You are on page 1of 30

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y KHOA PHẠM NGỌC THẠCH

BỘ MÔN QUẢN LÝ Y TẾ - KINH TẾ Y TẾ

ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

XÁC ĐỊNH TỈ LỆ TRẦM CẢM VÀ

CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN TRẦM CẢM

Ở SINH VIÊN Y KHOA TRƯỜNG


ĐẠI HỌC Y KHOA PHẠM NGỌC THẠCH
NĂM 2019
DANH SÁCH NHÓM TÁC GIẢ

Tổ 9 – Lớp Y2015B – Nhóm NCKH 29

Phan Thiên An Thái Khánh Phát

Ngô Bội Dinh Nguyễn Hoàng Lệ Quyên

Đoàn Nguyễn Trà Giang Đỗ Hoàng Sang

Trần Linh Huy Hoàng Vũ Thị Minh Thúy

Trần Tiểu Linh Nguyễn Phương Minh Trang

Nguyễn Sỹ Luân Trần Thanh Trúc

Đỗ Lê Ngọc Nguyễn Thị Phương Vy


Mục lục
I. ĐẶT VẤN ĐỀ: ........................................................................................................... 2

II. TỒNG QUAN Y VĂN: ............................................................................................ 5

1. SƠ LƯỢC VỀ TRẦM CẢM: ................................................................................ 5

1.1 Định nghĩa: ...................................................................................................... 5

1.2 Phân loại: ......................................................................................................... 5

1.3 Biểu hiện lâm sàng:.......................................................................................... 5

1.4 Nguyên nhân trầm cảm: ................................................................................... 6

1.5 Cơ chế bệnh sinh: ............................................................................................ 7

2. TẦM SOÁT SỚM TRẦM CẢM VÀ CÁC PHƯƠNG TIỆN TẦM SOÁT: ........ 8

2.1 Tiêu chuẩn chẩn đoán trầm cảm: ..................................................................... 8

2.2 Xác định mức độ trầm cảm: ........................................................................... 10

2.3 Vai trò tầm soát sớm trầm cảm: ..................................................................... 11

2.4 Các phương tiện tầm soát trầm cảm: ............................................................. 12

2.5 Bộ câu hỏi đánh giá sức khỏe bệnh nhân- trầm cảm (PHQ- 9): .................... 14

3. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI: ...................................... 16

3.1 Systematic Review of Depression, Anxiety, and Other Indicators of


Psychological Distress Among U.S. and Canadian Medical Students (16)......... 16

3.2 Prevalence of Depression, Depressive Symptoms, and Suicidal Ideation


Among Medical Students: A Systematic Review and Meta-Analysis (6) ........... 19

3.3 The four-domain structure model of a depression scale for medical students:
A cross-sectional study in Haiphong, Vietnam (11) ............................................ 21

III. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU .................................................................................. 25

IV. BIẾN SỐ NGHIÊN CỨU...................................................................................... 26

V. TÀI LIỆU THAM KHẢO: ..................................................................................... 28

1
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Trầm cảm là một trong những vấn đề sức khỏe tâm thần ngày càng trở nên phổ biến
trên khắp thế giới. Trong vòng hơn hai thập kỷ qua, những nghiên cứu về Gánh nặng
Bệnh tật Toàn cầu (GDB) đã xếp trầm cảm từ hạng 4 lên hạng 2 trong những vấn đề
sức khỏe gây mất ngày công lao động (YDLs). Theo cách tính của những nhà nghiên
cứu, trầm cảm gây mất đến 16 triệu ngày làm việc, trong khi đó căn bệnh với tỷ suất
mắc và tử vong thuộc hàng cao nhất thế giới là bệnh tim thiếu máu cục bộ chỉ gây mất
4 triệu ngày làm việc (1). Từ những số liệu trên cũng cho thấy, trầm cảm đã và đang
trở thành một gánh nặng cho ngân sách toàn cầu. Bên cạnh đó, số ca mắc trầm cảm
cũng đã tăng 18.4% trong giai đoạn 2005-2015 (2). Trên thế giới, theo thống kê từ Tổ
chức Y tế thế giới (WHO) hiện có hơn 300 triệu người đang mắc trầm cảm và gần
800.000 người tự tử vì căn bệnh này mỗi năm. Điều đáng nói là số ca mắc cao nhất
(chiếm đến 27%) thuộc khu vực Đông Nam Á, bao gồm Việt Nam (3). Tuy phổ biến
đến thế nhưng không hẳn tất cả mọi người đều có nhận thức đầy đủ về vấn nạn này. Ở
Việt Nam, chỉ 1/3 sinh viên có hiểu biết đúng về trầm cảm, con số này thấp hơn so với
các quốc gia phát triển, đa số mọi người còn cho rằng các cá nhân có những rối loạn
về tâm thần thì nguy hiểm và cần được cách ly khỏi cộng đồng (4), (5).

Trầm cảm không giống như cảm giác buồn bã thông thường, nó khiến người bệnh mất
hết hứng thú với cuộc sống, giảm khả năng tập trung, chán ăn, rối loạn giấc ngủ. Ở
mức độ tồi tệ hơn, trầm cảm ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hoạt động sống thường
ngày, làm tổn hại đến các mối quan hệ xã hội của người bệnh, người mắc trầm cảm dễ
tự ti hoặc có cảm giác bản thân không đáng giá với đỉnh điểm là hành vi tự sát. Trầm
cảm có thể ảnh hưởng đến tất cả mọi người, mọi chủng tộc và mọi lứa tuổi. Theo
thống kê, dường như không có quá nhiều sự khác biệt về tỉ lệ người trẻ mắc trầm cảm
so với người già - nhóm đối tượng nguy cơ cao nhất (3). Hàng loạt những nghiên cứu
về rối loạn trầm cảm trên nhóm đối tượng người trẻ đã được tiến hành, với những giả
thiết cho rằng áp lực từ học tập là nguyên nhân chính dẫn đến trầm cảm ở người trẻ.
Ngoài ra, một nghiên cứu phân tích gộp từ hơn 200 bài nghiên cứu khác nhau trên
toàn thế giới lấy đối tượng là sinh viên y khoa đã chỉ ra rằng: tỉ lệ sinh viên y khoa

2
mắc trầm cảm lên đến 27.2% và tỉ lệ sinh viên có ý định tự sát là 11,1% (6). Điều này
có nghĩa rằng, cứ 4 sinh viên y khoa thì có 1 người mắc trầm cảm và cứ 9 người mắc
trầm cảm sẽ có 1 người có ý định tự sát. So sánh những số liệu này với dân số chung
thì đây quả là một con số báo động!

Trong suốt những năm học tập và thực hành lâm sàng, việc đối mặt với tải lượng kiến
thức đồ sộ trong một khoảng thời gian đào tạo dài hơn các ngành học khác, kèm theo
đó những áp lực từ môi trường đầy tính cạnh tranh, sự thiếu ngủ kéo dài trong những
mùa thi cử và sự thiếu thốn thời gian cho thư giãn, giải trí hay phát triển các mối quan
hệ xã hội có lẽ là những lí do khiến cho sinh viên y khoa dễ rơi vào khủng hoảng tinh
thần và đối mặt với trầm cảm cao hơn những nhóm dân số khác. Những sinh viên y
khoa mắc trầm cảm đã được chứng minh có liên quan đến tình trạng lạm dụng chất
kích thích, kém trung thực trong học tập và thi cử cũng như tăng nguy cơ mắc các
bệnh mạn tính về sau (7). Ngoài ra, trầm cảm còn khiến nhân viên y tế dễ cáu gắt,
giảm chất lượng phục vụ chuyên môn, tăng tỉ lệ bỏ việc, nghỉ hưu sớm và tăng nguy
cơ gây ra những tai biến y khoa đáng tiếc (8), (9). Đây là những hệ lụy nguy hiểm cho
cả cộng đồng, nếu không có những chính sách can thiệp ngay tại bây giờ, trầm cảm sẽ
khiến hệ thống y tế đối mặt với một thế hệ bác sĩ yếu chuyên môn, thái độ phục vụ
kém và nguy cơ thiếu hụt nguồn nhân lực là điều hoàn toàn có thể xảy ra trong tương
lai.

