Professional Documents
Culture Documents
Đặng Việt Hà
Luận văn này là kết quả của quá trình học tập tại Đại học Sư phạm
Tp.HCM. Tác giả luận văn xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu, Phòng
Khoa học công nghệ - Sau đại học, Khoa Hóa học trường Đại học Sư phạm
Tp.HCM.
Tác giả xin cảm ơn các bạn cùng lớp đã luôn tạo điều kiện giúp đỡ,
động viên nhau trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài nghiên cứu.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến
TS. Nguyễn Phú Tuấn, TS. Trịnh Văn Biều, những người thầy đã tận tình
giúp đỡ, hướng dẫn tác giả nghiên cứu trong suốt quá trình thực hiện luận
văn.
Cuối cùng, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đối với gia đình, bạn bè đồng
nghiệp đã động viên, giúp đỡ trong thời gian học tập, nghiên cứu để tác giả có
thể hoàn thành luận văn này.
Đặng Việt Hà
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐC : Đối chứng
TN : Thực nghiệm
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việc đổi mới phương pháp dạy học là một yêu cầu cấp thiết được đặt ra với
nền giáo dục nước ta hiện nay. Một trong những hướng đổi mới phương pháp dạy
học là kết hợp các phương pháp dạy học với các phương tiện kỹ thuật dạy học hiện
đại (phương tiện nghe nhìn, máy vi tính) nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình.
Các cơ chế phản ứng trong chương trình Hóa học hữu cơ ở trường Cao đẳng
Sư phạm thường khó tưởng tượng và khó ghi nhớ nên cần có sự cải tiến trong
phương pháp dạy học, có thể sử dụng một số phần mềm tin học để hỗ trợ như:
Microsoft Powerpoint, Macromedia Flash…..Đặc biệt phần mềm tin học
Macromedia Flash, có thể hỗ trợ đắc lực cho việc mô phỏng các cơ chế phản ứng
giúp cho việc học cơ chế phản ứng trở nên trực quan và dễ hiểu hơn.
Với mong muốn nâng cao chất lượng việc dạy và học Hóa hữu cơ ở trường
Cao đẳng Sư phạm chúng tôi đã chọn đề tài: “THIẾT KẾ HỆ THỐNG MÔ PHỎNG
CƠ CHẾ PHẢN ỨNG HÓA HỮU CƠ Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM
NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC.”
- Đọc và nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến đề tài.
- Sử dụng máy tính và các phần mềm tin học để thiết kế các mô phỏng cơ chế
phản ứng hóa hữu cơ.
- Tổng hợp và xử lý kết quả điều tra, kết quả thực nghiệm sư phạm theo
phương pháp thống kê toán học.
1.1. Công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) trong dạy học hóa học
1.1.1. Tầm quan trọng của công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy
học hóa học
Công nghệ thông tin và truyền thông (công nghệ 4T), (tiếng Anh là
information and communication technology – viết tắt là ICT) có ứng dụng vô cùng
quan trọng trong dạy học.
1.1.1.1. Nhờ ICT ta có khả năng chọn nhập những thông tin cần thiết và
xử lý nhanh để biến thành tri thức [4], [5]
Chúng ta đang sống ở đầu thế kỷ 21, thời đại thông tin, nhân loại đang quá
độ sang nền kinh tế tri thức mà đặc điểm của nó là sự bùng nổ của thông tin, tri
thức. Chính ICT, đặc biệt là ICT mới, đã trực tiếp sinh ra thời đại này, thời đại mà
khối lượng thông tin nói chung tăng nhanh theo hàm số mũ. Trong tình hình đó,
cũng chỉ nhờ công nghệ thông tin và truyền thông mới mới có khả năng chọn nhập
từ bể cả thông tin đó những thông tin cần thiết và xử lý nhanh chóng chúng để biến
thành tri thức.
Công nghệ thông tin và truyền thông còn là một khía cạnh văn hóa của thế
giới mới, và như mọi thứ văn hóa, nó sẽ được tiếp cận tốt nhất ở tuổi trẻ, giúp cho
học sinh, sinh viên định hướng tư duy và thái độ của mình trong thời đại mới. Do
đó cần làm cho thế hệ trẻ nhanh chóng làm quen với ICT thông qua dạy học và
hình thành cho họ phong cách văn hóa mới.
1.1.1.2. ICT đang tạo ra những thay đổi mang mầm mống của một cuộc
cách mạng giáo dục thực sự [6], [7]
“Hội nghị Paris về giáo dục đại học trong thế kỷ 21” do UNESCO tổ chức
tháng 10/1998 có tổng kết 3 mô hình giáo dục trong bảng 1.1.
