Professional Documents
Culture Documents
45,000 43,074
40,000
35,000
30,000
24,781
25,000
19,567
20,000 Xuất khẩu (triệu USD)
15,737 Nhập khẩu (triệu USD)
15,000 13,693
12,197
9,756
10,000
6,092
5,000
0
2009 2010 2011 2012
Đồ thị 2.2: Kim ngạch XNK hàng hóa tại Cục Hải quan
TP Hải Phòng từ năm 2009 đến năm 2012
Năm 2012, do tình hình kinh tế trong nước khó khăn, ngân hàng thắt
chặt việc cho vay vốn hỗ trợ sản xuất kinh doanh, nhiều doanh nghiệp tuyên
bố giải thể; Nhà nước quy định thêm điều kiện để nhập khẩu một số hàng hoá
như thông tư 20/2011/TT-BTC của Bộ Công thương trong đó có quy định
thương nhân nhập khẩu xe ô tô chở người loại 9 chỗ ngồi trở xuống phải có
chỉ định hoặc giấy uỷ quyền là nhà nhập khẩu, nhà phân phối của chính hãng
sản xuất, kinh doanh loại ô tô đó hoặc hợp đồng đại lý của chính hãng sản
xuất kinh doanh loại ô tô đó đã được cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam ở
nước ngoài hợp pháp hoá lãnh sự theo quy định của pháp luật. Theo quy định
trên thì chỉ có các đại lý của chính hãng, nhà phân phối chính hãng mới được
phép nhập khẩu mặt hàng ô tô chở người dưới 9 chỗ, tuy nhiên các doanh
nghiệp nhập khẩu ô tô tại Hải Phòng hầu như không có uỷ quyền, không có
hợp đồng đại lý. Tương tự, theo thông báo số 197/TB-BCT ngày 06/05/2011,
các mặt hàng rượu, mỹ phẩm, điện thoại di động khi nhập khẩu cũng phải
thực hiện các quy định như trên. do vậy mà kim ngạch nhập khẩu mặt hàng ô
tô, mỹ phẩm, điện thoại di động năm 2012 giảm mạnh so với năm trước. Ô tô
giảm 67%; Mỹ phẩm, điện thoại di động giảm 35%. Tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu năm 2012 chỉ đạt 31.764 triệu USD bằng 56% so với tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu năm 2011.
(số liệu thể hiện tại Phụ lục 2.2.1)
2.2.2. Công tác thu thuế xuất nhập khẩu tại Cục Hải quan Hải Phòng
Trong các năm qua, Cục Hải quan thành phố Hải Phòng đã tích cực thực
hiện thực hiện công tác cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hoá thủ tục Hải
quan, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập
khẩu. Phối hợp với Ngân hàng, Kho bạc quản lý chặt chẽ các khoản thu đảm
bảo bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời cho ngân sách nhà nước.
Năm 2009, số thu thuế xuất nhập khẩu tại Cục Hải quan Hải Phòng mới
chỉ đạt con số khiêm tốn là 28.981 tỷ đồng. Năm 2010 số thu thuế đã đạt
35.772 tỷ đồng tăng 6.791 tỷ so với năm 2009 (tương đương 23,43%).
Năm 2011, số thu thuế xuất nhập khẩu của Cục Hải quan Hải Phòng đạt
con số kỷ lục: 40.250 tỷ đồng tăng 38,9% so với năm 2009, vượt 5,37% so
với chỉ tiêu được giao. Đây là số thu lớn nhất tính đến hết năm 2012.
Đồ thị 2.3: Số thu thuế xuất nhập khẩu tại
Cục Hải quan hải Phòng từ năm 2009 đến năm 2012
(Trong đồ thị, năm 2009 – 2012 không có dấu phẩy)
Năm 2012, tình hình chính trị, kinh tế thế giới phức tạp và bất ổn đã ảnh
hưởng lớn đến kinh tế Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp đóng cửa, giải thể, phá
sản; hàng hoá tồn đọng, sức mua trên thị trường giảm sút. Mặc dù Chính phủ
và các Bộ, Ngành đã vào cuộc một cách quyết liệt, hàng loạt các chủ trương,
chính sách lớn được ban hành nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế và ngăn
chặn lạm phát, giúp các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, thoát khỏi giai đoạn
suy thoái như nghị quyết 02/NQ-CP ngày 09/01/2011 của Chính phủ về
những giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; Nghị
quyết 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu
tập trung kiềm chế lạm pháp, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội,
phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng phù hợp và ổn định; Chỉ thị 05/CT-
BTC ngày 21/12/2011 của Bộ Tài chính về thực hiện nghiêm chính sách tài
khoá .. nhưng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2012 vẫn giảm 44% so với năm
2011 đẫn đến số thu năm 2012 của Cục Hải quan TP Hải Phòng chỉ đạt
32.075 tỷ đồng bằng 67,92% so với chỉ tiêu được giao ban đầu và bằng
97,37% so với chỉ tiêu đã được điều chỉnh.