Một điểm sáng cho vấn nạn sức khỏe này là trầm cảm hoàn toàn có thể điều trị khỏi
và ngăn ngừa tái phát. Tuy nhiên, rào cản khiến hơn một phần hai bệnh nhân trầm
cảm không nhận được sự can thiệp thích hợp bao gồm sự thiếu thốn về nguồn lực y tế,
sự ý thức kém của cộng đồng và sự kì thị của xã hội về các rối loạn tâm thần nói
chung (3). Tại Việt Nam, theo báo cáo về sức khỏe tâm thần và tâm lý xã hội của
UNICEF, việc cung ứng các dịch vụ chẩn đoán và điều trị ban đầu về các vấn đề sức
khỏe tâm thần đều tập trung ở những thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh hay các bệnh viện công tuyến tỉnh trở lên (10). Năm 2011, một đề án nổi bật của
chính phủ về vấn đề chăm sóc sức khỏe tâm thần đã được phê duyệt, mục tiêu của đề
án là huy động sự tham gia của cả xã hội, nhằm giúp cho người bệnh tâm thần có thể
nhanh chóng hòa nhập và ổn định cuộc sống. Nhưng nhìn chung trên phương diện

3
giáo dục và nâng cao nhận thức về sức khỏe tâm thần, đa số chỉ dừng ở mức phổ cập
kiến thức thông qua các chương trình đào tạo kỹ năng sống và các phòng tư vấn tâm
lý nhỏ lẻ. Từ đó, có thể thấy những chính sách và các dịch vụ cung ứng liên ngành
này có hai nhược điểm lớn đó là sự phân bố không đồng đều về khu vực địa lý và chỉ
tập trung vào các rối loạn tâm thần nặng.

Tại Việt Nam hiện chưa có nhiều nghiên cứu đánh giá tỷ lệ trầm cảm trong nhóm dân
số nguy cơ, đặc biệt là sinh viên y khoa. Một nghiên cứu tại Hải Phòng xác định tỷ lệ
trầm cảm và các yếu tố nguy cơ có liên quan đến trầm cảm ở nhóm sinh viên y khoa
dường như là nguồn tham khảo có giá trị nhất hiện hành trên cơ sở dữ liệu mạng (11).
Tuy nhiên, kết quả từ nghiên cứu này tồn tại những điểm còn chưa thống nhất so với
các nghiên cứu tiền nhiệm tại các vùng dân cư khác trên thế giới, điều này một phần
nào phản ánh những đặc điểm dịch tễ đặc biệt ở sinh viên y khoa tại Việt Nam và nhất
thiết cần phải có thêm những nghiên cứu giúp đánh giá thêm những điểm chưa thống
nhất này. Bên cạnh đó, sinh viên y khoa trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
còn phải đối mặt với áp lực nhiệm sở sau tốt nghiệp và số lượng sinh viên trong một
khóa đào tạo đông nhất cả nước. Vì vậy, những sinh viên này có khả năng phải đối
mặt với nguy cơ trầm cảm cao hơn. Liệu tỷ lệ trầm cảm ở nhóm đối tượng này có gì
khác biệt so với những nghiên cứu tiền nhiệm và đâu là những yếu tố liên quan đến
trầm cảm ở nhóm đối tượng này? Qua nghiên cứu này, chúng tôi mong muốn cung
cấp thêm những số liệu khách quan về tỷ lệ trầm cảm và mô tả những yếu tố có thể có
liên quan đến trầm cảm. Từ đó, chúng tôi xây dựng tiền đề cho các nghiên cứu tương
lai xác định nguyên nhân gây trầm cảm trên nhóm đối tượng sinh viên y khoa. Bên
cạnh đó, chúng tôi mong muốn kiến nghị những nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức
khỏe tâm thần có một sự quan tâm đúng mực đến trầm cảm, xem trầm cảm như một
mũi nhọn sức khỏe và có những đề án can thiệp chuyên biệt hơn, tương xứng với mức
độ phổ biến và tác hại của vấn nạn này.

4
II. TỒNG QUAN Y VĂN:
1. SƠ LƯỢC VỀ TRẦM CẢM:

1.1 Định nghĩa:

Trầm cảm là hiện tượng ức chế của các quá trình hoạt động tâm thần với bệnh cảnh
lâm sàng thường gặp như chán nản, mất hứng thú hoặc niềm vui, giảm năng lượng,
cảm giác tội lỗi hay giá trị bản thân thấp, giấc ngủ bị rối loạn, kém tập trung. Trầm
cảm có thể chỉ là một cơn trầm cảm gặp trong nhiều bệnh lý tâm thần như rối loạn
cảm xúc lưỡng cực, nhưng cũng có thể là cơn trầm cảm gặp trong rối loạn trầm cảm.
Rối loạn trầm cảm (RLTC) chiếm một vị trí quan trọng trong ngành tâm thần học, là
rối loạn thường gặp trong lĩnh vực thực hành của các thầy thuốc chuyên khoa tâm
thần cũng như thầy thuốc đa khoa.

1.2 Phân loại:

Rối loạn trầm cảm bao gồm rối loạn trầm cảm chính (major depressive disorder;
MDD), rối loạn mất điều chỉnh tâm trạng muốn gây rối (disruptive mood
dysregulation disorder; DMDD, đối với trẻ em đến 18 tuổi), rối loạn trầm cảm dai
dẳng (dysthymia; DD), rối loạn phiền muộn tiền kinh nguyệt (premenstrual dysphoric
disorder), rối loạn trầm cảm do chất (substance-induced depressive disorder), rối loạn
trầm cảm do chứng bệnh khác, cũng như các dạng rối loạn trầm cảm khác và không
xác định đối với các trường hợp có triệu chứng phụ không đáp ứng đủ các tiêu chí của
MDD hoặc DD.

1.3 Biểu hiện lâm sàng:

Giai đoạn trầm cảm điển hình sẽ diễn tiến từ từ, thường kéo dài ít nhất 2 tuần với biểu
hiện của hội chứng suy nhược và khí sắc ngày càng giảm. Sau đó xuất hiện đủ bộ 3
triệu chứng trầm cảm như:

• Cảm xúc bị ức chế: là triệu chứng chủ yếu nhất, biểu hiện bằng cảm xúc buồn
rầu với nhiều mức độ như chán nản, thất vọng, có trạng thái buồn chán nặng
nề, sâu sắc, dần dần dẫn đến tự sát.

5
• Tư duy bị ức chế: quá trình liên tưởng của bệnh nhân chậm chạp, trả lời câu hỏi
khó khăn, tư duy chìm đắm trong những chủ đề trầm cảm, bi quan, tủi hổ, bất
hạnh, dần dần kết tinh thành hoang tưởng bị buộc tội hoặc tự buộc tội để đến tự
sát.
• Hoạt động bị ức chế: bệnh nhân ngồi im hoặc nằm im lìm hàng giờ, khom
lưng, cúi đầu, nằm ép ở giường hàng ngày, hàng tháng, đi lờ đờ, quanh quẩn
trong phòng.
• Rối loạn tâm thần khác:
o Hoang tưởng, ảo giác xuất hiện nhiều hơn, nội dung thường là bị tội, tự
buộc tội.
o Ảo thanh nghe tiếng nói tố cáo tội lỗi của mình hay báo trước hình phạt,
tiếng khóc than.
o Khả năng chú ý giảm sút.
• Những rối loạn khác:
o Rối loạn thần kinh thực vật: mạch chậm, giảm trương lực cơ, hồi hộp đánh
trống ngực, nghẹn thở, …
o Rối loạn tiêu hóa: chán ăn, buồn nôn, táo bón, tiêu chảy, viêm loét dạ dày tá
tràng, …
o Rối loạn tiết niệu: tiểu khó, tiểu rắt, rối loạn tiểu tiện, …
o Rối loạn nội tiết, sinh dục: phụ nữ thường mất kinh, rối loạn kinh nguyệt,
lãnh cảm; nam thường liệt dương, cương dương, …

1.4 Nguyên nhân trầm cảm:

Có nhiều nguyên nhân gây ra trầm cảm, có thể tập trung vào 4 nhóm nguyên nhân
chính sau đây:

• Sang chấn tâm lý: còn gọi là stress, đây là nguyên nhân thường gặp gây trầm
cảm, có thể đến từ bên ngoài cơ thể như những mâu thuẫn trong gia đình, bạn
bè, công việc, …hoặc cũng có thể đến từ bên trong cơ thể như bị các bệnh
nặng.
• Bệnh thực thể ở não: như chấn thương sọ não, viêm não, u não, …những rối
loạn và tổn thương cấu trúc não làm giảm ngưỡng chịu đựng stress của cơ thể,

6
chỉ cần một stress nhỏ cũng có thể gây ra các rối loạn cảm xúc, đặc biệt là trầm
cảm.
• Sử dụng các chất gây nghiện hoặc các chất tác động tâm thần: như heroin,
amphetamin, rượu, thuốc lá, …Những chất này giai đoạn đầu thường gây kích
thích, sảng khoái, hưng phấn, nhưng sau đó thường khiến người bệnh rơi vào
trạng thái trầm cảm, mệt mỏi, uể oải, giảm sút và ức chế các hoạt động tâm
thần (giai đoạn ức chế).
• Nguyên nhân nội sinh: chẩn đoán khi đã loại trừ các nguyên nhân trên, do rối
loạn hoạt động của các chất dẫn truyền thần kinh như serotonin, noradrenalin,
...thường dẫn đến trầm cảm nặng, có thể có ý tưởng và hành vi tự sát, kèm theo
các rối loạn loạn thần như hoang tưởng bị tội, ảo thanh sai khiến tự sát. Loại
trầm cảm này điều trị rất khó khăn và thường dễ tái phát.

1.5 Cơ chế bệnh sinh:

Các giả thuyết về sinh học:

• Về mặt di truyền, theo Kaplan & Sadock có hai gen được nhận biết gây nên
tính dễ tổn thương với rối loạn trầm cảm, gen thứ nhất là gen MAOA chịu
trách nhiệm về chức năng của monoamine oxydase và gen thứ hai là gen vận
chuyển serotonin (5HTT).
• Về khía cạnh dẫn truyền thần kinh, nhiều nghiên cứu chứng minh rằng các thay
đổi về nồng độ của các chất dẫn truyền thần kinh trung ương như serotonin,
noradrenalin, dopamin, … (trong máu, nước tiểu và dịch não tủy) gặp trong rối
loạn trầm cảm. Ví dụ như Serotonin giảm sút rõ rệt trong RLTC tại khe synap
thần kinh ở vỏ não so với người bình thường, chỉ còn bằng 30% so với nồng độ
bình thường. Bên cạnh đó, nồng độ các sản phẩm chuyển hóa của serotonin
trong máu, dịch não tủy cũng suy giảm. Trong RLTC cũng thấy mật độ thụ thể
beta-adrenergic giảm sút đáng kể so với người bình thường. Về chất dẫn truyền
dopamin, nhiều bằng chứng cho thấy hoạt tính của Dopamin giảm trong RLTC
và tăng trong hưng cảm.

Giả thuyết về nội tiết:

7
• Nghiên cứu về trục tuyến thượng thận thấy có mối liên quan giữa tăng tiết
cortisol và RLTC, khoảng 50% bệnh nhân RLTC được ghi nhận cortisol không
giảm mặc dù đã tiêm với một liều Dexamethasone. Một báo cáo khác về hoạt
động trục tuyến giáp: nồng độ của thyroxin tự do (FT4) ở trẻ vị thành niên
RLTC thấp hơn so với trẻ bình thường, kết quả gợi ý nồng độ FT4 giảm mặc
dù chức năng tuyến giáp vẫn duy trì trong giới hạn bình thường, những thay
đổi giảm của hormone tuyến giáp có thể góp phần vào biểu hiện lâm sàng của
RLTC.

Các giả thuyết về tâm lý- xã hội:

• Về mối quan hệ gia đình và xã hội, yếu tố di truyền khi kết hợp với nhiều yếu
tố xã hội như mâu thuẫn trong gia đình, bị lạm dụng hoặc ngược đãi, hoàn cảnh
kinh tế xã hội và tình trạng hôn nhân của bố mẹ đóng một vai trò quan trọng
trong việc xuất hiện các RLTC ở trẻ em.

2. TẦM SOÁT SỚM TRẦM CẢM VÀ CÁC PHƯƠNG TIỆN TẦM SOÁT:

2.1 Tiêu chuẩn chẩn đoán trầm cảm:

Chẩn đoán một bệnh nhân mắc rối loạn trầm cảm thật sự là một thách thức lớn. Một
trong những tiêu chuẩn chẩn đoán đã được chấp thuận bởi Hội Tâm thần Hoa Kỳ
(APA) và được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới là tiêu chuẩn từ Cẩm nang chẩn
đoán và thống kê các rối loạn tâm thần ấn bản thứ 5 (DSM-5). Những tiêu chuẩn sau
đây được dịch sang Tiếng Việt từ DSM-5 (không có sự khác biệt với DSM-4).

Chẩn đoán bệnh nhân mắc trầm cảm khi thỏa tất cả các tiêu chuẩn A, B, C và D
được liệt kê sau đây:

A. Ít nhất 5 trong những triệu chứng sau, xuất hiện cùng lúc, kéo dài 2 tuần
làm thay đổi so với hoạt động trước đó; ít nhất một trong các triệu chứng
phải là: (1) khí sắc trầm cảm, (2) mất hứng thú hoặc mất vui.
Ghi chú: các triệu chứng này không phải do một bệnh khác gây nên.
(1) Khí sắc trầm cảm gần như suốt ngày, hầu như mỗi ngày được khai báo
bởi bệnh nhân (ví dụ: cảm thấy buồn hay trống rỗng, tuyệt vọng) hoặc thông

8
quan quan sát của người khác (ví dụ: khóc). Chú ý: ở trẻ em và thành thiếu
niên có thể biểu lộ việc dễ bực tức.
(2) Giảm sút rõ về thích thú hoặc thú vui trong tất cả, hầu như tất cả các
hoạt động hầu như suốt ngày, gần như mỗi ngày (được nhận thấy bởi bệnh
nhân hoặc thông qua quan sát của người khác).
(3) Giảm cân đáng kể không phải do ăn kiêng hoặc tăng cân (ví dụ: thay đổi
trọng lượng cơ thể quá 5% trong 1 tháng) hoặc tăng hay giảm cảm giác ngon
miệng gần như mỗi ngày. Ghi chú: ở trẻ em có thể không đạt mức tăng cân như
dự đoán.
(4) Mất ngủ hay ngủ nhiều hầu như mỗi ngày.
(5) Kích động hay chậm chạp tâm thần vận động hầu như mỗi ngày (được
nhận thấy bởi người khác chứ không phải chỉ là cảm giác của bệnh nhân về
việc bứt rứt hoặc chậm chạp bên trong cơ thể).
(6) Mệt mỏi hoặc mất năng lượng hầu như mỗi ngày.
(7) Cảm giác bị mất giá trị hoặc cảm giác tội lỗi quá mức hoặc không thích
hợp (có thể đạt đến mức hoang tưởng) hầu như mỗi ngày (không chỉ là việc tự
trách móc hoặc có cảm giác tội lỗi do bị bệnh).
(8) Giảm khả năng suy nghĩ hoặc tập trung chú ý hoặc thiếu quyết đoán hầu
như mỗi ngày (do bệnh nhân khai báo hoặc được quan sát bởi người khác).
(9) Ý nghĩ về cái chết tái diễn (không chỉ là sợ chết), các ý tưởng tự tử tái
diễn nhưng không có kế hoạch tự tử, hoặc có mưu toan tự tử hoặc có kế hoạch
tự tử cụ thể.
B. Các triệu chứng này gây ra sự đau khổ đáng kể về mặt lâm sàng hoặc làm
biến đổi hoạt động xã hội, nghềnghiệp hoặc trong các lĩnh vực quan trọng
khác.
C. Các triệu chứng không phải do các tác động sinh lý trực tiếp của một chất
hoặc do một bệnh khác gây nên.
Chú ý: Tiêu chuẩn A-C đại diện cho một giai đoạn trầm cảm chủ yếu.
Chú ý: Phản ứng trước những mất mát lớn (ví dụ: mất người thân, bị phá sản,
tổn thất do thiên tai, bệnh nan y hoặc tàn tật) cũng có thể xuất hiện cảm giác
buồn dữ dội, trầm tư, mất ngủ, mất cảm giác ngon miệng, giảm cân như mô tả

