You are on page 1of 20

BÀI TIỂU LUẬN

MÔN LUẬT HIẾN PHÁP

TÊN ĐỀ TÀI:
BẰNG LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ,ANH ( CHỊ) PHÂN TÍCH
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ ,VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐCSVN ĐỐI
VỚI NHÀ NƯỚC VÀ XÃ HỘI ĐÃ KHẲNG ĐỊNH TRONG
ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP VIỆT NAM NĂM 2013. “GIẢI PHÁP
HOÀN THIỆN VAI TRÒ CỦA ĐẢNG CSVN TRONG GIAI
ĐOẠN CÁCH MẠNG HIỆN NAY.

A: PHẦN MỞ ĐẦU

1. lý do chọn đề tài
Lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XX đã trải qua nhiều bước thăng trầm,
nhưng đã có những bước phát triển mang tính cách mạng, đột biến. Đó là sự
kiện dân tộc ta đứng lên làm cách mạng giải phóng dân tộc, lật đổ chế độ
thực dân-phong kiến, giành độc lập dân tộc; kháng chiến bảo vệ Tổ quốc,
chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước và nay đang xây
dựng đất nước theo mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh” và hội nhập với cộng đồng quốc tế. Các sự kiện này đều gắn liền
với vai trò lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam.
Về mặt lịch sử, vai trò lãnh đạo của Đảng ta đã có ngay từ thời kỳ vận động
cách mạng, từ những năm 30 của thế kỷ XX. Khác với nhiều quốc gia, dân
tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trước khi Nhà nước ta được thành lập.
Nói chính xác hơn, Đảng ta là người thành lập và lãnh đạo các tổ chức chính
trị và Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1945), nay là nước CHXHCN
Việt Nam. Dựa trên quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,
ngay từ khi mới ra đời (1930), Đảng ta đã chủ trương đoàn kết
mọi lực lượng dân tộc và dân chủ trong Mặt trận Dân tộc thống nhất. Vào
thời điểm cao trào cách mạng Xô Viết Nghệ Tĩnh, ngày 18-11-1930, Đảng
Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) quyết định thành
lập Hội phản đế đồng minh-tiền thân của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Dưới
ảnh hưởng của Đông Dương cộng sản Đảng (tổ chức tiền thân của Đảng
CSVN), ngày 28-7-1929, Tổng Công hội đỏ đầu tiên ở miền Bắc Việt Nam
ra đời. Đây là tổ chức tiền thân của Công đoàn Việt Nam ngày nay. Ngày 20-
10-1930, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam được thành lập; ngày 26-3-1931,
Đoàn thanh niên cộng sản Việt Nam (nay là Đoàn thanh niên cộng sản Hồ
Chí Minh) được thành lập...
Về nhà nước, “Đại hội Quốc dân” (họp ở Tân Trào ngày 16-8-1945) là tiền
thân của Quốc hội và “Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương”, tiền thân
của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam) cũng do Đảng ta thành lập.Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của
nhân dân ta cho đến nay là thành quả của cuộc đấu tranh giành độc lập dân
tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN do Đảng Cộng
sản Việt Nam (CSVN) đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Trong
cuộc cách mạng đó, hàng triệu chiến sĩ cộng sản đã hy sinh, để lại một
phần xương máu trên chiến trường, hoặc mang trong mình những căn bệnh
quái ác do ảnh hưởng của chất độc da cam/đi-ô-xin… Với những đóng góp
to lớn đó của Đảng CSVN đối với dân tộc, tuyệt đại đa số nhân dân Việt
Nam đã coi Đảng CSVN là Đảng của mình và đi theo con đường mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng CSVN đã xác định.

Xuất phát từ các vấn đề về bản chất, nền tảng tư tưởng mang tính lý
luận và thực tiễn sâu sắc đó, nên nhân dân Việt Nam đã thừa nhận vị trí, vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cho thấy tính tiên phong, tính
nhân dân của Đảng Cộng sản Việt Nam, và điều đó đã được ghi nhận vào
Hiến pháp của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Trong Hiến pháp năm 2013, bên cạnh việc kế thừa Hiến pháp năm
1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001, quy định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội
tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, thì tại Khoản 1, Điều 4, Hiến
pháp năm 2013 đã quy định Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là Đội tiên
phong của giai cấp công nhân Việt Nam, mà đồng thời còn là đội tiên phong
của Nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, là đại biểu trung thành
không chỉ lợi ích của giai cấp công nhân Việt Nam, mà còn là đại biểu trung
thành lợi ích của Nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.

2. Phạm vi nghiên cứu:


Nghiên cứu về vị trí, địa vị pháp lý, vai trò lãnh đạo của ĐCSVN đối
với nhà nước và xã hội đã khẳng định trong Điều 4 Hiếp pháp Việt Nam năm
2013, giải pháp hoàn thiện vai trò lãnh đạo của đảng trong giai đoạn hiện
nay.
3. Kết cấu đề tài gồm:
Phần I: Lời mở đầu:
Phần II: Nội dung
Phần III: Kết luận
Phần IV: Tài liệu tham khảo

B. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận chung về Đảng cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền, không có
các đảng chính trị đối lập nên không có sự cạnh tranh về vai trò
lãnh đạo của Đảng;
- Đảng hoạt động một cách công khai, hợp pháp, hợp hiến pháp;
vai trò lãnh đạo của Đảng đối với đất nước đã được nhân dân thừa
nhận trong thực tế và được quy định tại Điều 4 của Hiến pháp
nước CHXHCN Việt Nam;
- Đảng có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân, một công cụ đắc lực, mạnh mẽ và sắc bén để Đảng thực
hiện sự lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội và có Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội hoạt động dưới sự lãnh đạo
của Đảng.
- Qua 80 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
được nhân dân và cả dân tộc Việt Nam thừa nhận là người tổ chức,
lãnh đạo và quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Đảng được nhân dân tin yêu, che chở, bảo vệ và gọi Đảng với cái
tên trìu mến là “Đảng ta”. Người dân coi Đảng chính là Đảng của
mình. - Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng mở rộng quan hệ với
các Đảng Cộng sản và Công nhân quốc tế; ngoài ra, Đảng còn có
quan hệ với nhiều đảng cầm quyền khác trên thế giới; có sự đồng
tình, ủng hộ, giúp đỡ to lớn của bạn bè và nhân dân yêu chuộng
hoà bình, tiến bộ trên thế giới.
2. Nội dung đề tài

Vị trí, địa vị pháp lý, vai trò lãnh đạo của ĐCSVN đối với nhà nước và xã
hội đã khẳng định trong Điều 4 Hiếp pháp Việt Nam năm 2013, giải pháp
hoàn thiện vai trò lãnh đạo của đảng trong giai đoạn hiện nay.
2.1 Vị trí và vai trò của đảng cộng sản việt nam đối với nhà
nước

Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận cấu thành và là hạt nhân chính trị
lãnh đạo của hệ thống chính trị, là đảng duy nhất lãnh đạo nhà nước và xã
hội. Trong lịch sử lập hiến của Việt Nam, vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với nhà nước và hệ thống chính trị luôn được thể hiện trong các bản
Hiến pháp.

Điều 4, Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
quy định “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt
Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Khẳng định
mang tính lịch sử, tính tất yếu khách quan trên thể hiện ở những căn cứ
chính trị, pháp lí sau:

Thứ nhất là, bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Vì là
Đảng của giai cấp công nhân, nên Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất
giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng thể hiện ở chỗ:
mục tiêu, lý tưởng của Đảng là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; nền
tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh;
nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng là tập trung dân chủ. Đảng liên hệ mật
thiết với quần chúng; lấy tự phê bình và phê bình làm quy luật phát triển.
Đảng ta không chỉ là Đảng của giai cấp công nhân mà còn là Đảng của nhân
dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Lợi ích của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và của dân tộc là thống nhất với nhau. Đảng không có lợi ích
nào khác ngoài việc phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân,phục vụ cho đất
nước
Thứ hai là, vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà
nước và xã hội.
Xét về lý luận, quy định về đảng chính trị trong Hiến pháp mang tính phổ
biến. Đó là quyền tự quyết của mỗi dân tộc. Ngày nay, đảng chính trị đã trở
thành hiện tượng phổ biến trên thế giới, có vị trí đặc biệt quan trọng trong
đời sống xã hội và là nhân tố không thể thiếu trong quá trình chính trị và đời
sống chính trị của hầu hết các nước. Hiến pháp của nhiều nước xây dựng chế
định về đảng chính trị, đề cập đến nguyên tắc, cách thức thành lập; cách thức
tổ chức của đảng; nguyên tắc hoạt động của các đảng chính trị. Việc thiết lập
chế độ đa đảng hay một đảng là do điều kiện cụ thể mỗi nước, mỗi giai đoạn
lịch sử quy định. Vấn đề là ở chỗ bản chất của đảng cầm quyền đó như thế
nào, nó phục vụ cho giai cấp, tầng lớp xã hội nào, cho nhân dân hay chỉ cho
một thiểu số giai cấp bóc lột.
Xét về thực tiễn, hơn 84 năm qua đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất đã lãnh đạo cách
mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, từ Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 thành công, Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời; đến
30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược giành
thắng lợi vẻ vang, hoàn thành sự nghiệp thống nhất Tổ quốc, cùng với những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 28 năm đổi mới vừa là minh chứng
thực tiễn sinh động, vừa là cơ sở khoa học thực tiễn để khẳng định về vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội là chính đáng, hợp lòng dân,
hợp pháp.
Thứ ba là, Hiến pháp năm 2013 bổ sung nội dung mới, yêu cầu về trách
nhiệm của tổ chức Đảng và đảng viên. Khoản 2 Điều 4 quy định cụ thể trách
nhiệm của Đảng đối với nhân dân, đó là “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó
mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân,
chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”. Điều này
vừa thể hiện bản chất của Đảng Cộng sản chân chính, vừa là điều kiện cho
sự lãnh đạo của Đảng, vừa thể hiện trách nhiệm của Đảng trước nhân dân
cũng như trách nhiệm của nhân dân đối với Đảng và xây dựng Đảng. Một
Đảng mà không gắn bó mật thiết với nhân dân, không chịu sự giám sát của
nhân dân, không chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của
mình thì không phải là một Đảng cách mạng chân chính, không phải “là đạo
đức, là văn minh” và càng không thể lãnh đạo được nhân dân.
Đồng thời, Khoản 3, Điều 4 Hiến pháp cũng quy định “Các tổ chức của
Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật”. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, pháp luật là tối
thượng nên không chỉ tổ chức của Đảng mà mọi đảng viên đều phải có trách
nhiệm nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật.