(số liệu thể hiện tại Phụ lục 2.2.2)
2.2.3. Công tác chống thất thu thuế tại Cục Hải quan Hải Phòng
Công tác chống thất thu thuế luôn là công tác được Cục Hải quan Hải
Phòng quan tâm hàng đầu. Hàng năm, Cục Hải quan Hải Phòng thường tổ
chức các cuộc họp triển khai các giải pháp nhằm tăng thu ngân sách, chống
gian lận thương mại, thu hồi nợ thuế chống phát sinh nợ đọng. Cụ thể:
Tăng cường công tác xây dựng đội ngũ cán bộ công chức, bố trí cán bộ
có trình độ chuyên môn sâu vào các bộ phận nghiệp vụ quan trọng, đề cao
tinh thần trách nhiệm cá nhân, tinh thần tự nghiên cứu nâng cao trình độ
nghiệp vụ của cán bộ công chức. Khuyến khích cán bộ công chức phát hiện
những gian lận thương mại mới các rủi ro tiềm ẩn trong nghiệp vụ.
Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất
nhập khẩu; tăng cường công tác tuyền truyền, phổ biến chính sách pháp luật
liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu; thành lập các tổ giải quyết nhanh,
chủ động gặp gỡ, giải quyết những vướng mắc của doanh nghiệp, động viên
doanh nghiệp nộp thuế đúng hạn. Theo dõi, đánh giá quá trình chấp hành
pháp luật của doanh nghiệp để xây dựng tiêu chí đánh giá rủi ro trong hoạt
động xuất nhập khẩu.
Đẩy mạnh công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại, xây dựng kế
hoạch chống thất thu qua xác định xuất xứ, xác định giá, mã số hàng hóa ..
kiểm tra kỹ các trường hợp xét miễn, giảm, hoàn thuế đảm bảo công tác xét
miễn, giảm, hoàn thuế chính xác, đúng quy định.
Đẩy mạnh công tác đôn đốc, thu hồi nợ thuế. Thực hiện triệt để các biện
pháp đôn đốc ngay từ khi mới phát sinh nợ quá hạn, không để tình trạng quá
hạn lâu dẫn đến không có khả năng thu hồi. Tích cực thực hiện các biện pháp
cưỡng chế theo luật định như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của doanh
nghiệp, dừng làm thủ tục hải quan ..
Kết quả là từ năm 2009 đến năm 2012, Cục Hải quan Hải phòng đã kiểm
tra, phát hiện và thực hiện truy thu 1.144,5 tỷ đồng cho ngân sách nhà nước.
Cụ thể:
Năm/hình thức gian lận Tổng số quyết Số thuế truy thu
định (tỷ đồng)
Năm 2009
- Gian lận về giá: 225 197
- Gian lận về áp mã hàng hóa: 109 54
- Gian lận về xuất xứ hàng hóa: 74 28
Năm 2010
- Gian lận về giá: 303 202
- Gian lận về áp mã hàng hóa: 165 67
- Gian lận về xuất xứ hàng hóa: 93 32
Năm 2011
- Gian lận về giá: 365 100,1
- Gian lận về áp mã hàng hóa: 276 98
- Gian lận về xuất xứ hàng hóa: 95 56
Năm 2012
- Gian lận về giá: 915 124,4
- Gian lận về áp mã hàng hóa: 516 108
- Gian lận về xuất xứ hàng hóa: 130 78
Cộng 3.266 1.144,5
2.3. Những thuận lợi, khó khăn, hạn chế, bất cập trong công tác thu thuế
xuất nhập khẩu
2.3.1. Những thuận lợi trong công tác thu thuế xuất nhập khẩu:
Trong những năm qua, trên chặng đường xây dựng và phát triển của
mình Cục Hải quan TP Hải Phòng đã luôn đề ra cho mình nhiệm vụ cụ thể
cho mục tiêu “ Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách, quy trình thủ tục và
hoạt động của Hải quan cho phù hợp với quy định của WTO, triển khai có
hiệu quả, đảm bảo tiến độ chương trình hiện đại hoá Hải quan, tăng cường kỷ
luật, kỷ cương hành chính và chống tham nhũng, tạo thuận lợi cho doanh
nghiệp và nâng cao năng lực quản lý về Hải quan”.
2.3.1.1. Hoàn thành vượt chỉ tiêu thu nộp ngân sách về thuế XNK
Theo lộ trình để thực hiện các cam kết quốc tế về cắt giảm thuế quan
khi Việt Nam là thành viên của các tổ chức kinh tế quốc tế như ASEAN,
APEC, WTO thì thuế XNK chiếm tỷ trọng ngày càng nhỏ trong tổng nguồn
thu ngân sách nhà nước. Nhưng trong những năm qua Hải quan Hải Phòng
luôn là một trong những đơn vị hoàn thành vượt mức chỉ tiêu thu nộp ngân
sách, số thu năm sau luôn cao hơn năm trước và là một trong những đơn vị
Hải quan có số thu lớn nhất cả nước
Những năm gần đây mặc dù các dòng thuế lần lượt cắt giảm theo các
cam kết của Chính phủ, nhưng nhờ nỗ lực phấn đấu không mệt mỏi bằng sự
đổi mới trong lệ lối làm việc, cải cách thủ tục hành chính mà cụ thể là đơn
giản hoá thủ tục Hải quan; do thay đổi nhận thức cán bộ công chức coi doanh
nghiệp không chỉ là đối tượng quản lý mà còn là đối tượng phục vụ, biết lắng
nghe và tiếp thu ý kiến phản hồi của DN. Đến nay nhiều năm liên tục đơn vị
đã thu vượt chỉ tiêu, góp phần rất lớn vào số thu của toàn ngành Hải quan. Cụ
thể số thu ngân sách năm 2009 là 28.981 tỷ đồng vượt 7.981 tỷ đồng so với
chỉ tiêu giao tương ứng với 38%; Năm 2010 là 35.772 tỷ đồng, vượt 10.922 tỷ
đồng so với chỉ tiêu giao, tương ứng 43,9%; Năm 2011 là 40.250 tỷ đồng
vượt 2.050 tỷ đồng tương ứng 5,4% so với chỉ tiêu giao.