Bảng 1.1. Mô hình giáo dục
Trong các mô hình trên, mô hình “tri thức” là mô hình giáo dục hiện đại nhất
hình thành khi xuất hiện thành tựu mới quan trọng nhất của ICT – mạng Internet.
Cùng với mô hình mới nhất này những yếu tố thay đổi sâu sắc sau đây trong giáo
dục xuất hiện:
Yếu tố thời gian không còn bị ràng buộc chặt chẽ, xuất hiện khả năng giáo
dục không đồng bộ;
Yếu tố không gian sẽ không còn ràng buộc quá câu thúc; xuất hiện khả năng
sinh viên tham gia học tập mà không cần đến trường đại học;
Giá thành toàn bộ của giáo dục giảm nhiều, vì xuất hiện các lớp ảo có qui mô
lớn mà không cần trường lớp kiểu thông thường;
Sự chuyển giao tri thức không còn chiếm vị trí hàng đầu của giáo dục nữa;
sinh viên phải học cách truy tìm thông tin họ cần, đánh giá và xử lý thông tin
để biến thành tri thức qua giao tiếp;
Mối quan hệ giữa người dạy – người học theo chiều dọc sẽ được thay thế
theo chiều ngang, người dạy trở thành thúc đẩy, chuyên gia hướng dẫn hay
đồng nghiệp, người học phải chủ động thích nghi. Nhóm trở nên rất quan
trọng vì là môi trường để đối thoại, tư vấn, hợp tác;
Thị trường giáo dục sẽ được toàn cầu hóa vì không còn bị ràng buộc về
không gian. Ngôn ngữ trở thành một yếu tố thúc ép mạnh;
Việc đánh giá không còn dựa vào khả năng thi cử như trước mà dựa nhiều
hơn vào quá trình tiêu hóa tri thức để trở thành lành nghề, biểu hiện ở năng
lực tiến hành nghiên cứu, thích nghi, giao tiếp, hợp tác…;
Sự khác biệt giữa loại hình và cấp bậc giáo dục (tiểu học, trung học, đại học,
dạy nghề…) sẽ ít quan trọng như trước đây, và giáo dục thường xuyên sẽ trở
thành quan trọng nhất.
Như vậy, ở bước ngoặt đi vào nền văn minh trí tuệ hiện nay, ICT đang tạo ra
những thay đổi mầm mống của một cuộc cách mạng giáo dục thực sự, ở đó cơ cấu
cứng nhắc theo truyền thống về mối quan hệ “không gian- thời gian – trật tự thang
bậc” sẽ bị phá vỡ.
1.1.2. Hướng ứng dụng của công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy
học hóa học [4], [5], [6], [7], [32]
- Sử dụng các phương pháp tính số, giải quyết các bài toán lý thuyết hóa học
(hóa lượng tử, cơ học thống kê, động lực hóa học, nhiệt động học, động hóa
học…).
- Ghép nối trợ giúp cho các đo đạc thí nghiệm, nâng cao tính năng các công cụ
đo.
- Xây dựng các đĩa CD thí nghiệm mô phỏng hoặc thí nghiệm ảo, xây dựng
một số trang Web dạy học một số nội dung hóa học có các mô hình xây dựng
khái niệm và có thí nghiệm mô phỏng.
- Làm các bài giảng tiện nghi để có thể dạy cho lớp học đông người, dạy từ xa,
làm các phần mềm quản lý, chấm bài trắc nghiệm…phục vụ dạy học.
Hướng thứ nhất rất quan trọng nhưng số người tham gia còn ít, cần được
tăng cường; hướng thứ hai, thứ ba và thứ tư đã có nhiều cán bộ ở nhiều bộ môn
tham gia. Hướng thứ tư đặc biệt phù hợp với giáo viên hóa học ở các trường trung
học.
Trước mắt cần khuyến khích tính sáng tạo trong lĩnh vực này ở nhiều mức độ
khác nhau:
- Tạo ra các phần mềm mới trong dạy học hay thí nghiệm hóa học bằng tiếng
Việt. Ở các nước tiên tiến như Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Úc,…đã tạo ra các
phần mềm mới về hóa học bằng tiếng Anh có ý nghĩa khoa học, giáo dục và
đào tạo nhưng một số nội dung không phù hợp với nước ta.
- Dựa vào các chương trình có sẵn có lập trình hoặc không lập trình để tạo ra
các hình ảnh thí nghiệm mới hay các mô hình mới trong dạy học.
- Dựa trên các đĩa CD sẵn có ở các nước trên thế giới, lấy đó làm nguồn
nguyên liệu (base – date) để xây dựng nên đĩa CD của mình theo nội dung
hay một hướng nhất định bằng tiếng Việt (viết được các trang Web để sử
dụng các video clip, movies, animation, image, module,…). Với mục đích
phi thương mại thì việc sử dụng đĩa CD sẵn có cho dạy học là được phép.
