You are on page 1of 67

1

MUÏC LUÏC
Trang

MÔÛ ÑAÀU ..................................................................................................................1


1. TÍNH CAÁP THIEÁT CUÛA ÑEÀ TAØI: ...........................................................................1
2. MUÏC ÑÍCH NGHIEÂN CÖÙU ...................................................................................1
3. ÑOÁI TÖÔÏNG, PHAÏM VI NGHIEÂN CÖÙU ..................................................................2
4. YÙ NGHÓA KHOA HOÏC VAØ THÖÏC TIEÃN ..................................................................2
5. PHÖÔNG PHAÙP NGHIEÂN CÖÙU .............................................................................2
6. NHÖÕNG ÑOÙNG GOÙP CUÛA ÑEÀ TAØI ........................................................................2
7. NHÖÕNG ÑIEÅM MÔÙI CUÛA ÑEÀ TAØI ........................................................................3
8. KEÁT CAÁU CUÛA LUAÄN AÙN ...................................................................................3

CHÖÔNG 1 TOÅNG QUAN LYÙ LUAÄN VEÀ LÔÏI THEÁ CAÏNH TRANH .............4

1.1 TOÅNG QUAN VEÀ LÔÏI THEÁ CAÏNH TRANH...............................................4


1.1.1 Lyù thuyeát veà lôïi theá caïnh tranh .............................................................4
1.1.1.1 Lyù thuyeát veà lôïi theá tuyeät ñoái (Adam Smith) .................................4
1.1.1.2 Lyù thuyeát veà lôïi theá töông ñoái (David Ricardo) .............................4
1.1.1.3 Lyù thuyeát veà söï doài daøo caùc nhaân toá saûn xuaát (Heckscher - Ohlin)
....................................................................................................................5
1.1.2 Moâ hình vieân kim cöông cuûa Michael Porter veà lôïi theá caïnh tranh......5
1.1.2.1 Ñieàu kieän veà nhaân toá ......................................................................6
.1.2.2 Ñieàu kieän veà caàu...............................................................................7
1.1.2.3 Caùc ngaønh hoã trôï vaø lieân quan........................................................8
1.1.2.4 Chieán löôïc, caáu truùc vaø caïnh tranh .................................................9
1.1.2.5 Vai troø cuûa Chính phuû...................................................................10
1.2 TOÅNG QUAN VEÀ HTX NN ........................................................................11
1.2.1 Lyù thuyeát chung veà HTX NN ..............................................................11
1.2.1.1 Khaùi nieäm veà HTX NN.................................................................11
1.2.1.2 Tính taát yeáu khaùch quan cuûa vieäc hình thaønh HTX NN An Giang
..................................................................................................................11
1.2.1.3 Quan ñieåm nhaän thöùc veà HTX NN trong giai ñoaïn hieän nay .......13
1.2.2 Kinh nghieäm phaùt trieån HTX cuûa moät soá nöôùc treân theá giôùi ..............13
1.2.2.1 Thaùi Lan........................................................................................13
1.2.2.2 Nhaät Baûn .......................................................................................14
1.2.2.3 Vaän duïng kinh nghieäm phaùt trieån HTX NN vaøo An Giang..........16
1.3 MOÂ HÌNH VAØ TRÌNH TÖÏ NGHIEÂN CÖÙU .................................................17
2

Chöông 2: PHAÂN TÍCH THÖÏC TRAÏNG CAÙC NHAÂN TOÁ SAÛN XUAÁT VAØ
KINH DOANH CUÛA HTX NN AN GIANG TRONG THÔØI GIAN QUA ......18

2.1 TOÅNG QUAN VEÀ HTX NN AN GIANG ...................................................18


2.1.1 Quaù trình hình thaønh vaø phaùt trieån HTX kieåu môùi ôû An Giang...........18
2.1.1.1 Giai ñoaïn tröôùc khi Luaät HTX (chöa söûa ñoåi) ra ñôøi....................18
2.1.1.2 Söï ra ñôøi vaø phaùt trieån cuûa HTX kieåu môùi ñeán naêm 2004 ...........19
2.1.1.3 Ñaëc tröng cuûa HTX NN kieåu môùi vaø HTX NN kieåu cuõ ...............20
2.1.2 Tình hình saûn xuaát vaø kinh doanh cuûa HTX NN An Giang.................21
2.2 THÖÏC TRAÏNG LÔÏI THEÁ CAÏNH TRANH CUÛA HTX NN AN GIANG ....24
2.2.1 Thöïc traïng veà lôïi theá caïnh tranh cuûa HTX NN An Giang...................24
2.2.1.1 Ñieàu kieän veà nhaân toá ....................................................................24
2.2.1.2 Ñieàu kieän veà caàu...........................................................................29
2.2.1.3 Caùc ngaønh hoã trôï vaø lieân quan......................................................31
2.2.1.4 Caáu truùc, chieán löôïc vaø caïnh tranh ...............................................34
2.2.1.5 Vai troø cuûa chính phuû ....................................................................37
2.2.2 Phaân tích maët maïnh, maët yeáu, cô hoäi vaø nguy cô cuûa HTX NN An
Giang ............................................................................................................38
2.2.2.1 Ñieåm maïnh (S)..............................................................................39
2.2.2.2 Ñieåm yeáu (W) ...............................................................................39
2.2.2.3 Cô hoäi (O) .....................................................................................40
2.2.2.4 Nguy cô (T) ...................................................................................40
2.2.2.5 Ma traän SWOT..............................................................................41

Chöông 3: MOÄT SOÁ GIAÛI PHAÙP NHAÈM NAÂNG CAO LÔÏI THEÁ CAÏNH
TRANH CHO HTX NN AN GIANG..................................................................44

3.1 MUÏC TIEÂU PHAÙT TRIEÅN KTHT VAØ HTX NN ÑEÁN NAÊM 2010 CUÛA AN
GIANG..............................................................................................................44
3.2 GIAÛI PHAÙP NAÂNG CAO LÔÏI THEÁ CAÏNH TRANH CHO HTX NN AN
GIANG..............................................................................................................45
3.2.1 Nhoùm giaûi phaùp veà phaùt trieån saûn xuaát ..............................................45
3.2.1.1 Hoaøn thieän heä thoáng toå chöùc saûn xuaát trong HTX NN .................45
3.2.1.2 Quy hoaïch vuøng nguyeân lieäu chaát löôïng cao vaø taêng cöôøng quaûn
lyù chaát löôïng noâng saûn ..............................................................................46
3.2.1.3 Cuûng coá quan heä boán nhaø .............................................................46
3.2.2 Nhoùm giaûi phaùp veà thò tröôøng .............................................................48
3.2.2.1 Cuûng coá thò tröôøng noäi ñòa ............................................................48
3

3.2.2.2 Cuûng coá vaø phaùt trieån thò tröôøng xuaát khaåu ..................................49
3.2.2.3 Hoaøn thieän coâng taùc nghieân cöùu vaø döï baùo thò tröôøng .................49
3.2.2.4 Xaây döïng vaø phaùt trieån thöông hieäu noâng saûn .............................50
3.2.2.5 Toå chöùc lieân keát hôïp taùc theo chuoåi saûn xuaát kinh doanh ............51
3.2.3 Nhoùm giaûi phaùp veà coâng ngheä ...........................................................53
3.2.4 Nhoùm giaûi phaùp veà taøi chính ..............................................................54
3.2.5 Nhoùm giaûi phaùp veà nhaân löïc ..............................................................55
3.2.5.1 Ñaøo taïo nguoàn nhaân löïc ñòa phöông .............................................55
3.2.5.2 Taän duïng vaø phaùt huy tính coäng ñoàng noâng thoân .........................56

KEÁT LUAÄN VAØ KIEÁN NGHÒ..............................................................................57


1. KIEÁN NGHÒ VÔÙI UBND TÆNH AN GIANG:................................................57
2. KEÁT LUAÄN ...................................................................................................60

TAØI LIEÄU THAM KHAÛO


PHUÏ LUÏC
4

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:

Sự quan tâm sâu sắc của chính phủ để phát triển nền kinh tế nông nghiệp đã
làm cho mô hình HTX kiểu mới và kinh tế trang trại ở cả nước nói chung và An
Giang nói riêng phát triển một cách mạnh mẽ. Mục đích cho sự ra đời của HTX
kiểu mới và kinh tế trang trại là để phát huy triệt để nguồn lực kinh tế từ nông
nghiệp cũng như dịch vụ nông nghiệp. Sự ra đời của HTX kiểu mới ở An Giang đã
mang lại những giá trị lợi ích kinh tế to lớn từ việc giải quyết nguồn lao động dư
thừa của địa phương đến việc phát huy và ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất
góp phần tăng trưởng cho Tỉnh An Giang và cả nước. Trong những năm qua, tuy
An Giang đạt được những thành quả to lớn từ sản phẩm nông nghiệp nhưng vẫn còn
gặp nhiều khó khăn và hạn chế trong sản xuất và tiêu thụ như giá cả còn thấp, chất
lượng chưa cao, sức cạnh tranh kém… Nguyên nhân chủ yếu là do chưa nghiên
cứu kỹ nhu cầu, tiềm năng và lợi thế của địa phương, dẫn đến các HTX được hình
thành ồ ạt mà chưa có sự quy hoạch một cách đồng bộ nên tạo ra nhiều trở ngại làm
giảm lợi thế cạnh tranh cho các HTX. Từ thực tế trên, luận văn “Một số giải pháp
nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh cho HTX NN AN Giang” là thật sự cần thiết
cho việc tìm ra giải pháp nâng cao lợi thế cạnh tranh cho các HTX NN An Giang,
góp phần tăng trưởng nền kinh tế nông nghiệp trong cả nước và cả ở An Giang.

2. Mục đích nghiên cứu

Đề tài đi sâu vào việc phân tích, đánh giá thực trạng và các nhân tố của HTX
NN An Giang trong mô hình viên kim cương của Porter. Từ đó đưa ra những tồn
tại, những hạn chế làm giảm lợi thế cạnh tranh của HTX, cũng như làm sáng tỏ lý
thuyết về lợi thế cạnh tranh trong mô hình viên kim cương của Porter. Cuối cùng là
rút ra những mặt mạnh, mặt yếu, cơ hội và nguy cơ của HTX, từ đó đề xuất những
giải pháp góp phần nâng cao lợi thế cạnh tranh cho HTX NN ở An Giang.
5

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu về môi trường bên trong và bên ngoài của các HTX NN An
Giang, nhằm phát hiện những tiềm lực sản xuất và những thiếu sót cần khắc phục
của các HTX, nhưng chỉ tập trung nghiên cứu các đối tác, đối tượng có liên quan
đến mô hình viên kim cương của Michael Porter.

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

Đề tài vận dụng lý thuyết về lợi thế cạnh tranh của Michael Porter, nhất là
nghiên cứu mô hình viên kim cương để làm nổi bật lên các nhân tố của lợi thế cạnh
tranh. Trên cơ sở đó đánh giá thực trạng của các nhân tố nhằm tìm ra các hạn chế để
đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh cho HTX.

5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng có kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau:

- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: nghiên cứu lý thuyết về lợi thế cạnh
tranh theo mô hình viên kim cương của Michael Porter nhằm cụ thể hoá các khái
niệm trừu tượng để vận dụng vào thực tế nghiên cứu của đề tài.

- Phương pháp khảo sát thực tế, phân tích thống kê về định lượng và định
tính, thu thập ý kiến chuyên gia, phương pháp phân tích SWOT kết hợp với các số
liệu thống kê của Tỉnh qua các thời kỳ phát triển, từ đó làm cơ sở để tính toán, tổng
hợp, đánh giá lợi thế cạnh tranh cho HTX NN An Giang.

6. Những đóng góp của đề tài


- Về mặt khoa học: tính toán, cung cấp các số liệu và thông tin cần thiết về lợi
thế cạnh tranh của HTX NN An Giang. Đánh giá đúng thực trạng của HTX, chỉ ra
những tồn tại, nguyên nhân của tồn tại, góp phần tạo ra những giải pháp giúp cho
HTX NN An Giang phát triển ổn định và bền vững.

- Những đóng góp liên quan đến phát triển kinh tế Tỉnh: Góp phần hỗ trợ
hoạch định chính sách của Tỉnh về phát triển HTX NN ở An Giang. Tăng tính cạnh
tranh, tăng thu nhập cho các xã viên và làm tăng GDP cho cả nước.
6

7. Những điểm mới của đề tài


- Làm giàu thêm lý luận về lợi thế cạnh tranh. Đó là lý luận về mô hình viên
kim cương của Michael Porter.

- Đề tài vận dụng sáng tạo mô hình viên kim cương vào thực tiễn ngành nghề
nông nghiệp, nhất là mô hình viên kim cương là một lĩnh vực hoàn toàn mới trong
nghiên cứu ứng dụng vào các hợp tác xã nông nghiệp ở An Giang.

- Đưa ra các phân tích đầy mới mẻ về thực trạng các nhân tố sản xuất của các
hợp tác xã nông nghiệp An Giang.

- Đề xuất một hệ thống các nhóm giải pháp có thể vận dụng hoặc làm cơ sở
để tiếp tục nghiên cứu về lợi thế cạnh tranh cho các hợp tác xã nông nghiệp ở An
Giang nói riêng và cả nước nói chung.

8. Kết cấu của luận án


Ngoài mở đầu và kết luận, nội dung của luận án gồm có 3 chương sau:

- Chương 1: Tổng quan lý luận về lợi thế cạnh tranh

- Chương 2: Phân tích thực trạng các nhân tố sản xuất và kinh doanh của
HTX NN An Giang trong thời gian qua

- Chương 3: Giải pháp nâng cao lợi thế cạnh tranh cho HTX NN An Giang
7

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ LỢI THẾ CẠNH


TRANH VÀ HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP
1.1 TỔNG QUAN VỀ LỢI THẾ CẠNH TRANH

1.1.1 Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh

1.1.1.1 Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối (Adam Smith)

Theo Adam Smith các quốc gia sẽ có lợi khi tiến hành chuyên môn hoá sản
xuất và trao đổi sản phẩm cho nhau. Khi tiến hành phân công lao động giữa các
quốc gia thì phải dựa trên lợi thế tuyệt đối của quốc gia mình, tức là các quốc gia
nên tập trung sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng có hao phí cá biệt thấp hơn hao
phí trung bình của thế giới. Nhờ vào xuất khẩu, quốc gia đó sẽ nhập những mặt
hàng mà mình không có lợi thế tuyệt đối, tức hao phí cá biệt của quốc gia mình cao
hơn hao phí trung bình của thế giới.

Như vậy, lợi thế tuyệt đối của một quốc gia về một mặt hàng nào đó được đo
lường bằng năng suất lao động và chi phí để sản xuất ra mặt hàng đó so với quốc
gia còn lại. Tuy nhiên, lý luận này có hạn chế là nếu như quốc gia nào không có lợi
thế tuyệt đối thì không thể trao đổi trên thế giới.

1.1.1.2 Lý thuyết về lợi thế tương đối (David Ricardo)

Để khắc phục những hạn chế về lý luận lợi thế tuyệt đối của A.Smith, David
Ricardo đã đưa ra lý thuyết về lợi thế tương đối (lợi thế so sánh) trong thương mại
quốc tế. Theo ông, nếu một quốc gia không có lợi thế tuyệt đối về cả hai mặt hàng
so với quốc gia còn lại thì vẫn tồn tại cơ sở mậu dịch quốc tế. Cả hai quốc gia có thể
tìm được lợi thế so sánh qua sự phân công lao động, chuyên môn hoá sản xuất ngay
cả khi hiệu quả kinh tế ở hai mặt hàng của họ đều thấp hơn trước.