2.3.1.2. Công tác cải cách hành chính, hiện đại hoá luôn được chú
trọng
Công tác cải cách, hiện đại hoá Hải quan được xác định là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của ngành nói chung và của Cục Hải quan TP Hải
Phòng nói riêng, là điều kiện tiên quyết để phát triển.
Với những giải pháp như sắp xếp lại dây chuyền làm thủ tục Hải quan,
lược bỏ các khâu trung gian, tổ chức hướng dẫn, tư vấn cho doanh nghiệp để
cùng giải quyết các vướng mắc. Thời gian thông quan hàng hoá đã giảm
xuống đáng kể, đối với tờ khai kiểm tra sơ bộ (luồng xanh) từ 3-15 phút, tờ
khai kiểm tra chi tiết (luồng vàng) từ 10-60 phút, tờ khai kiểm tra thực tế hàng
hoá (luồng đỏ) phụ thuộc vào thời gian kiểm hóa. Đây chính là lý do chính có
sức thuyết phục các doanh nghiệp đến làm thủ tục tại Hải quan Hải Phòng.
Cục Hải quan Hải Phòng được đánh giá là một trong những đơn vị dẫn đầu
toàn ngành về cải cách hành chính và được doanh nghiệp, dư luận đánh giá
khá tốt.
Về chủ trương hiện đại hoá Hải quan cũng đã có sự đầu tư tương đối
thoả đáng về vật chất cho đến con người. Rất chú trọng đến việc đưa công
nghệ thông tin vào quản lý, Cục đã trang bị đường truyền tốc độ cao giữa Cục
với 20 đơn vị trực thuộc và với Tổng cục Hải quan.
Năm 2005 Cục Hải quan TP Hải Phòng cũng được lựa chọn là một
trong hai đơn vị triển khai hải quan điện tử, đến nay 100% các chi cục trực
thuộc đã thực hiện thủ tục hải quan điện tử với hơn 10.000 doanh nghiệp đăng
ký tham gia. Với quyết tâm cao trong những năm tới Cục Hải quan Hải Phòng
sẽ tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công tác cải cách hành chính, hiện đại hoá góp
phần tạo môi trường đầu tư, xuất nhập khẩu lành mạnh.
2.3.1.3. Chất lượng cán bộ, công chức dần được nâng cao
Vì sự ổn định và phát triển bền vững nên công tác xây dựng lực lượng
được xem là mấu chốt của thành công. Hàng năm tiến hành rà soát và đánh
giá chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức để lên kế hoạch chuẩn hoá trình độ,
đào tạo lại.
Trong những năm gần đây, các hội nghị chuyên đề và hội nghị tập huấn
nghiệp vụ thuế đã được Tổng cục Hải quan thường xuyên tổ chức, nhằm cung
cấp các thông tin, kiến thức mới, Cục Hải quan Hải Phòng luôn cử các cán bộ,
công chức tham dự để nâng cao trình độ, trau dồi kỹ năng. Ngoài ra, lãnh đạo
Cục đặc biệt quan tâm đến công tác đào tạo lại cán bộ đã liên tục mở các lớp
nghiệp vụ chuyên sâu như xác định trị giá tính thuế, kiểm tra sau thông quan,
xử lý nợ đọng,... Do được cập nhật kiến thức thường xuyên nên trình độ cán
bộ công chức thuế dần được nâng cao. Đội ngũ cán bộ công chức thuế như
cán bộ tính thuế, kế toán, phúc tập thuế... hầu như có trình độ cao đẳng, đại
học. Nhân sự trong những năm gần đây được quan tâm tăng thêm những công
chức trẻ, được đào tạo chính quy nên đã bổ sung cho đội ngũ cán bộ công
chức thuế kế cận cho quá trình đổi mới.
2.3.1.4. Các biện pháp xử lý nợ đọng thuế được tăng cường
Thời gian qua, Cục Hải quan TP Hải Phòng đã triển khai thực hiện quyết
liệt các biện pháp xử lý nợ đọng thuế, từ chỗ chỉ quản lý được số nợ, đối
tượng nợ nhưng chưa chi tiết được loại nợ, tuổi nợ, hiện tượng cưỡng chế
nhầm do hệ thống theo dõi nợ chưa chính xác... đến nay Cục đã thực hiện
được việc phân tích, phân loại nợ đọng, hiện tượng cưỡng chế nhầm về cơ
bản đã không còn. Cục đã đưa thông tin nợ thuế của doanh nghiệp lên trang
Web của ngành để các doanh nghiệp có thể dễ dàng khai thác, tra cứu, theo
dõi tình hình nợ thuế của mình, tạo thuận lợi cho DN trong việc chấp hành
nghiêm chỉnh nghĩa vụ nộp thuế.
Ngoài ra, còn có nhiều biện pháp đôn đốc như thông báo trực tiếp bằng
văn bản đến doanh nghiệp, gọi điện thoại để nhắc nhở doanh nghiệp nộp thuế
đúng hạn, thông qua các doanh nghiệp làm dịch vụ thủ tục Hải quan để thu
hồi nợ, thành lập các đoàn đôn đốc thuế đến trụ sở doanh nghiệp để động
viên, yêu cầu doanh nghiệp nộp thuế hay phối hợp với UBND, Công an, cơ
quan thuế để phối hợp thu đòi nợ đối với các đối tượng chây ỳ, phối hợp với
Sở Kế hoạch đầu tư các tỉnh, thành phố truy tìm địa chỉ mới của các doanh
nghiệp thuộc diện không tìm thấy địa chỉ... Có thể thấy, tình hình nợ thuế đã
thu được những kết qủa khả quan, công tác quản lý và theo dõi đã bước đầu
đi vào nề nếp.
