You are on page 1of 61

1

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI

Viết Tắt Viết đầy đủ Tiếng Anh Viết đầy đủ Tiếng Việt

NSNN Ngân sách nhà nước

GTGT Giá trị gia tăng

KKTTM Khu kinh tế thương mại


2

DANH MỤC BẢNG

Tên bảng Nội dung Trang

Bảng 2.1. Số thuế GTGT hoàn cho các dự án đầu tư và xuất khẩu 27
hàng hoá, dịch vụ tăng qua các năm.

Bảng 2.2 Kim ngạch xuất khẩu hàng năm giai đoạn 2005 – 2011. 28

Bảng 2.3 Tiền thuế GTGT và phần trăm thuế GTGT trong nguồn 30
thu ngân sách nhà nước giai đoạn 2005 – 2011.

DANH MỤC BIỂU ĐỒ


3

Tên biểu đồ Nội dung Trang

Biểu đồ 2.1 Tổng thuế GTGT và số thuế GTGT đã hoàn từ năm 28


2005 đến năm 2011.

Biểu đổ 2.2 Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam từ năm 2005 đến 29
năm 2011.
4

MỤC LỤC
5

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:

Thuế GTGT nói riêng và Thuế nói chung đóng một vai trò hết sức quan trọng
trong việc tạo ra nguồn thu chủ yếu cho Ngân sách Nhà nước (NSNN) là nhận định
chung tại hầu hết các quốc gia, kể cả ở Việt Nam. Đặc biệt, sau những ảnh hưởng từ cuộc
khủng hoảng nợ công Châu Âu tới nền kinh tế Việt Nam cùng tác động từ cuộc khủng
hoảng kinh tế chung năm 2012, gánh nặng thu cho NSNN càng được đặt nặng lên vai
ngành thuế. Theo thống kê của Tổng Cục Thuế Việt Nam, năm 2012, tổng thu từ thuế
chiếm hơn 80% trong NSNN (607,844 tỷ đồng). Trong đó, Thuế GTGT là sắc thuế được
áp dụng rộng rãi với mọi tổ chức, cá nhân có tiêu dùng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ,
chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các sắc thuế - khoảng 30% tổng thu NSNN. Những thực tế
này càng chứng minh vai trò quan trọng của thuế GTGT trong việc đảm bảo ổn định cho
nguồn thu NSNN và từ đó tạo điều kiện để mở rộng sản xuất và phát triển kinh tế xã hội,
đất nước.

Tuy nhiên, thực trạng gian lận thuế GTGT ở nước ta cho thấy các vụ gian lận
thuế GTGT ngày càng nhiều với các hình thức ngày càng tinh vi hơn. Cụ thể, Theo báo
cáo từ Bộ Tài chính, đến tháng 11/2012, số lượng doanh nghiệp được thanh tra, kiểm tra
trong 11 tháng đầu năm 2012 chỉ tăng 30% so với cùng kỳ năm 2011, nhưng số tiền mà
cơ quan thuế truy thu, truy hoàn và phạt vi phạm hành chính thuế tăng tới 58% đã cho
thấy mức độ gian lận thuế ngày càng tăng. Gần đây nhất cũng có thể kể đến sự kiện một
số doanh nghiệp trong nước lợi dụng chính sách ưu đãi của Nhà nước cho Khu kinh tế
Thương mại (KKTTM) Lao Bảo, tỉnh Quảng Trị để trục lợi bất chính. Mỗi doanh nghiệp
gian lận thuế GTGT, giữ lại được 10-20 triệu VND/doanh nghiệp, trong khi NSNN thất
thu, người dân vẫn phải mua hàng hóa với giá cao. Sự kiện này đã trở thành một điểm
nóng, mở ra một vấn đề không mới nhưng cũng không cũ để đề cập và tìm hướng xử lý
phù hợp.
6

Trước những thực tế đó, mục tiêu tìm ra những giải pháp cơ bản để chống gian lận
thuế GTGT tại Việt Nam đòi hỏi phải có sự nhìn nhận toàn diện về những thực trạng về
gian lận thuế GTGT. Chỉ trên cơ sở nắm rõ các cơ sở lý luận về thuế GTGT, những hình
thái biến tính của việc gian lận thuế GTGT cùng nguyên nhân của vấn đề đang diễn ra, ta
mới có cơ sở rõ ràng trong việc đưa ra những giải pháp thay đổi trong Luật thuế GTGT,
cùng các quyết định quản lý, kiểm soát hệ thống thuế GTGT hợp lý nhằm giảm thiểu tình
trạng này. Tổng hợp các nội dung trên, nhóm đề tài quyết định chọn: “Thực trạng gian lận
Thuế GTGT tại Việt Nam” làm nội dung đề tài nghiên cứu.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu:

Thuế GTGT và Gian lận thuế GTGT không còn là một vấn đề có tính mới, đã xuất
hiện nhiều bài nghiên cứu về chủ đề này. Trong đó, để có những hiểu biết cơ bản về Thuế
GTGT có thể kể đến: Giáo trình thuế của Học viện Tài chính (2009), Luận án Tiến sĩ
kinh tế: ”Hoàn thiện những điều kiện áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam” tác giả Đàm
Văn Huệ (2004); tìm hiểu về gian lận thuế GTGT có thể kể đến: luận văn Thạc Sĩ:
”Gian lận thuế giá trị gia tăng tại các doanh nghiệp thương mại Việt Nam - thực
trạng và giải pháp” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Vân – Đại học Ngoại Thương, hay
”Gian lận trong khấu trừ thuế, hoàn thuế và hướng hoàn thiện thuế GTGT trong tiến
trình hội nhập AFTA” được đăng trong Kỷ yếu hội thảo khoa học ĐH Kinh tế TP.HCM.

Tuy nhiên, trong quá trình tìm hiểu, nhóm đề tài nhận thấy các nghiên cứu trên
không còn có tính mới và phù hợp với thời điểm hiện tại. Bởi lẽ thuế GTGT không nằm
ngoài những vấn đề chung của Thuế, hệ thống Luật thuế GTGT cũng trải qua nhiều lần
bổ sung và sửa đổi, những vấn đề về gian lận thuế GTGT cũng ngày càng nảy sinh nhiều
trường hợp mới. Hơn thế nữa, gian lận thuế GTGT tại Việt Nam là một vấn đề khá rộng
và phức tạp dưới nhiều góc độ khác nhau. Chính vì lẽ đó, nhóm nghiên cứu đưa ra đề tài
của mình với mục đích tiếp tục phát triển những ý tưởng nghiên cứu từ các công trình
nghiên cứu trên để có thể hoàn thiện và phát triển những hướng giải quyết phù hợp và
cập nhật cho vấn đề gian lận thuế GTGT tại Việt Nam.
7

3. Mục tiêu nghiên cứu:

Đề tài sẽ tập trung làm rõ những thực trạng của việc gian lận thuế GTGT tại Việt
Nam trên cơ sở lý thuyết về thuế GTGT và các trường hợp cụ thể về gian lận thuế GTGT
tại Việt Nam. Từ đó, nhóm đề tài sẽ đưa ra các giải pháp phối hợp đồng bộ giữa Chính
phủ và Doanh nghiệp Việt Nam nhằm định hướng việc áp dụng hệ thống quản lý thuế
GTGT tốt hơn, hạn chế tình trạng gia tăng các trường hợp gian lận.

4. Phương pháp nghiên cứu:

Do đối tượng nghiên cứu là thuế GTGT, phương pháp luận sẽ dựa trên hệ thống
cơ sở lý luận về hệ thống thuế này.

Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cũng áp dụng các phương pháp nghiên cứu khác cụ thể
như sau :

- Phương pháp phân tích – tổng hợp : Phân tích các dữ liệu thông tin thứ cấp.

- Phương pháp định tính: Sử dụng các thông tin thu thập được đưa ra những
nhận định, đánh giá để định tính các dữ liệu thu được, nhằm đưa ra những giải
pháp phù hợp với thực tế.

5. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu: thuế GTGT.

Phạm vi nghiên cứu: nhóm đề tài tập trung nghiên cứu về thuế GTGT và các
trường hợp gian lận thuế GTGT tại Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay.

6. Kết quả nghiên cứu dự kiến:

Dựa trên tìm hiểu thực tế về thực trạng gian lận thuế GTGT tại Việt Nam, nhóm
đề tài mong muốn sẽ đạt được một số kết quả nghiên cứu sau:
8

Đề tài đưa ra một cái nhìn từ tổng quan đến chi tiết về thuế GTGT và các
trường hợp gian lận thuế GTGT đang diễn ra tại Việt Nam.

Qua những khó khăn còn tồn tại, trả lời được câu hỏi: thực trạng gian lận thuế
GTGT tại Việt Nam.

Từ đó, qua những nghiên cứu, nhóm đề tài muốn tập trung đưa ra và xây dựng
một số các giải pháp giúp hạn chế các trường hợp gian lận thuế, đồng thời
đóng góp những ý kiến trong việc xây dựng hệ thống quản lý, kiểm soát thuế
GTGT.

7. Kết cấu của đề tài:

Ngoài phần lời mở đầu và kết luận, bài tiểu luận được kết cấu theo ba chương như
sau:

Chương 1: Giới thiệu về thuế GTGT.

Chương 2: Thực trạng gian lận thuế GTGT của các doanh nghiệp tại Việt Nam.

Chương 3: Giải pháp chống gian lận thuế GTGT tại Việt Nam.
9

CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THUẾ GTGT

1. Thuế giá trị gia tăng


1.1. Nội dung thuế giá trị gia tăng

Thuế GTGT là thuế đánh trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát
sinh ở từng khâu trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Về bản chất, người
chịu thuế GTGT là người tiêu dùng, người sản xuất hoặc cả người tiêu dùng và nhà sản
xuất, phụ thuộc vào mối quan hệ cung cầu trên thị trường. Với mục đích mở rộng sản
xuất, khuyến khích trao đổi hàng hóa, phát triển nền kinh tế quốc dân, căn cứ Hiến pháp
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số
điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10, Quốc hội ban hành Luật thuế giá trị gia tăng với
những nội dung cơ bản sau:

1.2. Đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế và đối tượng không chịu thuế

GTGT
1.2.1.Đối tượng nộp thuế

Điều 4, Luật thuế GTGT qui định: Tổ chức, cá nhân, sản xuất, kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ chịu thuế (sau đây gọi là cơ sở kinh doanh) và tổ chức cá nhân khác nhập
khẩu hàng hóa chịu thuế (sau đây gọi là người nhập khẩu) là đối tượng nộp thuế hay
đối tượng chịu thuế GTGT. Cụ thể là:

Doanh nghiệp Nhà nước.


Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp tác kinh
doanh theo luật đầu tư nước ngoài.
Doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần.
Công ty, tổ chức nước ngoài hoạt động tại Việt Nam;
Các tổ chức kinh tế của tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – chính trị, các đơn vị sự
nghiệp.
Những người kinh doanh độc lập, hộ gia đình, các cá nhân hợp tác kinh doanh.
1.2.2.Đối tượng chịu thuế
10

Theo điều 3, Luật thuế GTGT, đối tượng chịu thuế là hàng hóa, dịch vụ sử dụng
cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam, trừ các đối tượng quy định tại Điều 5
của Luật này.

1.2.3.Đối tượng không chịu thuế

Điều 5 Luật thuế GTGT quy định: các đối tượng không chịu thuế bao gồm 25
nhóm mặt hàng. Đây là những nhóm hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phục vụ đời sống xã
hội, các ngành lĩnh vực chưa phát triển và được nhà nước khuyến khích phát triển, các
sản phẩm nông, lâm, thủy sản mới qua sơ chế do trực tiếp người sản xuất khai thác bán ra
thị trường, các hàng hóa, dịch vụ được sử dụng không nhằm mục đích kinh doanh mà vì
mục đích xã hội, những hàng hóa, dịch vụ không tiêu dùng ở Việt Nam hoặc khó xác
định giá trị gia tăng. Cụ thể:

Sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành
các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường của tổ chức, cá nhân tự sản
xuất, đánh bắt bán ra và ở khâu nhập khẩu.
Sản phẩm là giống vật nuôi, giống cây trồng, bao gồm trứng giống, con giống,
cây giống, hạt giống, tinh dịch, phôi, vật liệu di truyền.
Tưới, tiêu nước; cày, bừa đất; nạo vét kênh, mương nội đồng phục vụ sản xuất
nông nghiệp; dịch vụ thu hoạch sản phẩm nông nghiệp.
Sản phẩm muối được sản xuất từ nước biển, muối mỏ tự nhiên, muối tinh, muối i-
ốt.
Nhà ở thuộc sở hữu nhà nước do Nhà nước bán cho người đang thuê.
Chuyển quyền sử dụng đất.
Bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm người học, bảo hiểm vật nuôi, bảo hiểm cây trồng và
tái bảo hiểm.
Dịch vụ cấp tín dụng; kinh doanh chứng khoán;chuyển nhượng vốn; dịch vụ tài
chính phái sinh, bao gồm hoán đổi lãi suất, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai,
quyền chọn mua, bán ngoại tệ và các dịch vụ tài chính phái sinh khác theo quy
định của pháp luật.
Dịch vụ y tế, dịch vụ thú y, bao gồm dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh, phòng bệnh
cho người và vật nuôi.
11

Dịch vụ bưu chính, viễn thông công ích và Internet phổ cập theo chương trình của
Chính phủ.
Dịch vụ phục vụ công cộng về vệ sinh, thoát nước đường phố và khu dân cư; duy trì
vườn thú, vườn hoa, công viên, cây xanh đường phố, chiếu sáng công cộng; dịch
vụ tang lễ.
Duy tu, sửa chữa, xây dựngbằng nguồn vốn đóng góp của nhân dân, vốn viện trợ
nhân đạo đối với các công trình văn hóa, nghệ thuật, công trình phục vụ công
cộng, cơ sở hạ tầng và nhà ở cho đối tượng chính sách xã hội.
Dạy học, dạy nghề theo quy định của pháp luật.
Phát sóng truyền thanh, truyền hình bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Xuất bản, nhập khẩu, phát hành báo, tạp chí, bản tin chuyên ngành, sách chính trị,
sách giáo khoa, giáo trình, sách văn bản pháp luật, sách khoa học - kỹ thuật, sách
in bằng chữ dân tộc thiểu số và tranh, ảnh, áp phích tuyên truyền cổ động, kể cả
dưới dạng băng hoặc đĩa ghi tiếng, ghi hình, dữ liệu điện tử; in tiền.
Vận chuyển hành khách công cộng bằng xe buýt, xe điện.
Máy móc, thiết bị, vật tư thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu
để sử dụng trực tiếp cho hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ;
máy móc, thiết bị, phụ tùng thay thế, phương tiện vận tải chuyên dùng và vật tư
thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để tiến hành hoạt động
tìm kiếm, thăm dò, phát triển mỏ dầu, khí đốt; tàu bay, dàn khoan, tàu thuỷ thuộc
loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu tạo tài sản cố định của doanh
nghiệp, thuê của nước ngoài sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và để cho thuê.
Vũ khí, khí tài chuyên dùng phục vụ quốc phòng, an ninh.
Hàng hóa nhập khẩu trong trường hợp viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại;
quà tặng cho cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp,
đơn vị vũ trang nhân dân; quà biếu, quà tặng cho cá nhân tại Việt Nam theo mức
quy định của Chính phủ; đồ dùng của tổ chức, cá nhân nước ngoài theo tiêu chuẩn
miễn trừ ngoại giao; hàng mang theo người trong tiêu chuẩn hành lý miễn thuế.
Hàng hoá, dịch vụ bán cho tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế để viện
trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam.
12

Hàng hoá chuyển khẩu, quá cảnh qua lãnh thổ Việt Nam; hàng tạm nhập khẩu, tái
xuất khẩu; hàng tạm xuất khẩu, tái nhập khẩu;nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất,
gia công hàng hoá xuất khẩu theo hợp đồng sản xuất, gia công xuất khẩu ký kết
với bên nước ngoài; hàng hoá, dịch vụ được mua bán giữa nước ngoài với các khu
phi thuế quan và giữa các khu phi thuế quan với nhau.
Chuyển giao công nghệ theo quy định của Luật chuyển giao công nghệ; chuyển
nhượng quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ; phần mềm máy
tính.
Vàng nhập khẩu dạng thỏi, miếng chưa được chế tác thành sản phẩm mỹ nghệ, đồ
trang sức hay sản phẩm khác.
Sản phẩm xuất khẩu là tài nguyên, khoáng sản khai thác chưa chế biến theo quy
định của Chính phủ.
Sản phẩm nhân tạo dùng để thay thế cho bộ phận cơ thể của người bệnh; nạng, xe
lăn và dụng cụ chuyên dùng khác cho ngườitàn tật.
Hàng hóa, dịch vụ của cá nhân kinh doanh có mức thu nhập bình quân tháng thấp
hơn mức lương tối thiểu chung áp dụng đối với tổ chức, doanh nghiệp trong nước.

Cơ sở kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng quy định tại
Điều này không được khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào, trừ trường hợp áp dụng
mức thuế suất 0% quy định tại khoản 1 Điều 8 của Luật này.

So với luật thuế GTGT 2004, Luật thuế GTGT năm 2008 có nhiều điểm khác biệt
về đối tượng không chịu thuế GTGT.

Thứ nhất, số lượng đối tượng không chịu thuế GTGT giảm từ 28 xuống 25 và ba
nhóm đối tượng chuyển từ không phải chịu thuế sang chịu thuế là:

Nhóm hàng hoá là thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong
dây chuyền công nghệ và vật tư xây dựng thuộc loại trong nước chưa sản xuất
được cần nhập khẩu để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp;
Hoạt động văn hoá, triển lãm và thể dục, thể thao, biểu diễn nghệ thuật, sản xuất
phim, nhập khẩu, phát hành và chiếu phim;
13

Hoạt động điều tra, thăm dò địa chất, đo đạc, lập bản đồ thuộc loại điều tra cơ bản
của Nhà nước.