2 .2 Vị trí ,vai trò của đảng với nhà nước trong hệ thống chính trị

Khi trở thành đảng cầm quyền, Đảng là đội tiên phong của cả hệ thống
chính trị và toàn xã hội, là lực lượng lãnh đạo toàn bộ quá trình xây dựng và
bảo vệ đất nước. Vì vậy, vị trí của Đảng Cộng sản cầm quyền ngày càng
quan trọng, vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng cao. Vì khi chưa cầm
quyền, Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Nhưng khi trở thành Đảng Cộng sản cầm quyền, chuyển sang giai đoạn cách
mạng mới, đó là giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng không chỉ là đội
tiên phong chính trị của giai cấp công nhân mà Đảng còn là đội tiên phong
chính trị của toàn xã hội, là lực lượng lãnh đạo toàn bộ quá trình xây dựng
và bảo vệ đất nước, bảo vệ vững chắc chủ nghĩa xã hội. Đây chính là sự thay
đổi căn bản về vị trí, vai trò của Đảng Cộng sản cầm quyền đối với xã hội
trong giao đoạn đã giành được chính quyền. Khi giành được chính quyền,
Đảng Cộng sản thiết lập hệ thống chính trị xã hội để thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ
quốc.

Hệ thống chính trị xã hội xã hội chủ nghĩa bao gồm toàn bộ các tổ chức
chính trị, được thành lập để thực hiện các hoạt động chính trị là chủ yếu,
ngoài ra còn thực hiện các chức năng xã hội khác nhưng đó không phải chức
năng chủ yếu. Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay bao gồm: Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các đoàn
thể nhân dân, trong đó gồm: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và 5 đoàn thể chính
trị-xã hội như: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Mình, Hội Liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam,
Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Hệ thống chính trị ở nước ta có những đặc
điểm như:

Một là, Tính nhất nguyên chính trị, tức là trong hệ thống chính trị không
có chính đảng đối lập, chế độ chính trị ở Việt Nam là thể chế chính trị một
đảng duy nhất cầm quyền; Nhất nguyên về tổ chức, nghĩa là tất cả các thành
phần trong hệ thống chính trị đều là “cánh tay nối dài” của Đảng và nhất
nguyên về tư tưởng, toàn bộ hệ thống chính trị đều được tổ chức và hoạt
động trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Hai là, Tính thống nhất, được xác định bởi các yếu tố như: sự lãnh đạo
thống nhất của một đảng duy nhất cầm quyền, đó là Đảng Cộng sả Việt
Nam; sự thống nhất về mục tiêu chính trị của toàn bộ hệ thống là xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với nội dung: dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh; thống nhất lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm
nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động. Hệ thống tổ chức ở từng cấp
thống nhất từ Trung ương đến địa phương, với các bộ phận hợp thành;

Ba là, Gắn bó mật thiết với nhân dân và chịu sự kiểm tra, giám sát của
nhân dân. Sự gắn bó này được thể hiện trên các yếu tố như: xem đây là quy
luật tồn tại của Đảng, là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của đảng cầm
quyền. Nhà nước là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân;
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội là hình thức tập hợp, tổ
chức của các tầng lớp nhân dân. Hệ thống chính trị là trường học dân chủ
của nhân dân. Mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị là phương thức thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân;

Bốn là, Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc của hệ thống chính
trị. Sự kết hợp này được khẳng định trong bản chất của từng tổ chức thuộc
hệ thống chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp
công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc
Việt Nam. Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân, Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã
gắn kết vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, tạo nên sức mạnh tổng hợp của
toàn bộ hệ thống chính trị xã hội. Sự phân biệt giữa dân tộc và giai cấp mang
tính tương đối và không có ranh giới rõ ràng.

Đảng giữ vai trò hạt nhân trong hệ thống chính trị là tất yếu khách quan.
Khi chưa cầm quyền, Đảng chỉ chịu trách nhiệm trước giai cấp nhưng khi
cầm quyền, Đảng còn phải chịu trách nhiệm trước dân tộc, trước sự phồn
vinh, hưng thịnh của đất nước… Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, Đảng, Nhà
nước và các đoàn thể nhân dân hợp thành hệ thống chính trị của xã hội.
Trong hệ thống này, Đảng là một bộ phận nhưng với vị trí, vai trò của mình
trong xã hội, Đảng còn là lực lượng lãnh đạo, là bộ phận hạt nhân, chịu trách
nhiệm trước giai cấp công nhân, nhân dân lao động và trước dân tộc để thực
hiện sứ mệnh lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị. Vị trí, vai trò trách nhiệm
đó của Đảng Cộng sản cầm quyền xuất phát từ sứ mệnh lịch sử giai cấp công
nhân, từ chính sự thống nhất cơ bản về lợi ích giữa giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và dân tộc. Khi chính quyền đã là của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội thì vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với hệ thống chính trị, với toàn xã hội là một tất yếu khách quan,
điều này không phải do ý muốn chủ quan, càng không phải do sự áp đặt của
những người cộng sản. Mỗi xã hội đều gắn liền với một bản chất giai cấp
nhất định, do bản chất của giai cấp thống trị xã hội đó quyết định. Chẳng hạn
như: xã hội tư bản chủ nghĩa không tách rời với bản chất giai cấp của giai
cấp vô sản, còn xã hội xã hội chủ nghĩa gắn liền với bản chất của giai cấp
công nhân. Với bản chất giai cấp, cách mạng xã hội chủ nghĩa tất yếu đòi hỏi
chỉ duy nhất có Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Nói chung: trong hệ thống chính trị, Đảng là hạt nhân lãnh đạo, là một bộ
phận của hệ thống ấy; còn trong xã hội, Đảng là đội tiên phong trên các lĩnh
vực đời sống xã hội, là đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc. Khi chính quyền đã là của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội thì vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, với toàn xã hội là một tất yếu
khách quan. Trong giai đoạn cầm quyền, Đảng phải luôn đề phòng bệnh mất
dân chủ, chuyên quyền, độc đoán; thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên, định
hướng cho sự hoạt động của chính quyền bằng các chủ trương, chính sách
phù hợp và Đảng phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ
đúng đắn giữa Đảng và Nhà nước.
2.3 vị trí ,vai trò của đảng đối với nhà nước trong các lĩnh vực