2.3.1.5. Công tác chống buôn lậu và chống gian lận thương mại được
chú trọng.
Nhìn lại những năm vừa qua, Cục Hải quan TP Hải Phòng đã triển khai
tích cực và đạt hiệu quả khá cao trong công tác chống buôn lậu và gian lận
thương mại.
Cục Hải quan TP Hải Phòng đã xây dựng được quy chế phối hợp hoạt
động giữa Hải quan, Công an và Bộ đội biên phòng trên địa bàn, giữa hải
quan với Cảnh sát biển vùng I. Nắm vững tình hình từng địa bàn, đối tượng,
luồng hàng trọng điểm.
Hải quan Hải Phòng đã không ngừng hoàn thiện các quy trình thủ tục
hải quan và xác lập cơ sở pháp lý trong phối kết hợp giữa cơ quan hải quan
với các cơ quan có liên quan trong việc cộng đồng trách nhiệm chống buôn
lậu và gian lận thương mại. Cơ sở vật chất và lực lượng phục vụ công tác
chống buôn lậu được bổ sung đáng kể, các biện pháp nghiệp vụ, thu thập
thông tin được tăng cường . Nhờ đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục
pháp luật phòng, chống ma tuý; Tăng cường kiểm tra, kiểm soát hoạt động
xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh nhằm phát hiện, bắt giữ đối tượng có hành vi
vận chuyển, buôn bán trái phép qua biên giới; Hướng dẫn và cảnh báo kịp
thời các phương thức thủ đoạn buôn lậu và gian lận thương mại cho các đơn
vị trực thuộc nên đã tập trung đấu tranh nhiều chuyên án, phá các ổ nhóm,
đường dây buôn lậu trên địa bàn quản lý.
2.3.2. Những hạn chế, bất cập trong công tác thu thuế xuất nhập khẩu
2.3.2.1. Hạn chế, bất cập về quản lý đối tượng nộp thuế
Đối tượng nộp thuế là chủ thể quan trọng có mối quan hệ chặt chẽ, mật
thiết và trực tiếp sáng tạo, quản lý các lợi ích vật chất được hình thành trong
xã hội. Nhằm thay đổi phương pháp quản lý trước đây là mang tính áp đặt nay
để phù hợp với tiến trình cải cách thủ tục hành chính, nâng cao ý thức của
doanh nghiệp, trong những năm vừa qua Cục Hải quan TP Hải Phòng đặc biệt
quan tâm đến đối tượng nộp thuế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy quá trình chấp
hành pháp luật về thuế và cơ sở dữ liệu về doanh nghiệp thực sự chưa đáp
ứng được yêu cầu quản lý trong điều kiện hội nhập hiện nay.
Mặc dù, để phân loại doanh nghiệp cơ quan Hải quan đã phân luồng
“đỏ, vàng, xanh” căn cứ trên mức độ đã chấp hành pháp luật về thuế của
doanh nghiệp trước đó nhưng việc dựa trên căn cứ này cũng mang tính tương
đối, do đó vẫn xảy ra trường hợp doanh nghiệp được phân luồng “xanh”
nhưng vẫn vi phạm. Còn một số hạn chế trong quản lý đối tượng nộp thuế có
thể nói đến như:
- Ý thức chấp hành nghĩa vụ nộp thuế của người nộp thuế. Người nộp
thuế chưa xác định được rõ trách nhiệm và quyền lợi trong việc nộp thuế vào
ngân sách nhà nước do đó họ chỉ nhận thấy bị bắt buộc bỏ đi một phần lợi ích
kinh tế của mình dẫn đến việc cố tình trốn thuế, gian lận thuế hoặc nợ dây dưa
kéo dài.
- Cơ sở dữ liệu về thông tin doanh nghiệp hiện có tại các đơn vị hải
quan là rất “nghèo nàn”, thông tin vừa thiếu vừa không phục vụ được việc
phân tích và đánh giá mức độ chấp hành pháp luật của doanh nghiệp. Triển
khai chưa tốt công tác thu thập, xứ lý thông tin nghiệp vụ hải quan hiện đại
với việc áp dụng quản lý rủi ro.
- Chưa có hệ thống thông tin đồng bộ, kết nối giữa các ngành để phục
vụ công tác tra cứu thông tin doanh nghiệp. Vì nhiều lý do, nên thông tin của
các ngành như thuế, hải quan, thống kê, kho bạc, ngân hàng... chưa kết nối
được với nhau. Thông tin khai thác được còn sơ sài và mang tính tham khảo.
2.3.2.2. Hạn chế, bất cập về căn cứ tính thuế
Việt Nam triển khai áp dụng xác định giá tính thuế nhập khẩu theo hiệp
đinh Hải quan GATT/WTO từ 1/1/2004, cách tính này đã tạo điều kiện chủ
động cho đơn vị nhập khẩu trong việc xác định giá tính thuế vì giá tính thuế
được tính theo trị giá giao dịch. Giá tính thuế nhập khẩu là một trong những
yếu tố rất quan trọng trong việc xác định số thuế nhập khẩu phải nộp, giá tính
thuế có tác động mạnh đến số thu ngân sách, số thuế phải nộp và cũng là tâm
điểm chú ý của các đơn vị, tổ chức quốc tế có quan hệ kinh tế với Việt Nam
nên giá tính thuế mang tính nhạy cảm và có ảnh hưởng đến mở việc rộng
quan hệ thương mại quốc tế.