Thứ hai, chuyển “Vận tải quốc tế” sang đối tượng chịu thuế GTGT với thuế suất
0%, hàng hoá, dịch vụ cung cấp trực tiếp cho vận tải quốc tế sang đối tượng chịu thuế
GTGT với thuế suất tương ứng của từng hàng hoá, dịch vụ. Theo luật Thuế GTGT 2004,
“Vận tải quốc tế” không phải đối tượng chịu thuế GTGT nên thuế giá trị gia tăng đầu
vào của hoạt động này không được hoàn. Việc chuyển “ Vận tải quốc tế” sang đối tượng
chịu thuế GTGT 0% giúp cho “ Vận tải quốc tế” được khấu trừ và hoàn lại phần thuế
GTGT đầu vào tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích ngành này phát triển.

1.3. Cơ sở tính thuế

Cơ sở tính thuế GTGT bao gồm thuế suất và giá tính thuế.

1.3.1.Thuế suất

Thuế suất GTGT được quy định trong Điều 8, luật thuế GTGT năm 2008. Hiện
nay, có 3 mức thuế áp dụng cho các mặt hàng chịu thuế: Mức 0% áp dụng hàng hóa dịch
vụ xuất khẩu, vận tải quốc tế. Mức 5% áp dụng cho các hàng hóa dịch vụ là đầu vào của
sản xuất nông nghiệp; những mặt hàng thiết yếu (15 nhóm trong luật 2008). Mức 10% là
mức thuế suất phổ dụng (áp dụng cho các mặt hàng không thuộc hai nhóm trên)

1.3.2.Giá tính thuế

Giá tính thuế là giá bán chưa có thuế GTGT được ghi trên hóa đơn bán hàng của
người bán, người cung cấp dịch vụ hoặc trên chứng từ của hàng nhập khẩu. Giá tính thuế
được quy định rõ trong Điều 7, luật Thuế GTGT năm 2008.

Trường hợp cho thuê theo hình thức trả tiền thuê từng kỳ hoặc trả trước tiền thuê
cho một thời hạn thuê thì giá tính thuế là tiền cho thuê trả từng kỳ hoặc trả trước cho thời
hạn thuê chưa có thuế giá trị gia tăng;
14

Trường hợp thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải của nước ngoài loại trong
nước chưa sản xuất được để cho thuê lại, giá tính thuế được trừ giá thuê phải trả cho nước
ngoài;

1.4. Phương pháp tính thuế GTGT


1.4.1.Phương pháp khấu trừ thuế

Thuế GTGT = Thuế suất Giá đầu ra - Thuế suất Giá đầu vào

Phương pháp khấu trừ thuế được quy định trong điều 10, Luật thuế GTGT năm
2008; áp dụng đối với cơ sở kinh doanh thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn, chứng
từ theo quy định của pháp luật về kế toán, hoá đơn, chứng từ và đăng ký nộp thuế theo
phương pháp khấu trừ thuế.

Số thuế giá trị gia tăng phải nộp theo phương pháp khấu trừ thuế bằng số thuế gia
trị gia tăng đầu ra trừ số thuế giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ. Số thuế giá trị gia
tăng đầu ra bằng tổng số thuế giá trị gia tăng của hàng hóa. Số thuế giá trị gia tăng đầu
vào được khấu trừ bằng tổng số thuế giá trị gia tăng ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng mua
hàng hóa, dịch vụ.

1.4.2.Phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng

Thuế GTGT = Thuế suất × (Giá đầu ra- Giá đầu vào)

Phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng được quy định trong điều 11 của
Luật, áp dụng đối với các trường hợp sau đây:

Cơ sở kinh doanh và tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh không có cơ sở


thường trú tại Việt Nam nhưng có thu nhập phát sinh tại Việt Nam chưa thực hiện
đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ.
Hoạt động mua bán vàng, bạc, đá quý.
15

Số thuế giá trị gia tăng phải nộp theo phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia
tăng bằng giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ bán ra nhân với thuế suất giá trị gia
tăng. Giá trị gia tăng của hàng hóa dịch vụ được tính bằng giá bán ra trừ giá mua vào.

1.4.3. Phương pháp cộng trực tiếp

Thuế GTGT = Thuế suất× (Tiền công + Lợi nhuận)

1.4.4.Phương pháp cộng gián tiếp

Thuế GTGT= Thuế suất × Tiền công + Thuế suất × Lợi nhuận

1.5. Khấu trừ và hoàn thu


1.5.1.Khấu trừ thuế

Thuế GTGT mang bản chất liên hoàn vì vậy thuế GTGT đã được nộp ở giai đoạn
trước sẽ được khấu trừ ở giai đoạn sau . Việc khấu trừ thuế đã nộp ở giai đoạn trước gọi
là khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Khấu trừ được quy định trong điều 12 của Luật, bao gồm
các trường hợp và điều kiện được khấu trừ, mức độ khấu trừ.

Sáu trường hợp được khấu trừ thuế bao gồm:

Thuế đầu vào của hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng
hóa dịch vụ chịu thuế GTGT thì được khấu trừ toàn bộ.
Trường hợp cơ sở kinh doanh 2 mặt hàng: một mặt hàng chịu thuế GTGT
và một mặt hàng không chịu thuế GTGT, nhưng không hạch toán riêng
được thuế đầu vào cho từng loại mặt hàng, thì thuế GTGT đầu vào được
khấu trừ theo tỷ lệ (%) trên doanh số bán ra của hàng hoá, dịch vụ chiu thuế
GTGT so với tổng hàng hoá, dịch vụ bán ra trong tháng của cả hai loại mặt
hàng.
Trường hợp thuế GTGT đầu vào của TSCĐ sử dụng đồng thời cho sản
xuất, kinh doanh HHDV chịu và không chịu thuế GTGT thì được khấu trừ
toàn bộ.
16

Thuế giá trị gia tăng đầu vào của HHDV bán cho tổ chức, cá nhân sử dụng
nguồn vốn viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại được khấu trừ toàn
bộ.
Thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng
hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT phát sinh trong tháng nào thì được khấu trừ
toàn bộ khi xác định số thuế phải nộp trong tháng đó, không phân biệt đã
xuất bán hay chưa bán.
Các trường hợp khấu trừ theo tỷ lệ 3% trên giá mua theo hóa đơn đối với:
Hàng hóa thuộc diện chịu thuế GTGT mua của các đơn vị kinh doanh nộp thuế
GTGT theo phương pháp tính trực tiếp.
Hàng hóa chịu thuế TTĐB cơ sở kinh doanh thương mại mua của cơ sở SX để bán
ra có hóa đơn bán hàng.
1.5.2.Hoàn thuế
Việc hoàn thuế GTGT diễn ra trên phạm vi rộng, bao hàm nhiều mối quan hệ phức
tạp và có sự liên hoàn giữa các đối tượng nộp thuế. Chính tính phức tạp của vấn đề cùng
với sự mới mẻ của nghiệp vụ hoàn thuế khiến cho vấn đề hoàn thuế GTGT là một vấn đề
nổi cộm lớn trong quá trình thực hiện luật thuế GTGT hiện nay.
Theo điều 13 của Luật, bốn trường hợp được hoàn thuế:
Cơ sở kinh doanh nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ thuế được
hoàn thuế giá trị gia tăng nếu trong ba tháng liên tục trở lên có số thuế giá trị gia
tăng đầu vào chưa được khấu trừ hết.
Trường hợp cơ sở kinh doanh đã đăng ký nộp thuế giá trị gia tăng theo phương
pháp khấu trừ có dự án đầu tư mới, đang trong giai đoạn đầu tư có số thuế giá trị gia tăng
của hàng hoá, dịch vụ mua vào sử dụng cho đầu tư mà chưa được khấu trừ hết và có số
thuế còn lại từ hai trăm triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế giá trị gia tăng.
Cơ sở kinh doanh trong tháng có hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu nếu có số thuế giá
trị gia tăng đầu vào chưa được khấu trừ từ hai trăm triệu đồng trở lên thì được
hoàn thuế giá trị gia tăng theo tháng.
Cơ sở kinh doanh nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ thuế được
hoàn thuế giá trị gia tăng khi chuyển đổi sở hữu, chuyển đổi doanh nghiệp, sáp
nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt động có số thuế giá trị
gia tăng nộp thừa hoặc số thuế giá trị gia tăng đầu vào chưa được khấu trừ hết.
17

Cơ sở kinh doanh có quyết định hoàn thuế giá trị gia tăng của cơ quan có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật và trường hợp hoàn thuế giá trị gia tăng theo
điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
2. Ưu, nhược điểm của thuế GTGT
2.1. Ưu điểm
Thứ nhất, Thuế GTGT khắc phục được hạn chế thuế đánh chồng nên thuế của thuế
doanh thu trước đây. Vì thuế GTGT chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa,
dịch vụ.
Thứ hai, phạm vi áp dụng của thuế GTGT lớn. Thuế GTGT đánh vào tất cả các
mặt hàng trừ 25 nhóm đã nêu trên như vậy có thể nói phạm vi của thuế GTGT là không
có giới hạn. Vì thế nguồn thu từ thuế GTGT đóng góp một con số lớn vào ngân sách nhà
nước.
Thứ ba, công tác điều chỉnh, quản lý, hành thu thuế GTGT là khá dễ dàng. Thuế
GTGT là thuế gián thu, người tiêu dùng là người thực chất chịu thuế, doanh nghiệp chỉ
thu hộ và nộp lại cho nhà nước do đó gánh nặng về thuế được chuyển dịch, việc thu thuế
được triển khai dễ dàng hơn.
Thứ tư, thuế GTGT khuyến khích xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu. Luật thuế
GTGT Việt Nam quy định mức thuế GTGT đối với các hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu là
0%, điều này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu được hoàn lại thuế GTGT
đầu vào, tăng quy mô xuất khẩu hàng hóa. Thuế GTGT đối với hàng hóa, dịch vụ nhập
khẩu được quy định ở mức 10% làm hạn chế nhập khẩu.
2.2. Nhược điểm
Thứ nhất, chi phí hành thu thuế GTGT là khá lớn. Chính ưu điểm phạm vi áp dụng
lớn khiến cho chi phí hành thu thuế GTGT lớn.
Thứ hai, thuế GTGT yêu cầu hạnh toán phức tạp. Do tính chất của thuế là do
doanh nghiệp thu hộ từ người tiêu dùng và nộp cho nhà nước nên để đảm bảo minh bạch,
công tác hạnh toán phải được tiến hành tỷ mỉ, chính xác.
Thứ ba, việc hành thu thuế GTGT có thể dẫn đến tình trạng trốn lậu thuế.Do động
cơ lợi nhuận mà không ít cá doanh nghiệp có hoạt động làm giả sổ sách, chứng từ để trốn
lậu thuế giá trị gia tăng.
Thứ tư, tính công bằng dọc của thuế GTGT là chưa cao. Thuế GTGT yêu cầu mọi
đối tượng tiêu dùng phải trả một khoản tiền thuế là như nhau cho một loại hàng hóa,
18

dịch vụ bởi vậy tính công bằng ngang được đảm bảo nhưng tính công bằng dọc là chưa
cao.
3. Doanh nghiệp và thuế GTGT
3.1. Nghĩa vụ nộp thuế GTGT của doanh nghiệp
3.1.1.Nộp thuế GTGT là quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi doanh nghiệp
Nộp thuế GTGT là việc người cung cấp hàng hoá, dịch vụchuyển số thuế đã thu
hộ nhà nước do người tiêu dùng trả thông qua cơ chế giá khi mua hàng hoá, dịch vụ
thuộc diện chịu thuế GTGT vào kho bạc nhà nước.
Thứ nhất, nộp thuế GTGT, chấp hành nghiêm chỉnh luật Thuế GTGT là quyền lợi
của mỗi doanh nghiệp bởi: Luật Thuế GTGT Việt Nam thể hiện tính công bằng và đảm
bảo quyền lợi cho những lĩnh vực sản xuất kinh doanh thiết yếu và tạo ra phúc lợi tốt cho
xã hội (y tế, giáo dục,…) nên có những ưu đãi nhất định cho những khu vực này như
không phải chịu thuế GTGT. Đối với những lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà nhà nước
khuyến khích phát triển, mức thuế suất 0% được sử dụng giúp các doanh nghiệp này
được hoàn lại thuế giá trị gia tăng đầu vào từ đó tăng động lực mở rộng kinh doanh. Đối
với doanh nghiệp phải nộp thuế giá trị gia tăng không những không ảnh hưởng tới lợi
nhuận vốn có mà còn là tham gia giúp việc cho nhà nước, thể hiện được tinh thần luật
pháp cao, góp phần tăng ngân sách nhà nước từ đó đóng góp vào sự phát triển của xã hội.
Hơn nữa, việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế GTGT khẳng định được uy tín và trách
nhiệm - điều đặc biệt quan trọng với các doanh nghiệp.
Thứ hai, nộp thuế GTGT là nghĩa vụ của mỗi doanh nghiệp. Bản chất của thuế
GTGT là thuế gián thu, nó đánh vào tiêu dùng cuối cùng. Doanh nghiệp không dùng tiền
của mình để nộp thuế mà dùng tiền của người tiêu dùng cuối cùng. Việc nộp thuế là việc
phải làm vì nếu không nộp thuế GTGT tức là doanh nghiệp đang chiếm dụng khoản thuế
mà người dân đóng góp như vậy là vi phạm luật và doanh nghiệp phải chịu sự trừng phạt
của pháp luật.
3.1.2.Quy trình nộp thuế GTGT của doanh nghiệp
Đối với doanh nghiệp thương mại nói riêng và các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh nói chung khi đăng ký thành lập và đi vào hoạt động đều phải chịu nghĩa vụ nộp
thuế GTGT đối với Nhà nước. Đối với doanh nghiệp chế xuất là đối tượng không chịu
thuế GTGT do đó, doanh ngiệp chế xuất không thể đăng ký nộp thuế GTGT theo phương
19

pháp khấu trừ và cũng không được khấu trừ, hoàn thuế GTGT đầu vào đối với hàng hóa,
dịch vụ mua vào sử dụng cho sản xuất, kinh doanh.
Việc thực hiện nghĩa vụ thuế GTGT, các doanh ngiệp phải thông qua một cơ chế
nhất định bao gồm bốn bước sau:
Bước 1: Đăng ký thuế và cấp mã số thuế:
Doanh nghiệp nộp hồ sơ xin cấp mã số thuế. Nếu hồ sơ hợp lệ, doanh nghiệp sẽ
được cấp mã số thuế. Vì mã số thuế liên quan mật thiết đến việc thực thi luật thuế sau này
của doanh nghiệp nên nó cần được hiện diện trên mọi giấy tờ giao dịch (hợp đồng, hóa
đơn,…); sổ sách kế toán, tờ khai thuế, chứng từ nộp thuế,… .
Bước 2: Kê khai thuế GTGT.
Bước 3: Nộp thuế GTGT.
Bước 4: Quyết toán thuế.
Luật thuế GTGT Việt Nam quy định doanh nghiệp phải tự tiến hành đăng ký cấp
mã số thuế, tính toán số thuế và nộp thuế vào kho bạc nhà nước . Bởi vậy, việc gian lận
thuế rất dễ dàng xảy ra. Để ngăn chặn nguy cơ này, nhiệm vụ quyết toán thuế hằng năm
giữa doanh nghiệp với cơ quan thuế là vô cùng cần thiết. Trong quyết toán thuế, doanh
nghiệp phải thể hiện được sự hợp tác, cơ quan nhà nước phải thể hiện được tính chuyên
nghiệp, công bằng, nghiêm minh. Nghĩa vụ quyết toán thuế phải được quy định chặt chẽ
nhằm tránh hiện tượng doanh nghiệp chiếm giữ số thuế GTGT phục vụ lợi ích riêng.
3.2. Vai trò của thuế GTGT đối với doanh nghiệp

Việc áp dụng thuế GTGT có vai trò to lớn đối với doanh nghiệp.

3.2.1.Tránh hiện tượng thuế đánh chồng lên thuế


Thuế GTGT được tính theo phương pháp khấu trừ đã tránh được hiện tượng thuế
đánh chồng lên thuế. Doanh nghiệp được khấu trừ thuế GTGT đầu vào và chỉ phải nộp
thuế cho phần GTGT tăng thêm do hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
3.2.2.Khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ doanh nghiệp trong nước

Theo quy định của luật thuế GTGT, hàng hóa xuất khẩu được hưởng thuế suất 0%
tức là được hoàn trả lại toàn bộ số thuế GTGT đầu vào, việc này giúp doanh nghiệp tập
trung được nguồn lực và tài sản để đầu tư tìm nguồn hàng xuất khẩu, do đó hàng hóa
hàng hóa trong nước xuất khẩu có cơ hội cạnh tranh với hàng hóa quốc tế.
20

Luật thuế GTGT Việt Nam cũng khuyến khích sản xuất các hàng hóa xuất khẩu
bằng cách không đánh thuế GTGT hoặc đánh thuế thấp với việc sản xuất, khai thác các
mặt hàng Việt Nam có thế mạnh như: nông, lâm, thủy sản, thủ công mỹ nghệ.