Để giải thích một cách rõ ràng về lợi thế tương đối của một quốc gia, ông
dùng đến khái niệm về chi phí cơ hội. Chi phí cơ hội để sản xuất ra một đơn vị hàng
hoá được đo bằng số lượng hàng hoá còn lại mà chúng ta phải hi sinh để sử dụng
nguồn lực sản xuất ra mặt hàng mà mình đang xem xét. Do đó, một quốc gia có lợi
8

thế tương đối về một mặt hàng nào đó khi chi phí cơ hội để sản xuất ra nó thấp hơn
so với quốc gia còn lại, lúc đó quốc gia có lợi thế sẽ chuyên môn hoá sản xuất mặt
hàng này.

Tuy nhiên, nếu chỉ xem xét đơn lẻ hai yếu tố có lợi thế so sánh, ví dụ như
xem xét hai yếu tố sản xuất và công nghệ giống nhau, tức tỷ lệ sử dụng vốn và lao
động giống nhau ở hai nước thì thật sự chưa đủ, vì trong thực tế thì các yếu tố này
rất đa dạng và không giống nhau, nên đây cũng là hạn chế của mô hình.

1.1.1.3 Lý thuyết về sự dồi dào các nhân tố sản xuất (Heckscher - Ohlin)

Đây là lý thuyết do hai nhà kinh tế học người Thuỵ Điển mang tên Eli
Heckscher và Bertil Ohlin. Lý thuyết này cho rằng, trong nền kinh tế thế giới các
sản phẩm sản xuất ra được chia thành hai loại: sản phẩm thâm dụng về lao động và
sản phẩm thâm dụng về vốn. Đồng thời các quốc gia cũng chia thành hai nhóm
tương ứng, đó là các quốc gia dồi dào về lao động, và các quốc gia dồi dào về vốn.
Đối với các quốc gia dồi dào về vốn thì sẽ có lợi thế cạnh tranh trong việc sản xuất
những mặt hàng thâm dụng về vốn, tương tự các quốc gia dồi dào về lao động thì sẽ
có chi phí nhân công thấp. Do đó, có xu hướng dẫn đến giá phí thấp và sẽ có lợi thế
cạnh tranh về mặt hàng mà quốc gia đó sản xuất.

Theo Heckscher – Ohlin, các quốc gia có lợi thế cạnh tranh khác nhau là do
sự khan hiếm tương đối của các yếu tố sản xuất khác nhau từ sự khác nhau của cơ
cấu nguồn lực sẵn có và các giai đoạn phát triển khác nhau. Từ đó, cho thấy rằng
trong một nền kinh tế, việc sử dụng lợi thế cạnh tranh là quá trình lựa chọn cơ cấu
ngành phù hợp. Sự kết hợp các yếu tố đầu vào của sản xuất khác nhau sẽ tạo thành
các hàng hoá khác nhau, vì thế mỗi quốc gia nên chọn cho mình một cơ cấu ngành
hàng phù hợp với nguồn lực sẵn có của mình.

1.1.2 Mô hình viên kim cương của Michael Porter về lợi thế cạnh tranh

Trong tác phẩm lợi thế cạnh tranh quốc gia, Porter vận dụng cơ sở lý luận
cạnh tranh trong nước của mình vào lĩnh vực cạnh tranh quốc tế và đưa ra lý thuyết
nổi tiếng là mô hình “viên kim cương”. Ông cho rằng không có quốc gia nào có lợi
9

thế cạnh tranh ở tất cả các ngành hay hầu hết các ngành. Mỗi quốc gia chỉ có thể
thành công ở những ngành nhất định có lợi thế cạnh tranh bền vững khi tham gia
vào thương trường kinh doanh quốc tế. Các yếu tố quyết định của mô hình bao
gồm: điều kiện về các nhân tố; điều kiện về cầu; các ngành công nghiệp hỗ trợ và
liên quan; chiến lược, cấu trúc và cạnh tranh của DN. Ngoài ra, còn có hai biến bổ
sung là vai trò của nhà nước và các yếu tố thời cơ.

Hình 1.1: Mô hình viên kim cương của Michael Porter


Chính
Chieán löôïc coâng ty, caáu
phuû
truùc vaø söï caïnh tranh

Ñieàu kieän Ñieàu kieän


nhaân toá nhu caàu

Caùc ngaønh coâng nghieäp


hoã trôï vaø lieân quan

1.1.2.1 Điều kiện về nhân tố

Theo lý thuyết kinh tế cổ điển thì các nhân tố sản xuất (lao động, đất đai, tài
nguyên, vốn, cơ sở hạ tầng) quyết định sản xuất và kinh doanh của một quốc gia.
Đây là những nhân tố mà một quốc gia được thiên nhiên ưu đãi. Các DN có thể có
được lợi thế cạnh tranh khi họ sử dụng các nhân tố đầu vào có chi phí thấp, chất
lượng cao và có vai trò quan trọng trong cạnh tranh. Tuy nhiên, theo Michael
Porter, không hẳn các nhân tố này mang lại lợi thế cạnh tranh nếu như chúng không
được phân bổ hợp lý và hiệu quả, đặc biệt là đối với những ngành mà tăng năng
suất không phải do yếu tố tự nhiên ban tặng mà do con người sáng tạo ra quyết
10

định. Nói cách khác, sử dụng, tạo ra, cải tiến và chuyên biệt hoá đầu vào có tầm
quan trọng lớn hơn số lượng yếu tố đầu vào trong việc tạo ra lợi thế cạnh tranh.

Có bốn loại nhân tố sản xuất: nhân tố cơ bản, tiên tiến, phổ biến và chuyên
ngành. Các nhân tố cơ bản bao gồm nguồn tài nguyên, đất đai, khí hậu, lao động
giản đơn và nguồn vốn tài chính. Các nhân tố tiên tiến bao gồm hệ thống hạ tầng
viễn thông hiện đại, kỹ sư, lao động có tay nghề và trình độ cao. Các nhân tố phổ
biến là nhân tố sử dụng chung cho tất cả các ngành như hệ thống đường cao tốc,
vốn tín dụng, lao động có trình độ trung học. Còn nhân tố chuyên ngành chỉ phù
hợp với một số ít ngành hoặc thậm chí chỉ có một ngành như cơ sở hạ tầng có
những tính chất đặc thù, tri thức của một chuyên ngành cụ thể, kỹ năng cụ thể.

Như vậy, theo Porter, để tạo ra lợi thế cạnh tranh thì phụ thuộc nhiều vào
việc sở hữu các yếu tố cải tiến và chuyên ngành. Bởi vì theo thời gian, những nhân
tố hôm nay là nhân tố chuyên dùng hay tiên tiến thì ngày mai có thể là nhân tố phổ
biến và cơ bản, do đó lợi thế cạnh tranh sẽ phụ thuộc nhiều vào việc tạo ra các nhân
tố đầu vào.

1.1.2.2 Điều kiện về cầu

Cạnh tranh quốc tế không làm giảm tầm quan trọng của nhu cầu nội địa. Khi
thị trường cho một sản phẩm đặc biệt ở địa phương lớn hơn nước ngoài thì các DN
trong nước sẽ dành nhiều quan tâm đối với sản phẩm đó hơn các DN nước ngoài,
dẫn đến lợi thế cạnh tranh khi các DN bắt đầu xuất khẩu sản phẩm. Bản chất của
nhu cầu trong nước xác định cách thức DN nhận thức, lý giải và phản ứng trước nhu
cầu của người mua. Người mua có đòi hỏi càng cao sẽ càng tạo cho DN áp lực đáp
ứng các tiêu chuẩn cao đó về chất lượng, về kỹ thuật và dịch vụ; hoặc tạo sức ép
chuyển sang đáp ứng đoạn nhu cầu mới, cao cấp hơn và do đó nâng cao lợi thế cạnh
tranh. Và nếu như nhu cầu trong nước lan toả sang các nước khác thì DN không chỉ
được lợi từ sản phẩm mới mà còn được lợi từ việc tiếp cận các khách hàng có nhu
cầu cao đó.
11

Mặt khác, mức độ cạnh tranh trong nước có vai trò quan trọng tác động tích
cực hoặc tiêu cực đến lợi thế cạnh tranh thông qua quy mô thị trường. Nếu số lượng
người mua ít sẽ tạo ra lợi thế tĩnh nhưng có thể làm giảm lợi thế động, ngược lại số
lượng người mua nhiều sẽ tạo sự đa dạng về nhu cầu và tăng sức ép cạnh tranh giữa
họ, nhờ đó mở rộng thông tin thị trường và thúc đẩy DN cải tiến kỹ thuật.

Tốc độ tăng trưởng nhu cầu trong nước nhanh sẽ kích thích các DN áp dụng
các công nghệ mới nhanh hơn. Trong khi nhu cầu bão hoà nhanh cũng có thể tạo ra
lợi thế cạnh tranh cho DN trong nước. Nó sẽ làm cho các DN phải tiếp tục đổi mới,
cải tiến, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng cường mức độ cạnh tranh
trong nước. Thông qua đó những DN yếu kém sẽ bị đào thải và giữ lại những DN
mạnh hơn và đổi mới hơn.

1.1.2.3 Các ngành hỗ trợ và liên quan

Một yếu tố quyết định khác của lợi thế cạnh tranh là có hay không sự tồn tại
của các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan. Các ngành công nghiệp hỗ trợ là
những ngành sản xuất cung ứng đầu vào cho chuỗi hoạt động SXKD của DN. Trong
khi đó, các ngành sản xuất liên quan là những ngành mà DN có thể phối hợp hoặc
chia sẻ các hoạt động thuộc chuỗi hoạt động SXKD hoặc những ngành mà sản
phẩm của chúng mang tính chất bổ trợ, việc chia sẻ hoạt động thường diễn ra ở các
khâu phát triển kỹ thuật, sản xuất, phân phối, tiếp thị hoặc dịch vụ.

Nhìn chung, một quốc gia có nhiều ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan có
lợi thế cạnh tranh thì sẽ tạo cho DN lợi thế cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh của các
ngành cung ứng và liên quan sẽ tạo ra lợi thế tiềm tàng cho các DN như cung cấp
trong thời gian ngắn với chi phí thấp; duy trì quan hệ hợp tác lâu dài. Thông qua
nhà cung ứng giúp DN nhận thức các phương pháp và cơ hội mới để đáp ứng công
nghệ mới, ngược lại DN nhận cung ứng tạo cơ hội tác động tới những nỗ lực về kỹ
thuật cho nhà cung ứng và là nơi kiểm chứng ý kiến đề xuất cải tiến hoặc trao đổi,
nghiên cứu và phát triển để cùng tìm ra những giải pháp nhanh hơn và hiệu quả hơn.
12

Hơn nữa, ngành cung ứng là chất xúc tác chuyển tải thông tin và đổi mới từ DN này
đến DN khác, đẩy nhanh tốc độ đổi mới trong toàn bộ nền kinh tế.

1.1.2.4 Chiến lược, cấu trúc và cạnh tranh

Khía cạnh văn hoá và điều kiện địa phương ảnh hưởng tới chiến lược, cấu
trúc và cách thức quản lý của DN, dù rằng DN đó điều hành theo kiểu phân cấp hay
theo kiểu gia đình. Không có một chiến lược toàn cầu chung hay một học thuyết
quản lý cho mọi hình thức nhưng có sự khác nhau về ý tưởng quản trị. Chiến lược
cũng như cấu trúc và cách thức quản lý phải tương thích với những khía cạnh văn
hoá nói trên mà quốc gia đó ưa chuộng. Lợi thế cạnh tranh thường là kết quả của
việc kết hợp tốt các yếu tố trên với cơ sở của lợi thế cạnh tranh. Hơn nữa, mô hình
cạnh tranh trong nước có vai trò rất lớn trong quá trình đổi mới và thành công trên
thị trường quốc tế. Những khác biệt về trình độ quản lý và kỹ năng tổ chức như
trình độ học vấn, sức mạnh động cơ cá nhân, mục tiêu của nhà quản lý, các công cụ
ra quyết định, quan hệ khách hàng, thái độ với hoạt động quốc tế, quan hệ giữa
người lao động với bộ máy quản lý… tạo ra lợi thế hay bất lợi cho DN.

Mục tiêu của DN bị tác động chủ yếu bởi cấu trúc sở hữu, động cơ của chủ
sở hữu và chủ nợ, bản chất cơ cấu quản lý công ty, các khuyến khích tạo thành động
cơ của người quản lý cấp cao. Vấn đề quan trọng là người quản lý và người lao
động có động cơ phát triển kỹ năng của mình cũng như nỗ lực để tạo ra và duy trì
lợi thế cạnh tranh. Các nhân tố quan trọng xác định ứng xử của cá nhân là hệ thống
lương, thưởng; quan hệ giữa các cấp hữu quan; tăng cường đầu tư kỹ năng một cách
thường xuyên, hiểu biết tốt hơn về ngành nghề kinh doanh, trao đổi ý tưởng giữa
các bộ phận…

Cạnh tranh trong nước có tác động mạnh hơn cạnh tranh quốc tế trong những
trường hợp cải tiến và đổi mới là nhân tố cơ bản của lợi thế cạnh tranh. Cạnh tranh
trong nước tạo ra những ích lợi như: sự thành công của một DN tạo sức ép phải cải
tiến đối với đối thủ cạnh tranh hiện tại và thu hút sự tham gia của đối thủ mới; hay
là tạo ra sức ép cạnh tranh không chỉ vì lý do lợi ích kinh tế mà còn vì lý do cá nhân
13

và danh dự; hoặc tạo sức ép bán hàng ra thị trường nước ngoài khi qui mô kinh tế
hiệu quả. Mặt khác cạnh tranh trong nước cũng tạo ra sức ép làm thay đổi cách thức
cải tiến lợi thế cạnh tranh như: phát huy lợi thế dựa vào tính chất độc đáo của sản
phẩm và hàm lượng công nghệ cao hơn là lợi thế dựa vào tài nguyên và chi phí lao
động thấp. Có nhiều đối thủ cạnh tranh trong nước sẽ khắc phục một số bất lợi khi
thiếu sức ép cạnh tranh buộc chính phủ phải đưa ra nhiều hình thức hỗ trợ như trợ
cấp, bảo hộ sản xuất hoặc ưu đãi đối với một DN nào đó, làm giảm tính năng động
của các DN.

1.1.2.5 Vai trò của Chính phủ

Chính phủ đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng tới lợi thế cạnh tranh quốc gia.
Có hai quan điểm cơ bản: quan điểm thứ nhất cho rằng, chính phủ được xem như
“người bạn”, hỗ trợ một cách trực tiếp đến lợi thế cạnh tranh bằng chính sách và
luật pháp . Quan điểm thứ hai thì cho rằng nên để thị trường tự do cạnh tranh theo
sự chi phối của “bàn tay vô hình” mà không có sự can thiệp của chính phủ. Theo
Porter, cả hai quan điểm trên là không đúng. Vai trò ảnh hưởng của chính phủ như
“một chất xúc tác và nhà thách thức”. Nó có thể tác động đến lợi thế cạnh tranh của
quốc gia thông qua 4 nhóm nhân tố trong mô hình của viên kim cương. Các tác
động của chính phủ có thể là tích cực hoặc tiêu cực, do đó có thể thúc đẩy hoặc gây
bất lợi cho lợi thế cạnh tranh.