Khi áp dụng giá tính thuế theo hiệp định GATT/WTO thì gian lận qua
giá sẽ trở nên phổ biến nhất là trong điều kiện quan hệ thương mại quốc tế mở
rộng. Thông thường gian lận qua giá là đơn vị nhập khẩu sẽ kê khai giá tính
thuế thấp hơn giá mua thực tế, do đó, việc nắm bắt thông tin liên quan đến
thương mại quốc tế như giá mua, giá bán các mặt hàng trên thế giới, các mối
quan hệ của người mua, người bán để từ đó hình thành nên một ngân hàng dữ
liệu về giá của hàng hoá nhập khẩu để cơ quan hải quan có thể tham vấn so
sánh, đối chiếu với giá do nhà nhập khẩu khai báo là quan trọng. Căn cứ vào
giá tham vấn sẽ có thể phát hiện ra các trường hợp gian lận về thuế nhập khẩu
của doanh nghiệp nhập khẩu hoặc phát hiện sự móc ngoặc giữa của nhân viên
hải quan với người nhập khẩu để chiếm đoạt tiền thuế của Nhà nước.
Nguồn thông tin chủ yếu được cơ quan Hải quan sử dụng trong việc
kiểm tra đối chiếu là từ giá chào hàng trên internet, giá thị trường, hệ thống
thông tin về dữ liệu giá trong nội bộ ngành Hải quan. Tuy nhiên, việc xây
dựng ngân hàng dữ liệu về giá của hàng hoá nhập khẩu của ngành Hải Quan
chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra, dữ liệu về giá còn sơ sài, chưa cập nhật kịp thời
nên gây trở ngại cho công tác tham vấn về giá.
Thực tế tại Cục Hải quan TP Hải Phòng trong những năm qua đã có
một số trường hợp gian lận về giá rất nghiêm trọng như: có doanh nghiệp
nhập khẩu xe BMW khai báo giá tính thuế tại cửa khẩu vào khoảng 22.000-
25.00 USD, trong khi đó giá bán ô tô loại này ở thị trường trong nước lên đến
200.000-220.000 USD hoặc có doanh nghiệp nhập khẩu rượu Remy Martin
400 loại VSOP 70cl/chai do Pháp sản xuất chỉ khai báo giá tính thuế là
1USD/chai, thậm chí có lúc chỉ khai 0,4USD/chai.
2.3.2.3. Hạn chế, bất cập về danh mục biểu thuế
Mỗi loại hàng hoá được sản xuất ra đều có tên gọi nhất định. Ở mỗi
quốc gia, vùng lãnh thổ tuy cùng một mặt hàng nhưng có thể có những tên
gọi, cách gọi khác nhau. Việc thống nhất tên gọi một loại hang hoá khi nhập
khẩu có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định đúng mã hàng hoá nhập
khẩu để áp dụng đúng mức thuế suất thuế nhập khẩu. Việt Nam đã xây dựng
danh mục hang hoá xuất nhập khẩu dựa trên cơ sở Hệ thống điều hoà mô tả
và mã hoá hàng hoá của tổ chức Hải quan thế giới (gọi tắt là danh mục HS) và
việc nhận diện đúng tên hàng , đúng mã số trong biểu thuế nhập khẩu ưu đãi
là yêu cầu cơ bản của việc ban hành Danh mục HS.
Tuy nhiên biểu thuế nhập khẩu hiện hành đã không theo kịp sự đa dạng
về hàng hoá trong hoạt động xuất nhập khẩu, mã số giữa biểu thuế nhập khẩu
so với mã số theo danh mục HS ngày càng bộc lộ nhiều điểm chưa thống
nhất. Chỉ một sản phẩm nhưng giữa các đơn vị lại xác định khác nhau. Để hạn
chế tình trạng cùng một loại hàng hoá nhập khẩu nhưng lại có nhiều cách áp
mã khác nhau thì biểu thuế nhập khẩu cần được cập nhật bổ sung chi tiết, cụ
thể phù hợp với danh mục HS trong điều kiện hàng hoá nhập khẩu ngày càng
nhiều.
2.3.2.4. Hạn chế về quản lý thu nộp tiền thuế
Theo Luật Quản lý thuế hiện nay đang áp dụng, các doanh nghiệp có
trách nhiệm tự kê khai thuế, tự nộp thuế theo đúng quy định. Mục tiêu là để
nâng cao ý thức tự giác, đề cao trách nhiệm trước pháp luật của đối tượng nộp
thuế, giảm bớt chi phí thông báo thuế, rút ngắn thủ tục hành chính, tạo khung
pháp lý minh bạch và thuận tiện đối với hoạt động xuất nhập khẩu, bởi vì một
trong những yếu tố gây cản trở lớn và làm giảm đi tính hấp dẫn là sự kém
minh bạch trong chính sách và việc mất quá nhiều thời gian trong việc giải
quyết các vấn đề thủ tục hành chính, đây là thuộc nhóm vấn đề các rào cản vô
hình và tạo ra những chi phí cơ hội, chi phí không đoán trước đối với doanh
nghiệp. Tuy nhiên đây cũng là cơ hội để doanh nghiệp thực hiện hành vi gian
lận trong kê khai tính thuế, nộp thuế.