3.2.3.Thúc đẩy công tác quản lý của doanh nghiệp phát triển

Khi thực thi luật thuế GTGT, doanh nghiệp chịu sự kiểm tra, giám sát, quản lý của
nhà nước. Việc đăng ký mã thuế cùng với phương pháp khấu trừ thuế đã buộc cả người
mua, người bán thực hiện tốt hơn chế độ hoá đơn, chứng từ trong các hoạt động thanh
toán. Bởi lẽ đó, để thực hiện tốt được việc kê khai, nộp thuế của mình, doanh nghiệp
buộc phải tìm ra và tiến hành các hoạt động kế toán, quản lý hóa đơn, chứng từ một cách
hiệu quả nhất. Thông qua đó, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp sẽ được cải thiện và
nâng cao, các vấn đề về sổ sách được giảm thiểu, doanh nghiệp tự tin và có kinh nghiệm
hơn để tiếp tục mở rộng sản xuất kinh doanh.
21

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIAN LẬN THUẾ GTGT TẠI VIỆT NAM

1. Khái quát việc xây dựng và triển khai luật thuế GTGT ở nước ta
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển luật thuế GTGT ở Việt Nam
1.1.1.Thuế doanh thu - tiền thân của thuế GTGT ở Việt Nam

Trong thời kì kế hoạch hóa tập trung, Thuế doanh thu đã được áp dụng. Trong bối
cảnh tình hình khủng hoảng kinh tế xã hội trong thập niên 80 của thế kỉ 20, Nhà nước đã
thực hiện công cuộc đổi mới mang tính đột phá, bước ngoặt nhằm đưa nước ta thoát khỏi
tình trạng trì trệ, khủng hoảng kéo dài. Trong bối cảnh đó, vào kì họp thứ 7 khóa VIII
năm 1990, Quốc hội đã quyết định thông qua Luật thuế doanh thu với mục đích góp phần
thúc đẩy sản xuất, mở rộng lưu thông, khuyến khích phát triển nền kinh tế quốc dân,
động viên một phần thu nhập của người tiêu dùng vào ngân sách nhà nước. Nhà nước đã
sửa đổi bổ sung năm 1993 và 1995 nhằm loại bỏ những bất cập trong quá trình thực hiện
và phù hợp trong quá trình chuyển đổi của nền kinh tế.

1.1.2.Thuế Giá trị gia tăng, Luật thuế đầu tiên và các lần sửa đổi bổ sung

Nhận ra những bất cập của luật thuế doanh thu và học hỏi kinh nghiệm từ các
nước trên thế giới về thuế giá trị gia tăng, Việt Nam đã tập trung nghiên cứu và thí điểm
áp dụng ở một số doanh nghiệp quốc doanh theo quyết định số486TC/QĐ/BTC ngày
5/7/1993 của Bộ Tài chính. Trong giai đoạn này,Thuế Giá trị gia tăng được thực hiện
song song với thuế Doanh thu.

Năm 1997, kì họp thứ 11 Quốc hội khóa IX đã thông qua luật thuế Giá trị gia tăng
trên cơ sở kế thừa luật thuế Doanh thu. Trong quá trình thực hiện, luật thuế Giá trị gia
tăng đã được sửa đổi và bổ sung phù hợp với tình hình kinh tế xã hội Việt Nam. Từ khi ra
đời đến nay, Luật thuế Giá trị gia tăng đã trải qua 8 lần sửa đổi bổ sung:

• Lần thứ nhất: Ngày 03/9/1999, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị
quyết số 90/NQ-UBTVQH10 về việc sửa đổi, bổ sung một số danh mục hàng
hoá, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT và thuế suất thuế GTGT đối
với một số hàng hoá, dịch vụ (có hiệu lực từ 1/10/1999),
22

• Lần thứ hai: Ngày 27/10/2000, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị
quyết số 240/NQ-UBTVQH10 về việc sửa đổi, bổ sung một số danh mục hàng
hoá, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT và thuế suất thuế GTGT đối
với một số hàng hoá, dịch vụ (có hiệu lực từ 01/01/2000),
• Lần thứ ba: Ngày 29 tháng 11 năm 2001, Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10 có

Nghị quyết số 50/2001/QH10 về Dự toán ngân sách Nhà nước năm 2002, trong
đó có quy định về việc đổi danh mục hàng hoá thuộc diện không chịu thuế
GTGT, thuế suất, khấu trừ và hoàn thuế GTGT (có hiệu lực từ 1/10/2002)
• Lần thứ tư: Ngày 28 tháng 11 năm 2002, Quốc hội Khoá XI, kỳ họp thứ hai đã

ban hành Nghị quyết số 09/2002/QH11 về Dự toán ngân sách Nhà nước năm
2003 (có hiệu lực thi hành từ 1/10/2003), trong đó, có bãi bỏ việc khấu trừ thuế
GTGT đầu vào theo tỷ lệ (%) tính trên giá hàng hoá, dịch vụ mua vào do các cơ
sở kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ mua hàng hoá, dịch vụ
từ các cơ sở kinh doanh không có hoá đơn GTGT.
• Lần thứ năm: Quốc hội khoá XI kỳ họp thứ 3(3/52003-18/6/2003) đã thông qua
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT (có hiệu lực từ 1/1/2004)
• Lần thứ sáu: Ngày 29/11/2005, Quốc hội khoá XI kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật

sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật thuế GTGT
(có hiệu lực từ 1/1/2006) nhằm điều chỉnh 2 quy định chưa phù hợp với nguyên
tắc đối xử quốc gia để phục vụ đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới.
• Lần thứ 7: Ngày 3/6/2008 Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật thuế giá trị gia
tăng số 13/2008/QH12 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009 thay thế Luật thuế
giá trị gia tăng năm 1997.
• Lần thứ 8: năm 2012, một số điều luật sẽ có hiệu lực thi hành ngay từ ngày

01/07/2013.
1.2. Thành tựu trong áp dụng luật thuế GTGT ở nước ta

Luật thuế GTGT từ khi được thi hành lần đầu tiên năm 1999 cho tới nay đã được
chỉnh sửa bổ sung nhiều lần nhằm phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của đất nước , đáp
ứng được những yêu cầu về lý luận của pháp luật thuế. Qua 14 năm thực hiện , luật thuế
GTGT đã đạt được những thành tựu to lớn:
23

Thứ nhất, Thuế GTGT góp phần khuyến khích đầu tư, khuyến khích xuất khẩu,
thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh

Việc hoàn thuế GTGT đầu vào đối với các dự án đầu tư đã tạo thuận lợi cho doanh
nghiệp phát triển công nghệ, đầu tư đổi mới tài sản cố định, góp phần thúc đẩy vốn đầu tư
xã hội tăng trưởng. Thông qua áp dụng thuế suất 0% đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu
đã tạo điều kiện để doanh nghiệp hạ giá hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, tăng khả năng cạnh
tranh trên thị trường quốc tế, từ đó khuyến khích xuất khẩu tăng trưởng mạnh qua các
năm.

Bảng 2.1. Số thuế GTGT hoàn cho các dự án đầu tư


và xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ tăng qua các năm
Đơn vị: Tỷ đồng
Khoản mục 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Tổng thuế
GTGT 59.48 74.68 90.16 125.55 146.15 204.96 253.11

Thuế
GTGT đã 14.83 18.04 24.65 34.05 38.00 50.90 61.00
hoàn

% Hoàn 24.83
thuế GTGT 24.93% 24.16% 27.34% 27.12% 26.00% % 24.10%

Biểu đồ 2.1. Tổng thuế GTGT và số thuế GTGT đã hoàn từ năm 2005 đến năm 2011
Đơn vị: tỷ đồng
24

Cùng với sự gia tăng của tổng thuế GTGT là sự tăng lên của số tiền thuế hoàn lại
cho các doanh nghiệp. Tỉ lệ hoàn thuế GTGT thay đổi không nhiều theo các năm, chênh
lệch về tỉ lệ hoàn thuế này cao nhất chỉ hơn 3% (giữa năm 2008 và 2011), nhưng tỉ lệ này
luôn giữ ở mức trên 24%. Chính điều này đã tạo cho doanh nghiệp sự ổn định, thúc đẩy
xuất khẩu.

Bảng 2.2. Kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2005 – 2011.

Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011

Kim ngạch xuất


khẩu đạt được 32447.1 39826.2 48561.4 62685.1 57096.3 72236.7 96905.7
(tỉ USD)

Tỷ lệ tăng so với
122.74 121.93 129.08 91.08 126.52 134.15
năm trước (%)
Kim ngạch xuất khẩu hàng năm tăng cao cả vể số tuyệt đối và tỷ lệ so với năm trước

Biểu đồ 2.2. Kim ngạch xuất khẩu từ năm 2005 đến năm 2011

Kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng mạnh qua các năm. Năm 2006 , tốc độ tăng
là 122.74% , năm 2007 giảm nhẹ xuống 121.93% và tăng nhanh lên mức 129.08 % năm
2008. Mặc dù có sự có sự giảm kim ngạch xuất khẩu trong năm 2009 do tác động của
khủng hoảng kinh tế thế giới,nhưng đã trở lại đà tăng trưởng vào năm 2010 và 2011.

Thứ hai, Việc áp dụng thuế GTGT thay cho thuế doanh thu phù hợp với thông lệ
quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các cam kết trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
25

Hầu hết các nước trên thế giới đã áp dụng thuế GTGT. Việc ban hành Luật thuế
GTGT không những khắc phục được những bất cập của thuế doanh thu là thu trùng thuế
qua các khâu sản xuất, lưu thông, phân phối mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu
tư phát triển sản xuất, kinh doanh và hoạt động thương mại của các doanh nghiệp trong
nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Theo cam kết khi hội nhập kinh tế quốc tế, nước ta phải cắt giảm thuế nhập khẩu,
đồng thời phải bãi bỏ các khoản trợ cấp trực tiếp từ ngân sách cho doanh nghiệp, việc thu
thuế GTGT đối với hàng hoá nhập khẩu, hoàn thuế cho hàng hoá xuất khẩu đã góp phần
điều chỉnh cơ chế kinh tế phù hợp với thông lệ quốc tế nhưng vẫn đảm bảo yêu cầu
khuyến khích doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ, bảo hộ hợp lý sản xuất trong
nước và bù đắp cho Ngân sách phần thiếu hụt do cắt giảm thuế nhập khẩu.

Thứ ba, Thuế GTGT là nguồn thu quan trọng và ổn định của NSNN, tăng cường
tài chính quốc gia, đảm bảo nguồn lực để phát triển kinh tế – xã hội, xoá đói, giảm nghèo
và củng cố an ninh, quốc phòng.

Về số thu ngân sách, thuế GTGT thu được từ 2005 đến nay đạt kết quả như sau:

Bảng 2.3. Tiền thuế GTGT và phần trăm thuế GTGT


trong nguồn thu ngân sách nhà nước giai đoạn 2005 -2011

Đơn vị: Tỷ đồng

Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011

281.9 442.3
Tổng thu NSNN 210.40 237.90 430.55 559.17 704.27
0 4

Tổng thu thuế 146.1


59.48 74.68 90.16 125.55 204.96 253.11
GTGT 5

% Thuế GTGT 28.27 31.39 31.98 29.16 33.04 36.66 35.94


trong nguồn thu
26

NSNN

Thuế giá trị gia tăng đóng góp ngày càng nhiều cho ngân sách nhà nước. Số tiền
thuế GTGT đã tăng gấp 5 lần từ năm 2005 đến năm 2011, từ 59.48 tỉ đồng lên mức
253.11 tỉ đồng.Không những tăng về số thuế nộp trong ngân sách nhà nước mà tỉ trọng
thuế GTGT trong nguồn thu NSNN tăng lên liên tục qua các năm. Chỉ có riêng năm 2008
tỉ lệ này giảm so với năm 2007, còn lại là chuỗi dài tăng liên tục trong tổng nguồn thu
ngân sách quốc gia. Tỉ lệ này tăng từ 28.27% năm 2005 lên 35.94% trong năm 2011. Tỉ
trọng nguồn thu thuế GTGT trong NSNN ngày một lớn, điều ấy chứng tỏ rằng thuế
GTGT đóng một vai trò cực kì quan trọng trong NSNN.

Thứ tư, Thuế GTGT đã góp phần thúc đẩy việc thực hiện pháp luật về kế toán,
thuế của doanh nghiệp, từ đó, nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp, hiện đại hoá và
đổi mới phương thức quản lý thuế.

Để thực hiện nộp thuế theo phương pháp khấu trừ, doanh nghiệp cần thực hiện
tốt chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ. Từ đó giúp doanh nghiệp hạch toán đầy đủ doanh
thu, chi phí, xác định chính xác kết quả kinh doanh và nâng cao ý thức tự giác chấp hành
pháp luật thuế của các đối tượng nộp thuế.

Áp dụng thuế GTGT vừa đặt ra yêu cầu, vừa tạo điều kiện để cơ quan thuế hiện
đại hoá, đổi mới phương thức quản lý thuế (chuyển từ cơ chế cơ quan thuế trực tiếp tính
thuế và ra thông báo nộp thuế sang cơ chế đối tượng nộp thuế tự tính, tự kê khai, nộp
thuế theo thủ tục đơn giản, công khai, minh bạch; thực hiện phương pháp quản lý rủi ro:
phân loại đối tượng nộp thuế trên cơ sở đó tập trung quản lý thanh tra, kiểm tra những đối
tượng có hành vi gian lận về thuế). Theo cơ chế quản lý mới này, cơ quan thuế có điều
kiện tổ chức lại bộ máy theo chức năng, tập trung vào việc thực hiện các chức năng chính
như tuyên truyền, cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho đối tượng nộp thuế, quản lý nợ và thanh
tra, kiểm tra, đồng thời tạo điều kiện cho việc ứng dụng công nghệ thông tin vào tất cả
các khâu trong quá trính quản lý thuế, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế.
27

2. Thực trạng gian lận thuế GTGT trong các doanh nghiệp Việt nam thời gian qua
2.1. Một số vấn đề lớn trong việc áp dụng luật thuế GTGT
2.1.1.Về đối tượng chịu thuế

Như chúng ta đã biết, thuế GTGT là một loại thuế gián thu điển hình mang tính
trung lập cao. Tại mỗi khâu của quá trình sản xuất, khoản thuế phải nộp được chuyển
sang khâu tiếp theo cho đến người tiêu dùng cuối cùng. Như vậy nó không ảnh hưởng gì
đến quyết định sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trên lý thuyết thì như vậy, vì nếu
như các khâu này bị đứt đoạn tức là có trường hợp nào đó được liệt vào đối tượng không
chịu thuế GTGT thì ưu điểm tránh đánh thuế trùng lắp không còn ý nghĩa nữa. Lúc này
doanh nghiệp không phải kê khai nộp thuế đầu ra nhưng cũng không kê khai khấu trừ
thuế đầu vào. Điều đó khiến cho việc dự đoán những tác động của thuế đối với hoạt động
của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, vì thế các đối tượng không chịu thuế GTGT chỉ
nên giới hạn trong một số ít các trường hợp.

Điều 5 luật thuế GTGT số 13/2008/QH12 có quy định 25 nhóm hàng hóa, dịch
vụ thuộc diện không chịu thuế. Số lượng như vậy là quá nhiều, trong khi mục tiêu của
chính sách thuế GTGT là mở rộng diện chịu thuế và thu hẹp các đầu mối. Một số mặt
hàng đưa vào diện này còn chưa hợp lý, chưa thực sự khuyến khích xuất khẩu gây gián
đoạn trong công tác thu nộp thuế và khó khăn cho doanh nghiệp. Ví dụ như thiết bị máy
móc, phương tiện vận tải chuyên dùng thuộc loại trong nước chưa sản xuất được, nhập
khẩu để tạo tài sản cố định cho doanh nghiệp,… từ trước đến nay thuộc diện không chịu
thuế GTGT, thiết nghĩ, khi mới áp dụng luật thuế này, trong điều kiện nền kinh tế nước ta
còn gặp nhiều khó khăn, các doanh nghiệp hầu hết đều ít vốn nên quy định này sẽ giúp
doanh nghiệp không phải bỏ ra một lượng vốn ứng trước. Tuy nhiên, hiện nay khi nền
kinh tế ngày càng phát triển, các hình thức huy động vốn cho doanh nghiệp cũng nhiều
hơn, thuận tiện hơn, thì việc không đánh thuế đối với mặt hàng này không những làm cho
luật thuế không được thông thoáng mà còn gây gián đoạn đối với các khâu sau, phức tạp
hóa trong tính toán thuế của doanh nghiệp.
28

Chính sách hiện hành cũng quy định hàng hóa thủy sản chưa qua chế biến
không chịu thuế GTGT, do đó nếu các doanh nghiệp thu mua trực tiếp của người sản xuất
không có hóa đơn thì được lập hóa đơn mua hàng Nông - lâm - thủy sản nhưng không
được khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Khi xuất bán cho các nhà máy chế biến thủy sản,
doanh nghiệp phải kê khai nộp thuế GTGT 5% vào ngân sách nhà nước. Từ đặc điểm
này, một số doanh nghiệp đã mua bán hóa đơn GTGT khống để làm chứng từ đầu vào
khấu trừ thuế GTGT, chiếm đoạt 5% tiền thuế.

Ngoài ra, khi bàn về đối tượng chịu thuế, không chịu thuế của luật thuế GTGT
thì Điều 5 và Điều 8 của luật đã quy định rõ ràng những đối tượng nào không phải chịu
thuế, đối tượng chịu thuế suất 0%, 5%, 10%. Trong bối cảnh nền kinh tế mở cửa và hội
nhập như hiện nay thì không những chỉ có những đối tượng như vậy mà còn xuất hiện
nhiều đối tượng mới, vậy những trường hợp này thì sẽ xử lý như thế nào? Điều này tạo ra
sự thiếu công bằng trong việc áp thuế và không bao quát hết các hàng hóa, dịch vụ.