9
theo tiêu chuẩn A, tình trạng này cũng giống như một giai đoạn trầm cảm. Tuy
nhiên, các triệu chứng trên và một giai đoạn trầm cảm là những phản ứng tự
nhiên của con người trước những mất mác lớn cần được xem xét cẩn thận. Vì
thế, cần phải đưa ra các đánh giá lâm sàng dựa trên tiểu sử cá nhân và những
đặc điểm về văn hóa trong việc thể hiện sự buồn bã trước những mất mác.
D. Các triệu chứng này không đáp ứng tiêu chuẩn chẩn đoán của rối loạn phân
liệt cảm xúc, rối loạn tâm thần phân liệt, rối loạn ảo giác, hoặc những rối
loạn đặc trưng hoặc không đặc trưng khác của hội chứng tâm thần phân liệt
và những Rối loạn loạn thần khác. Chưa bao giờ xuất hiện một giai đoạn
hưng cảm hoặc hưng cảm nhẹ trước đó.
Chú ý: Loại trừ này không được áp dụng nếu tất cả các cơn hưng cảm hoặc
hưng cảm nhẹ này do lạm dụng một chất kích thích hoặc là do tác động sinh lý
của một bệnh khác gây nên.
2.2 Xác định mức độ trầm cảm:

Mức độ nặng nhẹ của trầm cảm được xác định bằng: số lượng các triệu chứng, mức
độ nghiêm trọng của các triệu chứng và mức độ ảnh hưởng đến các chức năng xã hội
và nghề nghiệp.

• Nhẹ: Nếu có rất ít triệu chứng của trầm cảm, các triệu chứng đảm bảo tiêu
chuẩn chẩn đoán là: hiện diện, cường độ của các triệu chứng là đau buồn nhưng
dễ quản lý, các triệu chứng trên dẫn đến sự suy giảm nhẹ trong hoạt động xã
hội hoặc nghề nghiệp.
• Trung bình: Số lượng triệu chứng, cường độ của các triệu chứng, sự suy giảm
trong hoạt động xã hội hoặc nghề nghiệp nằm trong khoảng giữa của mức độ
“nhẹ” và “nặng”.
• Nặng: Số triệu chứng vượt quá mức yêu cầu để chẩn đoán, cường độ của các
triệu chứng là đau buồn rất nhiều và khó quản lý.
• Thuyên giảm một phần: các triệu chứng của trầm cảm trước đây có mặt
nhưng không đáp ứng đủ tiêu chuẩn chẩn đoán, hoặc thời gian kéo dài chưa
đến 2 tháng, và không có một triệu chứng nghiêm trọng nào của trầm cảm chủ
yếu nào mất đi trong giai đoạn này.

10
• Thuyên giảm hoàn toàn: Trong 2 tháng qua, không có dấu hiệu/triệu chứng
nào nghiêm trọng của rối loạn có mặt.
• Rối loạn Trầm cảm dai dẳng/Trầm cảm mạn tính: kéo dài 2 năm.

2.3 Vai trò tầm soát sớm trầm cảm:

Với những tiêu chuẩn trên, muốn áp dụng bảng tiêu chuẩn này như một công cụ sàng
lọc rối loạn trầm cảm cho mọi đối tượng nguy cơ trên thực hành lâm sàng sẽ mắc phải
rào cản lớn nhất là rất tốn thời gian và kết quả cuối cùng phải được nhận định từ
những chuyên gia tâm thần. Tuy nhiên, hệ thống y tế của chúng ta lại không đủ nhân
lực để có thể tầm soát cho mọi nhóm dân số nguy cơ. Chính những trở ngại này làm
cho mong muốn áp dụng bảng tiêu chuẩn DSM-5 một cách rộng rãi trong cộng đồng
dường như trở nên bất khả thi. Để khắc phục sự bất tiện này, các công cụ sàng lọc
sớm trầm cảm đã ra đời. Tầm soát sớm trầm cảm còn là một trong những chiến lược
khởi đầu cho những liệu pháp can thiệp đúng lúc, từ đó có thể rút ngắn thời gian chịu
đựng những cảm xúc tồi tệ này, giúp bệnh nhân ý thức hơn về sức khỏe tâm thần của
họ. Những đối tượng có kết quả sàng lọc dương tính với trầm cảm nên được khám và
nhận định lại cũng như tìm kiếm những nguyên nhân gây trầm cảm bởi các bác sĩ
chuyên khoa tâm thần. Với sự giúp đỡ chuyên môn, các đối tượng này còn có cơ hội
bày tỏ những cảm xúc tiêu cực và tìm ra những giải pháp giải quyết vấn đề và những
chiến lược ngăn chặn trầm cảm tái diễn trong tương lai.

Hiện có nhiều ý kiến trái chiều về quyết định tầm soát sớm trầm cảm. Một nghiên cứu
phân tích gộp từ 16 nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCTs)
đã chỉ ra rằng các công cụ tầm soát trầm cảm hiện nay không làm thay đổi đáng kể tỉ
lệ nhận diện sớm trầm cảm ([RR] 1.27, 95%, [CI] 1.02 to 1.59) (12). Bài nghiên cứu
trên có cỡ mẫu lớn (N=7576), phương pháp tìm kiếm y văn với những tiêu chuẩn chọn
vào và loại ra được phát biểu cụ thể và những công cụ tính toán đáng tin cậy. Tuy
nhiên, hầu hết nghiên cứu RCT đáp ứng tiêu chuẩn chọn vào không báo cáo đầy đủ về
phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên nên không thể đánh giá những yếu tố lệch của
nghiên cứu và những nghiên cứu này cũng không có sự tương đồng về phương pháp
nghiên cứu đặc biệt là công cụ tầm soát lựa chọn không giống nhau. Do đó, theo ý
kiến của chúng tôi, không thể kết luận rằng tất cả những nỗ lực tầm soát trầm cảm đều

11
không mang lại lợi ích gì. Cần có những bài nghiên cứu tổng hợp và phân tích trên
từng công cụ sàng lọc cụ thể để có những kết luận mang tính giá trị hơn.

Bên cạnh đó, Cơ quan Y tế dự phòng Hoa Kỳ (USPSTF) đã cho công bố những
khuyến cáo cho rằng việc tầm soát trầm cảm trong thực hành lâm sàng là cần thiết
(mức độ bằng chứng loại B) và cơ quan này cũng cung cấp những bằng chứng cho
rằng những lợi ích từ tầm soát, can thiệp và điều trị sớm trầm cảm vượt hẳn những
nguy cơ tiềm ẩn của chiến lược này (13).

2.4 Các phương tiện tầm soát trầm cảm:

Trên thế giới hiện nay đã có nhiều bảng điểm tự lượng giá giúp tầm soát trầm cảm ở
nhóm đối tượng người trưởng thành được trình bày trong bảng sau:

12
Số lượng Thang Thời gian
Công cụ tầm soát Ngưỡng cắt chẩn đoán
câu hỏi điểm khảo sát

Thang điểm trầm cảm của 21 0-63 10 phút <11: không trầm cảm
Beck (BDI/BDI-II)
11-16: trầm cảm nhẹ
17-20: trầm cảm lâm sàng
21-30: trầm cảm mức độ trung bình
31-39: trầm cảm mức độ nặng
≥40: trầm cảm rất nặng

Thang điểm trầm cảm 20 0-60 10 phút <16: không trầm cảm
Trung tâm Nghiên cứu dịch
>16: có trầm cảm
tễ học (CES-D)

Thang đánh giá trầm cảm 10 0-60 15 phút <15: không trầm cảm
Montgomery-Asberg
15-24: trầm cảm mức độ nhẹ
(MARDS)
25-30: trầm cảm mức độ trung bình
31- 43: trầm cảm mức độ nặng
≥44: trầm cảm rất nặng

Thang đánh giá trầm cảm 17 0-54 15 phút <7: không trầm cảm
Hamilton (HDRS/HAM-D)
7-17: trầm cảm mức độ nhẹ
18-24: trầm cảm mức độ trung bình
≥24: trầm cảm mức độ nặng

Bộ câu hỏi đánh giá sức 9 0-27 5-10 phút <5: trầm cảm tối thiểu
khỏe bệnh nhân - Trầm 5-9: trầm cảm mức độ nhẹ
cảm (PHQ-9) 10-14: trầm cảm mức độ trung bình
15-19: trầm cảm khá nặng
20-27: trầm cảm mức độ nặng

Bảng 1. Các bảng điểm tự lượng giá giúp tầm soát trầm cảm ở nhóm đối tượng người
trưởng thành (14).