Tóm lại, lợi thế cạnh tranh quốc gia được tạo ra và thông qua quá trình địa
phương hoá cao độ. Các quốc gia thành công ở một số ngành trên thị trường toàn
cầu vì môi trường trong nước của họ năng động, đi tiên phong và nhiều sức ép nhất.
Các DN của họ thu được lợi thế so với các đối thủ quốc tế nhờ có các đối thủ mạnh
trong nước, nhờ có các nhà cung cấp có khả năng trong nước, nhờ sự phong phú
nhu cầu khách hàng trong nước và sự liên kết chặt chẽ của các ngành phụ trợ.
14

1.2 TỔNG QUAN VỀ HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP

1.2.1 Lý luận chung về HTX NN

1.2.1.1 Khái niệm về HTX NN

- Định nghĩa HTX: Theo Điều 1 Luật HTX sửa đổi (26/11/2003): “HTX là
tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (gọi chung là xã
viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định
của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia HTX, cùng
nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”. Theo
định nghĩa của Liên minh HTX quốc tế (ICA) được thực hiện năm 1995: “HTX là
một tổ chức chính trị của những người tự nguyện liên hiệp lại để đáp ứng nhu cầu
và nguyện vọng chung của họ về kinh tế, xã hội và văn hoá thông qua một xí nghiệp
cùng sở hữu và quản lý dân chủ”. Định nghĩa này còn được hiểu như sau: “HTX
dựa trên ý nghĩa tự cứu mình, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng, công bằng và đoàn
kết, theo truyền thống của những người sáng lập ra HTX, các xã viên HTX tin
tưởng vào ý nghĩa đạo đức về tính trung thực, cởi mở, trách nhiệm xã hội và quan
tâm chăm sóc người khác”.

- Định nghĩa HTX NN: Theo Nghị định 43/CP của Chính phủ (29.4.1997)
về việc ban hành Điều lệ mẫu HTX NN thì: “HTX NN là tổ chức kinh tế tự chủ, do
nông dân và những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp
vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh tập thể và
của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động dịch vụ hỗ
trợ cho kinh tế hộ gia đình của các xã viên và kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất,
chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và kinh doanh
các ngành nghề khác ở nông thôn, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp”.

1.2.1.2 Tính tất yếu khách quan của việc hình thành HTX NN ở An Giang.

Trong thời kỳ thực hiện cơ chế kế hoạch hoá, toàn bộ các tư liệu sản xuất cơ
bản như trâu, bò, xe, máy móc cũng như ruộng đất được tập thế hoá thành tài sản
15

của HTX. Hoạt động của HTX phải tuân thủ các quyết định từ cấp trên đưa xuống.
Do đó, trong giai đoạn này các HTX không phát huy được hiệu quả và tiềm lực kinh
tế của mình. Từ khi kinh tế thị trường hình thành và phát triển, các quan hệ sản xuất
đều chịu sự chi phối của thị trường và bị ràng buộc bởi thị trường. Cùng lúc đó,
Nghị quyết 10 NQ/TW của Bộ chính trị (05/04/1988) đã ra đời và khẳng định vai
trò của xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ. Quyết định này đã tạo ra một sự chuyển
biến tích cực phát huy được tiềm lực kinh tế ở trong dân.

Tuy nhiên, do sự chi phối của quan hệ thị trường buộc các nông dân phải cải
tiến kỹ thuật canh tác, nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ sản xuất…
Khi phát triển đến mức độ nào đó, kinh tế tư nhân sẽ dần dần chuyển hoá thành các
loại hình kinh doanh phù hợp, và HTX là một trong những mô hình mang tính tất
yếu khách quan nhằm chia sẻ những giá trị lợi ích của các đơn vị kinh tế tư nhân
trong một khu vực nhất định. Sự ra đời của HTX NN thể hiện ở 2 khía cạnh:

- HTX ra đời nhằm làm dịch vụ cho xã viên, nhưng không lấy lợi nhuận làm
mục tiêu tối thượng của mình, mà HTX coi sự phát triển có hiệu quả của kinh tế hộ
gia đình xã viên, người lao động làm mục tiêu cao nhất. Do đó đã huy động được
nội lực trong nhân dân cùng đóng góp sức người, sức của, góp phần giải quyết việc
làm, phát triển nông nghiệp, nông thôn.

- Tuy đặt mục tiêu cao nhất là chăm lo cho xã viên nhưng không vì thế mà
HTX quên đi mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của mình. Trên cơ sở hoạt động có lời,
sau khi đã trừ đi lợi tức cổ phần cho các xã viên, phần trích quỹ còn lại HTX dùng
để tham gia xây dựng cộng đồng, và tham gia phúc lợi xã hội.

Như vậy, xét về mặt kinh tế và lợi ích cộng đồng, An Giang là một tỉnh có
nền nông nghiệp mạnh, do đó việc thành lập các HTX NN trong giai đoạn này là
thật sự cần thiết để tập trung sức mạnh hướng tới công nghiệp hoá hiện đại hoá
nông thôn An Giang.
16

1.2.1.3 Quan điểm nhận thức về HTX NN trong giai đoạn hiện nay

Đại hội Đảng lần thứ VI đã khẳng định: “Phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần trong các ngành và lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế
HTX, được khẳng định cùng với nền kinh tế Nhà nước trở thành nền tảng của nền
kinh tế, đồng thời thừa nhận sự tồn tại của kinh tế HTX phải đi đôi với sự phát triển
đa dạng các hình thức kinh tế hợp tác từ thấp đến cao, HTX là bộ phận nòng cốt
của kinh tế hợp tác”.

Từ quan điểm nêu trên có thể rút ra các đặc điểm sau:

- Cần nhận thức rõ KTHT là yêu cầu và xu thế tất yếu khách quan trong quá
trình phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, và kinh tế HTX là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Tuy
nhiên, HTX hoạt động theo nguyên tắc bình đẳng, hợp tác và phát triển cộng đồng,
nên phải trải qua quá trình tích cực tác động, tạo ra các yếu tố về con người, điều
kiện hợp tác cần thiết và tích luỹ đầu tư để phát triển vững chắc.

- Để thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn đáp ứng yêu cầu hội
nhập, bên cạnh củng cố và phát triển HTX NN, cần đồng thời đẩy mạnh phát triển
kinh tế tư nhân với nhiều hình thức đa dạng nhằm tạo tiền đề cho việc phát triển
HTX NN ngày càng ổn định và bền vững.

1.2.2 Kinh nghiệm phát triển HTX của một số nước trên thế giới

1.2.2.1 Thái Lan

Thái Lan là một quốc gia thuộc vùng Đông Nam Á, có diện tích canh tác
19.620.000 ha gấp 2.62 lần Việt Nam. Trong khi đó, dân số của Thái Lan chỉ có
58,6 triệu dân, bình quân đất canh tác trên đầu người gấp 4 lần Việt Nam. Cách đây
25 năm, Thái Lan là một nước nông nghiệp lạc hậu, nhưng hiện nay Thái Lan lại là
một nước phát triển trong khu vực. Sự phát triển vượt bậc đó nhờ vào chính sách
đổi mới của chính phủ Thái Lan: (1) coi trọng nông nghiệp nông thôn là xương
sống của đất nước; (2) thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế; (3) đẩy mạnh công
17

nghiệp chế biến bảo quản nông sản, nâng cao chất lượng sản phẩm; và (4) đưa ra
nhiều chính sách khuyến khích xuất khẩu gạo.

HTX NN ở Thái Lan được hình thành từ năm 1916 với chức năng ban đầu là
cung cấp dịch vụ tín dụng hỗ trợ vốn với lãi suất thấp để giúp đỡ nông dân trang trải
được món nợ đối với những người cho vay nặng lãi. Từ khi ra đời cho đến nay các
loại hình HTX phát triển không ngừng, đầu năm 1990 cả nước có 3009 HTX với
3169 triệu xã viên, đến nay có hơn 6000 HTX, với hơn 8,8 triệu xã viên. Các HTX
NN ở Thái Lan có vai trò to lớn trong liên kết tín dụng và tiếp thị cho sản xuất gạo,
như nâng giá gạo, dùng thóc gạo để hoàn trả vốn vay sản xuất, dự trữ; phát triển nền
nông nghiệp sử dụng phân bón hữu cơ; phân phối phân bón cho nông dân, thu mua
nông sản của xã viên, cung ứng vật tu, máy móc nông nghiệp, giống và các loại
hình dịch vụ nông nghiệp khác cho xã viên… Hệ thống tổ chức HTX NN ở Thái
Lan được chia làm 3 cấp: (1) HTX cấp cơ sở, được xây dựng trên cơ sở hợp nhất
các HTX tín dụng qui mô nhỏ để hình thành nên HTX tín dụng cấp Huyện hay HTX
lưu thông nông sản. (2) Liên hiệp các HTX NN cấp tỉnh, được tổ chức trên cơ sở từ
3 HTX trở lên nhằm hỗ trợ hoạt động của các HTX cơ sở, tập trung vào công tác
chế biến lúa gạo là chủ yếu. (3) Liên đoàn HTX NN quốc gia, thành lập trên cơ sở
các liên hiệp HTX NN tỉnh với nhiệm vụ nhập vật tư phân phối cho các HTX trong
nước và tổ chức tiêu thụ nông sản thông qua thị trường trong nước và xuất khẩu.

Như vậy, các HTX NN ở Thái Lan đã tận dụng được lợi thế cạnh tranh thông
qua các chính sách tác động của chính phủ đến kinh tế nông nghiệp, các điều kiện
về nhân tố sản xuất; nhu cầu trong nội bộ của các HTX; các công nghiệp hỗ trợ và
liên quan thông qua hệ thống 3 cấp của HTX.

1.2.2.2 Nhật Bản

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, khoảng năm 1947 Chính phủ Nhật đã ban
hành Luật HTX trong ngành nông nghiệp. Các HTX phải hoạt động trên cơ sở tự
nguyện và dân chủ. Có thể nói các tổ chức HTX Nhật Bản là nhân tố tích cực, góp
phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Mãi đến năm 1962
18

Luật HTX NN mới được sửa đổi phù hợp với Luật định hướng nông nghiệp. Năm
1967 Nhật bản thông qua chính sách cơ bản về hợp tác hoá để phát triển nông
nghiệp, phong trào hợp tác hoá toàn quốc liên kết thành một mạng lưới thống nhất
trong các tổ hợp nông nghiệp hợp tác. Đến năm 1993 Luật HTX NN đã được sửa
đổi 24 lần và lần thứ 25 được chỉnh sửa năm 1999. Mạng lưới HTX NN được tập
hợp thành hệ thống HTX NN quốc gia với hai loại hình: HTX tổng hợp và HTX
chuyên ngành. HTX NN tổng hợp: có chức năng phục vụ đầu vào và đầu ra cho
hoạt động sản xuất nông nghiệp, dịch vụ sinh hoạt, đời sống cho nông dân xã viên.
HTX NN chuyên ngành nhằm thực hiện các dịch vụ cung ứng vật tư, thiết bị
chuyên dùng cho xã viên theo ngành như thức ăn gia súc, dịch vụ thú y, vật tư… và
đảm nhận thu mua và tiêu thụ các sản phẩm chuyên ngành của các hộ nông dân xã
viên.

HTX NN Nhật Bản được đặc trưng bởi hệ thống 3 cấp: các HTX NN cơ sở,
các liên hiệp và các liên đoàn quốc gia. (1) Các tổ chức HTX cơ sở được tổ chức ở
cấp làng, thị trấn và thành phố trực thuộc tỉnh, gồm những thành viên thường xuyên
là nông dân và các thành viên liên kết khác. HTX NN cơ sở có 2 loại: HTX NN đa
chức năng và HTX NN đơn chức năng. HTX NN đa chức năng có nhiệm vụ tiếp thị
sản phẩm nông nghiệp, cung cấp nguyên liệu sản xuất và các vật dụng thiết yếu
hàng ngày; Cho vay và đầu tư vốn, cung cấp bảo hiểm... HTX NN đơn chức năng
hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất cụ thể như chế biến sửa, nuôi gia cầm và các
nghề truyền thống khác. Ngoài ra, còn có chức năng tiếp thị sản phẩm của các xã
viên thành viên và cung cấp nguyên liệu sản xuất... (2) Các tổ chức HTX cấp tỉnh:
Các HTX NN được điều hành, quản lý thông qua các liên đoàn, các hiệp hội HTX
NN tỉnh và các liên minh HTX NN tỉnh. (3) Các liên đoàn HTX cấp tỉnh điều phối
các hoạt động của các HTX trong phạm vi, quyền hạn của mình, đồng thời cung cấp
các dịch vụ tài chính, bảo hiểm, tiếp thị cho các HTX thành viên. Các liên hiệp
HTX tỉnh chỉ đạo các vấn đề về tổ chức, quản lý, giáo dục, nghiên cứu cũng như
đưa các kiến nghị lên các cơ quan của Chính phủ. Các liên minh HTX NN tỉnh có
nhiệm vụ giám sát và quản lý toàn bộ hoạt động của các HTX NN liên kết.
19

Để giúp các tổ chức HTX hoạt động, Chính phủ Nhật Bản đã tăng cường xây
dựng hệ thống phục vụ xã hội hoá nông nghiệp, coi HTX NN là một trong những
hình thức phục vụ xã hội hoá tốt nhất và yêu cầu các cấp, ngành phải giúp đỡ và bảo
vệ quyền lợi hợp pháp cho họ. Đồng thời, Chính phủ còn yêu cầu các ngành tài
chính, thương nghiệp giúp đỡ về vốn, kỹ thuật, tư liệu sản xuất…, tuy nhiên, vẫn
không làm ảnh hưởng đến tính tự chủ và độc lập của các HTX .

Tóm lại, các HTX NN Nhật Bản đã phát huy tốt các điều kiện trong mô hình
viên kim cương của Porter. Từ bản thân của các HTX đến sự hỗ trợ của các ngành
công nghiệp liên quan, và của chính phủ đều có một sự phối hợp hết sức linh hoạt
đã giúp cho các HTX phát huy được lợi thế cạnh tranh của mình.

1.2.2.3 Vận dụng kinh nghiệm phát triển HTX NN vào An Giang

Qua nghiên cứu kinh nghiệm phát triển HTX ở các nước, kết hợp với đặc thù
của nền kinh tế Việt Nam, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:

- Việc thành lập HTX phải dựa trên cơ sở tự nguyện, dần dần hình thành từ
những nhu cầu thực sự hợp tác của kinh tế hộ, của người lao động... Không nên
chạy theo số lượng, hoặc vì nôn nóng phát triển như các nước mà thành lập các
HTX một cách ồ ạt dẫn đến hoạt động kém hiệu quả. Nên hiểu rằng việc phát triển
HTX NN là cả một quá trình, từ quá trình nhận thức quan điểm mới về HTX đến
quá trình sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường.

- Trong cơ chế thị trường, các HTX NN nên nhận thức rằng họ là những thực
thể kinh tế tồn tại và hoạt động kinh doanh với tính cách là một chủ thể kinh tế có tư
cách pháp nhân. Do đó, các HTX NN phải có mối quan hệ trao đổi với các chủ thể
kinh tế khác để đáp ứng nhu cầu về các yếu tố đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra
của HTX thông qua môi trường kinh tế thị trường. Như vậy, đối với mỗi HTX NN,
để có thể tồn tại và phát triển được, HTX phải thực hiện tốt các chức năng quản trị.
Trước hết, là chức năng quản trị sản xuất và các yếu tố của sản xuất như quản lý đất
đai, lao động, tiền vốn, kế hoạch sản xuất,… nhằm đảm bảo cho HTX tồn tại và
hoạt động được. Sau nữa là chức năng quản trị việc kết nối mọi hoạt động của HTX
20

với thị trường. Giảm thiểu tối đa sự ỷ lại từ các cấp chính quyền. Nhà nước chỉ có
vai trò hỗ trợ về mặt pháp lý đối với các HTX, chứ không phải là đơn vị chủ quản
mọi công việc của HTX.