2.1.2.Về thuế suất

Trong thời gian qua, việc xây dựng hệ thống chính sách thuế thường chú trọng
nhiều đến mục tiêu tài chính (do áp lực của việc thoã mãn nhu cầu chi ngân sách nhà
nước) và mục tiêu kinh tế (do yêu cầu phát triển kinh tế trong nước và xu thế hội nhập
với nền kinh tế khu vực cũng như thế giới). Mục tiêu xã hội lại được thực hiện bằng cách
lồng ghép trong chính sách thuế làm mất đi tính trung lập. Tính công bằng thực hiện
tương đối ổn định giữa các thành phần kinh tế trong nước nhưng lại thường không ổn
định khi thực hiện giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài (do hiệu quả thu hút
vốn đầu tư nước ngoài giảm). Vì vậy chính sách thuế thường xuyên thay đổi về thuế suất,
hệ thống thuế suất khá phức tạp.

Từ khi chuyển sang áp dụng thuế GTGT, số lượng mức thuế suất giảm đi rất
nhiều so với 11 mức thuế suất trước kia của thuế doanh thu, mặt khác lại còn thường
xuyên được xem xét sửa đổi (giảm từ 4 mức thuế suất xuống còn 3 mức thuế suất như
hiện nay), bởi vậy đã thu được nhiều thành công đáng kể. Tuy nhiên, trong quá trình thực
29

hiện cũng xuất hiện nhiều hạn chế cần phải xem xét của hệ thống nhiều mức thuế suất
này.

Trước hết, việc có nhiều mức thuế suất làm cho công tác xây dựng chính sách
của các cơ quan có chức năng gặp nhiều khó khăn. Lúc này, muốn tạo ra một sắc thuế
thật công bằng thì cơ quan hoạch định chính sách phải xây dựng các tiêu chuẩn phân loại
hàng hóa, dịch vụ để từ đó mà áp vào các nhóm thuế suất khác nhau. Điều này không
phải lúc nào cũng được thực hiện thuận lợi vì sự khác nhau giữa các loại hàng hóa là rất
khó phân định, sẽ có nhiều ý kiến phản hồi từ các đối tượng chuyển đến, đặt ra một vấn
đề là lại phải tốn một khoản chi phí nhất định để tổ chức trả lời giải thích cụ thể…

Tiếp theo là đối với các doanh nghiệp, không phải doanh nghiệp nào cũng chỉ
sản xuất kinh doanh một loai hàng hóa nhất định và cũng không phải tất cả nguyên liệu
đầu vào của các doanh nghiệp đều chịu một mức thuế suất như nhau, bởi vậy nên công
tác tính toán thuế của họ sẽ trở nên rất phức tạp với nhiều mức thuế suất. Giữa các khâu
của quá trình sản xuất thuế phải thu khác nhau làm cho đối tượng nộp thuế bị phân biệt
đối xử. Chính vì lý do như vậy mà khi doanh nghiệp xác định hướng sản xuất kinh doanh
của mình phải hao tốn thêm một lượng chi phí để xây dựng chiến lược mặt hàng, tính
toán thuế cho từng sản phẩm, từng giai đoạn.

2.1.3.Về phương pháp tính thuế

Phương pháp tính thuế là yếu tố quyết định đến việc thuế tính có bị trùng lắp,
chồng chéo hay không. Hiện nay, ở nước ta đang thực hiện hai phương pháp tính thuế là
phương pháp khấu trừ và phương pháp tính trực tiếp.

Phương pháp khấu trừ thuế:


 Số thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra - Thuế GTGT đầu vào

được khấu trừ.


 Trong đó: Thuế GTGT đầu ra = Giá tính thuế của hàng hóa, dịch vụ bán

ra * Thuế suất thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ đó.


Phương pháp trực tiếp:
30

 Số thuế GTGT phải nộp = GTGT của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế *
Thuế suất thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ đó.
 Trong đó: GTGT của hàng hóa, dịch vụ = Giá thanh toán của hàng hóa,

dịch vụ bán ra - Giá thanh toán của hàng hóa, dịch vụ mua vào.

Hiện nay, có ý kiến cho rằng áp dụng 2 phương pháp tính thuế dẫn đến hai khía
cạnh, không đảm bảo công bằng giữa đối tượng nộp thuế theo 2 phương pháp khác nhau.

Thực ra khi áp dụng nhiều phương pháp như quy định hiện hành thì sẽ có
những hạn chế và bất hợp lý, gây ra sự không thống nhất về giá tính thuế, đối với phương
pháp khấu trừ thì giá là giá chưa có thuế GTGT, còn phương pháp trực tiếp là giá đã có
thuế GTGT, điều này làm cho tính liên hoàn của thuế GTGT bị đứt đoạn, không công
bằng giữa các địa bàn tỉnh. Do quy định Cục thuế tỉnh xác định tỷ lệ % GTGT tính trên
doanh thu làm căn cứ tính thuế, dẫn đến mỗi tỉnh ban hành một biểu tỷ lệ thuế suất riêng
không thống nhất trong cả nước. Điều này làm mất đi ý nghĩa của thuế GTGT vì đối
tượng nộp thuế trong trường hợp này không quan tâm đến tỷ lệ GTGT trên doanh thu mà
họ chỉ quan tâm đến doanh thu và số thuế phải nộp.

Ngoài ra, tính thuế theo phương pháp trực tiếp không khắc phục được hiện
tượng trùng thuế vốn là ưu điểm nổi bật của thuế GTGT. Theo công thức của phương
pháp trực tiếp thì giá bán và giá vốn của hàng hóa đều đã là giá có thuế GTGT, trong
trường hợp nếu doanh số bán ra lớn hơn giá vốn (thường phổ biến) thì phần chênh lệch
đã bị đánh trùng thuế.

Tuy nhiên, việc áp dụng đồng thời phương pháp tính thuế trực tiếp trên giá trị
gia tăng bên cạnh phương pháp khấu trừ là để phù hợp với điều kiện kinh tế của Việt
Nam: Hiện nay có trên hơn 1,5 triệu hộ kinh doanh với quy mô nhỏ, trình độ quản lý kinh
doanh và hạch toán thấp, chưa có đủ điều kiện thực hiện chế độ kế toán, hóa đơn, chứng
từ, số thuế GTGT nộp của đối tượng này chỉ chiếm gần 20% tổng số thu về thuế GTGT.
Và đây cũng là biện pháp khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện đầy đủ hóa đơn
31

chứng từ. Tuy nhiên, phương pháp này vẫn không tránh khỏi những hạn chế vốn có của
nó.

2.1.4.Về chế độ hóa đơn chứng từ

Một trong những khó khăn vướng mắc lớn nhất trong quá trình thực hiện luật
thuế GTGT ở nước ta là vấn đề về hóa đơn chứng từ. Do đặc điểm của luật thuế GTGT là
tăng cường hạch toán kinh tế và thực hiện chặt chẽ nguyên tắc dựa vào hóa đơn mua
hàng để khấu trừ số thuế GTGT đã nộp ở khâu trước, tuy nhiên nền kinh tế của nước ta
hiện nay việc mua bán được thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt, một số lượng lớn các giao
dịch không cần tới hóa đơn nên những khó khăn khi áp dụng thuế GTGT là điều khó
tránh khỏi.

Trong bối cảnh đó, luật thuế GTGT lại quy định quá nhiều loại hóa đơn, bên
cạnh hóa đơn dành cho các cơ sở áp dụng theo phương pháp trực tiếp và phương pháp
khấu trừ còn có các loại hóa đơn đặc thù kể cả bảng kê mua hàng hóa của người không có
hóa đơn,… Các hóa đơn đều có tính pháp lý như nhau do Luật thuế quy định. Nhưng
điểm đáng chú ý ở đây là việc khấu trừ thuế lại khác nhau, chỉ có hóa đơn GTGT hoặc
hóa đơn đặc thù tại các đơn vị nộp thuế theo phương pháp khấu trừ mới được khấu trừ
thuế theo quy định.

Chính phủ đã ban hành rất nhiều quy định về hóa đơn chứng từ như Nghị định
số 89/2002/NĐ-CP quy định về việc in, phát hành, quản lý hóa đơn,… nhưng vẫn nảy
sinh hiện tượng lợi dụng trong mua bán, sử dụng hóa đơn bất hợp pháp để khai man thuế
GTGT đầu vào để khấu trừ hoặc gian lận trong hoàn thuế.

2.1.5.Về việc khấu trừ, kê khai, hoàn thuế GTGT

Dù đã qua một thời gian thực hiện không phải là ngắn nhưng những bất cập về
khấu trừ, kê khai, hoàn thuế GTGT vẫn đang được rất nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân
quan tâm.
32

Thứ nhất là vấn đề khấu trừ thuế. Trước đây vẫn tồn tại một số điểm có quy định
trái ngược nhau làm cho đối tượng nộp thuế không biết phải làm như thế nào. Luật thuế
GTGT hiện hành đã cố gắng khắc phục những tồn tại đó.

Thứ hai là vấn đề kê khai và hoàn thuế GTGT. Do là một luật thuế mới được áp
dụng tại Việt Nam nên để tránh cho doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong sản xuất
kinh doanh, luật thuế GTGT đã có một số quy định về kê khai và hoàn thuế:

Luật thuế GTGT quy định thuế suất 0% đối với đa số hàng hóa, dịch vụ xuất
khẩu. Lợi dụng quy định này một số đơn vị đã kê khai khống hàng hóa xuất khẩu mà thực
ra là tiêu thụ trong nước nhằm chiếm đoạt toàn bộ thuế đầu vào đã nộp cho ngân sách nhà
nước. Mặc dù đã có những quy định bổ sung về điều kiện chứng minh hàng xuất khẩu
nhưng vẫn không loại bỏ hết được tình trạng này.

Hoàn thuế là một thuộc tính của thuế GTGT đòi hỏi vừa phải chính xác, chặt chẽ
vừa phải nhanh gọn thuận lợi cho các đối tượng được hoàn thuế. Chính vì lý do đó mà
các quy định của của Luật thuế GTGT cũng cố gắng sao cho các cơ sở kinh doanh được
tối đa hóa các quyền để khấu trừ và hoàn thuế. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế trong
các quy định này. Trong Khoản 4 Điều 18 Thông tư 06/2012/TT-BTC ngày 11-1-2012
của Bộ Tài chính hướng dẫn Luật Thuế GTGT quy định: “số thuế GTGT đầu vào của
hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu chưa được khấu trừ nhỏ hơn 200 triệu đồng thì cơ sở kinh
doanh không được xét hoàn thuế theo tháng”,điều này sẽ làm cho vốn của các doanh
nghiệp bị lưu lại khá lâu gây ảnh hưởng đến quá trình kinh doanh tiếp theo của họ.

Các cơ sở kinh doanh không có hoạt động xuất khẩu hoặc có nhưng giá trị thấp,
thì dù số thuế đầu vào trong tháng phát sinh cao đến mấy vẫn không được hoàn theo
tháng mà phải chờ đủ 3 tháng. Đây là hạn chế rất lớn của quy định về hoàn thuế.

2.1.6.Về cơ chế quản lý và thực hiện công tác quản lý của các cơ quan thuế

Đã nhiều năm kể từ khi cải cách thuế Việt Nam được tiến hành, bên cạnh những
thành tựu đạt được thì các hạn chế vẫn tồn tại khá nhiều. Đối với hệ thống thuế nói chung
33

và riêng với sắc thuế GTGT, một điều đáng chú ý là hệ thống cơ quan hành thu còn quá
cồng kềnh, số lượng cán bộ thuế nhiều mà tỷ lệ thanh tra thuế lại không đáng kể, … Các
khâu hành thu phức tạp, một số trường hợp còn xảy ra hiện tượng chồng chéo.

Khi áp dụng cơ chế hành thu tự khai, tự nộp do các điều kiện cần thiết chưa xuất
hiện một cách đồng bộ nên vẫn xảy ra hiện tượng trốn lậu thất thoát thuế.

Công tác quản lý mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu trong thời kỳ mới nhưng
vẫn còn nhiều bất cập trên tất cả các lĩnh vực từ thể chế đến cách thức quản lý. Quản lý
thuế hầu hết dựa trên kinh nghiệm, chưa khoa học, hợp lý.

Bộ máy tổ chức ngành thuế cũng chưa hoàn thiện: Hiện nay bộ máy quản lý thuế
của nước ta được tổ chức theo ngành dọc từ Trung ương tới cấp huyện. Hệ thống này
được phân chia vừa theo sắc thuế vừa theo đối tượng nộp thuế. Một cán bộ thuế phải đảm
nhiệm nhiều chức năng từ thông báo thuế, thu thuế, kiểm tra thuế do đó không có điều
kiện chuyên sâu vào một nghiệp vụ nhất định. Khi chuyển sang áp dụng thuế GTGT, quy
trình quản lý thuế phải thay đổi, cơ quan thuế phải tổ chức thu thuế, khấu trừ thuế, hoàn
thuế, trình độ của một số cán bộ còn thấp do đó không đáp ứng yêu cầu của công việc.

Sau một thời gian khi Luật thuế GTGT đã đi vào thực tiễn thì vẫn còn tồn tại
một số điểm trong quản lý và tổ chức như chức năng, nhiệm vụ điều tra khởi tố, cưỡng
chế thu nợ thuế chưa đủ cơ sở pháp lý. Trình độ của một số cán bộ thuế còn non kém.
Đội ngũ cán bộ nói chung, xét về cả số lượng lẫn chất lượng có nhiều mặt chưa đáp ứng
được yêu cầu của công việc, công tác tổ chức cán bộ còn nhiều khiếm khuyết, chưa rõ
ràng và thiếu nhất quán. Công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ còn nhiều hạn chế.
Công chức thuế nói chung còn thiếu kiến thức chuyên sâu, kỹ năng quản lý thuế quốc tế,
cán bộ lãnh đạo một số còn yếu về kiến thức quản lý kinh tế, quản lý vĩ mô và quản lý
hành chính nhà nước.
34

Do truyền thống thanh toán trong các giao dịch chủ yếu là bằng tiền mặt nên đã
hạn chế rất nhiều đối với cơ quan thuê trong việc kiểm soát các hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp.

Sự thống nhất hoạt động giữa các cơ quan chức năng còn chưa cao, một số còn
chưa nhiệt tình trong việc cung cấp các thông tin để cơ quan thuế tổng hợp nhằm đưa ra
những giải pháp bổ sung kịp thời cho các sắc thuế.

2.2. Thực trạng gian lận thuế GTGT ở Việt Nam

Trong những năm gần đây, mức độ gian lận thuế vẫn liên tục tăng. Cụ thể, Theo
báo cáo từ Bộ Tài chính, đến tháng 11/2012, ngành Thuế đã tổ chức thực hiện thanh tra,
kiểm tra trên 4.715 lượt doanh nghiệp, tăng 30% so với cùng kỳ năm 2011. Theo đó, đã
phát hiện, xử lý truy thu, xử phạt 8.570 tỷ đồng, tăng 54% so với cùng kỳ; giảm lỗ 11.830
tỷ đồng, tăng 58% so với cùng kỳ; giảm khấu trừ thuế giá trị gia tăng là 613 tỷ đồng. Như
vậy, số lượng doanh nghiệp được thanh tra, kiểm tra trong 11 tháng đầu năm chỉ tăng
30% so với cùng kỳ năm 2011, nhưng số tiền mà cơ quan thuế truy thu, truy hoàn và phạt
vi phạm hành chính thuế tăng tới 58% đã cho thấy mức độ gian lận thuế ngày càng tăng.

Qua hoạt động kiểm tra, kiểm soát, chống buôn lậu, gian lận thương mại và vận
chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới, ngành Hải quan cũng phát hiện bắt giữ, xử lý
gần 22.000 vụ việc vi phạm, trị giá ước tính gần 370 tỷ đồng

Thực tiễn áp dụng thuế GTGT ở nước ta trong thời gian vừa qua cho thấy pháp
luật thuế GTGT còn có nhiều vấn đề lớn cần giải quyết. Chính những vấn đề này đã tạo
ra kẽ hở cho một số kẻ lợi ty dụng để vi phạm pháp luật. Những công ty này đã dùng rất
nhiều mánh khóe nhằm trốn thuế hay trục lợi trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT. Một số
mánh khóe thường thấy:

2.2.1.Gian lận thông qua hóa đơn

Khai khống hóa đơn đầu vào:


35

Luật thuế giá trị gia tăng quy định: Doanh nghiệp phải có đầy đủ chứng từ hóa
đơn hợp lệ ghi rõ số thuế giá trị gia tăng đã thanh toán ghi trên hóa đơn mua hàng hoặc
giá thanh toán của hàng hóa dịch vụ mua vào. Một số doanh nghiệp đã lợi dụng hóa đơn
thật do Bộ Tài chính phát hành để ghi khống các khoản thuế và chi phí hàng hóa, dịch vụ
hợp lý nhằm trừ thuế đầu ra hoặc tăng chi phí để trốn thuế, xin hoàn thuế. Thực chất là
hóa đơn thật song hàng hóa dịch vụ thể hiện trên hóa đơn lại không có thật để xin hoàn
thuế GTGT.

Trong thực tiễn các cửa hàng bán lẻ xăng dầu thường sử dụng mánh khóe này.
Chẳng hạn cửa hàng A bán lẻ xăng dầu cho người tiêu dùng nên không phải dùng hóa
đơn của Bộ Tài chính để thanh toán với khách hàng. Ví dụ lượng xăng dầu bán lẻ không
dùng hóa đơn là 500.000 lít. Sau đó cửa hàng thỏa thuận với các doanh nghiệp hoặc công
ty có nhu cầu hợp lý hóa chi phí đầu vào bằng hóa đơn số xăng dầu trên và xuất khống
hóa đơn cho phần xăng dầu bán lẻ này. Doanh nghiệp hoặc công ty sử dụng những hóa
đơn này để ghi khống phần xăng dầu đã được bán lẻ cho người tiêu dùng nhằm hợp lý
hóa chi phí đầu vào của doanh nghiệp xin hoàn thuế hoặc trốn thuế và chia nhau.