Có nhiều nghiên cứu đã được tiến hành để đánh giá tính ứng dụng cũng như độ chính
xác của những công cụ sàng lọc trầm cảm này. Sau đây chúng tôi xin phân tích các ưu
điểm và bằng chứng khoa học bộ câu hỏi PHQ-9.

13
2.5 Bộ câu hỏi đánh giá sức khỏe bệnh nhân- trầm cảm (PHQ- 9):
2.5.1 Tổng quan về PHQ- 9:

Bộ câu hỏi đánh giá sức khỏe bệnh nhân - trầm cảm (PHQ-9: Patient Health
Questionare- Depression 9) là một công cụ tầm soát trầm cảm được ứng dụng phổ
biến trên thế giới. Bộ câu hỏi có thể được tự điền hoàn toàn bởi bệnh nhân, bao gồm 9
câu hỏi với 4 mức điểm (từ 0-3 điểm) giúp đánh giá các triệu chứng có liên quan đến
trầm cảm trong vòng hai tuần qua so với thời điểm khảo sát. Công cụ này có thể đưa
ra được 8 chẩn đoán bao gồm:

• Rối loạn đạt ngưỡng: là các rối loạn đã được xác nhận lại bằng những tiêu
chuẩn DSM-4 tương ứng. Các rối loạn này bao gồm:
o Rối loạn trầm cảm chủ yếu (Major Depressive Disoder).
o Rối loạn hoảng sợ (Panic Disorder).
o Các rối loạn lo âu khác (Other Anxiety Disoder).
o Rối loạn ăn uống tâm thần (Bulimia Nervosa).
• Rối loạn dưới ngưỡng: là các rối loạn có những triệu chứng đặc trưng nhưng
chưa đạt tiêu chuẩn chẩn đoán của DSM-4. Các rối loạn này bao gồm:
o Các rối loạn trầm cảm khác (Other Depressive Disoder).
o Tình trạng nghiện rượu (Alcohol abuse/dependence).
o Rối loạn dạng cơ thể (Somatoform Disoder).
o Rối loạn cuồng ăn quá độ (Binge Eating Disorder).

Trong nghiên cứu này, chúng tôi chỉ bàn về việc sử dụng bộ câu hỏi PHQ-9 trong tầm
soát rối loạn trầm cảm chủ yếu (MDD).

2.5.2 Ưu điểm của PHQ-9 và những bằng chứng khoa học khi ứng dụng PHQ-9
như một công cụ tầm soát trầm cảm:

Về tính thuận tiện:

• So sánh PHQ-9 với các công cụ tầm soát hiện hành, PHQ-9 vừa giúp chẩn
đoán trầm cảm vừa giúp phân độ nặng trầm cảm, điều mà bảng điểm CES-D
không thực hiện được. Ngoài ra, bộ câu hỏi PHQ-9 chỉ gồm 9 câu hỏi với thời
gian khảo sát từ 5-10 phút là một công cụ thuận lợi, có thể tránh được sự mất

14
kiên nhẫn từ người khảo sát khi số lượng câu hỏi quá nhiều như thang điểm
BDI, CES-D và HAM-D.

Về độ tin cậy:

• Một nghiên cứu về độ nhạy độ đặc hiệu của bảng điểm PHQ-9 trong chẩn đoán
trầm cảm có đối chiếu chẩn đoán của chuyên gia sức khỏe tâm thần dựa trên
tiêu chuẩn DSM-4 với cỡ mẫu nghiên cứu là 580 bệnh nhân cho thấy, với
ngưỡng cắt chẩn đoán là 10, PHQ-9 có độ nhạy là 88% và độ đặc hiệu là 88%.
Với những ngưỡng cắt chẩn đoán càng cao thì độ đặc hiệu cũng tăng dần
nhưng đi kèm đó là độ nhạy giảm dần (15).

15
Ngưỡng chẩn đoán Độ nhạy (%) Độ đặc hiệu (%) Tỉ số khả dĩ
theo PHQ-9 (điểm)

≥9 95 84 6.0

≥ 10 88 88 7.1

≥ 11 83 89 7.8

≥ 12 83 92 10.2

≥ 13 78 93 11.1

≥ 14 73 94 12.0

≥15 68 95 13.6

Bảng 2. Độ nhạy, độ đặc hiệu và tỉ số khả dĩ của bảng điểm PHQ-9 trong tầm soát
trầm cảm (15).

Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi đồng thuận với quan điểm nên tầm soát sớm trầm
cảm đặc biệt là nhóm đối tượng nguy cơ cao như sinh viên y khoa. Và với những bằng
chứng hiện hành về sự thuận tiện và độ chính xác, chúng tôi lựa chọn bộ câu hỏi đánh
giá sức khỏe bệnh nhân - Trầm cảm (PHQ-9) là công cụ tầm soát sẽ được tiến hành
với ngưỡng cắt chẩn đoán là 10 điểm.

3. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI:

3.1 Systematic Review of Depression, Anxiety, and Other Indicators of


Psychological Distress Among U.S. and Canadian Medical Students (16)
3.1.1 Mục tiêu nghiên cứu:

• Tổng hợp và mô tả tỉ lệ sinh viên y khoa tại Mỹ và Canada mắc các rối loạn
trầm cảm, rối loạn lo âu từ các nghiên cứu.
• Xác định mối tương quan giữa những yếu tố cá nhân và yếu tố học đường có
liên quan đến các rối loạn trầm cảm và các rối loạn lo âu.
3.1.2 Đối tượng và số lượng:

Bài nghiên cứu tổng hợp dữ liệu từ 40 nghiên cứu trên nhóm đối tượng sinh viên y
khoa tại Mỹ và Canada.

16
3.1.3 Phương pháp nghiên cứu:

• Thiết kế nghiên cứu: Tổng quan có hệ thống.


• Chiến lược tìm kiếm: bài nghiên cứu tìm kiếm kết hợp từ khóa “sinh viên” với
những từ khóa khác như “trầm cảm”, “rối loạn trầm cảm chủ yếu”, “suy kiệt
cảm xúc”, “sức khỏe tâm thần”, “sức khỏe tâm lý” dưới ngôn ngữ Tiếng Anh
trên các thanh công cụ tìm kiếm hai nguồn dữ liệu mạng là Medline và
PubMed.
• Tiêu chuẩn nhận vào: các bài nghiên cứu được công bố trong vòng 25 năm
trước thời điểm thực hiện nghiên cứu (từ tháng 1 năm 1980 đến tháng 5 năm
2005) có tiêu đề phù hợp với đề tài nghiên cứu. Và chỉ những nghiên cứu tập
trung trên nhóm đối tượng sinh viên y khoa và sử dụng những phương pháp
thống kê được chuẩn hóa mới thỏa tiêu chuẩn nhận vào.
• Tiêu chuẩn loại trừ: những nghiên cứu tiến hành ngoài khu vực Mỹ hoặc
Canada và những nghiên cứu đánh giá khả năng mắc trầm cảm của sinh viên
khi trải một một sự kiện biến cố quan trọng trong cuộc sống như người thân
qua đời cũng được loại trừ.