- Để có thể phát huy tốt hiệu quả hoạt động của HTX cũng như việc mở rộng
đầu tư và phát triển, Nhà nước nên hình thành hệ thống 3 cấp trong HTX :

(1) HTX cấp cơ sở: nhằm thực hiện chức năng sản xuất và đa dạng hoá các
loại hình dịch vụ.

(2) HTX cấp tỉnh: thực hiện việc chuyển giao khoa học công nghệ mới và kỹ
thuật sản xuất đến các HTX cơ sở.

(3)Liên hiệp HTX cấp tỉnh: hỗ trợ thông tin về đầu vào và đầu ra cho các
HTX, cung cấp các dịch vụ tài chính, bảo hiểm và tiếp thị cho các HTX cơ sở. Tổ
chức nghiên cứu và kiến nghị với chính phủ những thay đổi của chính sách nhằm
phù hợp với tình hình mới.

1.3 MÔ HÌNH VÀ TRÌNH TỰ NGHIÊN CỨU (xem phụ lục 1)


21

Chương 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG CÁC NHÂN TỐ SẢN


XUẤT VÀ KINH DOANH CỦA HTX NN AN GIANG TRONG
THỜI GIAN QUA
2.1 TỔNG QUAN VỀ HTX NN AN GIANG

2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển HTX kiểu mới ở An Giang.

2.1.1.1 Giai đoạn trước khi Luật HTX (chưa sửa đổi) ra đời.

Năm 1976, hình thức sơ khai của HTX tồn tại dưới dạng Tổ Liên Kết sản
xuất, dần dần phát triển lên thành Tập Đoàn sản xuất rồi đến HTX. Đến cuối năm
1980, An Giang có 347 Tập đoàn sản xuất, 6 HTX, 1693 Tổ đoàn kết sản xuất và 69
Tập đoàn cơ giới. Ngày 30/4/1985 An Giang công bố hoàn thành cơ bản hợp tác
hoá nông nghiệp với gần 80% ruộng đất nông nghiệp được tập thể hoá. Toàn tỉnh có
2.607 Tập đoàn sản xuất, 7 HTX, tập thể hoá 93% diện tích canh tác trong đó gần
100% diện tích lúa, còn 132 Liên tập đoàn sản xuất gồm 560 tập đoàn viên. Mãi đến
năm 1988, vai trò của hộ gia đình đã được thừa nhận là một đơn vị kinh tế tự chủ.
Quyết định này đã tạo động lực thúc đẩy tốc độ phát triển của kinh tế hàng hoá và
dịch vụ. Trên cơ sở đó, từ năm 1988 – 1989, tỉnh đã thực hiện giao quyền sử dụng
ruộng đất lâu dài cho hộ dân và có chủ trương chuyển đổi các ban quản lý tập đoàn
sản xuất, HTX qua làm dịch vụ phục vụ xã viên, tập đoàn viên. Đứng trước những
thách thức vô cùng mới mẻ, hầu hết các HTX NN cũ trước đó cũng như các tập
đoàn sản xuất đã không thích ứng được với nhưng thay đổi lớn nên dần dần tan rã
và giải tán.

Tuy nhiên, khi kinh tế hộ phát triển, sản xuất ra nhiều hàng hoá, nhu cầu hợp
tác sản xuất và cung ứng dịch vụ để giảm giá thành sản xuất cho hộ nông dân được
đặt ra ngày càng bức bách, với chỉ thị 25/CT.UB (27/11/1991) của UBND tỉnh An
Giang về xây dựng các hình thức tổ chức nông dân liên kết đã có 11 tổ nông dân
liên kết sản xuất lần đầu tiên ra đời. Đến năm 1993, toàn tỉnh đã có 3.748 tổ nông
dân liên kết sản xuất đa dạng theo ngành nghề với 113.668 hộ tổ viên và 108.297 ha
22

đất sản xuất nông nghiệp. Đến năm 1996, đã có 4.704 tổ nông dân liên kết sản xuất
với 124.986 hộ và 122.598 ha đất.

Nhu cầu hợp tác sản xuất ngày càng tăng cả quy mô lẫn phương thức hoạt
động, đòi hỏi phải có một điều kiện hoạt động thích ứng với tình hình mới. Do đó từ
sau năm 1996 khi Luật HTX ban hành An Giang đã bắt đầu thí điểm chuyển đổi tổ
nông dân liên kết sản xuất thành HTX kiểu mới tương ứng.

2.1.1.2 Sự ra đời và phát triển của HTX kiểu mới đến năm 2004

Nghị Quyết 10 của Bộ Chính Trị và Luật Đất Đai ra đời đã tạo điều kiện cho
kinh tế hộ phát triển độc lập. Đây là cơ sở cho mô hình HTX kiểu mới ra đời. Đứng
trước tình hình đó, Đảng bộ và chính quyền An Giang đã đề ra những chủ trương và
chính sách điều chỉnh cho phù hợp với tình hình mới. Dù vậy, đến khi Luật HTX ra
đời, cùng với chỉ thị 68/CT-TW và Nghị định 15, Nghị định 16/CP của Chính Phủ
thì việc chuyển đổi HTX và đặc biệt là HTX NN mới chuyển biến nhanh chóng và
thuận lợi.

Như vậy, kể từ khi thực hiện Luật HTX năm 1996, đến tháng 08/2001, toàn
tỉnh An Giang đã thành lập 91 HTX; trong đó có 86 HTX NN và 05 HTX thuỷ sản.
Sau khi có đề án phát triển HTX 2001-2005 của UBND tỉnh, đến cuối năm 2004,
toàn tỉnh thành lập thêm 50 HTX; giảm 29 HTX do sát nhập và giải thể, nâng tổng
số lên 112 HTX NN, trong đó có 06 HTX thuỷ sản.

Bảng 2.1: Số lượng HTX NN An Giang qua các năm

Năm 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004


Số lượng HTX 7 61 78 86 102 107 114 106
(Nguồn: Liên Minh HTX An Giang)

Qua bảng số liệu trên cho thấy, bình quân mỗi năm ở An Giang tăng từ 15
đến 16 HTX, nhất là những năm 1997 đến năm 1999, tốc độ tăng rất cao khoảng 9
đến 10 lần. Tuy nhiên, từ năm 2001 đến năm 2003, tốc độ phát triển HTX tăng
23

tương đối chậm, đặc biệt năm 2004 đã có dấu hiệu giảm xuống. Đây là do tác động
của chính quyền An Giang trong việc củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của
các HTX NN và trang trại trong toàn tỉnh.

Hình 2.1: Đồ thị biểu diễn tốc độ phát triển của HTX qua các năm

120
114
107 106
100 102

86
80 78

60 61

40

20
7
0
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005

Soá HTX

Nhìn chung, qua quá trình củng cố, số lượng HTX tuy có giảm, nhưng qui
mô không giảm và tăng vốn. Số HTX thành lập sau này có qui mô ngày càng lớn
thể hiện xu hướng phát triển tích cực của HTX.

2.1.1.3 Đặc trưng của HTX NN kiểu mới và HTX NN kiểu cũ


Đặc trưng của HTX NN kiểu mới và HTX NN kiểu cũ được thể hiện ở nhiều
khía cạnh khác nhau, sau đây là một vài khía cạnh cơ bản:

Bảng 2.2: So sánh HTX NN kiểu mới và HTX NN kiểu cũ


24

HTX NN kiểu cũ HTX NN kiểu mới


Thành viên tham gia HTX
- Chỉ gồm các thể nhân - Gồm cả thể nhân và pháp nhân, những
- Thủ tiêu tính tự chủ SXKD của người có ít vốn hay nhiều tự nguyện góp
các thành viên vốn, góp sức lập ra và tự chịu trách nhiệm về
các hoạt động theo luật định
- Xã viên trở thành người lao động
làm thuê cho HTX - Thành viên tự chủ trong SXKD, HTX thực
hiện những gì mà thành viên riêng lẻ không
làm được hoặc làm không hiệu quả nhằm hỗ
trợ cho các thành viên phát triển
- Xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ

Quan hệ sở hữu

- Dựa trên cơ sở tập thể hoá quyền - Dựa trên cơ sở quyền tự chủ kinh doanh
sở hữu ruộng đất và các tư liệu sản của mỗi nông hộ. Xã viên góp vốn, góp sức
xuất của các nông hộ. theo luật định mà không phải bị tập thể hoá
- Sở hữu tập thể và sở hữu cá nhân quyền sở hữu và tư liệu sản xuất.
không được phân định rõ ràng - Sở hữu tập thể và sở hữu cá nhân được
phân định rõ ràng theo tỷ lệ góp vốn
Cơ chế quản lý đối với HTX
- HTX bị ràng buộc bởi cơ chế kế - Đơn vị kinh doanh độc lập trong cơ chế thị
hoạch hoá tập trung bao cấp. trường, bình đẳng trước pháp luật.
- Không chịu trách nhiệm về kết quả - Tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về kết
SXKD, nhà nước sẽ chịu trách quả hoạt động SXKD, dịch vụ, liên doanh,
nhiệm phân phối và cấp phát. liên kết
- Nhà nước can thiệp trực tiếp vào - Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào
HTX thông qua các chỉ đạo từ trên HTX, mà chỉ đóng vai trò kích thích HTX
xuống phát triển bằng chính sách và pháp luật
Mô hình HTX
- Kém linh hoạt, đơn lẻ về hình - Linh hoạt, đa dạng về hình thức, phù hợp
thức, thu hẹp về phạm vi và không với đặc điểm của từng vùng, từng ngành.
cần phải tìm hiểu về đặc trưng của- Phát triển nhanh, mở rộng nhiều loại hình
vùng, ngành. sản xuất, xã viên có cơ hội vươn lên và hình
- Chậm phát triển, tốc độ tăng thành DN riêng của mình
trưởng thấp, xã viên khó vươn lên
trong cuộc sống
25

2.1.2 Tình hình sản xuất và kinh doanh của HTX NN An Giang

Trong những năm qua tình hình sản xuất nông nghiệp ở An Giang tương đối
phát triển. Năm 2004 sản lượng lúa toàn tỉnh đạt được 3 triệu tấn, tăng 11,7% so với
năm 2003. Kim ngạch xuất khẩu năm 2004 là 260 triệu USD, bằng 26% GDP của
tỉnh, tăng 2,06% so với năm 2003. Trong đó tỷ trọng xuất khẩu gạo trong tổng kim
ngạch xuất khẩu của toàn tỉnh chiếm 36%, đứng sau thuỷ sản là 48%. Còn lại là các
mặt hàng khác như may mặc, rau quả đông lạnh, mì ăn liền…Qua đó cho thấy thuỷ
sản và gạo là hai mặt hàng chủ lực trong tỉnh.

Hình 2.2: Sản lượng lúa của An Giang giai đoạn 1990-2004

3000
1000 taán

3000
2594
2686
2500 2364
2349
2169 2178
2220 2113
2000
1738 2038
1926
1470 1817
1500
1515

1000

500

0
1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004

(Nguồn: Niên Giám thống kê An Giang)

Như vậy, bình quân hàng năm sản lượng lúa ở An Giang tăng lên từ 100 tấn
đến 200 tấn. Điều đó cho thấy đã có sự chuyển biến tích cực trong sản xuất nông
nghiệp, mà tác nhân của sự tăng lên đó chính là sự ra đời và phát triển của các HTX
NN kiểu mới ở An Giang.

Thật vậy, từ năm 2001 thực hiện chủ trương xây dựng mô hình 4 nhà “Nhà
nông (gồm nông dân, các chủ trang trại, mà đại diện là HTX), nhà DN, nhà khoa
học, nhà nước” đã hình thành mối liên kết kinh tế giữa kinh tế tập thể với các thành
phần kinh tế khác (chủ yếu là DNNN), giải quyết tốt các vấn đề sản xuất, chế biến,
26

tiêu thụ sản phẩm thể hiện qua các hợp đồng ký kết bao tiêu lúa chất lượng cao. Mặt
khác, nó cũng làm giảm giá thành sản xuất từ việc giảm chi phí trung gian trong
kênh phân phối sản phẩm từ HTX đến người tiêu dùng cuối cùng. Ở các nước phát
triển như Mỹ, Nhật Bản, sự quan tâm của chính phủ đối với nông dân được thể hiện
rất rõ nét, mà nhất là vấn đề về bao tiêu và trợ giá cho nông dân khi gặp thiên tai bị
mất mùa hay giá cả thị trường sụt giảm, mục đích của chính phủ là để quân bình thu
nhập giữa những người lao động nông thôn và thành thị sao cho không có sự chênh
lệnh lớn giữa lao động nông nghiệp và lao động công nghiệp. Điều này cũng góp
phần khuyến khích nông nghiệp phát triển và tránh được sự di cư từ nông thôn đến
thành thị để lao động vì mục đích thu nhập cao.

Do đó, sự quan tâm của chính quyền An Giang đối với HTX trong những
năm qua là bước khởi đầu trong quá trình công nghiệp hoá nông thôn góp phần làm
tăng thu nhập người dân ngang bằng với lao động ở thành thị. Tuy nhiên, khi đất
nước còn gặp nhiều khó khăn, thì sự quan tâm của chính quyền An Giang đối với
HTX đã thể hiện sự quyết tâm lớn trong việc phát triển nền nông nghiệp tỉnh nhà,
tất nhiên sẽ không cầu toàn trong mọi mặt của HTX, mà bên cạnh đó HTX cũng cần
phải tự phấn đấu sản xuất và tìm đầu ra sản phẩm cho mình.

* Hiệu quả hoạt động

Theo báo cáo tài chính năm 2004 của 91 HTX, hiệu quả hoạt động đạt được
như sau:

- Có 82 HTX hoạt động SXKD có lãi, với tổng doanh thu 22,9 tỷ đồng, chi
phí kinh doanh 15,8 tỷ đồng, thực lãi là 7 tỷ đồng (bình quân 86 triệu đồng/HTX)

- Số HTX hoạt động bị lỗ là 07, với khoản lỗ gần 356 triệu đồng

Nhìn chung, các HTX hoạt động tương đối có hiệu quả, nhưng còn nhiều
HTX chưa thực hiện sổ sách kế toán và báo cáo tài chính theo qui định, nên chưa
phản ánh đầy đủ tình hình tài chính trong HTX.
27

* Thị trường tiêu thụ

Thị trường xuất khẩu của riêng tỉnh An Giang có gần 70 quốc gia và vùng
lãnh thổ, tăng 36 nước so với năm 2000, tăng 40 nước so với năm 1996. Thị trường
được mở rộng là nhờ tăng cường công tác xúc tiến thương mại, các DN năng động
tìm kiếm, mở rộng thị trường.

Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu theo châu lục năm 2004 thì Châu Á chiếm 60%
(trong đó Nhật Bản 1,14%, Asean 45%), Châu Âu chiếm 14%, Châu Mỹ chiếm
19% (trong đó Mỹ 15,7%), còn lại là Châu Úc và Châu Phi.

Riêng về nông sản là 45 quốc gia, trong đó xuất khẩu gạo là 31 quốc gia,
gồm Châu Á: 12 nước (Philippines, Malaysia, Singapore, Iraq, Indonesia,…); Châu
Phi 9 nước (Senegen, Kenia, Tandania, Nigieara,…); Châu Úc và Châu Mỹ 5 nước
(Úc, Guam, Papua Niu Gi Nê, Palau, Canada); Châu Âu 5 nước (Anh, Áo, Ba Lan,
Sovakia, Ucraina).