Trên lĩnh vực đối ngoại, đường lối nhất quán của Đảng ta là: Độc
lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển. Nguyên tắc trong quan
hệ quốc tế của Đảng ta là: Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả
các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương
Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
Trên lĩnh vực xây dựng Đảng, không phủ nhận rằng, trong một
thời gian khá dài, nhất là từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị
trường, Đảng ta chưa quan tâm đúng mức đến chống suy thoái về
tư tưởng, chính trị, đạo đức và lối sống của cán bộ trong hệ
thống chính trị nói chung, trong nội bộ Đảng nói riêng. Điều này
đã được Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) chỉ rõ và đã đề các biện
pháp khắc phục. Trong điều kiện Đảng ta là đảng lãnh đạo, cầm
quyền, cuộc đấu tranh này chắc chắn sẽ gặp không ít khó khăn.
Điều quan trọng là chủ trương này đã được tuyệt đại bộ phận cán
bộ, đảng viên và nhân dân ủng hộ; được Quốc hội ta đặc biệt quan
tâm, thể chế hóa trong Hiến pháp 2013 và chỉnh sửa các đạo luật
trong thời gian tới.
Trên lĩnh vực pháp lý, vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
CSVN đã được nhân dân ta khẳng định thông qua văn kiện quan
trọng nhất của Nhà nước, đó là Hiến pháp.
Hiến pháp 2013 đã quy định rõ vai trò và phạm vi hoạt động của
Đảng CSVN. Điều 4 quy định: “Đảng CSVN… là lực lượng lãnh
đạo Nhà nước và xã hội… Các tổ chức của
Đảng và đảng viên Đảng CSVN hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật” (Điều 4, Hiến pháp 2013).
3.Thực trạng và nguyên nhân
3.1. Thành tựu
- Đảng đã động viên và phát huy sức mạnh to lớn của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân, lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giành được những thắng lợi vĩ đại.
Những thành tựu đạt được trong hơn 25 năm đổi mới là to lớn và có ý nghĩa
lịch sử. Đất nước bước đầu thực hiện thành công công cuộc đổi mới, ra khỏi
tình trạng kém phát triển, bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân có
nhiều thay đổi, sức mạnh về mọi mặt được tăng cường, độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị
thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao, tạo
tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn mới.
Thành tựu to lớn đó là công sức của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong
đó vai trò lãnh đạo của Đảng có ý nghĩa quyết định, có sự đóng góp của đội
ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng.
- Trong quá trình lãnh đạo cách mạng từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến
nay, công tác xây dựng Đảng đã đạt được những thành tựu quan trọng:
+ Đã ban hành được nhiều chủ trương, nghị quyết về công tác xây dựng
Đảng, như: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VI về một số vấn đề
cấp bách về xây dựng Đảng bảo đảm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của
Đảng; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VII về một số nhiệm vụ đổi
mới và chỉnh đốn Đảng; Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa
VII; Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII nêu và nhấn mạnh bốn nguy cơ:
nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa,
nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu, nguy cơ "diễn biến hòa bình"
của các thế lực thù địch; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII
về chiến lược cán bộ thời kỳđẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII về một số vấn đề
cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay; Nghị quyết Đại
hội X của Đảng đã đề ra chín giải pháp về xây dựng Đảng; Bộ Chính trị
khóa X đã chỉ đạo thực hiện Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh"...; Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã khẳng định:
trong nhiệm kỳ Đại hội XI, cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tạo sự chuyển
biến mạnh mẽ trong thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm: nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, tập
trung giải quyết một số vấn đề xã hội bức xúc (suy thoái đạo đức, lối sống,
tệ nạn xã hội, trật tự, kỷ cương xã hội); đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả cuộc
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí để thực sự ngăn chặn, đẩy lùi
được tệ nạn này;...
+ Thực hiện các chủ trương, nghị quyết nói trên, việc đổi mới, chỉnh đốn
Đảng đã đạt được nhiều tiến bộ, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu được
nâng lên; phương thức lãnh đạo của Đảng được đổi mới và ngày càng hoàn
thiện, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp trưởng thành về mọi mặt. Đa
số cán bộ, đảng viên có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo
đức, lối sống, có ý thức phục vụ nhân dân, được nhân dân tin tưởng... Nhờ
đó, niềm tin của nhân dân với Đảng được củng cố, vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với toàn xã hội được giữ vững.
- Về chính trị:
+ Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng không ngừng được nâng
cao.
+ Phương thức lãnh đạo của Đảng từng bước được đổi mới.
+ Vai trò lãnh đạo của Đảng được giữ vững.
- Về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống:
+ Đa số cán bộ, đảng viên có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị,
đạo đức, lối sống, có ý thức phục vụ nhân dân, được nhân dân tin tưởng.
+ Niềm tin của nhân dân với Đảng được củng cố.
- Về tổ chức, cán bộ:
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã có bước trưởng thành và tiến bộ
về nhiều mặt. Thành tựu hơn 25 năm đổi mới là thành quả của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân, trong đó có sự đóng góp to lớn của đội ngũ cán bộ,
đảng viên...
3.2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu và kết quả đạt được, chúng ta cũng còn nhiều hạn
chế, yếu kém:
- Trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội:
+ Kinh tế phát triển chưa bền vững; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh
thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, cơ hội và yêu cầu phát triển đất nước;
một số chỉ tiêu về kinh tế không đạt kế hoạch.
+ Các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá, an
ninh, môi trường còn nhiều hạn chế yếu kém gây bức xúc xã hội...
- Trong công tác xây dựng Đảng:
+ Công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, yếu kém chậm đựơc khắc
phục.
+ Còn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
+ Tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã
hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng
với sự phân hoá giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý điều hành của
nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà
nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước.
Những vấn đề nêu trên chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, không chỉ cản trở sự
phát triển đất nước, mà còn đe dọa đến vai trò lãnh đạo của Đảng, sự tồn
vong của chế độ. Cán bộ, đảng viên tâm huyết và nhân dân lo lắng, trở thành
tâm trạng xã hội, nóng lòng mong mỏi Đảng có biện pháp giải quyết.
3.3 Nguyên nhân
Tình hình hạn chế, yếu kém trên đây có cả nguyên nhân khách quan và
nguyên nhân chủ quan, nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu:
3.3.1. Nguyên nhân khách quan
Do ảnh hưởng tiêu cực của quá trình đổi mới, chuyển từ kinh tế tập trung
quan liêu, bao cấp sang kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước:
+ Việc thực hiện đổi mới kinh tế phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, chưa
lường hết được những tác động của mặt trái cơ chế thị trường, hội nhập quốc
tế, chưa có sự chuẩn bị thật kỹ về lập trường, tư tưởng và cả cách thức tiếp
cận mới cho cán bộ, đảng viên.
+ Đặc biệt, còn thiếu những cơ chế, chính sách đồng bộ, khoa học để chủ
động ngăn ngừa những vi phạm.
+ Đất nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
hội nhập quốc tế, xây dựng, phát triển với quy mô ngày càng lớn, một bộ
phận cán bộ lãnh đạo, quản lý nắm giữ khối lượng tài sản, nguồn vốn lớn
của tập thể, của Nhà nước, đó là môi trường để chủ nghĩa cá nhân vụ lợi,
thực dụng phát triển.
- Do sự chống phá của các thế lực thù địch:Các thế lực thù địch không từ bỏ
âm mưu và hoạt động "diễn biến hòa bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự
chuyển hóa", tăng cường hoạt động chống phá, chia rẽ nội bộ Đảng và phá
hoại mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân, làm suy yếu vai trò lãnh
đạo của Đảng.
3.3.2. Nguyên nhân chủ quan
Nguyên nhân chủ quan thể hiện trong ý thức tu dưỡng, rèn luyện của cá
nhân cán bộ, đảng viên, đồng thời cũng thể hiện trong hoạt động của tập
thể: tập thể, đặc biệt là các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm, trong đó có các
cơ quan lãnh đạo, quản lý. Cụ thể:
Nhiều cấp ủy đảng, chính quyền các cấp chưa thực hiện tốt vai trò
lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng,
lãng phí; chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị,
của nhân dân trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị – xã hội còn chậm, nhất là việc cụ thể hóa phươngthức lãnh đạo của
Đảng đã được xác định trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011;
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước có những nội dung còn
lúng túng. Chưa xác định rõ nội dung và phương thức cầm quyền. Chưa thật
sự phát huy vai trò của các tổ chức đảng, đảng viên, cấp uỷ viên hoạt động
trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã
hội; một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa gương mẫu trước nhân dân. Còn có
biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thật sự sâu sát thực tế, cơ sở. Tình
trạng nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít chậm được khắc phục.

Việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các
nghị quyết, chỉ thị, quy định về xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở một số nơi chưa
đến nơi đến chốn, kỷ cương, kỷ luật không nghiêm, nói không đi đôi với
làm, hoặc làm chiếu lệ.
- Các nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi
vừa bị buông lỏng trong thực hiện, vừa chưa được quy định cụ thể để làm cơ
sở cho công tác kiểm tra, giám sát.
- Việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế, chính sách, pháp luật thích ứng
với quá trình vận hành của nền kính tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa chưa kịp thời, nhiều văn bản quy định thiếu chế tài cụ thể.
- Đánh giá, sử dụng, bố trí cán bộ còn nể nang, cục bộ, chưa chú trọng phát
hiện và có cơ chế thật sự để trọng dụng người có đức, có tài; không kiên
quyết thay thế người vi phạm, uy tín giảm sút, năng lực yếu kém.
- Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống nhiều
khi còn hình thức, chưa đủ sức động viên và thường xuyên nâng cao ý chí
cách mạng của cán bộ, đảng viên; một số nơi có tình trạng những việc làm
đúng, gương người tốt không được đề cao, bảo vệ; những sai sót, vi phạm
không được phê phán, xử lý nghiêm minh.
- Công tác kiểm tra, giám sát, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi, nhiều
cấp chưa thường xuyên, ráo riết; đấu tranh với những vi phạm còn nể nang,
không nghiêm túc. Vai trò giám sát của nhân dân thông qua Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội chưa được phát huy, hiệu quả chưa
cao.
Vẫn còn Đảng viên thụ động, chưa phát huy tốt tính tiền phong,
gương mẫu trong thực hiện nhiệm vụ, còn trông chờ sự phân công của Chi
bộ. Trong công tác tự phê bình và phê bình còn ngại đụng chạm, chưa dám
nói thật, nói thẳng để xây dựng đồng chí.Chưa thực hiện nghiêm túc nguyên
tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt chi bộ.