Theo quy định hiện hành, thời hạn ân hạn thuế cho phép là từ 30 đến
275 ngày tuỳ theo loại hình kinh doanh xuất nhập khẩu. Đây là hình thức Nhà
nước tài trợ cho doanh nghiệp thông qua phương thức cho vay vốn nhưng
không thu lãi để doanh nghiệp tạm thời không mất đi một khoản vốn lưu động
để nộp thuế Nhập khẩu, quy định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho doanh
nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, một số doanh nghiệp
đã lợi dụng quy định này để nhập khẩu hàng hoá về tiêu thụ rồi bỏ trốn,
không thực hiện nghĩa vụ thuế của mình, nhất là trong điều kiện hiện nay số
lượng doanh nghiệp tham gia hoạt động XNK ngày càng tăng thì tình trạng
gian lận nợ thuế cũng gia tăng, gây thất thu cho ngân sách Nhà nước, trong
khi đó biện pháp thu hồi tiền thuế không đủ mạnh để có thể thu được tiền thuế
bị thất thoát.
Công tác đôn đốc thu hồi nợ đọng thuế là một nhiệm vụ khó khăn, phức
tạp và không kém phần nhạy cảm của ngành Hải quan. Lãnh đạo các đơn vị
Hải quan đều coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, là giải pháp
quan trọng để tăng số thu cho ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên trên thực tế do
thiếu nhân lực nên việc bố trí đội ngũ công chức làm công tác này tại một số
đơn vị không những chưa nhiều, mà còn chưa chuyên sâu. Hiện nay tại mỗi
Chi cục Hải quan đến Cục Hải quan đều có tổ theo dõi, đôn đốc thu hồi nợ
đọng thuế gồm 2-3 cán bộ do một lãnh đạo trực tiếp phụ trách. Tổ này trực
thuộc luôn trong bộ phận kế toán của đơn vị, song không chỉ lãnh đạo phụ
trách, mà ngay cả cán bộ trong tổ cũng đều phải kiêm nhiệm thêm công việc
khác. Ngoài việc theo dõi các DN nợ thuế trên sổ sách, chương trình phần
mềm kế toán thuế được “để ý” đến thường xuyên, còn những việc khác mang
tính “đặc thù” hơn của công tác thu hồi nợ đọng thuế như: rà soát, gửi thông
báo nợ thuế, công văn đôn đốc và đến từng DN đôn đốc thuế thường được
tiến hành theo từng đợt.
Mặt khác, nghiệp vụ thu hồi nợ thuế không như các lĩnh vực nghiệp vụ
khác của hải quan được đào tạo cơ bản trong trường lớp mà còn thường
xuyên có các lớp tập huấn, hướng dẫn thực hiện, phổ biến kinh nghiệm của
các chuyên gia thì riêng lĩnh vực đòi nợ thuế là cán bộ hải quan phải tự tìm
hiểu, áp dụng. Ngoài ra, về phía nội bộ ngành cần thẳng thắn, thừa nhận, số
nợ thuế tăng còn xuất phát từ năng lực của một số cán bộ tính thuế còn hạn
chế. Một trong những loại nợ khó đòi là nợ đang nằm trong diện tranh chấp,
nợ truy thu. Trước đây, có một thời gian, tâm lý sợ trách nhiệm nên có không
ít cán bộ hải quan áp mã tính thuế theo xu hướng có lợi cho cơ quan quản lý,
theo đó thuế suất thường áp ở mức cao dẫn tới DN khiếu nại. Cũng có không
ít trường hợp, cơ quan hải quan tính thuế lô hàng, thuế đã nộp xong, sau khi
phúc tập phát hiện lô hàng áp mã tính thuế chưa đúng, cơ quan hải quan ra
quyết định truy thu. DN với lý do hàng đã tiêu thụ, tiền thuế đã tính vào đơn
giá nên khiếu nại không chấp nhận quyết định truy thu dẫn đến nợ tồn đọng,
dây dưa. Hay do chính việc chưa phân loại rõ các đối tuợng doanh nghiệp
thực hiện nghĩa vụ thuế tốt và chưa tốt nên trong quá trình xử lý ân hạn đã
cho ân hạn thuế cả những doanh nghiệp đáng ra không được hưởng.
- Sự phối hợp công tác giữa Cục với các cơ quan chức năng về thu hồi
nợ đọng chưa hiệu quả. Đối với việc phối hợp với các cơ quan chức năng,
Tổng cục Hải quan có nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn các đơn vị địa
phương những biện pháp đôn đốc thu hồi nợ đọng thuế, nhưng các văn bản
này vẫn chung chung và có những biện pháp thiếu cơ sở pháp lý để thực hiện.
Ví dụ như giải pháp phối hợp với ngân hàng để trừ nợ qua tài khoản của
doanh nghiệp đã cụ thể bằng các văn bản ký kết giữa lãnh đạo ngành Hải
quan và ngân hàng nhưng trên thực tế các ngân hàng không “mặn mà” tới
việc đụng chạm lợi ích của khách hàng của mình. Chính vì thế việc ngân hàng
cung cấp thông tin, tình hình tài chính của doanh nghiệp, biện pháp khấu trừ
nợ qua tài khoản của doanh nghiệp tại ngân hàng rất khó khi thực hiện.