Hình 2.3: Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu gạo An Giang năm 2004

16%

39%

29%

16%

Chaâ u AÙ Chaâu Aâu Chaâu Phi Chaâu Myõ vaø Chaâu Uùc

Như vậy, trong những năm gần đây, giá trị sản phẩm gạo xuất khẩu tương
đối tăng ở các châu lục, nhiều nhất là Châu Á (39%). Điều này đã nói lên sự đóng
góp tích cực của HTX NN An Giang cho sự phát triển nền nông nghiệp nói riêng và
kinh tế cả tỉnh nói chung. Tuy nhiên, thị trường xuất khẩu tương đối nhiều nhưng
thị trường chính yếu thì chưa ổn định, chưa tập trung và còn phân tán, hơn nữa việc
xuất khẩu phần lớn ở dạng thô chưa tạo ra giá trị xuất khẩu cao dẫn đến hiệu quả
cạnh tranh thấp.
28

2.2 THỰC TRẠNG LỢI THẾ CẠNH TRANH CỦA HTX NN AN GIANG

2.2.1 Thực trạng về lợi thế cạnh tranh của HTX NN An Giang

2.2.1.1 Điều kiện về nhân tố

- Nguồn nhân lực của HTX: qua khảo sát cho thấy trình độ cán bộ quản lý
HTX còn rất hạn chế. BCN HTX thường là những người nông dân sản xuất giỏi
hoặc những người có uy tín và kinh nghiệm trong sản xuất được bầu lên để giữ các
chức danh chủ chốt của HTX như Chủ nhiệm, Phó chủ nhiệm, kế toán trưởng, kiểm
soát. Tổng số cán bộ quản lý của 106 HTX là 952 người (bình quân mỗi HTX có:
BQT 3 người, BKS 3 người, 01 kế toán và 01 thủ quỹ), trong đó cấp I chiếm
11,29%, cấp II 49,2%, cấp III chiếm 39,5%, còn lại 1,3% có trình độ Trung cấp, Đại
học. Riêng chủ nhiệm HTX có trình độ cấp III chỉ chiếm 46,15%, có 03 người có
trình độ trung cấp và đại học, còn lại là cấp I và cấp II.

Như vậy cho thấy, đội ngũ cán bộ quản lý của HTX có trình độ văn hoá
tương đối thấp, phần lớn lại là những người lớn tuổi và chưa qua đào tạo một cách
có hệ thống, nên chưa đáp ứng được phần nào những thách thức mà thực tế đã đặt
ra. Dù vậy, nhưng các HTX đều nhận thức được năng lực quản lý, trình độ chuyên
môn, khả năng sáng tạo, kỹ năng lao động, ý chí vươn lên và tinh thần đoàn kết là
thật sự quan trọng và cần thiết đối với sự thành công của HTX. Tuy nhiên giữa các
HTX có sự khác biệt nhau một cách đáng kể về năng lực quản lý, trình độ chuyên,
và khả năng sáng tạo; trong khi đó hầu như rất ít HTX có sự khác biệt về tinh thần
đoàn kết nội bộ và ý chí vươn lên trong sản xuất.

Tóm lại, bên cạnh những HTX hoạt động tốt, có hiệu quả thì còn nhiều HTX
yếu kém về quản lý, tổ chức, nhân sự, lúng túng trong điều hành tác nghiệp, ngại
khó khi mở rộng thêm dịch vụ, chưa thích ứng với cơ chế thị trường mà trọng trách
chính là BCN của HTX.

- Nguồn tài nguyên, giống, đất đai, khí hậu: Trong sản xuất nông nghiệp,
giống là một trong những nhân tố quan trọng, quyết định sản lượng và chất lượng
của nông sản. Ở các nước phát triển như Nhật Bản thì HTX sẽ cung cấp giống, hỗ
29

trợ kỹ thuật và thu gom sản phẩm cho xã viên, ngược lại xã viên phải canh tác đúng
theo quy hoạch vùng nguyên liệu do HTX đề xuất nhằm đảm bảo số lượng và chất
lượng sản phẩm trong kế hoạch kinh doanh của HTX. Trong khi đó rất ít HTX NN
ở An Giang thực hiện thành công kế hoạch SXKD của mình, chỉ có khoảng 15,6%
HTX làm tốt việc cung ứng giống trực tiếp cho xã viên theo quy hoạch, còn lại hơn
50% HTX chỉ làm nhiệm vụ tư vấn về giống phần còn lại do xã viên tự chọn từ vụ
trước để lại hoặc mua trực tiếp từ trung tâm hỗ trợ nông dân, và trung tâm lai tạo
giống trong tỉnh. Vì vậy, do xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau nên dẫn đến chất
lượng nông sản kém và không đồng bộ làm giảm khả năng cạnh tranh của nông sản
Việt Nam trên thị trường thế giới.

Bù lại, điều kiện tự nhiên ở An Giang tương đối thuận lợi cho việc sản xuất
và lai tạo giống có chất lượng cao và có giá trị xuất khẩu. Hơn 90% HTX cho rằng
thời tiết và khí hậu ở An Giang là thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Khoảng 85%
HTX có đất đai tốt và nguồn nước phong phú, số còn lại nằm trong điều kiện địa
hình khó khăn như ở vùng cao hay ở vùng chưa có đê bao khép kín. Tuy nhiên, hầu
hết các HTX đều nằm trong vùng đê bao khép kín, nên có thể chủ động được mùa
vụ và hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do thiên tai gây ra. Hơn nữa, các HTX
đều nằm ở địa thế thuận lợi, 95% HTX nằm ở trục lộ giao thông chính và nằm gần
sông lớn, rất dễ dàng trong việc giao thương với các đơn vị kinh tế khác. Đây là lợi
thế lớn nhất mà ĐBSCL nói chung và An Giang nói riêng có được. Mặt khác, 85%
HTX tận dụng được đều kiện tự nhiên ưu đãi để làm giảm giá thành sản xuất đến
mức thấp nhất. Cụ thể là HTX NN Bình Thành-Châu Phú sản xuất lúa với giá thành
từ 650 – 700 đồng/kg, trong khi giá bán tại thời điểm là khoảng 2100 – 2200
đồng/kg. Biểu đồ sau đây biểu diễn mức độ thuận lợi của các yếu tố tự nhiên ở An
Giang theo đánh giá của HTX.
30

Hình 2.4: Mức độ thuận lợi của điều kiện tự nhiên An Giang

Vò trí HTX 95% 5%

Thôøi tieát 90% 10%

Nguoàn nöôùc 85% 15%

Ñaát ñai 85% 15%

0% 20% 40% 60% 80% 100%

thuaân lôïi khoâng thuaän lôïi

- Nguồn tri thức: Nguồn tri thức có vai trò quan trọng trong việc mở rộng và
phát triển HTX. Khoảng 10% HTX có khả năng tiếp cận và sử dụng công nghệ mới,
công nghệ tiên tiến. Tuy nhiên khoảng 5% cho rằng họ có thể tiếp cận công nghệ
mới khi được qua đào tạo. Còn lại 85% HTX không có khả năng tiếp cận công nghệ
tiên tiến, công nghệ mới vì cho rằng trình độ văn hoá của họ thấp, khó có thể học
hỏi và sử dụng được thành thạo những công nghệ đó. Hiện nay ở An Giang có 3
HTX được chính phủ Áo tài trợ 3 nhà máy xay xát hiện đại với công suất cao. Đã có
2 nhà máy đi vào hoạt động với hiệu quả tương đối tốt, vì cả hai chủ nhiệm HTX
đều có trình độ Đại học.

Mặt khác, trong sản xuất việc lập ra một phương án SXKD tốt có ý nghĩa
quan trọng giúp HTX định hướng được mục tiêu và kế hoạch trong tương lai. Có
55% HTX cho rằng họ không khó khăn trong việc lập một phương án SXKD, còn
Lại 45% HTX không lập được hoặc lập được thì ít khả thi. Điều này cho thấy,
không ít các HTX sản xuất theo thói quen, cứ đến việc thì làm, gặp tình huống thì
giải quyết hoặc nhờ chính quyền can thiệp. Điều đó làm trở ngại cho việc phát triển
đồng đều giữa các HTX NN ở An Giang. Chẳng những thế, việc tiếp cận công nghệ
thông tin, tin học đối với HTX là điều không dễ dàng, chỉ có khoảng 35% HTX có
thể sử dụng và tiếp cận công nghệ thông tin, cụ thể là các phần mềm kế toán trên
máy vi tính, truy cập internet,…, tuy nhiên con số này còn quá thấp chưa phản ánh
lên được khả năng vận dụng tri thức vào sản xuất của các HTX NN ở An Giang.
Chính vì vậy, việc vận dụng và phân tích các thông tin thị trường vẫn còn hạn chế,
chỉ có 30% HTX có thể tiếp cận thông tin thị trường và sử dụng nó một cách hiệu
31

quả vào SXKD của HTX. Còn lại 70% HTX gặp khó khăn trong việc tiếp cận và sử
dụng thông tin thị trường như các HTX khác. Nhưng cho dù HTX có sử dụng thông
tin thị trường hiệu quả hay không hiệu quả thì họ chỉ dừng lại ở những tin tức mang
tính chất thời sự chủ yếu là thông tin về giá cả thị trường, vật tư nông nghiệp, chứ
thật sự chưa có HTX nào nắm bắt được thông tin về khách hàng tiêu dùng cuối cùng
của họ là ai, hành vi tiêu dùng như thế nào, văn hoá, và tâm lý của họ ra sao. Do
thông tin bất đối xứng đó làm trở ngại trong việc am hiểu khách hàng dẫn đến HTX
khó có khả năng vận dụng tri thức vào sản xuất một cách hiệu quả. Thậm chí ngay
cả việc ký kết một hợp đồng kinh tế giữa HTX và một đơn vị kinh tế khác cũng là
một vấn đề khó khăn. Hơn 75% HTX không thể lập và ký kết một hợp đồng kinh tế,
25% HTX có khả năng lập và ký kết hợp đồng kinh tế nhưng cũng gặp khó khăn
trong việc đề ra các điều khoản thi hành, vì vậy các HTX thường bị ép giá khi các
DN bắt chẹt các điều khoản trong hợp đồng kinh tế. Do đó có thể nói khả năng vận
dụng tri thức vào HTX là còn hạn chế và chưa được phát huy.

- Nguồn tài chính: Nhìn chung, các HTX đều thiếu vốn hoạt động, chỉ
có khoảng 25% HTX có nguồn tài chính mạnh thậm chí rất mạnh,
còn lại 75% HTX có nguồn vốn từ trung bình đến rất yếu. Các HTX
huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau, khoảng 50% HTX không
khó khăn trong việc huy động vốn, còn lại là rất khó khăn khi phải
huy động nguồn vốn để mở rộng SXKD. Thực tế, ngay từ khi thành
lập vốn góp cổ đông là rất quan trọng cho việc xây dựng và phát
triển của HTX. Hiện nay các HTX đều sử dụng nguồn vốn từ vốn
góp cổ đông và vốn tích luỹ, con số này chiếm tỷ lệ 89,6% trong
tổng vốn hoạt động của HTX, trong đó vốn góp cổ đông chiếm
58,6%, vốn tích luỹ chiếm 31%; còn lại là vốn vay ngân hàng hay
vay từ các tổ chức khác.

Hình 2.5: Cơ cấu vốn của HTX NN An Giang


32

100% 96.6% 100.0%


89.7%
90%
80%
70%
58.6%
60%
50%
40% 31.0%
30%
20%
6.9%
10% 3.4%
0%
Voá n goù p coå ñoâ n g Voá n tích luyõ Vay ngaâ n haø ng Vay toå chöù c khaù c

Như vậy khả năng huy động nguồn vốn từ nội lực của HTX là khá cao
(89,6%), trong khi vay ngân hàng chỉ chiếm 6,9%, một tỷ lệ tương đối thấp. Nguyên
nhân chính là do HTX không có khả năng vay từ tín dụng ngân hàng, vì nhiều lý do,
cơ bản nhất là khi vay phải thế chấp hay cầm cố bất động sản, mà bất động sản thì
nằm rời rạc ở trong tay của xã viên và không phải chủ quyền của HTX; thứ hai là
HTX không lập được một phương án kinh doanh khả thi hoặc có lập được thì cũng
gặp khó khăn trong khâu thẩm định để giải quyết cho vay, vì vậy việc huy động từ
nội lực của HTX là hiệu quả hơn hết trong các hình thức huy động vốn.

- Cơ sở hạ tầng: qua khảo sát ý kiến đánh giá của HTX về cơ sở hạ tầng ở An
Giang cho thấy, 90% HTX đồng ý rằng An Giang có lợi thế về du lịch, nên giao
thông đường thuỷ và đường bộ tương đối phát triển. Vận tải đường thuỷ có Cảng
Mỹ Thới nằm trên sông Hậu thông ra biển Đông, đường bộ có quốc lộ 91 nối liền từ
TP Cần Thơ đến biên giới Campuchia rất tiện lợi cho việc thông thương giữa hai
nước. Ngoài ra hạ tầng viễn thông như bưu điện, điện thoại, internet… cũng ngày
càng phát triển và mở rộng từ thành thị đến nông thôn tạo điều kiện cho các HTX
tiếp cận công nghệ thông tin và giao thương với nhau một cách thuận lợi.

Qua sự phân tích trên chúng tôi rút ra được những lợi thế và bất lợi của điều
kiện nhân tố như sau:
33

Bảng 2.3: Lợi thế và bất lợi về điều kiện nhân tố

Ñieàu kieän nhaân toá


Lôïi theá Baát lôïi
+ Tinh thaàn ñoaøn keát toát + BCN coù trình ñoä vaên hoaù thaáp
+ Coù ñieàu kieän töï nhieân + Toå chöùc quaûn lyù, vaø trình ñoä chuyeân moân keùm
thuaän lôïi + Thieáu quy hoaïch vuøng nguyeân lieäu saûn xuaát
+ Chi phí saûn xuaát thaáp + Khoâng ñoàng boä trong choïn gioáng
+ Giao thoâng noâng thoân phaùt + Tri thöùc khoa hoïc vaø coâng ngheä keùm
trieån vaø thuaän lôïi + Thieáu thoâng tin thò tröôøng
+ Deã huy ñoäng voán töø noäi + Thieáu voán hoaït ñoäng
boä + Khoù vay voán tín duïng ngaân haøng

2.2.1.2 Điều kiện về cầu

Việt Nam là quốc gia xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới, hơn 80% dân
số Việt Nam sống bằng nghề nông. Riêng An Giang có sản lượng nông sản hàng
năm đứng hàng nhất nhì trong cả nước, khoảng 80,5% dân số sống ở khu vực nông
thôn, trong đó khoảng 69,6% hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp.

Theo báo cáo của UBND tỉnh An Giang (6/2005) thì thuỷ sản đông lạnh xuất
khẩu; gạo xuất khẩu và rau quả đông lạnh xuất khẩu là 3 mặt hàng có khả năng cạnh
tranh cao. Chiếm tỷ trọng 85,4% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh, riêng
mặt hàng gạo và rau quả đông lạnh thuộc nông sản chiếm 37,4%, với thị trường
xuất khẩu chủ yếu là châu Á, Châu Âu và Châu Phi. Như vậy, nhu cầu nông sản
ngày càng tăng cùng với sự tăng lên của dân số trong nước cũng như thế giới, nên
thị trường nông sản ngày càng trở nên phong phú và đa dạng với nhiều chủng loại
hàng hoá khác nhau. Đây là cơ hội tốt cho các HTX NN ở An Giang tận dụng và
phát huy tiềm năng sẵn có của mình để mở rộng ra thị trường khu vực và quốc tế.