3.1.4 Các nhóm biến số chính:

• Biến số phụ thuộc: rối loạn trầm cảm, rối loạn lo âu.
• Biến số độc lập: giới tính, tuổi, tình trạng hôn nhân, tính cạnh tranh trong môi
trường học đường, sự quá tải kiến thức, sự hoài nghi bản thân, mâu thuẫn y
đức, vấn đề tài chính, kết quả học tập, biến cố trong cuộc sống.
3.1.5 Kết quả chính và kết luận của tác giả:

• Tỉ lệ trầm cảm: Tỉ lệ trầm cảm qua 16 nghiên cứu mô tả cắt ngang thay đổi từ
13% đến 26% tùy thuộc vào bảng điểm sử dụng làm công cụ chẩn đoán. Các
nghiên cứu dọc tập trung chủ yếu so sánh tỉ lệ trầm cảm ở các năm học và phân
tích những thay đổi về các triệu chứng trầm cảm trong suốt những năm học y
khoa. Trong đó, tỉ lệ trầm cảm thay đổi từ 12% đến 28% nhưng chưa có sự
thống nhất rằng giai đoạn nào là giai đoạn nhạy cảm nhất với trầm cảm.
• Các yếu tố liên quan đến trầm cảm:

17
o Giới tính: mặc dù nữ giới được cho rằng dễ mắc trầm cảm hơn nam giới khi
xét trên quần thể dân số chung, tuy nhiên, từ những tài liệu tổng hợp về tỉ lệ
trầm cảm trên nhóm sinh viên y khoa, đặc điểm này chưa được thống nhất.
o Tuối: không có sự tương quan có ý nghĩa về độ tuổi và tỉ lệ mắc trầm cảm.
o Tình trạng hôn nhân: hầu hết các nghiên cứu đều chỉ ra rằng tỉ lệ trầm cảm
cao hơn ở nhóm chưa lập gia đình so với những nhóm đã kết hôn hoặc đính
hôn. Có những nghiên cứu dọc cũng chỉ ra rằng những sinh viên y khoa sau
khi kết hôn cũng giảm tỉ lệ và cả mức độ trầm cảm với mức thống kê có ý
nghĩa.

Hầu hết các nghiên cứu đều kết luận rằng các áp lực trong học tập như sự quá tải kiến
thức, vấn đề tài chính, tính cạnh tranh cao trong môi trường học tập, sự hoài nghi bản
thân không phù hợp với ngành nghề đang theo học và những vấn đề khác như mâu
thuẫn y đức, sự đối mặt với mất mát của bệnh nhân, trải qua những biến cố đau buồn
trong cuộc sống như gia đình mắc bệnh nặng, người thân qua đời đều góp phần gây
gia tăng tỉ lệ trầm cảm ở sinh viên y khoa.
3.1.6 Nhận định tài liệu:

• Ưu điểm:
Bài nghiên cứu tìm kiếm số liệu trên những nguồn đáng tin cậy bằng những
phương pháp thích hợp. Tiêu chuẩn nhận vào được phát biểu chi tiết và đánh
giá một cách tổng quát, phát biểu những điểm thống nhất cũng như chỉ ra
những điểm mâu thuẫn về các yếu tố có liên quan đến trầm cảm.
• Khuyết điểm:
Các nghiên cứu chỉ thực hiện tại Mỹ và Canada, hầu hết các bài nghiên cứu này
đều có quy mô nhỏ lẻ, chỉ khảo sát sinh viên trong cũng một năm học và chưa
thống nhất về công cụ khảo sát nên cũng không giúp đưa ra một kết luận mang
tính đại diện cho toàn bộ sinh viên y khoa trên khắp thế giới. Ngoài ra, bài báo
được công bố vào năm 2005 chưa đánh giá đúng tỉ lệ trầm cảm ở thời điểm
hiện tại. Bên cạnh đó, bài báo cáo chỉ ghi nhận các vấn đề liên quan và mô tả
lại một cách hệ thống nhưng chưa làm rõ được nguyên nhân và hậu quả của
sinh viên y khoa bị trầm cảm cũng là một điểm giới hạn của nghiên cứu này.

18
3.2 Prevalence of Depression, Depressive Symptoms, and Suicidal Ideation
Among Medical Students: A Systematic Review and Meta-Analysis (6)
3.2.1 Mục tiêu nghiên cứu:

Xác định tỉ lệ sinh viên y khoa đang mắc trầm cảm thật sự, có triệu chứng của trầm
cảm hoặc có ý định tự sát.
3.2.2 Đối tượng nghiên cứu:

195 nghiên cứu, bao gồm 167 nghiên cứu cắt ngang và 16 nghiên cứu dọc trên tổng số
129123 sinh viên y khoa ở 47 quốc gia được đưa vào phân tích.
3.2.3 Phương pháp nghiên cứu:

• Thiết kế nghiên cứu: Tổng quan hệ thống và phân tích gộp.


• Chiến lược tìm kiếm:
o Hai tác giả (M.A.R và D.A.M) đã độc lập xác định các nghiên cứu cắt ngang và
nghiên cứu cắt dọc được công bố trước ngày 17 tháng 9 năm 2016, báo cáo về
tỷ lệ trầm cảm, triệu chứng trầm cảm hoặc ý định tự tử ở sinh viên y khoa bằng
cách tìm kiếm có hệ thống trên những công cụ EMBASE, ERIC, MEDLINE,
psycARTICLES và psycINFO.
o Tiêu chuẩn lựa chọn các nghiên cứu bao gồm: (1) Dữ liệu báo cáo về sinh viên
y khoa, (2) đã được công bố trên các tạp chí và (3) đã sử dụng phương pháp
hợp lí để xác định một bệnh nhân đang mắc trầm cảm, có triệu chứng của trầm
cảm hoặc ý tưởng tự tử.
• Trích xuất dữ liệu và đánh giá chất lượng tài liệu:
o 3 tác giả (L.S.R., M.T. và J.B.S.) đã trích xuất độc lập các dữ liệu từ mỗi bài
viết sử dụng một hình thức chuẩn bao gồm: thiết kế nghiên cứu, vị trí địa lí,
năm khảo sát, năm học, cỡ mẫu, độ tuổi trung bình của người tham gia khảo
sát, phương pháp chẩn đoán và sàng lọc đã được sử dụng, cách định nghĩa các
kết quả thu được (ví dụ: tiêu chuẩn chấn đoán đặc hiệu hoặc ngưỡng cắt của
phương tiện tầm soát) và tần suất của người mắc trầm cảm thật sự, có triệu
chứng trầm cảm hoặc có ý định tự sát đã được báo cáo. Sinh viên đã được chẩn
đoán và điều trị trầm cảm thì bị loại khỏi nghiên cứu này. Khi có nhiều nghiên

19
cứu trên cùng một nhóm dân số chung, chỉ có những nghiên cứu công bố gần
đây nhất được đưa vào.
o 3 tác giả đã đánh giá độc lập nguy cơ sai lệch của các nghiên cứu không ngẫu
nhiên này bằng cách sử dụng phiên bản sửa đổi của thang điểm Newcastle -
Ottawa. Các nghiên cứu được xếp vào hai nhóm: nguy cơ sai lệch thấp (>= 3
điểm) và nguy cơ sai lệch cao (< 3 điểm). Một tác giả thứ tư (D.A.M.) đã giải
quyết những khác biệt thông qua thảo luận và phân xử.
3.2.4 Các nhóm biến số chính:

• Biến số độc lập:

o Giới tính.

o Tuổi.

o Chuyên ngành: y học nói chung và các chuyên ngành khác.

o Lớp tiền lâm sàng hay lâm sàng.

o Môi trường đào tạo.

• Biến số phụ thuộc:

o Sinh viên y khoa mắc bệnh trầm cảm.

o Ý định tự sát.
3.2.5 Kết quả chính - Kết luận của tác giả:

Số liệu về tần suất hiện mắc của người mắc trầm cảm thật sự hoặc có triệu chứng
của trầm cảm được trích xuất từ 167 nghiên cứu cắt ngang (n = 116 628) và 16
nghiên cứu dọc (n = 5728) từ 47 quốc gia, trong đó chỉ có 1 nghiên cứu tự báo cáo.

• Tỷ lệ mắc các triệu chứng trầm cảm chung của các sinh viên y khoa trong
nghiên cứu này là 27,2% cao hơn so với báo cáo trong dân số nói chung, điều
này đòi hỏi những nghiên cứu sâu hơn nhằm xác định chiến lược ngăn ngừa và
điều trị trầm cảm hiệu quả cho nhóm dân số này.

• Trong 27,2% sinh viên y khoa sàng lọc dương tính với trầm cảm, tỉ lệ có ý định
tự sát là 11,1% và tỉ lệ tìm đến các phương pháp điều trị chỉ có 15,7%. Điều

20
này làm dấy lên mối lo lắng rằng diễn tiến nặng lên của trầm cảm và ý định tự
sát theo thời gian có liên quan tới hành vi tự sát thật sự trong tương lai gần
cũng như làm tăng nguy cơ tái phát bệnh trầm cảm và nguy cơ tử vong trong
tương lai xa hơn.