Một số doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu là sản phẩm nông nghiệp cũng thường
sử dụng mánh khóe khai khống hàng nông thủy sản mua của nông dân không có hóa đơn
chứng từ để trốn thuế GTGT. Theo Hiệp hội Cà phê- Ca cao Việt Nam (VICOFA), vào
mùa vụ cà phê cuối năm 2012, có rất nhiều tình trạng nhiều doanh nghiệp (DN) trong
nước thu mua cà phê giá cao hơn giá thị trường 700 - 1.000 đồng/kg rồi bán lại với giá
thấp hơn hoặc bằng giá thị trường nhưng vẫn thu được lợi nhuận. Các DN này mua cà
phê từ nông dân, cơ sở, đại lý thu mua cà phê mà không có hóa đơn, chứng từ. Nếu tính
giá thị trường lúc đó là 40.000 đồng/kg cà phê, mức thuế GTGT DN thu mua phải chịu là
5%, tương ứng số tiền 2.000 đồng/kg, tính ra giá DN mua gồm giá thành cộng với tiền
thuế phải chịu là 42.000 đồng/kg. Tuy nhiên, bằng hình thức mua trốn thuế nên dù những
DN này có mua giá cao hơn giá thị trường 1.000 đồng là 41.000 đồng/kg rồi sau đó bán
lại cho DN xuất khẩu giá 40.000 đồng/kg vẫn lãi 1.000 đồng/kg vì DN xuất khẩu phải trả
thêm 5% thuế GTGT/kg (2.000 đồng/kg) cho DN thu mua. Do cà phê nhân xuất khẩu
36

được hoàn thuế GTGT nên sau khi xuất hàng, DN xuất khẩu được hoàn trả số thuế này,
kết quả là Nhà nước thất thu.

Ngoài ra, theo báo cáo của Cục Thuế tỉnh Lâm Đồng, vừa qua đã phát hiện tình
trạng một số doanh nghiệp, cá nhân lợi dụng chính sách thông thoáng và việc tự in hóa
đơn theo Nghị định số 51/2010/NĐ-CP nhằm sử dụng hóa đơn để khấu trừ thuế GTGT
đầu vào và trốn thuế, gian lận thuế. Cụ thể, một số DN cà phê tại Lâm Đồng mua cà phê
trên hóa đơn (không có hàng hóa thật) của DN TP. Hồ Chí Minh rồi tiếp tục xuất hóa đơn
khống trị giá hàng chục tỷ đồng cho DN khác, thông qua đó gian lận, chiếm dụng tiền
thuế của Nhà nước

Ngoài ra còn rất nhiều chiêu trò liên quan hóa đơn khác mà doanh nghiệp thường
sử dụng để gian lận thuế GTGT, như:

Không xuất hóa đơn khi bán hàng làm giảm giá thanh toán đầu ra nhằm trốn thuế
hoặc hoãn thuế: một căn cứ để tính thuế là giá thanh toán đầu ra của sản phẩm.
Nếu giả định đầu vào không đổi, doanh nghiệp có thể sử dụng biện pháp giảm
thuế đầu ra bằng cách bán hàng không xuất hóa đơn rồi khai báo là hàng tồn kho
để trốn thuế hoặc hoãn thuế.
Bán hàng ghi chênh lệch giá trị giữa hai liên hóa đơn (giá trị hàng hóa, dịch vụ ghi
trên liên giao cho khách hàng cao hơn giá trị ghi trên cách liên còn lại).
Bán hàng ghi hóa đơn giá trị thấp hơn thực tế thanh toán.
Dùng hóa đơn giả của một lô hàng khác, quay vòng hóa đơn. Một vụ án điển hình
của chiêu gian lận này đó là trường hợp vụ cửa hàng hiệu Gucci – Milano trốn
thuế. Cụ thể, vào ngày 7/12 và ngày 9/12/2012, Đội Quản lý thị trường số 4, 14
phối hợp với Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức
vụ (PC46), Công an Hà Nội đã kiểm tra cơ sở kinh doanh quần áo, giày dép, đồ da
nhãn hiệu Gucci, Milano tại số 63 Lý Thái Tổ (Hoàn Kiếm). Qua kiểm tra đã phát
hiện và tạm giữ 1.447 đôi giày, dép các loại; 5 chai nước hoa, 5.545 sản phẩm
quần, áo, váy, dây lưng… 312 chiếc kính; 320 chiếc túi xách, ví… có dấu hiệu
gian lận. Sau 10 ngày đấu tranh quyết liệt các đối tượng kinh doanh mới chịu thừa
37

nhận hành vi “quay vòng” hóa đơn. Theo đó, số hàng bị phát hiện là hàng thật
100%. Hãng từ Italia đã bay sang xác nhận không có hàng giả trong đó. Tuy
nhiên, toàn bộ hóa đơn giấy tờ đều thuộc lô hàng khác. Lô hàng có giá niêm yết
99 như vậy các đối tượng đã gian lận thuế GTGT của nhà nước nhiều tỷ đồng, và
có thể đây không phải là lần duy nhất của họ.

Nhìn chung, những mánh khóe liên quan tới hóa đơn GTGT, đặc biệt dùng hóa
đơn GTGT giả là phổ biến nhất. Do thuế GTGT được tính trên khoản giá trị tăng thêm
của hàng hóa dịch vụ phát sinh trong quá trình sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng với 3
mức thuế suất áp dụng cho các loại hàng hóa cụ thể: 0%, 5%, 10%. Luật Thuế GTGT quy
định 2 phương pháp tính thuế, đó là: phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính
thuế trực tiếp trên GTGT. Lợi dụng phương pháp khấu trừ thuế, một số công ty, doanh
nghiệp đã tìm mua hóa đơn GTGT trôi nổi trên thị trường để được khấu trừ thuế (trốn
thuế). Đặc biệt, lợi dụng mức thuế suất 0% đối với hàng hóa nông, thủy sản xuất khẩu,
một số đơn vị đã lập hồ sơ mua bán khống để được hoàn thuế nhằm chiếm đoạt số tiền
lớn của Nhà nước. Bọn tội phạm đã lợi dụng quy trình, thủ tục thành lập doanh nghiệp
quá dễ dàng: chỉ cần đơn xin thành lập doanh nghiệp kèm theo CMND, hộ khẩu
photocopy là đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh. Còn vốn và
trụ sở kinh doanh do đối tượng tự khai báo, cơ quan chức năng không kiểm tra, xác minh.
Các đối tượng được thuê làm giám đốc công ty, doanh nghiệp, hầu hết đều không có
công ăn việc làm, trình độ học vấn thấp, như: thợ hồ, chạy xe ôm, đầu bếp, thậm chí có
trường hợp nghiện ma túy…, trụ sở làm việc không ổn định. Khi làm thủ tục thành lập
công ty, “doanh nghiệp ma”, những ông “giám đốc ma” được bọn chúng trả từ 5 đến 10
triệu đồng/tháng, sau đó giao lại toàn bộ tư cách pháp nhân để bọn chúng thực hiện việc
mua bán hóa đơn.

Thủ đoạn phạm tội phổ biến của các đối tượng trên là thành lập công ty, doanh
nghiệp nhưng không tổ chức sản xuất, kinh doanh mà mục đích chính là mua bán hóa
đơn GTGT để thu lợi bất chính. Sau đó giải tán doanh nghiệp hoặc di chuyển đi nơi khác
mà không khai báo với cơ quan chức năng quản lý. Lợi dụng chủ trương thông thoáng
38

của Nhà nước trong công tác hậu kiểm nên nhiều đối tượng đứng ra thành lập doanh
nghiệp để mua bán hóa đơn GTGT, câu kết với các doanh nghiệp ở địa phương khác lập
hồ sơ khống để tham ô, lừa đảo chiếm đoạt tiền của Nhà nước. Ghi giá bán trên hóa đơn
GTGT thấp hơn giá thực tế để trốn thuế. Thành lập doanh nghiệp nhưng năng lực tài
chính của doanh nghiệp lại không đảm bảo, không có kho tàng, bến bãi; trụ sở thì thuê
mướn nhưng hàng tháng báo cáo kê khai thuế với doanh số bán hàng rất lớn, thậm chí có
những hóa đơn GTGT xuất trị giá tới hàng chục tỉ đồng, nhằm mua bán hóa đơn GTGT
thu lợi bất chính. Tạo dựng nguồn hàng khống đầu vào với thủ đoạn lập nhiều hợp đồng
kinh tế “ma” với nhiều công đoạn, nhiều doanh nghiệp với phương thức thanh toán trực
tiếp không qua ngân hàng nhằm tạo đầu vào với số thuế GTGT lớn và âm liên tục trong
nhiều tháng để được hoàn thuế. Trong thời gian qua, có không ít vụ án như vậy bị phanh
phui, ví dụ như:

Vụ Công ty TNHH Đại Việt Cần Thơ do Đặng Thanh Tùng (SN 1963, thường trú
ở xã Vĩnh Thuận Đông, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang) làm giám đốc, đã xuất
khống 550 hóa đơn hàng hóa nông sản cho 22 doanh nghiệp với doanh số hơn
430 tỉ đồng. Việc làm này đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoàn thuế và trốn
thuế, gây thiệt hại cho Nhà nước 24 tỉ đồng. Công ty TNHH Phúc Lợi, (ở đường
30-4, phường Hưng Lợi, quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ) do Giám đốc Trần Văn
Lũy (SN 1967, thường trú ở đường Trần Phú, phường Cái Khế, Q. Ninh Kiều, TP
Cần Thơ) điều hành, có hành vi mua bán hóa đơn GTGT để các doanh nghiệp
khác sử dụng hóa đơn xin hoàn thuế, gây thiệt hại Nhà nước 4 tỉ đồng. Sau khi
điều tra cơ quan công an đã thu hồi được 91.000.000 đồng. Trần Văn Lũy đã bị
Toà án Nhân dân TP Cần Thơ xử phạt 10 năm tù giam.
Vụ án có quy mô lớn nhất từng bị phanh phui do Huỳnh Quốc Ngọc (SN 1978, ở
đường Hoàng Văn Thụ, phường 4, quận Tân Bình, TP Hồ Chí Minh) cầm đầu. Từ
năm 2003 đến khi bị bắt (năm 2005), Ngọc và đồng bọn đã thành lập 26 công ty,
doanh nghiệp tại TP Cần Thơ và 15 công ty, doanh nghiệp tại TP Hồ Chí Minh để
sử dụng tư cách pháp nhân mua bán hóa đơn GTGT. Chúng đã mua tổng cộng 181
cuốn hóa đơn GTGT tại Chi cục Thuế quận Ninh Kiều, (TP Cần Thơ) và đã sử
39

dụng 159 cuốn với tổng doanh số xuất bán khống là trên 1200 tỷ đồng, thu lợi bất
chính số tiền 13,9 tỷ đồng. Đồng thời, tạo điều kiện cho khoảng 450 công ty,
doanh nghiệp tại 35 tỉnh, thành phố trên toàn quốc chiếm đoạt tiền của Nhà nước,
thông qua việc hoàn thuế, khấu trừ, trốn thuế trên 70 tỉ đồng, gây hậu quả đặc biệt
nghiêm trọng.
Hay như vụ án mới đây, Nguyễn Văn Nhi cùng 2 thuộc cấp bị đề nghị truy tố về
tội “mua bán trái phép hóa đơn”. 8 bị can còn lại bị đề nghị truy tố tội “trốn thuế”
có đến 5 người là giám đốc các công ty, doanh nghiệp ở TP.HCM, còn lại là nhân
viên kế toán và hành nghề buôn bán. Theo kết luận điều tra, từ tháng 8/2007 đến
tháng 11/2010 Nhi đã mua lại khoảng 10 công ty, doanh nghiệp đang nợ thuế hoặc
vì nhiều lý do nào đó phải tạm dừng hoạt động, với giá rẻ bèo 20-30 triệu
đồng/công ty. Sau đó Nhi sai thuộc cấp mang danh công ty, doanh nghiệp vừa
mua đó đến cơ quan thuế địa phương để mua những quyển hóa đơn GTGT. Nhi
cùng đồng bọn giả chữ ký của công ty, doanh nghiệp vừa mua, đóng dấu vào hóa
đơn và bán hóa đơn ký khống cho những công ty, doanh nghiệp khác có nhu cầu,
nhằm thu lợi bất chính. Rất nhiều công ty, doanh nghiệp mua hàng hóa trôi nổi
trên thị trường cần hóa đơn để hợp pháp hóa đầu ra, đầu vào và trốn thuế Nhà
nước nên đã tìm đến “làm ăn” với tập đoàn của Nhi. Điển hình như Công ty Vẫn
Xanh Màu Áo, trụ sở quận Bình Thạnh do bà Dương Kim Kết (SN 1956, trú quận
Bình Thạnh) làm giám đốc đã mua 196 tờ hóa đơn của Nhi để hợp pháp hóa đầu
vào hàng hóa là giấy cuộn, trốn thuế hơn 5 tỷ đồng. Một trong những đối tượng
hoạt động mạnh trong đường dây này phải kể đến là Huỳnh Thị Thiên Hương (SN
1979, trú tỉnh Ninh Thuận) đã mua của Nhi 1.256 tờ hóa đơn ghi khống hàng hóa
cho nhiều công ty, doanh nghiệp với tổng trị giá gần 280 tỷ đồng, qua đó trốn
khoản thuế Nhà nước gần 24 tỷ đồng. Kết luận điều tra của công an cho biết,
đường dây do Nguyễn Văn Nhi cầm đầu đã bán ra thị trường 11.521 tờ hóa đơn
GTGT ghi khống tổng giá trị hàng hóa hơn 3.160 tỷ đồng, qua đó nhiều công ty,
doanh nghiệp đã trốn thuế Nhà nước hàng chục tỷ đồng; riêng Nhi và đồng bọn
thu lợi bất chính trên 6 tỷ đồng.
40

2.2.2.Quay vòng hàng xuất khẩu nhằm trốn thuế

Các doanh nghiệp Việt Nam có hạn ngạch xuất khẩu có thể móc nối với các
doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn ký hợp đồng mua bán các mặt hàng
này sau đó móc nối với cán bộ hải quan làm thủ tục xuất khẩu các mặt hàng này. Sau khi
hàng xuất khẩu của Việt Nam đã làm thủ tục hải quan hợp pháp ở cửa khẩu và chính thức
đưa qua biên giới thì nó được chuyển cho công ty "ma" hoặc công ty thật nhưng đã bán
con dấu, hưởng hoa hồng và ngay lập tức lực lượng cửu vạn lại mang lậu qua đường
mòn trở lại Việt Nam và lô hàng này lại tiếp tục làm thủ tục xuất khẩu hợp pháp qua biên
giới và lại quay vòng nhập lậu lại Việt Nam. Với mánh khóe này có những lô hàng chúng
quay vòng tới 04 lần trong tháng và như vậy giá trị lô hàng xuất khẩu tăng gấp 04 lần,
hoàn GTGT gấp 04 lần, Nhà nước mất thêm 03 lần nữa cho bọn gian thương. Đây là
mánh khóe mà chúng gọi là hàng "cò quay".

2.2.3.Dùng hàng tạm nhập tái xuất để xin hoàn thuế GTGT

Một số doanh nghiệp xin thủ tục tạm nhập khẩu hàng có thuế xuất nhập khẩu khá
cao (20-30%) mà trong nước đang có nhu cầu rồi tái xuất xin hoàn thuế nhập khẩu và
thuế GTGT (hàng tạm nhập tái xuất được hoàn thuế nhập khẩu và thuế GTGT). Tuy
nhiên, trong thực tế doanh nghiệp mang toàn bộ số hàng này tiêu thụ trong nước rồi lập
hồ sơ chứng từ xuất khẩu khống số hàng này để xin hoàn thuế nhập khẩu và GTGT.

Điển hình cho mánh khóe này là vụ án gian lận trốn thuế của công ty Xăng dầu
Hàng không Việt Nam (Vinapco). Theo đó, vụ việc bắt đầu từ ngày 10.5.2012, Vinapco
có trụ sở tại 202 phố Nguyễn Sơn, phường Bồ Đề, quận Long Biên, thành phố Hà Nội, do
ông Trần Hữu Phúc - TGĐ đốc, là người đại diện theo pháp luật mở tờ khai hải quan tạm
nhập 5.463,111 tấn xăng Mogas 92 mua từ Singapore. Sau khi nhập khẩu, số xăng trên
được DN gửi tại kho xăng dầu Đình Vũ của Cty cổ phần 19.9. Để tái xuất số xăng đã tạm
nhập, đầu tháng 7.2012 Cty xăng dầu hàng không đã mở 7 tờ khai hải quan tái xuất tại
Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Hải Phòng KVI, khai báo tái xuất tổng số 296,6 tấn xăng
Mogas A92 (tương đương 422.645 lít xăng), trị giá khoảng 8 tỉ đồng cho Cty TNHH
41

cung ứng dầu và thủy sản thành phố Bắc Hải - Trung Quốc qua cửa khẩu Tà Lùng - Cao
Bằng (thực tế công ty này được xác minh là không có thật). Số xăng tái xuất trên được
bơm từ kho xăng dầu Đình Vũ tại Hải Phòng vào 7 xe ôtô stec; hải quan cảng Hải Phòng
đã niêm phong hải quan (kẹp chì) vào 7 xe trên, hoàn thành hồ sơ tái xuất và giao cho
chủ hàng vận chuyển đi Cao Bằng để tái xuất vào các ngày 7 và 10.7.2012. Cty xăng dầu
hàng không đã giao cho ông Nguyễn Hải Triều - quyền GĐ Xí nghiệp thương mại dầu
khí hàng không Miền Bắc- chịu trách nhiệm chỉ đạo việc tái xuất lô hàng tại kho và áp tải
lô hàng tái xuất này đi cửa khẩu Tà Lùng, Cao Bằng để giao cho đối tác Trung Quốc. Tuy
nhiên, trên thực tế số xăng này ngay sau khi làm xong thủ tục tại Hải Phòng, Cty xăng
dầu hàng không đã không tái xuất sang Trung Quốc, mà đã được các đối tượng bán cho
các doanh nghiệp trong nước để tiêu thụ nội địa tại các tỉnh Hải Dương, Thái Bình, Thái
Nguyên và Phú Thọ. Vụ việc trót lọt, Vinapco đã gian lận được 2,5 tỉ đồng tiền thuế. Do
có nguy cơ bị phát hiện, các đối tượng đã mượn xăng của đơn vị khác để nhập lại nhằm
trốn tránh sự kiểm tra, kiểm soát và xử lý của cơ quan chức năng. Cụ thể, ngày 1.8.2012,
Cty xăng dầu hàng không đã xin làm thủ tục nhập lại kho xăng dầu Đình Vũ số xăng trên,
sau đó xin hủy tờ khai và chuyển tiêu thụ nội địa. Tuy nhiên, vụ việc đã bị cơ quan điều
tra phát hiện và khởi tố hình sự.