Kể từ năm 2002 chính quyền tỉnh An Giang đã cố gắng thực hiện bao tiêu
sản phẩm thông qua chương trình liên kết bốn nhà. Nhưng trong 3 năm trở lại đây,
việc bao tiêu sản phẩm của DNNN đối với HTX đã trở nên gặp khó khăn. Có
khoảng 10% HTX thực hiện tốt việc bao sản phẩm theo hiệp ước, còn lại hơn 85%
HTX bán sản phẩm cho thương lái hay các DNTN khác. Có nhiều nguyên nhân dẫn
34

đến việc bao tiêu giữa HTX và DNNN không thành công nhưng có thể nói nguyên
nhân quan trọng nhất là việc ký kết giữa hai bên không xuất phát từ tình hình thực
tế của cung cầu hàng hoá, mà xuất phát từ sự chỉ đạo của chính quyền đối với các
DNNN thông qua các chỉ tiêu được giao. Nên khi cả hai đặt quyền lợi trên hết thì
thường gặp trở ngại trong việc hiệp thương. Về phía HTX thì không giao sản phẩm
cho DN khi giá cả nông sản cao để tăng thêm thu nhập, ngược lại khi giá nông sản
thấp thì DN tìm cách ém giá để giảm số lượng và hạn chế mức thua lỗ. Vấn đề ngày
càng trở nên phức tạp và trở thành bài toán khó trong việc giải quyết tranh chấp
giữa hai phía đối với chính quyền tỉnh An Giang khi chưa có một đạo luật để phân
xử nghiêm ngặt. Đó chính là nguyên nhân làm cho chương trình 4 nhà của tỉnh
không diễn ra đúng theo những gì mà chính quyền An Giang mong đợi.

Như vậy, còn lại khoảng 85% HTX đã tự bán sản phẩm trực tiếp cho thương
lái, điều đó cũng tốt vì phần nào cũng đã giải quyết đầu ra sản phẩm cho HTX. Qua
điều tra cho thấy, khoảng 90% HTX cho rằng khách hàng của họ thường khó tính
hay có đòi hỏi cao về tiêu chuẩn và quy cách chất lượng. Trong đó có 75% HTX có
thể đáp ứng được những đòi hỏi mà khách hàng đưa ra. Tuy nhiên khách hàng trực
tiếp của HTX thường là thương lái, do đó hơn 95% HTX khó có khả năng am hiểu
về khách hàng tiêu dùng cuối cùng của mình mà chỉ nắm chút ít thông tin thông qua
các thương lái đó. Chưa có HTX nào tự xuất khẩu trực tiếp ra nước ngoài, chỉ có
khoảng 80% HTX đều có mong muốn thách thức mình bằng việc mở rộng xuất
khẩu ra thị trường nước ngoài. Đây cũng là dấu hiệu tốt đánh dấu sự vươn lên của
HTX trong thời kỳ hội nhập kinh tế.

Tóm lại, có sự bất đối xứng về thông tin giữa HTX và người tiêu dùng cuối
cùng, tạo bất lợi cho HTX trong việc đổi mới và cải tiến công nghệ mới nhằm đáp
ứng cho nhu cầu đa dạng và phức tạp mà khách hàng mang lại. Tuy nhiên, trong
giai đoạn đầu việc thách thức của các thương lái về tiêu chuẩn chất lượng cũng là cơ
hội cho các HTX NN trong tỉnh An Giang cải tiến và đổi mới phương pháp canh tác
ngày càng tốt hơn, làm nhịp cầu đi lên cho tiến trình hội nhập vào tổ chức thương
mại thế giới.
35

Bảng 2.4: Lợi thế và bất lợi của điều kiện về cầu

Ñieàu kieän veà caàu


Lôïi theá Baát lôïi
+ Nhu caàu noâng saûn trong nöôùc vaø + Thò tröôøng xuaát khaåu khoâng oån ñònh
theá giôùi ngaøy caøng taêng + Nhaø nöôùc gaëp khoù khaên veà bao tieâu
+ Thò tröôøng xuaát khaåu noâng saûn saûn phaåm cho HTX
ñöôïc môû roäng ra nhieàu nöôùc + Thieáu thoâng tin veà khaùch haøng tieâu
+ Noâng saûn coù lôïi theá caïnh tranh cao duøng cuoái cuøng
+ Khaùch haøng coù ñoøi hoûi cao vaø khoù + Chöa coù kinh nghieäm xuaát khaåu ra
tính nöôùc ngoaøi
+ Coù ñoäng löïc môû roäng thò tröôøng ra + HTX coøn laån quaån trong quan heä
nöôùc ngoaøi boán nhaø

2.2.1.3 Các ngành hỗ trợ và liên quan

Các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan là những ngành sản xuất cung
ứng đầu vào và tiếp nhận đầu ra cho sản phẩm, dịch vụ trong chuỗi hoạt động sản
xuất, kinh doanh của HTX. Đối với HTX NN các ngành hỗ trợ và liên quan có thể
là các đơn vị cung cấp đầu vào, tổ chức công nghệ sau thu hoạch, thương nhân, các
nhà khoa học, và các DN tiêu thụ và quảng bá hàng hoá nông sản.

- Các tổ chức cung ứng đầu vào thường là các đơn vị cá nhân, các tổ chức
thuộc DNNN. Qua khảo sát có khoảng 95% HTX thuê các đơn vị cá nhân cung cấp
dịch vụ cày, xới và cung ứng phân thuốc. Chỉ khoảng 5% HTX thuê tư nhân làm
dịch vụ bơm tưới, còn lại hầu như các HTX đều có dịch vụ bơm tưới riêng của
mình. Riêng khâu chọn giống, hơn 95% HTX đồng ý rằng ở An Giang có những
nhà cung cấp giống thuần chủng cho năng suất cao và có giá trị xuất khẩu, chẳng
hạn như Trung tâm hỗ trợ nông dân, Trung tâm lai tạo và nhân giống của Công ty
Bảo vệ thực vật An Giang, và các tổ nhân giống của HTX do Sở NN & PTNN tập
huấn. Hơn nữa, 90% HTX cho rằng họ thường nhận được giống từ các trung tâm đó
với một chi phí thấp và thời gian nhận giống nhanh chóng, đáp ứng kịp thời mùa vụ
trong năm của HTX. Như vậy cho thấy, các HTX có một sự quan tâm đáng kể đến
chất lượng của sản phẩm ngay từ khâu chọn giống của mình. Do đó mức độ tin cậy
36

trong việc sử dụng các loại giống từ các trung tâm trên là rất cao, bất kể là HTX
cung ứng cho xã viên hay do xã viên tự chọn lấy. Trong khi đó các khâu đơn giản
khác như cày xới, phân thuốc thì HTX có thể chủ động phục vụ hoặc thuê mướn tư
nhân một cách dễ dàng. Hầu hết các trạm bơm đều sử dụng máy bơm bằng điện có
công suất lớn, đáp ứng đầy đủ, kịp thời nguồn nước tưới tiêu cho xã viên.

- Tổ chức công nghệ sau thu hoạch: ở An Giang hiện tại chỉ có 3 HTX được
chính phủ Áo tài trợ công nghệ sau thu hoạch, với tổng kinh phí trên 4 tỷ đồng. Đây
là dây chuyền công nghệ hiện đại rất tiện lợi cho việc phơi sấy, xay xát và bảo quản
nông sản của HTX. Tuy nhiên việc thực hiện công nghệ sau thu hoạch của các HTX
NN ở An Giang vẫn còn hạn chế vì 95% HTX đều cho là họ khó có thể tiếp cận
được quy trình công nghệ mới ở cả hai phương diện: tài chính đầu tư và trình độ để
tiếp nhận công nghệ, do đó phương pháp truyền thống vẫn là cách mà HTX tạm thời
vận dụng trong quá trình SXKD của mình.

- Các nhà khoa học: Qua khảo sát, hầu hết các HTX rất đồng tình và ủng hộ
sự hỗ trợ từ các nhà khoa học như Viện canh tác, Trường Đại học An Giang,
Trường Trung học Kinh tế Kỹ thuật An Giang, Trường chính trị Tôn Đức Thắng và
các trung tâm khác có liên quan. Khoảng 70% HTX mong muốn quan hệ lâu dài với
các nhà khoa học thông qua sự tương hỗ giữa hai bên, tức là HTX đồng ý cung cấp
thông tin phản hồi từ thực tế trong quá trình quản lý và SXKD của mình cho các
nhà khoa học nghiên cứu, phân tích, ngược lại các nhà khoa học cụ thể là trường đại
học phải đào tạo bổ sung nguồn nhân lực cho HTX. Song song đó khoảng 30%
HTX mong muốn có mối quan hệ ngắn hạn với các nhà khoa học, trong đó HTX sẽ
hướng dẫn giúp đỡ sinh viên về thực tập nhằm có điều kiện đi sát với thực tế để hỗ
trợ cho việc học tập và nghiện cứu khoa học, ngược lại các Trường, trung tâm cần
phải nghiên cứu các tình huống mà HTX gặp khó khăn nhằm tháo gỡ những khúc
mắc trong quá trình quản lý và sản xuất. Thực tế trong những năm qua kể từ năm
2001 đến nay UBND tỉnh An Giang đã kết hợp với các sở ban ngành đoàn thể mở
các lớp tập huấn và đạo tạo cho HTX với hơn 24 lớp và trên 2000 học viên tham
gia. Đối tượng tham gia chính là các chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, kế toán, ban kiểm
37

soát, với các nội dung rất phong phú về quản lý, kỹ thuật canh tác, tài chính-kế toán,
marketing, tin học ứng dụng…Do đó có thể nói các HTX NN ở An Giang rất có
điều kiện thuận lợi trong quá trình quản lý, SXKD của mình vì luôn có sự hỗ trợ từ
những nhà khoa học.

- Các tổ chức hỗ trợ đầu ra. Thị trường xuất khẩu của An Giang có gần 70
quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó riêng về nông sản là 45 quốc gia. Điều này cho
thấy ở An Giang thật sự có những công ty có tầm cỡ quốc tế tham gia trực tiếp xuất
khẩu nông sản ra nước ngoài. Một số công ty như Công ty Mễ cốc An Giang, công
ty AFIEX, công ty AGIMEX, công ty Du lịch An Giang và công ty ANTESCO …
là những công ty xuất khẩu hàng đầu của An Giang. Do đó, có khoảng 99% HTX
cho rằng việc phân phối, tiếp thị nông sản của HTX ra thị trường nước ngoài đã có
các công ty, tổ chức trong tỉnh thực hiện, và họ chỉ có nhiệm vụ làm tốt công việc
sản xuất của mình nhằm đáp ứng những yêu cầu của khách hàng thông qua các công
ty, tổ chức đó cung cấp.

Bảng 2.5: Lợi thế và bất lợi của ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan

Coâng nghieäp hoã trôï vaø lieân quan


Lôïi theá Baát lôïi
+ Coù nhieàu nhaø cung öùng vaät tö noâng + Thieáu toå chöùc taøi trôï coâng ngheä
nghieäp sau thu hoaïch
+ Coù nhieàu nhaø cung caáp gioáng chaát + HTX coøn söû duïng nhieàu phöông
löôïng cao vaø chi phí thaáp phaùp truyeàn thoáng sau thu hoaïch
+ Ngaønh du lòch An Giang phaùt trieån + Thieáu thoâng tin thöïc teá veà khaùch
maïnh haøng
+ Luoân ñöôïc söï quan taâm vaø hoã trôï cuûa + Giaù caû nguyeân vaät lieäu khoâng oån
caùc nhaø khoa hoïc ñònh
+ Coù nhieàu coâng ty taàm côû coù khaû naêng + Thieáu nhaø thieát keá thöông hieäu
caïnh tranh quoác teá noâng saûn coù taàm côõ quoác teá

2.2.1.4 Cấu trúc, chiến lược và cạnh tranh

- HTX NN được thành lập trên cơ sở tự nguyện của các thành viên tham gia
góp vốn, nguyên tắc hoạt động của HTX là công bằng, dân chủ, cùng có lợi. Do đó,
38

tính đoàn kết và ý chí vươn lên là hai yếu tố quan trọng giúp các HTX phát huy nội
lực và tạo thế phát triển bền vững. Không những thế các HTX còn phải có mối quan
hệ tốt với các cấp hữu quan khác nhằm hỗ trợ tốt cho công tác quản lý cũng như sản
xuất và kinh doanh của mình.

Hình 2.6: Mức độ quan hệ của HTX


Nh aø cu n g ö ùn g 25% 25% 30% 20%

Kh aù c h h aøn g 10% 30% 45% 15%

Nh aø k h o a h o ïc 25% 40% 35%

C h ín h q u y e à n 5 % 45% 50%

Xaõ v ie â n 10% 40% 50%

0% 20% 40% 60% 80% 100%

k h o â n g m aä t th ie ù t h ô i m aä t th ie á t m aä t th ie á t raá t m aä t th ie á t

Theo biểu đồ, cho thấy có sự khác biệt trong quan hệ giữa HTX với các đối
tượng hữu quan. Khoảng 50%-60% HTX có quan hệ mật thiết và rất mật thiết với
các nhà cung ứng và khách hàng, còn lại là hơi mật thiết và không quen biết. Khách
hàng của HTX thường là khách vãng lai như thương lái, hàng sáo…, giữa HTX và
họ có thể biết nhau nhưng chưa xảy ra giao dịch với nhau vì chỗ thuận mua vừa
bán. Đối với nhà cung ứng cũng vậy, đó là các tư nhân cung ứng vật tư nông nghiệp
trên địa bàn của HTX, mà tư nhân kinh doanh vật tư thì tương đối nhiều, nên HTX
có thể lựa chọn nhà cung ứng nào có chi phí thấp nhất. Do đó theo thời gian, do
quan hệ mua bán lâu dài, mức độ mật thiết của HTX với khách hàng và nhà cung
ứng cũng dần dần được nâng cao.

Trong khi đó, mối quan hệ giữa HTX với các cấp chính quyền địa phương,
với các nhà khoa học và với xã viên HTX tương đối cao, trong đó mức độ từ mật
thiết đến rất mật thiết với chính quyền địa phương là 95%, với các nhà khoa học
75% và với xã viên là 90%. Đây là lợi thế của hầu hết các HTX NN An Giang có
thể tận dụng để phát huy sức mạnh của mình.

Nhưng điều quan trọng nhất nói lên sức mạnh và lợi thế của HTX là những
nỗ lực trong quản lý và sức mạnh vươn lên của bản thân HTX. Qua khảo sát cho
39

thấy, 55% HTX gặp khó khăn trong việc tổ chức và quản lý, còn lại 45% HTX có
thể quản lý và điều hành tốt công việc của mình. Tỷ lệ này nói lên rằng mặt bằng
chung về quản lý và điều hành tổ chức của HTX NN An Giang chưa cao, tuy một số
có thể quản lý tốt nhưng trình độ quản lý chưa cao, còn mang tính chất đơn giản.
Mặc dù trong những năm qua, chính quyền An Giang đã nỗ lực tập huấn cho các
HTX tham gia các khoá học về quản lý, tài chính – kế toán, kiểm soát, tin học,…
Tuy nhiên, các HTX vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong việc ứng dụng các nội dung
đã học vào thực tế của HTX, vì phần lớn các HTX cho rằng, kiến thức thì rất hay
nhưng trình độ tiếp thu của họ còn hạn chế, chưa đủ thời gian để cảm nhận được.
Do đó, có khoảng 68,4% HTX thích học về quản lý và mong muốn được bồi dưỡng
sâu hơn để có thể quản lý tốt HTX của mình.