• Ở nhóm đối tượng là bác sĩ nội trú, tỉ lệ mắc trầm cảm được xác định là 28,8%
tương đương với tỉ lệ mắc trầm cảm ở sinh viên y khoa 27,2%. Số liệu này gợi
ý rằng trầm cảm là một vấn đề ảnh hưởng đến mọi mức độ đào tạo y khoa, do
đó có thể gây nên tác động xấu đến sức khỏe lâu dài của các bác sĩ cũng như
làm giảm chất lượng chăm sóc y tế trên thực hành lâm sàng.
3.2.6 Nhận định:

• Ưu điểm
Trong tình hình có quá nhiều nghiên cứu về vấn đề trầm cảm ở sinh viên y
khoa nhưng nhìn chung là những nghiên cứu lẻ tẻ, ở nhiều khu vực địa lí khác
nhau. Một bài tổng quan hệ thống và phân tích cộng gộp như trên đây là cần
thiết để xác định lại những hiểu biết về vấn đề này cũng như tìm ra những
khoảng trống cho nghiên cứu tiếp theo trong tương lai. Tác giả đã tìm kiếm
nguồn tài liệu đáng tin cậy, lựa chọn và đánh giá chất lượng các nghiên cứu
một cách nghiêm túc trước khi đưa vào tổng quan.
• Khuyết điểm
Dữ liệu được lấy từ các nghiên cứu có thiết kế, dụng cụ sàng lọc và đặc điểm
nhân khẩu học khác nhau do đó tỷ lệ được đưa ra không có tính chính xác cao.
3.3 The four-domain structure model of a depression scale for medical students:
A cross-sectional study in Haiphong, Vietnam (11)
3.3.1 Mục tiêu nghiên cứu:

Nhằm xác định tỷ lệ trầm cảm và các yếu tố nguy cơ liên quan đến trầm cảm trên
nhóm sinh viên y khoa của Đại học Y Dược Hải Phòng năm học 2015 - 2016 thông
qua quá trình đào tạo

21
3.3.2 Đối tượng nghiên cứu, số lượng:
• Nghiên cứu chọn ngẫu nhiên từ 4 lớp của mỗi khoá tại trường đại học Y dược
Hải Phòng trong năm 2015 - 2016, dựa vào bảng câu hỏi để chọn ra 1319 trong
số 5822 sinh viên chính quy.
• Bảng câu hỏi gồm 3 phần:
o Các yếu tố chung:
▪ Giới tính, tuổi, tôn giáo, dân tộc.
▪ Lớp tiền lâm sàng hay lâm sàng.
▪ Sống ở ngoại ô hoặc thành thị.
▪ Điều kiện sống: ký túc xá, nhà thuê, hoặc sống với gia đình.
▪ Tình trạng hôn nhân: độc thân, đã kết hôn, ly hôn.
▪ Trình độ học vấn cao nhất của cha mẹ và tình trạng hôn nhân của
cha mẹ.
o Các yếu tố liên quan đến trầm cảm:
▪ Các biến cố trong cuộc sống như xung đột với cha mẹ, vấn đề tài
chính của gia đình, sự mất mát người thân, đạt điểm số thấp hơn
mong đợi.
▪ Vấn đề khác: Vấn đề sức khoẻ cá nhân, xung đột với giáo viên
hoặc chính sách của nhà trường …
o Thang đo CES-D.
3.3.3 Thiết kế nghiên cứu:
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
3.3.4 Biến số chính:
• Biến số phụ thuộc: Rối loạn trầm cảm.
• Biến số độc lập:
o Giới tính, tuổi, tôn giáo, dân tộc.
o Sống ở ngoại ô hoặc thành thị.
o Điều kiện sống: ký túc xá, nhà thuê, hoặc sống với gia đình.
o Tình trạng hôn nhân: độc thân, đã kết hôn, ly hôn.
o Trình độ học vấn cao nhất của cha mẹ và tình trạng hôn nhân của cha
mẹ.
22
o Áp lực học tập.
o Vắng mặt trong các buổi học.
o Xung đột với giáo viên hoặc các chính sách của nhà trường.
o Vấn đề về sức khoẻ cá nhân.
o Mâu thuẫn với gia đình.
o Sự mất mát về người thân trong gia đình.
o Khó khăn trong việc giao tiếp xã hội.
3.3.5 Kết quả chính và kết luận của tác giả:
Tỉ lệ trầm cảm: 39% (514/1319 sinh viên bị trầm cảm) trong đó nam cao hơn nữ
(44,2% so với 36,9%, p = 0,015).
• Yếu tố nguy cơ của trầm cảm:
o Áp lực học tập (OR [95%CI]: 1.595 [1.241–2.049]).
o Vắng mặt trong các buổi học (OR [95%Cl]: 1.846 [1.332-2.559].
o Xung đột với giáo viên hoặc các chính sách của nhà trường(OR
[95%Cl]:2.631[1.604-4.314], 2.371[1.516–3.707]).
o Vấn đề về sức khoẻ cá nhân (OR [95%Cl]:2.683 [2.132-3.376]).
o Mâu thuẫn với gia đình (OR [95%CI]:1.942[1.482–5.547]).
o Sự mất mát về người thân trong gia đình (OR [95%]:1.821[1.299–2.552]).
o Khó khăn trong việc giao tiếp xã hội (OR [95%]: 1.884[1.505-2.359]).
3.3.6 Nhận định:
• Ưu điểm:
o Đây là một trong số ít bài nghiên cứu về trầm cảm trong sinh viên y khoa
tại Việt Nam cũng là nghiên cứu đầu tiên nói đến mối liên quan giữa triệu
chứng trầm cảm và các yếu tố nguy cơ.
o Nghiên cứu đưa ra được tỷ lệ trầm cảm đang tăng cao ở sinh viên y khoa
Việt Nam và các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến việc trầm cảm, từ đó có
phương pháp để phòng ngừa và khuyến cáo giúp giảm tỷ lệ mắc trầm cảm.
• Khuyết điểm:
o Việc sử dụng thang đo dịch tễ học CES-D với điểm cắt 16 để tự đánh giá
trầm cảm mà không có sự xác nhận của bác sĩ lâm sàng chỉ giúp xác định

23
được triệu chứng trầm cảm chứ không xác định được mức độ trầm cảm và
mối liên quan giữa trầm cảm với các yếu tố nguy cơ.
o Việc sử dụng nghiên cứu mô tả cắt ngang và cách chọn mẫu ngẫu nhiên
khiến tác giả thiếu thông tin cơ bản về sức khoẻ tâm thần và tâm lý xã hội
cũng như sự thay đổi tâm sinh lý của sinh viên y khoa trong quá trình đào
tạo nên không thể kết luận được về mối quan hệ nhân quả trên. Do đó, cần
có nghiên cứu làm rõ hơn yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến tỷ lệ trầm cảm như
thế nào.

TÓM LẠI:
So sánh những y văn hiện hành về tỉ lệ trầm cảm và các yếu tố liên quan đến trầm cảm
được thực hiện tại Việt Nam và các khu vực khác trên thế giới chúng tôi có những
nhận định sau:

• Tỉ lệ trầm cảm sinh viên y khoa tại Việt Nam cao hơn đáng kể so với tỉ lệ trầm
cảm chung các nhóm sinh viên y khoa trên toàn thế giới (39% soi với 27,2%)
do đó cần thiết có thêm những nghiên cứu khác tại Việt Nam để củng cố thêm
kết luận này.
• Các y văn hiện hành tại Việt Nam và ngoài nước đã mô tả nhiều yếu tố liên
quan đến trầm cảm ở sinh viên y khoa. Trong đó, có nhiều yếu tố đã đạt được
sự thống nhất như quá tải kiến thức, vấn đề tài chính, kém giao tiếp xã hội, trải
qua những biến cố đau buồn trong cuộc sống, mâu thuẫn với gia đình, thầy cô
và các chính sách từ nhà trường. Tuy nhiên, y văn tại Việt Nam đã bỏ sót
những yếu tố cụ thể hóa và mang tính đại diện hơn cho sinh viên y khoa như
tính cạnh tranh trong môi trường học tập, áp lực công việc đầu ra và những yếu
tố tiềm ẩn từ môi trường thực tập lâm sàng. Do đó, những yếu tố đã bị bỏ sót
và những điều còn chưa thống nhất trong các yếu tố liên quan đến trầm cảm sẽ
được thực hiện trong nghiên cứu này.