Cũng tương tự như vậy các giải pháp khác như phối hợp với Sở Kế
hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính... cũng chỉ nằm trên các văn bản hướng dẫn
của ngành HQ mà chưa có sự thống nhất ký kết ở các cấp lãnh đạo giữa các
cơ quan chức năng để công tác phối hợp có tính pháp lý và đạt hiệu quả cao.
Vì vậy cho nên những giải pháp mang tính chất quyết liệt hơn như kê biên tài
sản, tạm giữ hàng hóa, truy tố... đến nay vẫn chỉ nằm trên văn bản chỉ đạo mà
không triển khai được vì không có qui định hướng dẫn cụ thể thủ tục tiến
hành ra sao, biện pháp thực hiện thế nào.
2.3.2.5. Hạn chế về quản lý miễn giảm thuế
Miễn giảm thuế là một hình thức ưu đãi thuế thường được các Chính
phủ sử dụng để nhằm hướng tới những mục tiêu nhất định như: Thu hút đầu
tư hoặc khuyến khích phát triển kinh tế ở vùng, địa phương ; Thu hút đầu tư
vào ngành nghề, lĩnh vực cần ưu tiên; Khuyến khích chuyển giao công nghệ;
Khuyến khích tạo công ăn việc làm cho người địa phương.
Qua quá trình thực hiện miễn thuế XNK tại Cục đã bộc lộ một số hạn
chế như người nộp thuế lợi dụng những kẽ hở trong chính sách thuế hoặc sự
lỏng lẻo của cơ quan quản lý nhà nước để giảm số thuế phải nộp vào ngân
sách nhà nước. cụ thể:
+ Nhập khẩu hàng hoá để tạo tài sản cố định đối với các DN thực hiện
các dự án được miễn thuế nhưng lại cho thuê lại, hoặc sử dụng không đúng
với mục đích sử dụng tài sản khi khai báo.
+ Trốn thuế thông qua các loại hình gia công, nhập nguyên liệu để sản
xuất hàng xuất khẩu. Trước khi đăng ký nhập khẩu hàng theo hai loại hình
này, Doanh nghiệp phải đăng ký định mức với cơ quan Hải quan. Trong quá
trình sản xuất, kinh doanh sẽ có sự dư thừa nguyên vật liệu so với định mức
tiêu hao đã đăng ký, nhiều doanh nghiệp không thành thật báo cáo và kê khai
nộp thuế đối với nguyên vật liệu dư thừa đó.
+ Gian lận trong việc tạm nhập, tái xuất hàng hoá, máy móc thiết bị,
phương tiện vận tải do các nhà thầu nước ngoài nhập khẩu vào Việt Nam để
thi công công trình, dự án sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA) nhưng trong quá trình sử dụng họ đã chuyển đổi mục đích như cho
doanh nghiệp khác thuê lại.
+ Khai báo nhập khẩu nguyên liệu, vật tư, bán thành phẩm trong nước
chưa sản xuất được để phục vụ sản xuất của dự án thuộc danh mục lĩnh vực
được khuyến khích nhưng sau đó lại đầu tư vào lĩnh vực khác...
2.3.2.6. Hạn chế về kiểm tra, thanh tra thuế XNK
Theo định hướng hiện đại hoá hải quan thì đến năm 2010, tỷ lệ kiểm tra
hàng hoá trong thông quan phải đạt mức dưới 10%, tức là có trên 90% hàng
hoá xuất nhập khẩu chưa được kiểm tra khi làm thủ tục thông quan. Hay nói
cách khác trong tương lai việc kiểm tra hải quan sẽ căn bản là kiểm tra sau
thông quan. Tuy nhiên, thực tế hiện nay công tác kiểm tra sau thông quan
chưa được coi trọng đúng mức. Kiểm tra sau thông quan là một lĩnh vực còn
rất mới nên không thể tránh khỏi những hạn chế trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn.
- Khối lượng công việc kiểm tra sau thông quan đã giải quyết mới
chiếm một tỷ lệ nhỏ so với khối lượng cần làm. Thống kê đến thời điểm cuối
năm 2012, có khoảng 10.000 doanh nghiệp mở tờ khai tại Cục Hải quan Hải
Phòng được kiểm tra qua hệ thống quản lý rủi ro và kiểm tra hồ sơ hải quan
mới chỉ là một khâu trong cả chuỗi công việc của công tác kiểm tra sau thông
quan, do đó có thể nói công tác kiểm tra sau thông quan chịu một áp lực về
công việc rất lớn, nhất là khi đã chuyển sang quản lý rủi ro.
- Quy trình kiểm tra sau thông quan hiện nay đều bắt đầu từ kiểm tra
sau thông quan tại trụ sở hải quan và dựa trên cơ sở phân tích thông tin còn
nghèo nàn của đơn vị. Cách làm truyền thống này đã chưa đem lại hiệu quả.
Tại các chi cục, hầu hết các đơn vị đều không kỳ vọng vào khâu phúc tập và
không đặt trách nhiệm kiểm tra hồ sơ hải quan mà chủ yếu là làm nhiệm vụ
sắp xếp lại hồ sơ.
- Tỷ lệ thực thu so với các quyết định truy thu thuế ẩn lậu thấp,
- Năng lực phát hiện chứng từ giả của cán bộ kiểm tra sau thông quan
vẫn còn nhiều hạn chế. Vì mặc dù hiện nay có những bộ chứng từ hải quan có
dấu hiệu giả nhưng để đấu tranh với DN cố tình gian lận phải trưng cầu giám
định . Việc làm này không chỉ tốn nhiều thời gian, tiền bạc mà nó cũng làm
cho kết quả tham vấn của cơ quan hải quan không đủ sức thuyết phục DN.