Việc các HTX có trình độ kém không những dẫn đến kém hiệu quả trong
quản lý mà còn ảnh hưởng đến định hướng phát triển của HTX. Do đó, 70% HTX
gặp rất nhiều khó khăn trong việc đề ra mục tiêu phát triển của HTX, 65% HTX khó
có thể định hướng đầu tư mở rộng SXKD, trong khi đó khả năng trao đổi và phát
huy ý tưởng sáng tạo từ xã viên rất ít (35% ). Ngược lại tinh thần đoàn kết nội bộ
của các HTX là rất cao. Đây là thế mạnh giúp cho các HTX có thể duy trì được tổ
chức dù trình độ quản lý của họ không cao, một phần cũng do cấu trúc sở hữu của
HTX, mang tính chất dân chủ, đặt quyền lợi của xã viên lên trên quyền lợi của tổ
chức, nên đã thu hút được lượng đông đảo người dân tham gia vào HTX mà không
ngần ngại trình độ quản lý của BCN như thế nào. Hơn nữa, HTX không giống như
một DN, DN phải trả lương cho nhân viên, và động viên họ bằng cách tăng lương
hay thăng chức, trong khi HTX là đơn vị mang tính chất tập thể, các xã viên hưởng
theo tỷ lệ góp vốn, nên hiệu quả hoạt động của HTX càng cao thì lợi ích của các cổ
đông càng lớn, do đó khả năng đồng lòng và chung sức xây dựng tổ chức của HTX
là rất cao và cũng là lợi thế so với các ngành khác.

Hầu hết các HTX NN An Giang, nằm rải rác và phân bố đều ở các huyện,
thị. Khoảng cách giữa 2 HTX bình quân từ 5km đến 6km. Tuy nhiên, mức độ cạnh
tranh giữa các HTX tương đối kém và không gay gắt. Mặt khác, các HTX không
40

xem nhau là đối thủ cạnh tranh, đối thủ mà HTX quan tâm chủ yếu là các đơn vị cá
nhân hoạt động kinh doanh và dịch vụ trên địa bàn của HTX, như cung ứng vật tư
nông nghiệp, cày xới, bơm tưới,…nhưng con số này chỉ chiếm 33,3%, tức là 66,7%
HTX không có hoặc ít đối thủ cạnh tranh. Chính vì vậy, nó không tạo ra được áp
lực cho các HTX luôn tự nỗ lực nâng cao trình độ, không có động lực để đổi mới và
cải tiến nhằm thách thức hay đương đầu với các đồi thủ cạnh tranh, do đó các HTX
ít nghĩ đến việc mở rộng ra thị trường nước ngoài, mà dường như công việc đó đã
được các DN và công ty trong tỉnh đã thực hiện.

Bảng 2.6:Lợi thế và bất lợi của cấu trúc, chiến lược và cạnh tranh

Caáu truùc, chieán löôïc vaø caïnh tranh


Lôïi theá Baát lôïi
+ Hoaït ñoäng treân nguyeân taéc coâng baèng, + Ít phaùt huy yù töôûng saùng taïo töø
daân chuû vaø cuøng coù lôïi xaõ vieân
+ Tinh thaàn ñoaøn keát vaø yù chí vöôn leân cao + Quan heä chöa toát vôùi nhaø cung
+ Quan heä toát vôùi xaõ vieân vaø caùc caáp höõu öùng vaø khaùch haøng
quan + Khaû naêng tieáp thu khoa hoïc
+ Noã löïc maïnh trong toå chöùc vaø quaûn lyù keùm
+ Mong muoán hoïc taäp vaø naâng cao trình ñoä + Caïnh tranh giöõa caùc HTX keùm
+ Xaõ vieân coù ñoäng löïc phaùt trieån HTX + Ít ñoái thuû caïnh tranh coù taàm côõ

Kể từ khi thành lập HTX kiểu mới đến nay, chính quyền An Giang đã tập
trung mọi nỗ lực để đưa nền nông nghiệp của tỉnh đi lên, vì vậy đã bỏ ra không ít
thời gian và chi phí đầu tư cho kinh tế nông nghiệp, mà điển hình là KTHT, HTX và
trang trại. Trong những năm qua, cùng với các chính sách chung của nhà nước như
“chính sách chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi”, “chương trình hợp tác bốn
nhà”, chính quyền An Giang còn có những chương trình hành động riêng để hỗ trợ
và phát triển kinh tế nông nghiệp theo tình hình thực tế của địa phương như “Đề án
phát triển HTX NN giai đoạn 2001 – 2005”; “Đề án đào tạo phát triển nguồn nhân
lực phục vụ phát triển nông thôn An Giang, giai đoạn 2002-2010”. Đặc biệt nhất là
41

đề án phát triển nguồn nhân lực, UBND tỉnh An Giang đã kết hợp với các sở ban
ngành như Liên Minh HTX An Giang, Trường Đại học An Giang, Sở NN&PTNN
An Giang,.. mở ra chương trình hành động nhằm chấn chỉnh và ổn định kinh tế
nông nghiệp địa phương, nhất là các HTX NN. Chương trình cụ thể đến năm 2010
như sau: đào tạo nghề cho 100.000 nông dân về kiến thức khoa học kỹ thuật trực
tiếp phục vụ việc sản xuất của nông hộ; đào tạo 4500 cán bộ quản lý HTX NN, đối
tượng là cán bộ trực tiếp thực hiện công tác quản lý tại HTX NN, hoặc sinh viên
ngành quản trị kinh doanh nông nghiệp của Trường đại học An Giang về làm việc
tại HTX, nhằm đủ khả năng quản lý điều hành hoạt động có hiệu quả ở các HTX
NN; đào tạo 9.000 cán bộ khuyến nông và chủ trang trại, làm lực lượng nồng cốt
phục vụ chuyển dịch cơ cấu sản xuất; và đào tạo 6.000 doanh nhân nông thôn, là
các DN vừa và nhỏ ở nông thôn, có khả năng tiếp cận với quá trình CNH, HĐH và
hội nhập kinh tế. Ước tính tổng kinh phí cho chương trình là 18,7 tỷ đồng.

Bên cạnh đó, chính quyền còn đặc biệt ưu tiên cho các HTX về mặt quản lý
hành chính. Hầu như các HTX đều được giải quyết công việc một cách nhanh
chóng khi liên hệ công tác với chính quyền địa phương, không bị làm khó khi đối
mặt với cán bộ thuế, ngoài ra HTX còn được chính phủ thông báo một cách nhanh
chóng và kịp thời về những thay đổi của các chính sách hay quy định có liên quan
đến ngành nghề SXKD của HTX mà chính phủ đã ban hành.

Tuy nhiên, hầu hết các HTX đều mong muốn chính phủ cần phải nỗ lực hơn
nữa trong việc đầu tư cho HTX. Đặc biệt theo HTX thì chính phủ nên nghiên cứu
kỹ những loại giống nào có năng suất cao, chất lượng tốt, ít sâu bệnh, thuần chủng
và đủ mạnh để có thể cạnh tranh với nước ngoài. Muốn vậy, một mặt chính phủ cần
phải kết hợp với các nhà khoa học nghiên cứu cây giống và phương pháp hay kỹ
thuật mới để đạt được năng suất chất lượng cao, mặt khác hỗ trợ vốn, và kỹ thuật
cho HTX làm đúng theo quy trình nghiên cứu nhằm tạo ra sản phẩm có lợi thế cạnh
tranh cao. Song song đó chính phủ cũng cần phải có chính sách bình ổn giá cả vật tư
nông nghiệp và giá cả đầu ra cho sản phẩm cũng giống như bình ổn xăng, dầu,
42

nhằm giúp cho các HTX có thể định hướng tốt trong việc đề ra kế hoạch SXKD của
mình.

Tóm lại, tất cả những nỗ lực trên của chính quyền An Giang đã đem lại
chuyển biến tích cực cho các HTX NN An Giang, được đông đảo nông dân đồng
tình và ủng hộ, giúp các HTX có cơ hội phát triển ổn định và bền vững.

2.2.2 Phân tích các điểm mạnh, yếu, cơ hội và nguy cơ của HTX NN An Giang

Trên cơ sở phân tích những thực trạng và các nhân tố của HTX NN An
Giang ta rút ra được những mặt mạnh, yếu, cơ hội và nguy cơ như sau

2.2.2.1 Điểm mạnh (S)

- BCN HTX đều là những nông dân sản xuất giỏi và có truyền thống trong
nghề nông, nên có kinh nghiệm trong sản xuất, rất linh hoạt và nhạy bén trong mùa
vụ.

- Xuất phát từ nguyên tắc hoạt động dân chủ, mang tính tập thể, nên HTX đã
phát huy được sức mạnh đoàn kết từ các thành viên trong HTX. Không những thế
các HTX còn có mối quan hệ tốt với xã viên của mình. Tất cả đều có sự nỗ lực và
phấn đấu vươn lên trong quản lý và sản xuất.

- Điều kiện tự nhiên ở An Giang hết sức thuận lợi, đất đai màu mỡ được phù
sa bồi đắp hàng năm do dòng sông Mê Kông mang đến, khí hậu mát mẻ, nguồn
nước dồi dào đã giúp cho việc canh tác trở nên thuận lợi tạo ra năng suất cao và chi
phí tương đối thấp.

- Đa số các HTX ở An Giang được nằm trong vùng thuê bao khép kín, nên
chủ động được lịch trình sản xuất và canh tác được đồng bộ.

- Do du lịch phát triển nên cơ sở hạ tầng và giao thông nông thôn ở


An Giang tương đối phát triển. Hệ thống đường bộ và đường thuỷ
rất tiện lợi cho việc thông thương và vận chuyển.

-
43

2.2.2.2 Điểm yếu (W)

- BCN HTX có trình độ văn hoá thấp, năng lực tổ chức quản lý và trình độ
chuyên môn nghiệp vụ kém. Thiếu cán bộ kỹ thuật có trình độ và kinh nghiệm để
chuyển giao những kiến thức và kinh nghiệm trong canh tác cho xã viên.

- Thiếu nguồn vốn hoạt động, khả năng huy động nguồn vốn từ bên ngoài
kém, chỉ tích luỹ từ nguồn vốn sản xuất và vốn góp cổ đông.

- Mặc dù có lợi thế về nông sản nhưng công nghiệp bảo quản và chế biến sau
thu hoạch còn hạn chế. Thiết bị và trình độ công nghệ vẫn còn trong tình trạng lạc
hậu dẫn đến chất lượng nông sản không đảm bảo và kém lợi thế hơn so với Thái
Lan.

- Việc trao đổi và tổ chức thông tin giữa cơ quan có thẩm quyền với HTX, và
nông dân còn yếu kém dẫn đến tình trạng thông tin bất đối xứng làm cho các HTX
khó có khả năng nâng cao trình độ tiếp cận thị trường, am hiểu về thị trường, về
công nghệ và thiết bị hiện đại.

- Chưa có, hoặc chưa phát thương hiệu hàng hoá nông sản ra thị trường thế
giới dù An Giang là tỉnh có sản lượng nông sản xuất khẩu đứng hàng nhất nhì trong
cả nước.

2.2.2.3 Cơ hội (O)

- Nhằm mục đích đẩy nhanh và mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông
thôn. Các HTX cũng như trang trại được chính phủ, và chính quyền đặc biệt quan
tâm và hỗ trợ về nhiều mặt nhằm giúp các HTX ngày càng phát triển ổn định đưa
nông nghiệp Việt Nam ngày càng đi lên và đủ sức cạnh tranh với thế giới.

- Nhu cầu nông sản trong nước và thế giới ngày càng tăng, thị trường nông
sản ngày càng được mở rộng ở nhiều quốc gia và châu lục

- Ở An Giang có nhiều công ty tầm cở có khả năng cạnh tranh quốc tế. Do đó
có thể tạo thành đầu tàu vững chắc kéo theo nền nông nghiệp trong tỉnh phát triển.
44

- Ngành du lịch An Giang ngày càng phát triển sẽ là cơ hội cho các HTX giới
thiệu mình ra thị trường nước ngoài.

- Chi phí sản xuất thấp, giá nhân công rẻ và năng suất cao giúp cho nông sản
của HTX có lợi thế cạnh tranh về giá trên thị trường thế giới.

- Chính phủ đã có chính sách xây dựng chợ nông sản ở địa bàn Thốt Nốt-Cần
Thơ nằm giáp An Giang với diện tích 86 ha nhằm làm chợ đầu mối cho nông sản ở
khu vực ĐBSCL. Ngoài ra, chính quyền An Giang còn xây dựng thêm một chợ gạo
ở Phú Tân_An Giang cũng nhằm làm chợ đầu mối cho các HTX và nông dân trong
tỉnh.

2.2.2.4 Nguy cơ (T)

- Giá cả hàng hoá nông sản không ổn định, hơn nữa chi phí vật tư ngày càng
cao và không ổn định làm cho HTX rất khó khăn trong việc đề ra kế hoạch sản xuất
và kinh doanh của mình.

- Thị trường xuất khẩu nông sản của An Giang tuy nhiều nhưng chưa ổn
định, chưa có thị trường chính yếu lâu dài.

- Luật HTX chưa phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, làm cho các
HTX đôi khi gặp khó khăn trong việc triển khai và thực hiện

- Áp lực cạnh tranh giữa các HTX yếu trong khi áp lực cạnh tranh của nông
nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới ngày càng cao. Các HTX lại chưa có
điều kiện để tiếp xúc với bên ngoài nên sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình
hội nhập kinh tế sắp tới.

- Chưa có nhà thiết kế thương hiệu nông sản có tầm cỡ nên sẽ khó cho các
HTX xây dựng và duy trì thương hiệu nông sản hàng hoá trên thị trường thế giới

- Chưa quy hoạch được vùng nguyên liệu có chất lượng và giá trị xuất
khẩu cao do sản xuất của các HTX còn mang tính đơn lẻ.
45

2.2.2.5 Ma trận SWOT

Từ việc phân tích các điểm mạnh, yếu, cơ hội và nguy cơ, chúng tôi đưa ra
mô hình phân tích ma trận SWOT theo nguyên tắc : “tận dụng điểm mạnh, cơ hội
để hạn chế điểm yếu và khắc phục nguy cơ”.
46

Bảng 2.7: Phân tích ma trận SWOT

OPPORTUNITIES (O) THREATS (T)


1. Được sự hỗ trợ mạnh mẽ của chính quyền và 1. Giá cả vật tư và nông sản không ổn định
các ban ngành đoàn thể. 2. Thị trường xuất khẩu chưa ổn định
2. Nhu cầu nông sản trong nước và thế giới 3. Cạnh tranh giữa các HTX còn kém trong khi
SWOT ngày càng tăng áp lực cạnh tranh của nước ngoài cao
3. Nhiều công ty ở An Giang có khả năng cạnh 4. Chưa quy hoạch thành công vùng nguyên
tranh quốc tế liệu có chất lượng
4. Du lịch An Giang phát triển 5. Thiếu nhà thiết kế thương hiệu nổi tiếng
5. Chợ nông sản đang được xây dựng
STRENGTHS (S) S1,S2-O1,O2,O4,O5: Phát triển sản phẩm, dịch S1,S2,S5-T1,T4: Xây dựng vùng nguyên liệu
1. BCN năng động linh hoạt vụ mới. chất lượng cao
2. Tinh thần đoàn kết và ý chí vươn lên mạnh S3,S4,S5-O2,O4,O5: Xâm nhập và phát triển S1,S2,S3,S5-T2,T3: Phát triển và ổn định thị
3. Năng suất cao và chi phí thấp thị trường trường
4. Giao thông nông thôn phát triển
5. Chủ động được lịch trình sản xuất
WEAKNESSES (W) W1-O1: Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực W1,W4-T3,T4: Phát triển nguồn nhân lực
1. Năng lực quản lý, trình độ chuyên môn của có trình độ W5,T5: Phát triển sản phẩm
BCN còn yếu W2,W3-O1: Huy động vốn, đầu tư thiết bị
2. Thiếu nguồn vốn hoạt động công nghệ mới
3. Thiết bị sản xuất và công nghệ sau thu hoạch W4,W5-O2,O3,O5: Củng cố thị trường và Phát
còn lạc hậu triển thương hiệu nông sản
4. Thiếu thông tin thị trường
5. Chưa đăng ký thương hiệu nông sản
47

Qua việc phân tích thực trạng hoạt động của HTX NN An Giang, chúng tôi
nhận thấy một số nhược điểm chính yếu của các HTX NN trong vấn đề cạnh tranh
như sau:

1) Hệ thống tố chức sản xuất trong HTX NN chưa hoàn thiện ngay từ khi
thành lập HTX. Các HTX NN vẫn còn sản xuất theo thói quen, theo kinh nghiệm,
chưa dám mạnh dạn thay đổi kỹ thuật và phương pháp sản xuất mới.