2.2.4.Lợi dụng chính sách khuyến khích của nhà nước

Đây là mánh khóe mới được nhiều kẻ gian lợi dụng khi nhà nước cho khu kinh tế
thương mại đặc biệt Lao Bảo (KKTTM), tỉnh Quảng Trị hưởng ưu đãi. Theo Quyết định
11/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế Khu Kinh tế - Thương
mại đặc biệt Lao Bảo, tỉnh Quảng Trị, về chính sách ưu đãi có quy định hàng hóa, dịch
vụ sản xuất, tiêu thụ trong KKTTM Lao Bảo và hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu từ nước
ngoài vào KKTTM Lao Bảo không phải chịu thuế giá trị gia tăng; hàng hóa, dịch vụ từ
nội địa Việt Nam đưa vào KKTTM Lao Bảo hưởng thuế suất thuế giá trị gia tăng là 0%.
Chính sách này tạo điều kiện thu hút đầu tư, khuyến khích hàng Việt Nam xuất khẩu, góp
phần tạo ra những thay đổi trong đời sống của người dân ở KKTTM đặc biệt Lao Bảo.
42

Qua đó, người dân sống trong khu vực KKTTM đặc biệt Lao Bảo được mua hàng không
phải chịu thuế giá trị gia tăng .

Tuy nhiên, liên quan tới vấn đề hoàn thuế GTGT qua cửa khẩu Lao Bảo, theo
thống kê trong 10 tháng năm 2012, lượng hàng hóa có nguồn gốc nội địa Việt Nam xuất
vào KKTTM Lao Bảo là hơn 2.749 tỷ đồng. Đây là trị giá các hàng hóa có khai báo làm
thủ tục hải quan và được hoàn thuế GTGT gần 270 tỷ đồng. Chủ yếu là các mặt hàng tiêu
dùng như: bánh kẹo 2.056 tấn, trị giá 138 tỷ đồng; cà phê bột 2.388 tấn, trị giá 132 tỷ
đồng; dầu ăn 4,5 triệu lít, trị giá 139 tỷ đồng; mì chính 2.612 tấn, trị giá 123 tỷ đồng; mì
ăn liền 3.747 tấn, trị giá 122 tỷ đồng; sữa bột 4.620 tấn, trị giá 183 tỷ đồng, sữa nước 10,9
triệu lít, trị giá 225 tỷ đồng. Nếu lượng hàng hóa tiêu thụ tại KKTTM Lao Bảo như nêu
trên, thì với 45.000 dân, bình quân 1 người dân trong KKTTM Lao Bảo bỏ ra 61 triệu
đồng/năm để mua hàng, nhưng thực tế không phải như vậy. Qua phản ánh của người dân
sống trong KKTTM Lao Bảo, mặc dù lượng hàng hóa có nguồn gốc nội địa xuất khẩu
vào KKTTM Lao Bảo là rất lớn, nhưng xét về hiệu quả, người dân chưa được hưởng lợi
từ chính sách ưu đãi này về giá cả và chất lượng hàng hóa…, mà chủ yếu là một số doanh
nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này, lợi dụng chính sách ưu đãi của Nhà nước để trục
lợi bất chính, lợi dụng chính sách hoàn thuế GTGT để nâng giá đầu vào, quay vòng, thẩm
lậu nội địa, bán phá giá hàng hóa gây nên tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, khiến
các doanh nghiệp làm ăn chân chính bức xúc. Bên cạnh đó, việc hàng hóa nước ngoài
nhập khẩu vào KKTTM Lao Bảo có tổng trị giá lên đến hơn 1.500 tỷ đồng, nhưng hàng
hóa được làm thủ tục hải quan để đưa ra khỏi KKTTM Lao Bảo (tái xuất ra nước ngoài,
nhập về nội địa hoặc đưa ra khu phi thuế quan khác) chỉ có 376 tỷ. Một số mặt hàng nước
ngoài nhập vào chủ yếu là bia, nước giải khát, rượu, mì chính, sữa nước các loại. Đặc
biệt, mặt hàng đường tinh luyện Thái Lan, trong 10 tháng đã nhập vào KKTTM Lao Bảo
gần 33.000 tấn, trị giá hơn 410 tỷ đồng, trong đó số để lại trong KKTTM Lao Bảo là
21.000 tấn, trị giá trên 258 tỷ đồng. Nếu số hàng này được người dân trong KKTTM Lao
Bảo mua dùng, thì bình quân 1 người dân dùng 467 kg/ năm, nghĩa là 1 ngày dùng
khoảng 1,3 kg đường... Như vậy, có thể thấy rằng hàng nước ngoài nhập khẩu vào
43

KKTTM Lao Bảo chủ yếu bị thẩm lậu theo con đường buôn lậu vào nội địa làm thất thu
lớn thuế cho Nhà nước, thực tế người dân không có khả năng để tiêu thụ lượng hàng hóa
lớn như thế.

2.3. Nguyên nhân của việc gian lận thuế

Trước tình trạng gian lận thuế như hiện nay, có thể giải thích bởi rất nhiều nguyên
nhân:

2.3.1.Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, hệ thống pháp luật của nước ta còn chưa đồng bộ, nhiều nội dung còn
chồng chéo, gây khó khăn cho người thực hiện.

Chính sách thành lập doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp khá thông thoáng,
nhưng việc theo dõi nắm bắt tình hình hoạt động của doanh nghiệp đó như thế nào
thì còn buông lỏng. Từ khâu hậu kiểm, quản lý doanh nghiệp sau giấy phép đến sự
phối hợp giữa cơ quan thuế và các cơ quan quản lý Nhà nước còn nhiều kẽ hở, tạo
điều kiện cho việc thành lập các doanh nghiệp “ma”. Mặt khác cơ chế thanh toán
giữa các giao dịch kinh tế còn chưa bắt buộc thông qua hệ thống ngân hàng do vậy
rất khó kiểm soát việc các hoạt động kinh tế đó đã phát sinh thực tế hay chỉ trên
giấy tờ.

Thiếu các quy định về nguyên tắc tổ chức hoạt động và cơ cấu tổ chức của bộ máy
quan lý thuế và nguyên tắc xử lý mối quan hệ giữa các cơ quan quản lý thuế, đặc
biệt trong xu thế quản lý thuế hiện đại.

Luật Quản lý thuế năm 2006 chưa xác định rõ cơ chế bảo đảm thực hiện, vì vậy
phần nào đã hạn chế tính khả thi của các quy định trong Luật Quản lý thuế và
chính điều này chưa thực sự khuyến khích tính tuân thủ pháp luật của chủ thể có
nghĩa vụ thuế. Chẳng hạn tại Điều 53, Luật quản lý thuế quy định trách nhiệm
hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế trong trường hợp xuất cảnh “người Việt Nam xuất
44

cảnh để định cư ở nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước
ngoài trước khi xuất cảnh từ Việt Nam phải hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế. Cơ
quan quản lý xuất nhập cảnh có trách nhiệm dừng việc xuất cảnh của cá nhân
trong trường hợp chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế theo thông báo của cơ quan
quản lý thuế. Với quy định này, nếu không xác định rõ cơ chế phối kết hợp giữa
cơ quan quản lý thuế và cơ quan công an thì chắc chắn điều luật này sẽ không có
tính khả thi, bởi thực tế hiện nay, Cục thuế địa phương không thể biết đối tượng
nào nợ thuế đang chuẩn bị xuất cảnh để thông báo cho cơ quan quản lý xuất nhập
cảnh và ngược lại.

Luật quản lý thuế 2006 đã quy định trách nhiệm việc cung cấp các thông tin, tài
liệu của các bên có liên quan cho cơ quan thuế và ngược lại. Tuy nhiên chỉ cung
cấp khi cơ quan thuế có yêu cầu, vì vậy có rất nhiều thông tin cần thiết nhưng cơ
quan thuế không biết được đầu mối để cung cấp thông tin và yêu cầu cung cấp
thông tin, chẳng hạn, thông tin về tài khoản ngân hàng của doanh nghiệp, thường
các doanh nghiệp mở rất nhiều tài khoản ở các ngân hàng thuộc các địa phương
khác nhau nhưng cơ quan thuế không biết doanh nghiệp mở tài khoản ở ngân hàng
nào để yêu cầu cung cấp. Vì vậy, cần có quy định cụ thể trách nhiệm của ngân
hàng phải thông báo tài khoản của doanh nghiệp cho cơ quan thuế trực tiếp quản
lý khi đăng ký tài khoản.

Thứ hai, công tác kiểm tra, giám sát và xử lý các vi phạm của các cơ quan chức
năng cũng chưa được quyết liệt, nên nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng lỗ hổng này để khai
man trốn thuế.

Thiếu sự quyết liệt trong xử phạt, chế tài để xử phạt hành vi vi phạm chưa đủ
mạnh để răn đe, việc bị phạt vài ba trăm hay ba triệu do với cái lợi của hàng trăm
triệu, hàng tỷ trở lên thì phạt thế không hiệu quả. Hiện nay hình phạt cao nhất quy
định tại BLHS năm 1999 là 7 năm tù còn mức phạt tiền cao nhất quy định tại
BLHS năm 1999 là 7 năm còn mức phạt tiền cao nhất chỉ giới hạn bằng 3 lần số
45

tiền thuế trốn. Trên thực tế, thiệt hại do sử dụng hóa đơn không trung thực khiến
Nhà nước thất thoát hàng trăm tỷ dồng. Có vụ án, một cá nhân chiếm đoạt nhiều tỉ
đồng tiền thuế. Nếu không xử lý quyết liệt thì luật pháp không còn tính răn đe. Do
đó, tình hình tội phạm liên quan đến thuế, mặc dù đã được công luận cảnh báo cơ
quan chức năng, vẫn phát triển nhanh, đa dạng, tinh vi và ngày càng lớn về số tiền
thuế chiếm đoạt.

Cơ quan thuế chưa thực sự chủ động trong công tác quản lý thuế. Một số cán bộ
thuế chưa làm tròn trách nhiệm thậm chí thoái hóa, biến chất vì tư lợi riêng để lợi
dụng. Không hiếm trường hợp chính cán bộ thuế gợi ý và tiếp tay cho một số cá
nhân ăn cắp tiền thuế.

Thứ ba, sự yếu kém về mặt nhận thức của một bộ phận khá lớn công chúng và thói
quen mua hàng lấy hoá đơn chưa hình thành, có nhiều trường hợp được quy tội gian lận
thuế không do chủ ý của cá nhân kinh doanh mà do hiểu không đúng các quy định của
thuế. Về phía người tiêu dùng, bản thân họ tiếp tay một cách vô ý cho doanh nghiệp gian
dối khi mua hàng không lấy hoá đơn. Hơn nữa họ cũng không có động cơ giữ hoá đơn.
Vì vậy, nếu được người bán đề nghị không lấy hoá đơn để khỏi mất thêm 10% tiền thì họ
đồng ý ngay

Thứ tư, cả hai lĩnh vực xử lý hành chính và xử lý hình sự đều đang gặp không ít
khó khăn, đơn cử như xử lý hành chính, cơ quan ra quyết định mà các đối tượng không
chấp hành, rồi lại để đó không làm đến nơi đến chốn, điều đó đồng nghĩa vô hiệu hóa các
quyết định có tính pháp lý của cơ quan chức năng; còn xử lý hình sự thì lại càng hết sức
khó khăn nên hai Bộ Công an, Bộ Tài chính và hai tổng cục cần ngồi lại với nhau để tháo
gỡ, bàn bạc cụ thể.

Thứ năm, công tác xây dựng chương trình kế hoạch phối hợp phòng, chống các
hành vi vi phạm chưa thực hiện triệt để, có đơn vị xây dựng kế hoạch nhưng thiếu bám
sát, chỉ đạo thực hiện hoặc mới chỉ tập trung đấu tranh chống các hành vi vi phạm mà
chưa có giải pháp giải quyết triệt để các trường hợp doanh nghiệp “ma”.
46

2.3.2.Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, Đại bộ phận cơ sở kinh doanh quy mô dưới doanh nghiệp tư nhân không
quan tâm đến chế độ kế toán quốc dân mà phản ánh hoạt động kinh doanh theo logic thô
sơ. Nguy hiểm hơn là họ cho rằng sổ sách kế toán là công cụ của cơ quan Nhà nước kiểm
tra, kiểm soát họ mà không nghĩ rằng sổ sách, tài khoản, chứng từ,... là những phương
tiện căn bản giúp họ tiếp cận hoạt động kinh doanh một cách hệ thống để đánh giá, đo
lường và phân tích kết quả kinh doanh cũng như dự báo tương lai.

Thứ hai, nền kinh tế Việt Nam vẫn là nền kinh tế tiền mặt. Hầu hết các hạch toán
và giao dịch đều có thể dùng tiền mặt: tiền Việt, vàng và ngoại tệ (chủ yếu là đô la Mỹ).
Điều này được các doanh nghiệp khai thác lập bộ hồ sơ thanh toán khống; không thực
hiện đầy đủ chế độ hóa đơn chứng từ và đồng thời cơ quan thuế cũng khó phát hiện để
ngăn chặn kịp thời.

Còn với các cá nhân, việc được trao tay những khoản thu trực tiếp bằng tiền mặt
cũng giúp họ trốn được một số tiền thuế lớn do các cơ quan chức năng không thể kiểm
soát và quản lý được giá trị thực lớn hơn rất nhiều so với giá trị được ghi nhận của những
khoản thu này.

Thứ ba, một nguyên nhân không kém phần quan trọng trong đó chính là yếu tố
con người. Do hạn chế về nguồn nhân lực một số cán bộ còn thiếu tinh thần trách nhiệm
trong quản lý nên có lúc có nơi vẫn còn tình trạng thất thu thuế, trong khi tình hình doanh
nghiệp “ma” ngày càng nhiều, mặc dù tập thể cán bộ của lực lượng Cảnh sát đều tra tội
phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ - lực lượng chuyên trách trong điều tra về trốn
và gian lận thuế đã tập trung tận lực nhưng vẫn chưa thể triệt phá hết...
47

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP

CHỐNG GIAN LẬN THUẾ GTGT TẠI VIỆT NAM

1. Tính tất yếu phải hoàn thiện luật thuế GTGT và cơ chế thực hiện

Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa kinh tế hiện nay; với
việc tham gia vào các tổ chức thương mại thế giới như hiệp hội các Quốc gia Đông Nam
Á(ASEAN), tổ chức thương mại thế giới WTO thì việc hình thành các liên minh thuế
quan quan trọng đòi hỏi điều chỉnh pháp luật thuế GTGT cũng như cơ chế đảm bảo thực
hiện phải phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội nhằm tạo thuận lợi cho việc chủ động hợp
tác quốc tế. Hơn nữa mặc dù nước ta hiện nay phải chịu sức ép cắt giảm thuế nhập khẩu
theo các cam kết cắt giảm thuế quan CEPT/ AFTA, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn phải
tìm cách thích ứng với những biến động và áp lực cạnh tranh quốc tế. Do tác động toàn
cầu hóa, quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh doanh được mở rộng trong việc
thành lập các cơ sở kinh doanh. Việc khai thác triệt để lợi ích thông qua các biện pháp
chuyển giá cùng với việc di chuyển các luồng vốn và lao động trên phạm vi toàn cầu đã
làm cho cuộc cạnh tranh về thuế của các quốc gia trở nên gay gắt hơn và kết quả là hệ
thống pháp luật thuế toàn cầu có xu hướng hội nhập và phụ thuộc nhau nhiều hơn.Vì vậy,
việc hoàn thiện luật thuế GTGT ở Việt Nam và cơ chế thực hiện cũng không ngược lại xu
thế đó.