4.Giải pháp, kiến nghị

Để giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước
trong điều kiện thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế hiện nay, Nghị quyết Đại hội XI đã xác định một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của cả nhiệm kỳ là “Nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của Đảng”, đồng thời đề ra các nhiệm vụ và giải pháp lớn về
công tác xây dựng Đảng sau:
1. Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị Xây dựng Đảng vững mạnh
về chính trị tức là bảo đảm cho chủ trương, đường lối của Đảng đi
đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện được bản chất cách mạng
và khoa học của giai cấp công nhân; phù hợp với quy luật khách quan
và phản ánh được ý chí, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân.
Cụ thể là: - Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
vận dụng một cách sáng tạo và phù hợp với thực tiễn Việt Nam, luôn
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. 19 - Không
ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của toàn Đảng và
của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở các
cấp; không hoang mang, dao động, hoài nghi và giảm sút lòng tin vào
con đường mà Đảng, Bác Hồ đã lựa chọn trong bất cứ tình huống nào,
kể cả những lúc khó khăn, phức tạp nhất của tình hình thế giới. - Kiên
định đường lối đổi mới, kiên quyết đấu tranh chống các khuynh
hướng giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vô
nguyên tắc. Phải đổi mới toàn diện nhưng trên cơ sở đổi mới kinh tế
mà từng bước đổi mới chính trị, có lộ trình và bước đi thích hợp. -
Trong quá trình xây dựng, hoạch định đường lối, Đảng phải quán triệt
và thực hiện đồng bộ, chặt chẽ các nhiệm vụ lớn cách mạng trong thời
kỳ đổi mới là: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng
Đảng là nhiệm vụ then chốt, phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần
của xã hội. Đặc biệt, phải chú trọng xử lý và giải quyết tốt các mối
quan hệ lớn là: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi
mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị; giữa kinh tế thị trường và
định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất với
xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất; giữa tăng trưởng kinh tế và
phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây
dựng chủ nghĩa xã hội với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc
lập tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, nhân dân làm chủ.
2. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận - Tăng
cường công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để làm sáng tỏ
những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình thực hiện công cuộc đổi
mới, không ngừng phát triển lý luận, đề ra đường lối, chủ trương đáp
ứng yêu cầu phát triển đất nước; khắc phục một số mặt yếu kém của
công tác nghiên cứu lý luận. Tạo môi trường dân chủ trong thảo luận
khoa học, khuyến khích sáng tạo của cá nhân. - Tiếp tục đổi mới nội
dung, phương thức, nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu
quả của công tác tư tưởng. Thực hiện tốt việc tuyên truyền, học tập
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuyên truyền, cổ vũ
động viên các nhân tố mới, những điển hình tiên tiến và gương người
tốt, việc tốt trên mọi lĩnh vực. - Đổi mới và nâng cao chất lượng giảng
dạy lý luận chính trị trong hệ thống các trường chính trị và các trường
thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Mỗi 20 cán bộ, đảng viên đều phải
học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị và có trách nhiệm trực tiếp
làm công tác tưởng; phải thường xuyên tiếp xúc, nắm tình hình tư
tưởng của nhân dân và đối thoại trực tiếp với nhân dân. - Kiên quyết
đấu tranh làm thất bại âm mưu “Diễn biến hoà bình” của các thế lực
thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện
“tự diễn biến” trong nội bộ Đảng; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Giữ
gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội.
3. Rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân
- Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện việc học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh và coi đó là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên
hằng ngày. Mỗi cán bộ, đảng viên không ngừng tu dưỡng, rèn luyện
đạo đức cách mạng, cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư, thực sự là
một tấm gương về phẩm chất đạo đức, lối sống. Cán bộ cấp trên phải
gương mẫu trước cán bộ cấp dưới, đảng viên và nhân dân. Kiên quyết
đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, các biểu hiện
cơ hội, vụ lợi, tiêu cực. - Đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, quan liêu, lãng phí; thực hành tiết kiệm. Mọi cán bộ lãnh
đạo của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
từ trung ương đến cơ sở phải gương mẫu thực hiện và tham gia cuộc
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. - Thực hiện chế độ dân
chủ, công khai, minh bạch về kinh tế, tài chính. Thực hiện có hiệu quả
việc kê khai và công khai tài sản của cán bộ, công chức theo quy định.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và tạo cơ chế để nhân dân
giám sát; định kỳ lấy ý kiến của nhân dân về đạo đức, lối sống của cán
bộ, đảng viên. Xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên tham nhũng,
tiêu cực, vi phạm điều lệ đảng và suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối
sống. - Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về phẩm
chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước.
Có cơ chế loại bỏ, bãi miễn những cán bộ, công chức không hoàn
thành nhiệm vụ
4. Tiếp tục kiện toàn, đổi mới tổ chức của Đảng và hệ thống chính trị -
Tiếp tục nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để hoàn thiện mô hình tổ