24
III. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
1. Xác định tỉ lệ hiện mắc trầm cảm ở sinh viên y khoa khóa Y2015 trường Đại học Y
khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2019.

2. Xác định những yếu tố liên quan đến trầm cảm ở sinh viên y khoa khóa Y2015
trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2019.

25
IV. BIẾN SỐ NGHIÊN CỨU:

PHÂN
TÊN BIẾN ĐỊNH NGHĨA CÁC GIÁ TRỊ VÀ ĐỊNH NGHĨA
LOẠI
SỐ BIẾN SỐ GIÁ TRỊ BIẾN SỐ
BIẾN SỐ

Biến số về đặc điểm cá nhân

Độ tuổi của đối Biến số 22 tuổi: sinh năm 1997.


tượng được khảo định tính Lớn hơn 22 tuổi: sinh trước năm
Tuổi sát. thứ tự. 1997.

Giới tính của đối Biến số Nam


Giới tính
tượng khảo sát. danh định. Nữ

Tình trạng hôn Biến số Độc thân: chưa từng kết hôn hoặc đã
Tình trạng nhân của đối danh định. đính hôn.
hôn nhân tượng khảo sát. Kết hôn: đã có vợ hoặc chồng hợp
của bản
pháp.
thân
Ly hôn: sau khi kết thúc hôn nhân.

Tổng thu nhập Biến số Giàu: trên 100 triệu/tháng


của các thành định tính Khá: trên 30 triệu/tháng
Thu nhâp
viên trong gia thứ tự.
gia đình Trung bình: trên 10 triệu/tháng
đình.
Nghèo: dưới 10 triệu/tháng

Những người Biến số Sống chung với gia đình: sống cùng
Tình trạng sống chung hiện danh định. với người thân ruột thịt.
sống tại. Không sống chung với gia đình: sống
một mình hoặc sống cùng với người

26
khác không phải ruột thịt.

Nghề nghiệp hiện Biến số Trong ngành y: cha mẹ là nhân viên


Nghề
tại của cha mẹ. danh định. y tế.
nghiệp cha
Ngoài ngành y: cha mẹ không phải là
mẹ
nhân viên y tế.

Biến số liên quan đến môi trường y khoa

Xếp loại học lực Biến số Giỏi: trung bình môn ≥ 8.0
của đối tượng định tính Khá: 7.0 ≤ trung bình môn < 8.0
nghiên cứu trong thứ tự.
Trung bình-Khá: 6.0 ≤ trung bình
năm học 2017-
môn < 7.0
Học lực 2018.
Trung bình: 5.0 ≤ trung bình môn <
6.0

Yếu: trung bình môn < 5.0

Lưu ban: Nợ hơn 27 đơn vị học phần

Cảm xúc của đối Biến số Ám ảnh: lúc nào cũng nghĩ về hình
tượng khảo sát danh định. ảnh đó và sợ hãi khi phải đối diện với
nó một lần nữa.
khi đối mặt với
Buồn bã: chỉ cảm thấy buồn ở thời
Cảm xúc nỗi đau và cái
điểm đó nhưng không sợ hãi khi phải
khi đối mặt
chết của người đối diện với nó một lần nữa .
với nỗi đau
và cái chết bệnh (tình huống Bình thường: không suy nghĩ gì
không thể tránh nhiều về hình ảnh đó.
khỏi trên lâm
sàng).

Mức độ quan tâm Biến số Điểm 0: ít nghĩ về vấn đề nhiệm sở.


Phân công
và sức ảnh hưởng định tính Điểm 1: thỉnh thoảng nghĩ về vấn đề
nhiệm sở
của nhiệm sở lên thứ tự. nhiệm sở.

27
suy nghĩ của đối Điểm 2: thường xuyên nghĩ về nhiệm
tượng khảo sát. sở nhưng không cảm thấy lo lắng.

Điểm 3: thường xuyên nghĩ về nhiệm


sở và cảm thấy rất lo lắng.

Khả năng áp dụng Biến số Điểm 0: gần như không áp dụng


lý thuyết vào thực định tính được lý thuyết vào thực hành lâm
hành lâm sàng thứ tự. sàng,
Ứng dụng của đối tượng Điểm 1: áp dụng được một phần lý
lâm sàng khảo sát. thuyết vào thực hành lâm sàng.

Điểm 2: áp dụng được hầu hết lý


thuyết vào thực hành lâm sàng.

V. TÀI LIỆU THAM KHẢO:


1. Ferrari AJ, Charlson FJ, Norman RE, Patten SB, Freedman G, Murray CJ, et al.
Burden of depressive disorders by country, sex, age, and year: findings from the
global burden of disease study 2010. PLoS Med. 2013;10(11):e1001547.
2. Disease GBD, Injury I, Prevalence C. Global, regional, and national incidence,
prevalence, and years lived with disability for 310 diseases and injuries, 1990-2015: a
systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2015. Lancet.
2016;388(10053):1545-602.
3. Organization WH. Depression and other common mental disorders: global
health estimates. Geneva, Switzerland: The WHO Document Production Services;
2017.
4. Akiko K, Trinh HN, Mitch J, Jazmine H, Mu P, Kai S, et al. Perceptions of
mental and mental health services among college students in Vietnam and the United
States. Asian Journal of Psychiatry. 2018;37:15-9.
5. Nguyen Thai QC, Nguyen TH. Mental health literacy: knowledge of
depression among undergraduate students in Hanoi, Vietnam. Int J Ment Health Syst.
2018;12:19.
6. Rotenstein LS, Ramos MA, Torre M, Segal JB, Peluso MJ, Guille C, et al.
Prevalence of Depression, Depressive Symptoms, and Suicidal Ideation Among
Medical Students: A Systematic Review and Meta-Analysis. JAMA.
2016;316(21):2214-36.

28
7. Dyrbye LN, Thomas MR, Shanafelt TD. Medical student distress: causes,
consequences, and proposed solutions. Mayo Clin Proc. 2005;80(12):1613-22.
8. Amy MF, Theodore C, Laura K, Daniel L. Rates of medication errors among
depressed and burnt out residents: prospective cohort study. BMJ. 2008;2:15-20.
9. Taylor C, Graham J, Potts H, Candy J, Richards M, Ramirez A. Impact of
hospital consultants' poor mental health on patient care. Br J Psychiatry.
2007;190:268-9.
10. S. F, Nicola J, Taveeshi G, Thủy ĐB. Sức khỏe tâm thần và tâm lý xã hội của
trẻ em và thanh niên tại một số tỉnh và thành phố ở Việt Nam. Unicef VN. 2017.
11. Nguyen TTT, Nguyen NTM, Pham MV, Pham HV. The four-domain structure
model of a depression scale for medical students: A cross-sectional study in
Haiphong, Vietnam. PLoS Med. 2018;10.
12. Gilbody S, Sheldon T, House A. Screening and case-finding instruments for
depression: a meta-analysis. CMAJ. 2008;178(8):997-1003.
13. Siu AL, Force USPST, Bibbins-Domingo K, Grossman DC, Baumann LC,
Davidson KW, et al. Screening for Depression in Adults: US Preventive Services
Task Force Recommendation Statement. JAMA. 2016;315(4):380-7.
14. Kroenke K, Spitzer RL, Williams JB. The PHQ-9: validity of a brief depression
severity measure. J Gen Intern Med. 2001;16(9):606-13.
15. O'Connor E, Rossom RC, Henninger M, Groom HC, Burda BU, Henderson JT,
et al. Screening for Depression in Adults: An Updated Systematic Evidence Review
for the US Preventive Services Task Force. U.S. Preventive Services Task Force
Evidence Syntheses, formerly Systematic Evidence Reviews. Rockville (MD)2016.
16. Dyrbye LN, Thomas MR, Shanafelt TD. Systematic review of depression,
anxiety, and other indicators of psychological distress among U.S. and Canadian
medical students. Acad Med. 2006;81(4):354-73.

29

You might also like