acid nalidixic trong thời kỳ mang thai.

Thời kỳ cho con bú

Acid nalidixic bài tiết vào sữa mẹ với nồng độ thấp. Có trẻ nhỏ thiếu enzym
G6PD đã bị thiếu máu tan máu. Tuy vậy, hầu hết không có vấn đề gì xảy ra.
Acid nalidixic có thể dùng cho phụ nữ đang thời kỳ cho con bú.

Tác dụng không mong muốn (ADR)

Không có tỷ lệ chính xác về các phản ứng có hại của thuốc dựa trên những
thử nghiệm lâm sàng. Tuy nhiên, acid nalidixic thường dung nạp tốt và phản
ứng có hại thường nhẹ.

Thường gặp, ADR >1/100

Toàn thân: Nhức đầu.

Tiêu hóa: Buồn nôn, nôn, ỉa chảy.

Mắt: Nhìn mờ, nhìn đôi, nhìn màu không chuẩn.

Da: Phản ứng ngộ độc ánh sáng với các mụn nước trong trường hợp phơi
nắng khi điều trị hoặc sau điều trị.
Ít gặp, 1/1000 < ADR < 1/100

Thần kinh trung ương: Tăng áp lực nội sọ đặc biệt ở trẻ nhỏ.

Da: Mày đay, ngứa, cản quang.

Hiếm gặp, ADR< 1/1000

Thần kinh trung ương: Lú lẫn, ảo giác, ác mộng.

Toàn thân: Phản ứng phản vệ

Máu: Giảm tiểu cầu, giảm bạch cầu, tăng bạch cầu ưa eosin, thiếu máu tan
máu nhất là ở người thiếu hụt glucose 6 phosphat dehydrogenase.

Khác: Phù mạch, đau khớp.

Hướng dẫn cách xử trí ADR

Ngừng dùng thuốc nếu người bệnh có biểu hiện dị ứng, lo lắng, ảo giác, co
giật. Dùng adrenalin, glucocorticoid, oxy khi người bệnh mẫn cảm với
thuốc.

Liều lượng và cách dùng

Người lớn: 4 g/ngày, chia 4 lần, dùng ít nhất 7 ngày, nếu tiếp tục điều trị kéo
dài trên 2 tuần, phải giảm liều xuống một nửa.

Trẻ em từ 3 tháng đến 12 tuổi: 50 - 55 mg/kg/ngày, chia làm 4 lần. Nếu điều
trị kéo dài, nên dùng liều 30 - 33 mg/kg/ngày.

Nếu độ thanh thải creatinin trên 20 ml/phút, có thể dùng liều bình thường.

Nếu độ thanh thải creatinin dưới 20 ml/phút (creatinin huyết thanh trên 360
micromol/lit), liều trong 24 giờ phải cân nhắc giảm xuống còn 2 g.

Mặc dù tác dụng kháng khuẩn của acid nalidixic không bị ảnh hưởng bởi pH
nước tiểu, sử dụng đồng thời với natri bicarbonat hoặc natri citrat có thể làm
tăng nồng độ acid nalidixic trong nước tiểu. Khi phối hợp acid nalidixic và
natri citrat, liều dùng cho người lớn là 660 mg/lần, 3 lần/ngày, trong 3 ngày.
Vì kháng thuốc xảy ra nhanh, cần thay acid nalidixic nếu không có tác dụng
sau nuôi cấy vi khuẩn ở nước tiểu 48 giờ.

Tương tác thuốc

Nồng độ theophylin trong huyết tương tăng lên khi dùng đồng thời với acid
nalidixic. Acid nalidixic có thể làm tăng nồng độ cafein do ảnh hưởng đến
chuyển hóa của cafein. Acid nalidixic làm tăng tác dụng của warfarin và các
dẫn chất; acid nalidixic cũng làm tăng nồng độ cyclosporin trong huyết
tương. Các thuốc kháng acid dạ dày có chứa magnesi, nhôm, calci, sucralfat
và các cation hóa trị 2 hoặc 3 như kẽm, sắt có thể làm giảm hấp thu acid
nalidixic, dẫn đến làm giảm nồng độ acid nalidixic trong nước tiểu rất nhiều.
Nitrofurantoin làm giảm tác dụng điều trị của acid nalidixic.

Ðộ ổn định và bảo quản

Bảo quản viên nén và nhũ dịch acid nalidixic uống trong bình kín ở nhiệt độ
15 - 300C. Không được để đóng băng nhũ dịch acid nalidixic.

Quá liều và xử trí

Triệu chứng: Loạn tâm thần nhiễm độc, co giật, tăng áp lực nội sọ, toan
chuyển hóa buồn nôn, nôn, và ngủ lịm có thể xảy ra.

Ðiều trị: Rửa dạ dày khi mới dùng thuốc. Nếu thuốc đã được hấp thu, nên
truyền dịch và dùng biện pháp hỗ trợ như thở oxy và hô hấp nhân tạo. Liệu
pháp chống co giật có thể được chỉ định trong trường hợp rất nặng.

Thông tin qui chế

Acid nalidixic có trong danh mục thuốc thiết yếu Việt Nam ban hành lần thứ
tư năm 1999.

Che pham
THÀNH PHẦN:
Acid nalidixic 500mg
Tá dược vừa đủ 1 viên

Nguồn: Dược thư việt nam


(http://duocthu.com/duocthuvietnam/Acidnalidixic.php )

You might also like