Hơn nữa, do tính chất phức tạp của các nghiệp vụ kinh tế xuyên quốc gia
phát sinh, khả năng trốn lậu thuế trở nên dễ dàng và phạm vi, quy mô thực hiện rông lớn
hơn, các công ty xuyên quốc gia sẽ có cơ hội để giành được lợi thế định giá chuyển giao
để trốn thuế và tính thuế. Các biện pháp kích thích, các cuộc chạy đua trong cạnh tranh
qua thuế không chỉ mang lại cơ hội mà còn tác động tiêu cực cho các nước đã đặt ra nhu
cầu ngày càng cao của việc điều chỉnh luật thuế GTGT và cơ chế đảm bảo thực hiện.
Theo đó yếu tố con người, sự tinh thông về nghiệp vụ và kiến thức của các chuyên gia
quản ly thuế không thể không quan tâm sâu sắc hơn. Bản thân toàn cầu hóa cùng với sự
48

phát triển chóng mặt của công nghệ thông tin một mặt mở ra những cơ hội hợp tác quốc
tế có hiệu quả trong lĩnh vực thuế một mặt đòi hỏi trình độ quản lí thuế phải vượt lên tầm
cao mới. Yêu cầu này gắn liền với việc đào tạo một đội ngũ chuyên gia thuế có kiến thức
và kĩ năng tầm cỡ quốc tế. Đây cũng là yêu cầu đặt ra trong việc hoàn thiện có chế đảm
bào thực hiện luật thuế GTGT.

Mặt khác, Internet phát triển tạo đà cho những nhà quản ly thống nhất các chức
năng kinh doanh của doanh nghiệp thông qua việc tao mạng nội bộ đặc biệt là công ty đa
quốc gia. Do đó, các nghiệp vụ kinh doanh được nội bộ hóa ở mức cao. Việc này đồng
nghĩa với việc rất khó xác định chức năng kinh doanh đối với nhà làm luật xác định cơ
chế điều tiết thích hợp với Luật thuế GTGT. Công nghệ thông tin truyền số liệu làm tăng
các hoạt động đầu tư gián tiếp, các giao dịch ngoại hối và các giao dịch thông qua
phương tiện tài chính như quyền chọn mua bán hoặc chuyển nhượng,…Các giao dịch
này hiện đang không phải chịu thuế GTGT, như vậy khi hoàn thiện pháp luật thuế GTGT
có nên quy định đánh thuế hay không các hoạt động này và nếu có thì sẽ đánh thuế như
thế nào? Bài toán hóc búa này đặt ra cho các nhà lập pháp cũng như các nhà quản ly thuế
trong việc kiểm soát để phân biệt các hoạt đông giao dịch thương mại có thể đánh thuế và
các hoạt động phi thương mại. Rõ ràng, sự phát triển của khoa học công nghệ là thách
thức lớn nhưng nó cũng tạo điều kiện để cung cấp phương tiện hữu ích cho tiến trình áp
dụng luật thuế GTGT ở nước ta hiện nay.

Hoàn thiện pháp luật thuế GTGT ở nước ta hiện nay một mặt đáp ứng nền kinh tế
thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay,một mặt đáp ứng cơ chế tự điều
chỉnh của thị trường đang phát triển còn phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế.
Xu thế toàn cầu hóa làm cho ngân sách nhà nước cắt giảm nguồn thu được từ nguồn
thuế xuất nhập khẩu, hơn nữa; nguồn thuế trực thu như thuế TNCN rất ít do thu nhập của
người lao động nước ta không cao. Như vậy, nguồn thu từ thuế trực thu như thuế GTGT
là hết sức quan trọng trong việc khắc phục sự suy giảm nguồn thu của ngân sách nhà
nước.Việc hoàn thiện pháp luật thuế GTGT và cơ chế thực hiện là tất yếu trong xu thế
hiện nay.
49

2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật thuế GTGT

Pháp luật thuế GTGT phải chứa đầy đủ các nội dung chủ yếu của việc điều chỉnh
pháp luật thuế, đồng thời phản ánh chuẩn xác và khoa học bản chất của thuế GTGT, đảm
bảo thuế GTGT mang bản chất liên hoàn và trung lập cao, đánh vào hoạt động chuyển
giao hàng hóa và cung cấp dịch vụ được tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa dịch vụ
trong quá trình sản xuất lưu thông theo phương pháp khấu trừ. Như vậy tiêu chí đặt ra là
liệu văn bản luật thuế GTGT phải phán ánh đúng và đầy đủ bản chất của thuế GTGT để
pháp luật thuế GTGT có thể điều chỉnh các mối quan hệ thương mại có liên quan. Hoàn
thiện pháp luật thuế GTGT phải dựa trên cơ sở hoàn thiện chính sách thuế GTGT. Bởi lẽ
pháp luật thuế nói chung và pháp luật thuế GTGT nói riêng có mối quan hệ hữu cơ với
các chính sách thuế, các chính sách kinh tế- tài chính của đất nước. Pháp luật thuế nhằm
phản ánh,thực hiện các chính sách thuế nhằm đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà
nước, thực hiên điều tiết nền kinh tế vĩ mô thông qua thu nhập và điều tiết sản xuất. Vì
vậy phải hoàn thiện song song pháp luât thuế GTGT trên cơ sở hoàn thiện chính sách
thuế GTGT. Chuẩn hóa các quy định pháp luật về thuế GTGT, cần sửa đổi các nội dung
sao cho phù hợp với các văn bản pháp luật khác. Ngoài ra còn phải sửa đổi, bổ sung các
văn bản pháp luật về thuế GTGT theo hướng minh bạch hóa. Tức là phải quy định lại một
cách rõ ràng, dễ hiểu các văn bản pháp luật trước đây còn chưa có sự nhất quán, minh
bạch và luật hóa những vấn đề đã được quy định trong các văn bản dưới luật để đảm bảo
đúng nguyên tắc ban hành luật, đúng quy định của Luật ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật. Điều này sẽ giúp cho các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của thuế GTGT
hiểu và làm theo pháp luật.

2.1. Về cơ chế quản lý, cơ chế tự khai tự nộp

Tự khai, tự nộp là một phương thức quản lý thuế hiện đại. Trước hết là tính tự giác
tuân thủ của doanh nghiệp, trong cơ chế này họ được tự tính toán kê khai và nộp thuế,
do đó nếu không tự giác và am hiểu các kiến thức về pháp luật thì không thể hoàn thành
tốt nhiệm vụ của mình.Cần chú ý xem xét các trường hợp các doanh nghiệp kê khai hàng
50

tháng có số thuế phải nộp âm nhưng doanh số bán ra rất lớn và lại không thấy lập hồ sơ
xin hoàn thuế. Bởi đây rất có thể là các doanh nghiệp có hoạt động sản xuất kinh doanh
sai trái, sợ khi xin hoàn thuế sẽ bị cơ quan thuế xuống kiểm tra. Tiếp theo, phải xây dựng
được một hệ thống xử phạt nghiêm khắc và có hiệu quả để ngăn chặn sự bất tuân thủ của
một số các doanh nghiệp.

Phải tổ chức bộ máy thanh tra đủ mạnh để kịp thời phát hiện những gian lận của
doanh nghiệp. Để khắc phục việc chưa thanh tra đúng đối tượng, chưa xác định đúng
phạm vi gian lận, chưa sử dụng được công nghệ tin học;công tác thanh tra ngành thuế nói
chung và thanh tra lĩnh vực thuế GTGT nói riêng cần được tăng cường cả trên diện rộng
và có trọng tâm trọng điểm…

2.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy, hoàn thiện công tác quản lý thuế

Muốn hoàn thiện thuế GTGT thì tổ chức bộ máy, công tác quản lý thuế cũng phải
được hoàn thiện nhằm tạo môi trường cho thuế GTGT phát huy hết được các ưu điểm của
mình.

Chiến lược cải cách thuế của ngành thuế bao gồm 8 chương trình lớn đó là : Xây
dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách thuế; Xây dựng luật quản lý thuế, triển khai thí
điểm và mở rộng cơ chế quản lý "tự kê khai, tự nộp thuế" trên toàn quốc; Tăng cường
tuyên truyền và hỗ trợ đối tượng nộp thuế; Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về thuế, thu
hồi nợ thuế; Cải cách bộ máy quản lý thuế theo mô hình chức năng, nâng cao năng lực
đội ngũ cán bộ thuế; Phát triển ứng dụng tin học hiệu quả vào công tác quản lý thuế;
Từng bước hiện đại cơ sở vật chất kỹ thuật của cơ quan thuế. Để thực hiện mục
Tiêu chung thì các mục tiêu riêng phải được thực hiện một cách hiệu quả.
Về việc xây dựng hệ thống chính sách thuế. Trước đây, do nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan khác nhau mà việc hoạch định và xây dựng hệ thống chính sách
thuế của nước ta còn chưa có sự đồng bộ, bởi vậy trong thời gian tới cần phải xem xét,
sửa đổi các chính sách thuế sao cho có sự thống nhất giữa các văn bản pháp luật, tạo sự
thông thóang, minh bạch và hiệu quả của hệ thống luật nước ta.
51

Xem trọng công tác tuyên truyền, giáo dục cho nguời nộp thuế thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng và nhiều hình thức khác nhằm giúp họ hiểu biết đầy đủ
các chính sách thuế, trách nhiệm pháp luật để nâng cao ý thức tự giác, chấp hành nghiêm
chỉnh nghĩa vụ nộp thuế vào ngân sách nhà nước. Khuyến khích và phát triển các dịch vụ
tư vấn thuế...
Kiện toàn lại hệ thống quản lý thu thuế theo hướng cải cách hành chính, nâng cao
quyền hạn và trách nhiệm của bộ máy quản lý thuế: Ban hành bổ sung một số nội dung
về quản lý thuế trong các văn bản pháp luật như các biện pháp nghiệp vụ và quy trình
quản lý thu thuế chỉ do cơ quan thuế ban hành và áp dụng nội bộ. Ban hành luật quản lý
thuế để giảm hiện tượng các đối tượng nộp thuế tìm mọi cách để trốn lậu thuế, chây ỳ, ỷ
lại vào cơ quan thuế trong việc tính thuế, tạo sơ hở cho cán bộ thuế có những hành vi
không đúng…

Đội ngũ cán bộ thuế là nhân tố rất quan trọng trong ngành thuế, bởi vậy cần có sự
sắp xếp lại đội ngũ cán bộ quản lý thu theo hướng tập trung vào các khâu công việc
chính, đào tạo lại và tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu về quản lý thuế theo
phương pháp hiện đại, trình độ ứng dụng thành thạo công nghệ tin học…Đặc biệt đối với
công tác cán bộ phải xem trọng việc tuyển chọn đội ngũ làm công tác tổ chức nhân sự,
bởi quyết định của đội ngũ này sẽ ảnh hưởng đến chất lượng cán bộ thuế. Đó phải là
những người thực sự chí công, vô tư và có năng lực đánh giá nhân sự.

Sự phát triển của hệ thống thuế không thể tách rời quá trình hiện đại hóa, áp dụng
công nghệ thông tin vào các quy trình quản lý. Đầu tư hệ thống máy tính sẽ giúp cho tốc
độ sử lý công việc của ngành thuế nhanh hơn, chi phí quản lý cũng sẽ giảm đi rất nhiều.

2.3. Kiến nghị đối với các cơ quan cấp trên

Để thuế GTGT ngày càng được hoàn thiện hơn thì Nhà nước, Chính phủ là những
cơ quan quản lý cao nhất, cần phải có chiến lược cụ thể nhằm tác động vào các hoạt động
52

của nền kinh tế xã hội, từ đó tạo ra môi trường tốt nhất cho các sắc thuế nói chung và
thuế GTGT nói riêng phát huy được các ưu điểm của mình.

Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống luật pháp Việt Nam cho có sự thống nhất cao
giữa các bộ luật, điều này sẽ giúp cho Luật thuế GTGT có sự phù hợp với các sắc thuế
khác, tránh được các vướng mắc khi giải quyết các vấn đề liên quan đến sắc thuế này.

Nhà nước cần quan tâm chỉ đạo đến sự phát triển của hệ thống ngân hàng, bởi nếu
các ngân hàng phát triển đồng đều và vững mạnh thì sẽ tạo điều kiện cho công tác quản
lý và thu thuế GTGT cũng như các thuế khác một cách thuận lợi và chính xác, tránh
được thất thu thuế…

Ngoài ra, việc đầu tư cho các lớp đào tạo cán bộ thuế cũng rất nên được sự quan
hơn, hiện nay chúng ta chưa có các trường đào tạo thuế riêng mà mới chỉ có các chuyên
ngành nhỏ trong các trường đại học với thời luợng giảng dạy chưa nhiều do đó kiến thưc
mà các sinh viên có được cũng chỉ là cơ bản nhất, điều này sẽ làm tốn một khoản chi phí
lớn vì phải đào tạo lại khi họ vào làm thực tế…

Tóm lại để hoàn thiện thuế GTGT thì Nhà nước cần áp dụng rất nhiều biện pháp
cả về chính sách lẫn phương diện quản lý. Các biện pháp này phải được kết hợp một cách
đồng bộ chứ không thể tổ chức riêng lẻ.

3. Giải pháp chống gian lận thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam
3.1. Hoàn thiện luật thuế GTGT

Thứ nhất, về ngưỡng doanh thu chịu thuế VAT:

Thông thường theo pháp luật các nước, việc xác định đối tượng nộp thuế VAT
không chỉ căn cứ vào hàng hóa, dịch vụ chịu thuế VAT mà còn phụ thuộc vào doanh thu
kinh doanh của cơ sở kinh doanh. Ngưỡng doanh thu chịu thuế VAT là mức doanh thu
bán hàng hóa, dịch vụ thuộc diện chịu thuế VAT hàng năm của một cơ sở kinh doanh đạt
được, từ mức doanh thu này trở lên cơ sở kinh doanh phải nộp thuế VAT theo qui định
53

của pháp luật.Việc qui định trong Luật VAT về ngưỡng doanh thu chịu thuế sẽ tạo điều
kiện cho cơ sở kinh doanh có doanh thu thấp giảm bớt chi phí tuân thủ nghĩa vụ nộp thuế
do chỉ phải nộp thuế với phương pháp đơn giản, xóa bỏ tình trạng người nộp thuế VAT
nhỏ đóng góp không đáng kể đối với số thu nhưng lại tạo gánh nặng chi phí lớn. Trên cơ
sở đó, có chính sách thuế đơn giản hơn cho các đối tượng đạt doanh thu dưới ngưỡng.
Điều này phù hợp với lý thuyết xây dựng chính sách thuế và nhu cầu thực tiễn của các hộ
kinh doanh hiện nay.

Cụ thể, nên có qui định chung về một ngưỡng doanh thu cho mọi hoạt động sản
xuất, kinh doanh. Những hộ kinh doanh có mức doanh thu dưới ngưỡng thì không phải
nộp thuế, trên ngưỡng thì phải nộp thuế VAT đơn giản theo tỷ lệ trên doanh thu. Mức
doanh thu này được xác định dựa trên doanh thu tại báo cáo quyết toán thuế cuối năm.

Thứ hai, về đổi tượng nộp thuế.

Luật thuế GTGT cần thu hệp đối tượng nộp thuế bao gồm các đối tượng có doanh
thu trên ngưỡng doanh thu chịu thuế VAT ví dụ như là dịch vụ của các cá nhân kinh
doanh có mức doanh thu hàng năm thấp hơn 100 triệu đồng. Điều này là phù hợp với
thông lệ quốc tế và nhu cầu của thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Thứ ba, về phương pháp tính thuế :

Nên áp dụng một phương pháp khấu trừ thuế, bỏ phương pháp tính thuế trực tiếp
trên phần giá trị tăng thêm bởi lẽ điều này trái với bản chất của thuế GTGT là thuế gián
thu liên hoàn và gây ra nhiều hậu quả tiêu cực cho xã hội. Nếu pháp luật GTGT xác định
ngưỡng doanh thu chịu thuế thì phương pháp tính thuế trực tiếp sẽ không co cơ sở để tồn
tại.

Thứ tư , về bỏ qui định khấu trừ thuế VAT đối với các hóa đơn, chứng từ kê khai
quá thời hạn 6 tháng :
54

Thực chất việc xuất trình các hóa đơn chứng từ mua hàng cũng là để xác định cơ
sở kinh doanh có thực mua hàng hóa, dịch vụ nhằm mục tiêu kinh doanh hay không. Vì
vậy, không kể hóa đơn đó phát sinh tại thời điểm nào nếu doanh nghiệp tuân thủ các điều
kiện về thanh toán qua ngân hàng, hóa đơn, chứng từ thì nên cho phép được khấu trừ,
trên cơ sở đó bảo vệ quyền lợi của những chủ thể này.

3.2. Tăng cường công tác quản lý chứng từ, hóa đơn giá trị gia tăng

Như chúng ta đã biết, hóa đơn là công cụ quan trọng để quản lý thuế và là yếu tố
quyết định trực tiếp đến nghĩa vụ của người nộp thuế. Hiện nay ở nước ta, số thuế phải
nộp phụ thuộc rất nhiều vào “ hóa đơn chứng từ”. Cuối mỗi niên độ kế toán, các tổ chức,
cá nhân kinh doanh lại tất bật lo “tìm” hoá đơn để hợp thức hoá các khoản chi trong năm
không có chứng từ, làm căn cứ thanh toán vốn đầu tư, hoặc rút kinh phí, hoặc làm giảm
thu nhập chịu thuế, từ đó giảm số thuế phải nộp... “Cầu về hoá đơn” thường xuyên, liên
tục và ngày càng cao đã dẫn đến tình trạng số doanh nghiệp (DN) thành lập chỉ nhằm
mục đích buôn bán hoá đơn bất hợp pháp ngày càng nhiều, chợ hoá đơn “đỏ” luôn nhộn
nhịp để đáp ứng nhu cầu của người mua. Những năm gần đây, số lượng DN “ma” buôn
bán hoá đơn phất hợp pháp tăng lên đáng kể ở khắp các tỉnh, thành trên cả nước - đặc biệt
là các thành phố lớn, với con số gian lận thuế nhiều tỷ đồng.