Khái niệm sáng tạo thứ ba này có thể phù hợp đối với hóa học vì các
CyperChem ở các đĩa CD về hóa học, các CD Chemistry Comes Alives khá tốt, các
videoclip, movies, animation, image về nhiều thí nghiệm và các mô hình để xây
dựng khái niệm đã có sẵn.
1.1.3. Phần mềm Macromedia Flash [17]
1.1.3.1. Giới thiệu
Lớp (Layer) Bảng tiến trình (Timeline) Các bảng điều khiển (Panels)
Để đưa các File hình ảnh của những phần mềm đồ họa khác vào Flash, ta
thực hiện bằng cách: vào Menu File Import xuất hiện cửa sổ và chọn File cần
đưa vào.
Trong một hoạt cảnh có thể có nhiều cảnh (Scene). Mỗi cảnh có thể có nhiều
chuyển động và được quản lý trên nhiều Layer khác nhau. Để chèn thêm một cảnh
vào Insert Scene.
b. Layer
Dùng để quản lý các đối tượng trên một cảnh hay hoạt cảnh theo từng lớp
hoặc theo từng chuyển động. Trong một hoạt cảnh có thể có nhiều Layer. Chúng ta
có thể chọn các tùy chọn của một Layer hoặc tất cả các Layer như:
- Show/hide all Layers: Hiện hoặc ẩn tất cả các Layer.
- Lock /Unlock all Layer: Khóa hoặc mở khóa tất cả các Layer.
- Show all layer as outline: Chỉ trình bày đường của tất cả các Layer hoặc
ngược lại.
- Insert Layer: Chèn thêm một Layer mới.
- Insert Layer Folder: Chèn một hạng mục để quản lý Layer theo nhóm hay
trật tự.
- Add Guide Layer: Chèn thêm một Layer mới làm đường dẫn cho một chuyển
động ở Layer khác.
- Delete Layer: Xoá một Layer.
Insert Layer Show/hide all Layers
Lock /Unlock all Layer
Show all Layer as outline
Tween animation : Chuyển động nội suy giữa 2 khung hình chủ.
Blank KeyFrame
KeyFrame
Frame
Tween animation
Màu nét vẽ
Màu tô
Màu nét vẽ
Ô tùy chọn
a. Giới thiệu
Layer giống như các tờ giấy trong suốt xếp chồng lên nhau. Khi bạn tạo ra
một đoạn phim mới trong Flash, nó tạo một Layer. Bạn có thể thêm vào nhiều Layer
để sắp xếp các ảnh, ảnh chuyển động và các thành phần khác trong đoạn phim. Bạn
có thể vẽ và hiệu chỉnh các đối tượng trong một Layer mà không ảnh hưởng đến các
đối tượng trong những Layer khác. Khi không có đối tượng nào trên Layer đầu tiên,
bạn có thể thấy xuyên qua Layer bên dưới nó.
Số lượng Layer bạn có thể tạo ra không giới hạn, chỉ tùy thuộc vào bộ nhớ
máy tính của bạn và không làm tăng kích thước file khi bạn xuất đoạn phim. Bạn có
thể làm ẩn, khóa hoặc cho hiển thị nội dung.
Khi làm việc với các cảnh và sự chuyển động phức tạp ta nên dùng Layer để
tổ chức quản lý. Bằng cách đặt các phần tử khác biệt (như ảnh nền, các biểu tượng,
các sự chuyển động) trên các lớp riêng biệt để sắp xếp thứ tự của sự chuyển động
theo nhiều cách khác nhau.
Ngoài ra, Layer còn được dùng để làm đường dẫn cho một đối tượng chuyển
động theo (Guide layer) hoặc dùng làm bản che hay còn gọi là mặt nạ (Mask layer).
b. Các công dụng của Layer (lớp)
Khi tạo một phép biến hình, tất cả các đối tượng trên lớp có chứa phép biến
hình đó phải di chuyển với nhau. Nếu bạn muốn các các đối tượng tĩnh trong phim
phải được bố trí trên các lớp không chứa các phép biến hình. Nếu bạn có các phép
biến hình khác nhau, chúng phải nằm trên các lớp riêng biệt.
Nếu bạn muốn tạo một phim nơi mà các đối tượng chỉ thấy một phần của
stage, bạn cần phải sử dụng một lớp đặc biệt có tên là lớp mặt nạ (Mask).Có thể sử
dụng lớp này tạo hiệu ứng một ký tự di chuyển phía sau một cửa sổ.
Khi tạo một phép biến hình chuyển động, các đối tượng làm hoạt hình nhìn
chung di chuyển theo một đường thẳng. Nếu muốn chúng di chuyển theo một