Còn đối với công tác thanh tra thuế hiện nay còn nhiều điều cần phải
chú ý đến, vì theo Luật quản lý thuế đã mở rộng quyền hạn cho cơ quan Hải
quan (có hiệu lực từ 1/1/2007), nhưng cho đến nay đây vẫn còn là mảng công
tác còn bỏ ngỏ, chưa thực hiện được trong quản lý thuế. Vì điều đáng bàn là
về nhân sự, tại Cục Hải quan TP Hải Phòng chưa một cá nhân nào được cấp
thẻ thanh tra viên, do đó chưa thể thành lập đoàn thanh tra thuế.
2.3.2.7. Một số hạn chế khác
- Hạn chế về số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ công chức. Với đặc
thù của ngành hải quan nên hầu hết CBCC đều liên quan trực tiếp đến công
tác quản lý thuế. Số biên chế tại các bộ phận như tính thuế, kế toán thuế, giá,
kiểm tra sau, chống buôn lậu... phân bổ cho các Chi cục, Phòng ban chuyên
môn thấp so với yêu cầu công việc cần phải đáp ứng. Với lượng công việc
như hiện nay thì một số bộ phận đã bị quá tải, chịu áp lực rất lớn về khối
lượng công việc phải hoàn thành.
Do công việc quá bận rộn lại phải rút ngắn thời gian thông quan nên
việc phân tích thông tin về doanh nghiệp, cập nhật kiến thức mới về hàng hoá
như giá, xuất xứ, mã số, thuế suất, tần suất kiểm tra trong thông quan và sau
thông quan, thu đòi nợ đọng.... bị hạn chế rất nhiều.
Do quỹ thời gian hạn chế nên cách làm việc chưa có gì thay đổi nhiều,
người này học hỏi người kia bằng cách “trước nay vẫn làm thế” nên chất
lượng quản lý thuế tại đơn vị chưa theo kịp yêu cầu mới. Bên cạnh đó, về
nhân sự của Cục Hải quan Hải Phòng còn có những hạn chế cần phải tập
trung khắc phục như: Tư duy chậm thay đổi, chưa coi DN là đối tác, là khách
hàng để hướng tới phục vụ;
Nhiều cán bộ còn kiêm nhiệm, không đủ thời gian để tập trung nghiên
cứu, xứ lý các vấn đề phức tạp; Công tác đào tạo cán bộ chưa theo chiến lược,
định hướng lớn và chưa gắn liền với việc bố trí, sắp xếp cán bộ một cách phù
hợp.Thuyên chuyển cán bộ thường xuyên được đánh giá là giảm bớt tiêu cực
nhưng sẽ làm ảnh hướng tới sự ổn định tâm lý và chuyên sâu nghiệp vụ; Chưa
có cơ chế khen thưởng phù hợp để khuyến khích cán bộ công chức và cũng
chưa có biện pháp bảo vệ quyền lợi cho cán bộ công chức trước cơ quan pháp
luật của Nhà nước khi xảy ra rủi ro, thiệt hại nhưng không có dấu hiệu tiêu
cực.
- Hạn chế về phạm vi và chất lượng quản lý rủi ro. Tuy nhiên, đến nay
do bước đầu triển khai áp dụng nên mới chỉ áp dụng quản lý rủi ro trong quy
trình thông quan hàng hoá. Hệ thống vận hành quản lý rủi ro chưa đem lại
hiệu quả cao, bởi vì: Phương pháp thiết lập chưa đáp ứng được yêu cầu phân
loại các rủi ro thực tế, thiếu sự kiểm soát và điều chỉnh linh hoạt theo từng
thời điểm, loại hình hoặc địa bàn quản lý. Hệ thống thông tin quản lý doanh
nghiệp được tích hợp từ các nguồn: Hệ thống quản lý mã số thuế (Tổng cục
Thuế), Hệ thống cơ sở dữ liệu kế toán thuế, Hệ thống cơ sở dữ liệu quản lý vi
phạm, Hệ thống cơ sở dữ liệu tờ khai XNK..., do các chương trình này đuợc
xây dựng từ những năm trước nên không còn phù hợp với phương thức quản
lý mới; Bộ tiêu chí quản lý rủi ro chưa được thiết lập đầy đủ. Hơn nữa, do
chưa nhận thấy đầy đủ về quản lý rủi ro nên dẫn đến những sai lệch trong
nhận thức, quan điểm như: quá lệ thuộc hay ỷ lại vào việc phân luồng của hệ
thống quản lý rủi ro, chuyển luồng tuỳ tiện, thiếu căn cứ... Công tác kiểm tra,
đôn đốc thực hiện tại các Chi cục và Cục chưa được chú trọng.
- Hệ thống thông tin nghiệp vụ hải quan rất thiếu về số lượng và yếu về
chất lượng. Thêm nữa, trên thực tế việc thu thập thông tin từ các nguồn phục
vụ cho công tác quản lý thuế XNK còn rất hạn chế, chủ yếu là do cán bộ tự
khai thác hoặc một phần ít ỏi từ hệ thống thông tin trong nội bộ ngành hải
quan. Tuy nhiên, nguồn thông tin hỗ trợ này thường không đáp ứng được tính
kịp thời do độ trễ của thông tin hoặc thông tin bị “nhiễu” nên không phát huy
tác dụng. Giữa các hệ thống dữ liệu hiện có chưa tích hợp được với nhau.