Sau đây là bốn giải pháp chính giúp hoàn thiện công tác quản lý chứng từ, hóa đơn
từ đó giúp chống gian lận thuế giá trị gia tăng của Việt Nam

Thứ nhất, hoàn thiện văn bản pháp luật về hóa đơn:
• Về thủ tục mua hóa đơn : Theo quy định tại Thông tư số 99/2003/TT-BTC

của Bộ Tài chính quy định về thủ tục mua hoá đơn :
 Đối với Thủ tục mua hóa đơn lần đầu: Tổ chức và cá nhân mua

không phải nộp Sơ đồ các địa điểm sản xuất, kinh doanh; văn phòng
giao dịch do tổ chức, cá nhân tự vẽ có xác nhận và cam kết của
người đứng đầu tổ chức, cá nhân về: Địa chỉ, số nhà, đường phố (đối
55

với thành phố, thị xã) và thôn, xã ... (đối với nông thôn) để có căn cứ
theo dõi giao dịch, quản lý.
 Đối với Thủ tục mua hóa đơn các lần tiếp theo: Tổ chức và cá nhân

mua không phải nộp Bảng kê hoá đơn hàng hoá, dịch vụ bán ra theo
mẫu số: 02/GTGT (kể cả tổ chức, cá nhân tính thuế theo phương
pháp trực tiếp) có xác nhận đã kê khai thuế của cơ quan thuế quản
lý.
 Các quy định này khá đơn gian dẫn đến việc tạo khe hở cho hoạt động mua
hóa đơn. Vì vậy văn bản quy phạm pháp luật về hoá đơn cần quy định thành một
khung cố định về thực tế kinh doanh của DN với các tiêu chí cụ thể như: vốn theo
đăng ký kinh doanh; điều kiện liên quan đến ngành nghề kinh doanh; nhân thân
của giám đốc công ty và các thành viên góp vốn; căn cứ pháp lý của việc sử dụng
trụ sở văn phòng công ty… để vừa tạo điều kiện cho DN khi làm thủ tục mua hoá
đơn, vừa tạo thuận lợi cho cán bộ thuế khi thi hành công vụ.
• Về xử lý vi phạm : hiện tại đã có những quy chế phối hợp tích cực giữa cơ

quan thuế và cơ quan công an nhằm tăng cường quản lý hoá đơn, tuy nhiên,
mức xử phạt đối với cá nhân tổ chức vi phạm chưa đủ mạnh để răn đe. Bên
cạnh đó, việc xử lý, điều tra đến cùng chỉ theo quy mô từng vụ việc, rất
nhiều những tổ chức, cá nhân vi phạm chỉ dừng ở việc cơ quan thuế ra
thông báo “bỏ địa chỉ kinh doanh mang theo hóa đơn và nợ thuế”, chứ chưa
được truy xét, xử lý đến cùng.
 Vì vậy , cần có những biện pháp răn đe đủ mạnh đối với các vi phạm trong
việc mua bán hóa đơn
Hai là, nâng cao chất lượng quản lý hóa đơn của cơ quan thuế

Hiện nay, chúng ta đã ứng dụng công nghệ thông tin vào việc quản lý hóa đơn Tuy
nhiên, hệ thống quản lý hiện tại chưa có chức năng tự động kiểm tra chéo hoá đơn chứng
từ theo kê khai của DN mà việc kiểm tra, đối chiếu vẫn phải thực hiện thủ công nên
không phát hiện được sự trùng lắp hay kê khai sai lệch.
56

Bởi vậy, cần phải có phương thức kê khai thuế mới hiện đại và thuận tiện hơn cho
cả người nộp thuế và cơ quan quản lý.

Ba là, đẩy mạnh thanh toán qua ngân hàng.

Đây là phương thức thanh toán tiên tiến nhất, đang được áp dụng hầu hết các nước
trên thế giới, theo đó một mặt, Nhà nước sẽ quản lý được lượng tiền lưu thông trên thị
trường, mặt khác sẽ tạo điều kiện để cơ quan thuế chống thất thu hiệu quả khi bắt buộc
DN, muốn được khấu trừ thuế hay hoàn thuế đều phải thực hiện thanh toán qua ngân
hàng thì hoá đơn chứng từ trở thành công cụ thứ yếu, chỉ để ghi nhận hoạt động giao dịch
kinh doanh và phục vụ cho việc hạch toán kế toán của DN. Hoá đơn sẽ trở về với bản
chất thực của nó là chứng từ kế toán và việc gian lận ghi trên hoá đơn sẽ dần được hạn
chế và đẩy lùi.

Bốn là, tăng cường phối hợp với các cơ quan quản lý liên quan.

Hiện nay nhiều tổ chức, cá nhân kinh doanh không thực hiện đúng các quy định
của pháp luật về việc tồn tại, phá sản, giải thể DN; một số lượng không nhỏ các DN nghỉ,
bỏ kinh doanh bất hợp pháp, gây rất nhiều khó khăn cho công tác quản lý thuế - hoặc tạo
điều kiện cho DN khác vi phạm pháp luật. Cụ thể là, khi các đối tượng này bỏ kinh doanh
bất hợp pháp thì số hóa đơn mà DN chưa dùng có thể được đưa ra thị trường để các DN
khác lợi dụng gian lận thuế. Giải quyết tình trạng này, không gì hiệu quả hơn là các cơ
quan chức năng phải tăng cường sự phối hợp chặt chẽ trong công tác quản lý hoá đơn
chứng từ.

Ngoài ra, chúng ta còn rất cần sự hỗ trợ của các cấp chính quyền địa phương trong
quản lý đối tượng nộp thuế về nơi cư trú, lý lịch của các cá nhân có trách nhiệm. Cơ quan
thuế cũng cần xây dựng quy chế phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư các tỉnh, thành phố
để quản lý chặt chẽ hơn việc cấp giấy phép thành lập DN, nhằm ngăn chặn tình trạng DN
“ma”. Đồng thời, cập nhật kịp thời thông tin về hoạt động của DN trên địa bàn phục vụ
cho công tác quản lý.Cuối cùng là nâng cao ý thức tuân thủ của tổ chức, cá nhân sử dụng
57

hoá đơn, cần có những biện pháp khuyến khích các cá nhân lấy hóa đơn khi mua hàng
hóa; tăng cường trách nhiệm tuyên truyền chế độ chính sách về hoá đơn đến người dân,
để nhân dân hiểu rõ bản chất và lợi ích của việc sử dụng hoá đơn, phê phán, lên án mạnh
mẽ các hành vi vi phạm, tích cực hỗ trợ cơ quan thuế thực hiện phòng, chống các hành vi
gian lận thuế.

3.3. Cải cách mạnh mẽ công tác kiểm tra thuế GTGT nói chung và kê khai hoàn

thuế giá trị gia tăng nói riêng


3.3.1.Kiểm tra kê khai hoàn thuế giá trị gia tăng

Theo thống kê, có 6 cách thức gian lận trong khâu hoàn thuế :Thứ nhất, tạo nguồn
hàng khống, lập hợp đồng mua bán nội địa khống với phương thức thanh toán trực tiếp.
Thứ hai, hợp thức hóa nguồn tiền mua hàng xuất khẩu bằng cách lập các hợp đồng vay
khống, hoặc lập danh sách góp vốn kinh doanh bằng hợp đồng giả. Thứ ba, làm giả hợp
đồng vận chuyển, thanh toán cước vận chuyển hàng hóa trong nội địa và ra cửa khẩu, tạo
dựng hợp đồng mua bán ngoại thương và thanh toán giả. Thứ tư, quay vòng nhiều lần
hàng xuất khẩu. Thứ năm, móc nối với cán bộ hải quan cửa khẩu xác nhận khống hồ sơ
hoặc khai tăng giá và khối lượng hàng hóa. Thứ sáu, hình thành các đường dây với những
chi nhánh, văn phòng hoặc thành lập các doanh nghiệp chỉ để làm dịch vụ hồ sơ hoàn
thuế.

Từ các cách thức gian lận thuế trên, chúng ta có các biện pháp sau :

Một là, cần rà soát, kiểm tra , phân loại các hồ sơ xin hoàn thuế

Đối với các cơ sở kinh doanh xuất khẩu hàng hóa chính ngạch thực hiện thanh
toán qua ngân hàng thì hoàn thuế trước, kiểm tra sau. Những đơn vị không thanh toán
qua ngân hàng, hàng xuất tiểu ngạch, liên quan đến đường dây mua bán hóa đơn thì kiểm
tra trước , hoàn thuế sau. Ngoài ra, cần rà soát lại một số hồ sơ đã hoàn thuế, mở rộng
việc xác minh hóa đơn chứng từ đến tận nguồn gốc hàng hóa liên quan đến số thuế đã
hoàn.
58

Hai là, thực hiện nghiêm túc quy trình, quy chế kiểm tra, thanh tra tránh tình
trạng tham nhũng của các cán bộ nghành thuế
3.3.2.Đối với công tác kiểm tra thuế GTGT nói chung
Một là, thực hiện tốt cả hai mặt thanh tra và kiểm tra đối tượng nộp thuế và nội bộ
ngành thuế
Hai là, xác định rõ ràng, thống nhất trong quy định ai là người có thẩm quyền
kiểm tra để tránh tình trạng chồng chéo trong kiểm tra , thanh tra.
Ba là, cần phân biệt giới hạn thanh tra, kiểm tra thuế với những tác nghiệp trong
nghiệp vụ thuế, tránh gây phiền hà cho các cơ sở sản xuất kinh doanh.
3.3.3.Áp dụng công nghệ thông tin vào công tác kiểm tra thuế
Thứ nhất, đầu tư và phát triển các hệ thống thông tin phục vụ công tác kiểm tra
như các chương trình quản lý mã số đối tượng nộp thuế , quản lý hóa đơn tính
thuế, quyết toán thuế...
Thứ hai, ưu tiển cung cấp các thiết bị cho các địa phương có địa giới hành chính
rộng , xây dựng hệ cơ sở dữ liệu đồng nhất với từng cục thuế, chi cục thuế
Thứ ba, nâng cao trình độ tin học cho các cán bộ phục vụ cho công tác kiểm tra
thuế
3.4. Đẩy mạnh dịch vụ tư vấn thuế GTGT

Tư vấn thuế GTGT giúp cho việc giải thích tuyên truyền các chính sách , pháp luật
thuế để nâng cao nhận thức của mỗi người đối với nghĩa vụ thuế , cũng qua đó cơ quan
thực hiện tốt nhiệm vụ thu đúng, thu đủ , thu kịp theo luật định , tạo điều kiện phát triển
xã hội.

KẾT LUẬN
Kể từ khi ban hành cho đến nay, thuế giá trị gia tăng luôn thu hút sự quan tâm đặc
biệt của mọi giới, nhất là các nhà kinh doanh lớn và nhỏ. Trong khi đó, việc gian lận thuế
GTGT đang diễn ra ngày một nhiều. Chính phủ Việt Nam cần nhanh chóng có những
59

biện pháp hợp lý, nhanh chóng để giải quyết vấn đề này, tạo ra sự minh bạch, hiệu quả và
công bằng nhằm thúc đẩy nền kinh tế chung phát triển. Hơn thế nữa, Thuế GTGT là một
trong những sắc thuế quan trọng, tạo nguồn thu chính cho NSNN. Chính vì những lí do
đó, nhóm đề tài muốn qua những tài liệu tổng hợp được, đưa ra cái nhìn tổng quan về các
thực trạng gian lận thuế GTGT đang diễn ra ngày một tinh vi, tìm ra những nguyên nhân
sâu xa của các hình thức gian lận này, từ đó góp phần định hướng và đưa ra những kiến
nghị giải pháp giúp Nhà nước có thể quản lý tốt hơn và hạn chế những hành vi gian lận
này.
Trong quá trình nghiên cứu, nhóm đề tài đã đạt được những kết quả sau:
Thứ nhất, đề tài đã tổng hợp và đưa ra cái nhìn tổng quan chung về thuế GTGT và
mối quan hệ giữa Doanh nghiệp và nghĩa vụ nộp thuế GTGT.
Thứ hai, đề tài đi sâu đánh giá thực trạng áp dụng thuế GTGT tại Việt Nam và đặc
biệt là đưa ra cái nhìn chi tiết tới tình hình gian lận thuế GTGT tại Việt Nam. Đồng thời
nhóm đề tài cũng chỉ ra những vấn đề tồn tại trong việc áp dụng thuế GTGT tại Việt Nam
và nguyên nhân của việc gian lận thuế GTGT đang diễn ra.
Cuối cùng, nhóm đề tài đã đưa ra một số kiến nghị và giải pháp tới Chính phủ
nhằm hoàn thiện các công tác quản lý thuế GTGT để hạn chế tình trạng gian lận diễn ra.
Do tính chất hạn chế về quy mô và năng lực nghiên cứu, nhóm đề tài chỉ tập trung
nghiên cứu những nét cơ bản về gian lận thuế GTGT tại Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu, không khỏi những hạn chế về kiến thức chuyên môn
nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Tuy nhiên, nhóm đề tài mong muốn đây sẽ
là một tài liệu tham khảo hữu ích góp phần vào việc nghiên cứu, tìm ra giái pháp hạn chế
vấn đề gian lận thuế GTGT đang diễn ra ngày một phức tạp tại Việt Nam.
60

TÀI LIỆU THAM KHẢO


I.Tài liệu tiếng Việt

1. Báo cáo tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện luật thuế Giá trị gia tăng 2007.
2. Báo cáo tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện luật thuế Giá trị gia tăng 2013.
3. GS.TS Bùi Xuân Lưu, 2003, Giáo trình Thuế và hệ thống thuế ở Việt Nam, NXB

Giáo dục.

II. Tài liệu tiếng nước ngoài


III. Tài liệu website

1. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, 2012, Gian lận thương mại qua hoàn thuế

giá trị gia tăng tại khu kinh tế Lao Bảo - Quảng Trị, truy cập ngày 17/05/2013
<http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?
co_id=30089&cn_id=562460>
2. Cải cách thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam, chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright:

http://www.fetp.edu.vn/attachment.aspx?ID=2437
3. Công Ty Cổ Phần Giải Pháp Phần Mềm Mặt Trời Xanh (ASOFT), Một số biện

pháp góp phần hoàn thiện luật thuế giá trị gia tăng, truy cập ngày 18/5/2013
<http://www.asoft.com.vn/vn/tin-tuc/tai-chinh-ke-toan/mot-so-bien-phap-gop-
phan-hoan-thien-luat-thue-gia-tri-gia-tang>
4. Nghiêm Thị Thà, 2012, Một số bất cập trong quá trình thực hiện luật thuế giá trị

gia tăng, truy cập ngày 16/05/2013


< http://thanhtravietnam.vn/vi-VN/Home/magazinestory.aspx?ID=501>
5. Nguyễn Trung Tính, 2012, Một số thủ đoạn gian lận trong lĩnh vực hoàn thuế giá

trị gia tăng, truy cập ngày 17/05/2013


<http://www.travinh.gov.vn/wps/portal/congan/cong+an+tra+vinh/cong+tac+tuyen
+truyen/tuyen+truyen+phong+chong+toi+pham/gian+lan+hoan+thue>
6. Tạp chí Tài chính, 2012, Mức độ gian lận thuế có dấu hiệu tăng, truy cập ngày

16/05/2013
<http://www.tapchitaichinh.vn/Phap-luat-Kinh-doanh/Muc-do-gian-lan-thue-co-
dau-hieu-tang/16566.tctc>
7. Tạp chí Tài chính, 2012, Cảnh báo gian lận thuế trong thu mua nông sản xuất

khẩu, truy cập ngày 17/05/2013


61

<http://www.tapchitaichinh.vn/Ho-so-Vu-an/Canh-bao-gian-lan-thue-trong-thu-
mua-nong-san-xuat-khau/16274.tctc>
8. Tổng cục Thuế, 2012, Mấy vấn đề trao đổi về chính sách thuế GTGT, truy cập ngày

16/05/2013
<http://www.gdt.gov.vn/wps/portal/!
ut/p/b0/04_Sj9CPykssy0xPLMnMz0vMAfGjzOINTCw9fSzCgv2dPELNDTxNzS1
NLVzcjN0DzfULsh0VAc7cfIs!/?
WCM_GLOBAL_CONTEXT=/wps/wcm/connect/gdt+content/sa_gdt/sa_news/sa_
news_tax/2012-03/5b6e6e1b-2653-4d8c-9787-5541b03f33e9 >
9. Tổng cục Thuế, 2013, Đổi mới quản lý thuế đối với hộ kinh doanh, truy cập ngày

16/05/2013
<http://tphcm.gdt.gov.vn/wps/portal/!
ut/p/b1/04_Sj9CPykssy0xPLMnMz0vMAfGjzOINTCw9fSzCgv29XJzMDTxdg3w
dzd0tjQx8zfQLsh0VATgWHxU!/?
WCM_GLOBAL_CONTEXT=/tphcm/site/news/cucthue/fb993604-fb14-4c7f-
95ac-0cfcc5d1e1a9>
10. Trang Luận Văn, Thực Trạng Gian Lận Thuế Giá Trị Gia Tăng Ở Việt Nam, truy

cập ngày 19/5/2013


<http://luanvan.net.vn/luan-van/thuc-trang-gian-lan-thue-gtgt-o-viet-nam-2253/>
11. Trang Luận Văn, Đề tài gian lận trong khấu trừ và hoàn thuÝs giá trị gia tăng, truy

cập ngày 20/5/2013


<http://luanvan.net.vn/luan-van/de-tai-gian-lan-trong-khau-tru-va-hoan-thue-gia-
tri-gia-tang-14365/>
12. Trang Tư vấn thuế, 2012, Qua 20 vụ mua bán hóa đơn GTGT: Thủ đoạn cũ của

các “giám đốc ma”, truy cập ngày 18/05/2013


<http://tuvanthue.com/367/qua-20-vu-mua-ban-hoa-don-gtgt-thu-doan-cu-cua-cac-
giam-doc-ma/>

You might also like