chức và xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống
chính trị, bảo đảm bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước và phát huy vai trò
trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Khắc phục
tình trạng cồng kềnh, kém hiệu lực, hiệu quả của bộ máy và sự chồng
chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ 21 quan, tổ chức. Kiện toàn,
nâng cao chất lượng các cơ quan tham mưu và đội ngũ cán bộ làm công
tác tham mưu về tổ chức cán bộ, nhất là ở cấp chiến lược. - Tổng kết,
đánh giá đúng thực trạng, đề ra các biện pháp củng cố và đổi mới mô
hình tổ chức, phương thức hoạt động của các tổ chức đảng, nhất là của
đảng đoàn, ban cán sự đảng. Tập trung chỉ đạo, củng cố các tổ chức đảng
yếu kém; kịp thời kiện toàn cấp uỷ và tăng cường cán bộ có chất lượng
về những nơi có nhiều khó khăn, nội bộ mất đoàn kết. - Tiếp tục đổi mới
và nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp uỷ và các tổ chức đảng, nhất là
nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; nâng cao chất lượng tự phê bình và
phê bình trong sinh hoạt đảng trên tinh thần thương yêu đồng chí. Thật sự
phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, từ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp
uỷ ở cơ sở đến sinh hoạt của Ban Bí thư, Bộ Chính trị và Ban chấp hành
Trung ương.
5. Kiện toàn tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên Tổ
chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, hạt nhân chính trị ở cơ sở, có vị trí
đặc biệt quan trọng trong hệ thống tổ chức của Đảng. Đây là nơi đầu tiên
và cuối cùng chịu sự tác động trực tiếp, sâu sắc của những thay đổi về
chính trị, kinh tế, xã hội và tổ chức; là nơi rèn luyện, giáo dục, quản lý,
phát triển và sàng lọc đội ngũ đảng viên; nơi thể hiện đầy đủ, toàn diện,
trực tiếp, thường xuyên nhất về quyền làm chủ của nhân dân và mối quan
hệ mật thiết, gắn bó giữa Đảng với nhân dân. Sự vững mạnh của các tổ
chức cơ sở đảng có ý nghĩa quyết định đối với sự vững mạnh của toàn
Đảng. Vì vậy, toàn Đảng phải dồn sức lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng tổ chức
cơ sở đảng gắn với xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh. Cụ
thể là: - Tập trung xây dựng, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, rõ rệt về
chất lượng hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng. Chăm lo xây
dựng đội ngũ cấp uỷ viên ở cơ sở, trước hết là bí thư cấp uỷ có phẩm
chất, năng lực và đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật, thật sự
tiền phong gương mẫu, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. - Tiếp tục
xây dựng, hoàn thiện mô hình tổ chức của Đảng ở một số loại hình tổ
chức cơ sở đảng, vừa tạo ra mô hình tổ chức thống nhất trong toàn Đảng,
vừa có những mô hình tổ chức phù hợp với những nơi có tính đặc thù. -
Tiếp tục rà soát, bổ sung và hoàn thiện quy định về chức năng, nhiệm vụ
và phương thức hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng, tiến tới
thể chế hoá về mặt nhà nước vai trò, vị trí của tổ chức cơ sở đảng trong
các loại hình cơ 22 sở. Đặc biệt coi trọng thắt chặt mối quan hệ của tổ
chức cơ sở đảng với quần chúng nhân dân. - Cùng với việc đổi mới và
nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng, phải nâng cao
chất lượng đội ngũ đảng viên và chất lượng công tác kết nạp đảng viên
mới. Chú trọng kết nạp vào Đảng những Đoàn viên thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh ưu tú và những quần chúng tiên tiến trong công nhân, nông
dân, trí thức và người lao động trong các thành phần kinh tế. Thực hiện
thí điểm từng bước việc kết nạp những người đang làm chủ doanh nghiệp
tư nhân có đủ điều kiện, tiêu chuẩn và có nguyện vọng xin vào Đảng. -
Đẩy mạnh việc xây dựng, củng cố và phát triển tổ chức đảng (tổ đảng,
chi bộ, đảng bộ) ở những thôn, làng, ấp, bản, doanh nghiệp, trường học,
bệnh viện chưa có tổ chức đảng, có ít hoặc chưa có đảng viên, bảo đảm
sự lãnh đạo của Đảng ở mọi nơi và trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của
đời sống xã hội. Tiếp tục nghiên cứu, làm rõ mô hình tổ chức và phương
thức hoạt động của một số loại hình tổ chức cơ sở đảng, nhất là trong
doanh nghiệp - những nơi đang chịu sự tác động mạnh của quá trình cổ
phần hoá, sắp xếp, cấu trúc lại sản xuất.
6. Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ và bảo vệ chính trị nội bộ a). Tiếp tục
đổi mới công tác cán bộ: Công tác cán bộ có vị trí đặc biệt quan trọng của
công tác xây dựng Đảng. Nếu nói xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt
của sự nghiệp đổi mới thì việc xây dựng và đổi mới đội ngũ cán bộ lại là
khâu then chốt của nhiệm vụ then chốt ấy. Vì vậy, cần quán triệt và thực
hiện tốt một số nội dung sau: - Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện,
đồng bộ tất cả các khâu của công tác cán bộ, gồm: Xác định tiêu chuẩn
cán bộ; đánh giá cán bộ; quy hoạch cán bộ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; sử
dụng, luân chuyển cán bộ; quản lý cán bộ và thực hiện chính sách đối với
cán bộ. Phải đổi mới tư duy, cách làm và khắc phục những khuyết điểm,
yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ. - Xây dựng và thực hiện
cơ chế, chính sách về phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ;
trọng dụng người có đức có tài. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ; kiên quyết đấu tranh khắc phục tình trạng chạy theo bằng cấp,
học hàm, học vị. - Làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ, chú
ý cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số và đội ngũ
chuyên gia đầu ngành trên các lĩnh vực; xây dựng quy hoạch đội ngũ cán
bộ cấp chiến lược. 23 - Thực hiện nghiêm quy chế thôi chức, miễn
nhiệm, từ chức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý; kịp thời thay thế những
cán bộ yếu kém về phẩm chất, năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ và
uy tín giảm sút. Xử lý nghiêm minh những trường hợp chạy chức, chạy
quyền, chạy chỗ, chạy bằng cấp. - Thực hiện luân chuyển cán bộ lãnh đạo
và quản lý theo quy hoạch ở các cấp, các ngành; khắc phục tư tưởng cục
bộ, khép kín. Chú trọng đổi mới và trẻ hoá đội ngũ cán bộ lãnh đạo và
quản lý, bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát triển. - Thực hiện thí điểm
một số chủ trương về công tác cán bộ như: Nhất thể hoá một số chức
danh cán bộ của Đảng và Nhà nước ở các cấp; tổ chức thi tuyển một số
chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý; c) Coi trọng công tác bảo vệ chính
trị nội bộ Đảng - Nghiên cứu, ban hành và thực hiện tốt chính sách sử
dụng và quản lý cán bộ, đảng viên có vấn đề lịch sử chính trị. Chú trọng
nắm và giải quyết vấn đề chính trị hiện nay; giải quyết dứt điểm những
vụ việc về lịch sử chính trị. - Khi xem xét, giải quyết các vấn đề về bảo
vệ chính trị nội bộ Đảng cần chú trọng giải quyết đúng đắn các mối quan
hệ: Giữa lịch sử chính trị và chính trị hiện hành; giữa lịch sử chính trị gia
đình và bản thân; giữa tiếp nhận đầu vào và giải quyết đầu ra; giữa sử
dụng và xử lý đối với từng trường hợp cụ thể.
7. Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát - Tập trung
kiểm tra, giám sát theo quy định của Điều lệ Đảng, các chủ trương,
đường lối, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng trên các lĩnh vực; việc
chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, chế độ công
tác, thực hiện dân chủ trong Đảng, giữ gìn đoàn kết nội bộ; việc thực
hành tiết kiệm, phòng chống tham nhũng, lãng phí; việc điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án, nhất là những vụ án nghiêm trọng, gây bức xúc trong
dư luận xã hội; kiểm tra, giám sát việc tuyển dụng, quy hoạch, luân
chuyển, đào tạo, đề bạt, bố trí, sử dụng cán bộ. - Chú trọng kiểm tra,
giám sát người đứng đầu tổ chức đảng, nhà nước, Mặt trận và các đoàn
thể chính trị - xã hội các cấp trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ
được giao. - Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm tra, giám sát của Đảng với công
tác thanh tra của Chính phủ, công tác giám sát của Quốc hội và các cơ
quan hành pháp, tư pháp, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
theo đúng chức năng và thẩm quyền của mỗi cơ quan, tổ chức. 24 8. Tiếp
tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng Điểm mới căn bản trong
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với xã hội khi trở thành Đảng cầm
quyền là có Nhà nước - một công cụ mạnh mẽ, sắc bén để thực hiện nội
dung lãnh đạo. Vì vậy, mục tiêu cao nhất trong đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước là làm cho Nhà nước mạnh lên, Nhà
nước mạnh thì quyền làm chủ của nhân dân được bảo đảm và phát huy;
Đảng gần với dân và được dân tin yêu. Vì vậy, cần tập trung thực hiện
một số nội dung sau: - Tập trung rà soát, bổ sung, điều chỉnh và ban hành
mới, xây dựng đồng bộ hệ thống các quy chế, quy định, quy trình công
tác để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức trong
hệ thống chính trị. Khắc phục tình trạng bao biện làm thay hoặc buông
lỏng vai trò của cơ quan quản lý nhà nước. - Tích cực đổi mới phong
cách, lề lối làm việc, tác phong công tác của các cơ quan lãnh đạo của
Đảng từ trung ương đến địa phương, cơ sở. Thực hiện tốt chế độ lãnh đạo
tập thể đi đôi với phát huy tinh thần chủ động và trách nhiệm cá nhân.
Phát huy vai trò, trách nhiệm của tổ chức đảng, đảng viên hoạt động
trong cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. -
Đổi mới cách ra nghị quyết và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghị
quyết của Đảng. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong Đảng, khắc
phục tình trạng rườm rà, bất hợp lý về thủ tục, giảm bớt giấy tờ, hội họp;
sâu sát thực tế cơ sở, nói đi đôi với làm
C. KẾT LUẬN
Hơn 80 năm qua, kể từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam
do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện vẫn luôn là lực lượng
duy nhất tổ chức vận động, lãnh đạo, đồng thời là người đi tiên phong,
không sợ hy sinh gian khổ trong sự nghiệp cách mạng đấu tranh giành
độc lập dân tộc, kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược và Công
cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng, lãnh đạo hơn 27 năm qua
tạo nên vị thế mới của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế. Vì lẽ đó, Đảng
Cộng sản Việt Nam xác lập được vị trí lãnh đạo Nhà nước và xã hội
thông qua uy tín của Đảng và niềm tin của nhân dân.
Việc quy định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Hiến
pháp năm 2013 một lần nữa khẳng định tính tất yếu, lịch sử, khách quan vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội.
Những quan điểm mơ hồ, lệch lạc về đa nguyên, đa đảng, đòi xóa bỏ Điều 4
trong Hiến pháp, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là
ảo tưởng chính trị, không bao giờ trở thành sự thật ở Việt Nam. Đồng thời,
Đảng ta đã khẳng định được vai trò của chính Đảng là không thể thiếu và vô
cùng cần thiết cho nước ta. Đảng vẫn tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp
để đáp ứng sự mong mỏi của nhân dân và không ngừng hoàn thiện bản thân
để có được sự đáp ứng tốt nhất giành cho nhân dân.Có thể nói không có mấy
Đảng Cộng Sản nào trên thế giới có được thành tựu vẻ vang như Đảng Cộng
Sản Việt Nam.

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (sửa đổi năm 2013).
2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, XII.
3. Giáo trình Trung cấp Lý luận Chính trị-Hành chính năm 2014.
4. Tài liệu bồi dưỡng thi nâng ngạch chuyên viên cao cấp khối Đảng, đoàn
thể năm 2011)

You might also like