2) Việc quy hoạch vùng nguyên liệu nông sản ở An Giang còn nhiều lúng
túng, thiếu khâu hoạch định và kiểm soát, chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa các
đơn vị có liên quan, chưa phát huy tốt mô hình 4 nhà trong sản xuất và tiêu thụ.

3) Thị trường nông sản tuy nhiều nhưng chưa có thị trường chính thống, ổn
định. Các HTX NN chưa thực sự tiếp xúc với thị trường xuất khẩu. Mặt khác, công
tác nghiên cứu và dự báo thị trường của tỉnh chưa được phát huy dẫn đến việc thiếu
hụt thông tin trong sản xuất của HTX NN.

4) Mặc dù UBND tỉnh An Giang đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc xây
dựng và phát triển thương hiệu, nhưng các HTX NN An Giang chưa thực sự tận
dụng và phát huy. Mặt khác, do thiếu sự đồng bộ trong chuỗi hoạt động SXKD làm
ảnh hưởng đến việc xây dựng thương hiệu nông sản cho các HTX.

5) Trình độ văn hoá, trình độ tri thức và trình độ tiếp thu khoa học công
nghệ mới của các HTX NN An Giang còn nhiều hạn chế và chưa được phát huy.
Các HTX NN vẫn còn sử dụng những công nghệ lạc hậu, những phương thức sản
xuất cũ và những phương tiện bảo quản thô sơ.

6) Các HTX NN An Giang đều thiếu vốn hoạt động. Trong khi đó, việc huy
động vốn từ các tổ chức tín dụng, ngân hàng để đầu tư và mở rộng sản xuất thường
rất hạn chế và gặp nhiều khó khăn. Đa số các HTX đều huy động từ nguồn vốn tích
luỹ và vốn góp từ các xã viên.
48

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO LỢI


THẾ CẠNH TRANH CHO HTX NN AN GIANG
3.1 MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN KTHT VÀ HTX NN ĐẾN NĂM 2010 CỦA AN
GIANG

- Xây dựng mô hình kinh tế HTX phát triển toàn diện và vững chắc, để thực
hiện nhiệm vụ mục tiêu vì sự phát triển kinh tế nông hộ trong sản xuất hàng hoá
cạnh tranh trên thị trường; đồng thời góp phần quan trọng thúc đẩy kinh tế chung
của tỉnh phát triển.

- Tập trung củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của các HTX thuộc diện
yếu kém và ra sức hỗ trợ, giúp đỡ các HTX này đi vào hoạt động thực sự có hiệu
quả; đi đôi với việc vận động phát triển thêm nhiều HTX mới, trên cơ sở chuẩn bị
tốt các điều kiện tiền đề, bảo đảm tính tự nguyện và đúng luật định; để mô hình kinh
tế HTX cùng kinh tế quốc doanh dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.

- Tổ chức thí điểm các mô hình giám đốc HTX và nhân rộng mô hình khi
hoạt động thành công. Tiến hành nghiên cứu và thành lập mô hình chợ nông sản
kiểu mới và sàn giao dịch gạo

* Các chỉ tiêu cần đạt được đến năm 2010

- Tăng tỷ trọng dịch vụ nông nghiệp từ 12,8% lên 14% năm 2010. Tăng giá
trị sản xuất bình quân trên 1 ha canh tác từ 37,27 triệu đồng lên 53,34 triệu đồng
năm 2010.

- Phấn đấu đến năm 2010 có 100% số chủ nhiệm, giám đốc HTX có trình độ
cao đẳng, đại học; 4500 nông dân là các CN, PCN, kế toán, cán bộ kỹ thuật của
HTX về công tác quản lý, các kiến thức về hội nhập kinh tế toàn cầu.

- 100% HTX nối mạng internet và sử dụng thành thạo internet trong công tác
truy cập thông tin liên quan đến nông nghiệp.
49

3.2 GIẢI PHÁP NÂNG CAO LỢI THẾ CẠNH TRANH CHO HTX NN AN
GIANG

Để khắc phục những nhược điểm chính yếu trong phân tích ở chương hai và
nhằm nâng cao lợi thế cạnh cho các HTX NN ở An Giang, chúng tôi đề ra 6 nhóm
giải pháp như sau:

3.2.1 Nhóm giải pháp về phát triển sản xuất

3.2.1.1 Hoàn thiện hệ thống tổ chức sản xuất trong HTX

” Sắp xếp lại HTX NN

Để sắp xếp lại các HTX NN An Giang nhằm nâng cao chất lượng hoạt động
của các HTX thì cần phải làm rõ về khả năng tài chính và hiệu quả hoạt động của
HTX, trên cơ sở đó tổ chức sắp xếp lại các HTX theo 2 hướng:

- Thứ nhất: sát nhập và hợp nhất các HTX trung bình-yếu để tăng quy mô
SXKD, tăng vốn hoạt động, mở rộng địa bàn và hoạt động có hiệu quả hơn.

- Thứ hai: xoá tên, giải thể các HTX hoạt động không hiệu quả và chuyển
sang các dạng quản lý khác phù hợp với đặc điểm của địa bàn sản xuất.

” Thay đổi tập quán sản xuất

Các HTX NN An Giang phải từng bước vận động, tuyên truyền các đơn vị cá
thể, nông hộ tham gia vào HTX để tập trung sức mạnh thay đổi những tập quán sản
xuất cũ, lạc hậu chuyển nhanh sang sản xuất hàng hoá theo quy hoạch và kế hoạch
của vùng.

- Thứ nhất: mạnh dạn thay đổi giống cũ bằng giống mới có năng suất cao và
có giá trị xuất khẩu.

- Thứ hai: huy động về vốn, mạnh dạn đầu tư công nghệ mới, tiên tiến để
thay đổi phương pháp sản xuất truyền thống nhằm làm giảm thiểu tối đa tổn thất do
thu hoạch gây ra, góp phần làm tăng thu nhập cho xã viên trong HTX.
50

3.2.1.2 Quy hoạch vùng nguyên liệu chất lượng cao và tăng cường quản lý chất
lượng nông sản

Để quản lý chất lượng nông sản được tốt thì vai trò của HTX NN là thật sự
quan trọng trong việc gắn kết sản xuất của người dân đến việc tiêu thụ của DN.
Nhất là việc gắn kết giữa quá trình sản xuất – mua gom – chế biến – tiêu thụ. Cụ thể
như sau:

- Thứ nhất: HTX phải kết hợp với các trường, Viện canh tác, các trung tâm
nhân giống trong và ngoài tỉnh xây dựng các vùng chuyên canh phụ trước thu
hoạch, để áp dụng các tiến bộ khoa học- kỹ thuật vào sản xuất nhằm phục vụ xuất
khẩu. Kế đến là quy hoạch hình thành vùng sản xuất tập trung lúa đặc sản gắn với
phát triển hệ thống công nghệ sau thu hoạch, tạo sự phối hợp tối ưu các khâu sản
xuất – mua gom – chế biến – tiêu thụ sản phẩm.

- Thứ hai: Nhà nước phải xây dựng các bộ phận kiểm tra chất lượng nông sản
hiện đại ở từng đơn vị HTX, đủ năng lực phân tích các chỉ tiêu về thành phần dinh
dưỡng, chất phụ gia, chất kích thích, độc tố, thực phẩm chiếu xạ và nông sản
chuyển gien… nhằm có sự đánh giá đúng về chất lượng nông sản hàng hoá.

- Thứ ba: Nhà nước cần xây dựng trung tâm phân tích và xử lý thông tin
nhằm kịp thời phản ảnh những thay đổi của thị trường về chất lượng nông sản. Từ
đó làm cơ sở cho các nhà khoa học cùng HTX nghiên cứu và phát triển hệ thống
hàng hoá nông sản ngày càng phù hợp hơn.

- Thứ tư: Nhà nước nên qui định và khuyến khích các đơn vị xuất khẩu nông
sản có tỷ lệ pha trộn phù hợp nhằm đảm bảo chất lượng nông sản khi tham gia vào
thị trường thế giới.

3.2.1.3 Củng cố quan hệ bốn nhà

Để củng cố quan hệ giữa HTX và DN trong hợp tác bốn nhà, các HTX NN
và các DN cần phải thêm một yếu tố then chốt đó là điều kiện về cầu, nghĩa là cả
51

HTX và DN phải có mối quan hệ tương hỗ với nhau trong quá trình sản xuất và tiêu
thụ. Cụ thể như sau:

- Thứ nhất: về phía DN phải thông báo về số lượng, chủng loại hàng hoá
nông sản mà thị trường cần cho HTX, bên cạnh đó các DN cần đầu tư ứng trước về
vốn, vật tư, kỹ thuật cho sản xuất và bao tiêu sản phẩm theo giá cố định trên nguyên
tắc “được cùng ăn, thua cùng chịu”. Khi thị trường có giá biến động thì cả hai bên
cùng hưởng lợi hoặc cùng chia sẻ rủi ro.

- Thứ hai: về phía HTX phải tích cực vận động các xã viên, các hộ nông dân
tham gia vào HTX vì lợi ích của cộng đồng, của tập thể để cùng nhau chung sức
thực hiện tốt những đầu tư từ phía DN. Bên cạnh đó HTX cũng nỗ lực học tập,
nghiên cứu những kỹ thuật sản xuất từ nhà khoa học và từ nhà DN để hoàn thành tốt
các chỉ tiêu chất lượng cho sản phẩm. Đặc biệt là các HTX phải luôn giữ chữ tín
cùng chia sẻ với DN những rủi ro bất trắc có thể xảy ra.

- Thứ ba: về phía nhà nước chỉ có vai trò như chất xúc tác kết dính cả hai chủ
thể HTX và DN lại với nhau bằng cơ sở pháp lý, chứ không nên can thiệp sâu vào
nội bộ của hai bên. Bên cạnh đó cần có những chính sách hỗ trợ tích cực nhằm
khuyến khích phát triển hàng hoá nông sản theo đúng nhịp độ phát triển của nền
kinh tế.

- Thứ tư: về phía nhà khoa học là nơi tư vấn khoa học kỹ thuật sản xuất cho
cả hai phía HTX và DN, và cũng là nơi tư vấn cho chính phủ về những tiến bộ của
khoa học sản xuất trên thế giới.

Nếu tất cả cùng thực hiện tốt vai trò của mình thì sẽ đảm bảo cho mối liên
kết bốn nhà được giữ vững và phát triển, cùng nâng cao lợi thế cạnh tranh của hàng
hoá nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới.
52

Hình 3.1: Mô hình liên kết bốn nhà được thể hiện theo mô hình viên kim
cương của Porter
Chính phuû

Ñieàu kieän nhaân toá


(HTX)

- Trao ñoåi thoâng tin


Coâng nghieäp hoã
Ñieàu kieän - Hôïp ñoàng bao tieâu
- Ñaàu tö gioáng, vaät tö,
trôï vaø lieân quan
veà caàu
kyõ thuaät khoa hoïc coâng (Nhaø Khoa hoïc,
ngheä vaøo saûn xuaát Doanh nghieäp)

Caáu truùc, chieán löôïc


vaø caïnh tranh
(HTX, Doanh nghieäp)

3.2.2 Nhóm giải pháp về thị trường

3.2.2.1 Củng cố thị trường nội địa

Để bảo đảm nhu cầu an ninh lương thực trong nước và tăng tính cạnh tranh
của hàng hoá nông sản, các HTX phải tập trung củng cố thị trường nội địa nhằm tạo
ra sức ép làm “bàn đạp” hướng ra thị trường xuất khẩu.

- Thứ nhất: chính phủ cần phải chú trọng việc quy hoạch mạng lưới chợ và
xây dựng chợ bán buôn nông sản, tiến tới xây dựng sàn giao dịch nông sản. Các
HTX NN An Giang cần phải nhắm đến chợ gạo ở Cần Thơ, và chợ gạo Phú Tân là
những chợ đầu mối nông sản cho ĐBSCL.

- Thứ hai: cần phải có sự chủ động hợp tác của các ngành, các vùng, các DN
và nhất là sự liên kết của mối quan hệ 4 nhà để tạo điệu kiện thuận lợi cho sự phát
triển của thị trường nông sản trong nước.
53

- Thứ ba: HTX cần phải cải tiến chất lượng, mẫu mã, chủng loại, nhằm tạo ra
một thị trường nguyên liệu cao cấp để đánh vào khúc thị trường tiêu dùng trong các
thành phố như nhà hàng, quán ăn; và các khu công nghiệp.

3.2.2.2 Củng cố và phát triển thị trường xuất khẩu

- Củng cố và tăng cường công tác tiếp thị vào các thị trường mục tiêu truyền
thống ở các quốc gia thuộc Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ và Châu Phi.

- Đẩy mạnh việc tiếp cận và chiếm lĩnh các thị trường mới theo phương thức
bám trụ và lan toả như thị trường EU, và gần nhất là Trung Quốc. Riêng đối với thị
trường EU cần phải quan tâm đến chất lượng, chủng loại, mẫu mã và vệ sinh an
toàn thực phẩm, vì thị trường này có đòi hỏi rất cao. Muốn vậy cần phải đẩy mạnh
việc triển khai các chương trình giống, công nghệ sinh học, cải thiện năng suất, chất
lượng sản phẩm, đổi mới thiết bị, công nghệ sau thu hoạch tăng tỷ lệ nông sản chế
biến và giá trị gia tăng.

- Tận dụng địa thế hình thành khu kinh tế cửa khẩu An Giang và
PhnomPenh, nhằm tạo vị trí thuận lợi cho thông thương quốc tế. Tiếp tục chủ động
xây dựng một vị thế làm địa bàn trung chuyển hàng hoá, mở rộng cửa ngõ giao
thương giữa 3 thành phố lớn, cửa ngõ "ASEAN đất liền phía Tây Nam" và các Đảo
quốc trong khối.

- Liên kết thương mại với các tổ chức trong và ngoài nước để thúc đẩy các
hoạt động xúc tiến thương mại như tổ chức các triển lãm, hội chợ thương mại quốc
tế về nông sản trong nước và ngoài nước, các cuộc thi sản phẩm, thương hiệu nông
sản... Đào tạo cho các HTX, các DN về thương mại điện tử, xây dựng các trang web
về nông sản.

3.2.2.3 Hoàn thiện công tác nghiên cứu và dự báo thị trường

Để HTX có thể đổi mới và cải tiến công nghệ thì đòi hỏi nguồn thông tin
phản hồi từ các DN, các hiệp hội lương thực hoặc các nhà khoa học phải thật sự
chính xác và đầy đủ. Muốn vậy cần phải thực hiện những công việc sau:
54

- Cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các hiệp hội lương thực với các tham
tán thương mại của Việt Nam ở các nước kịp thời cung cấp thông tin về nhu cầu
nông sản, giá cả, chất lượng, luật lệ, tình hình chính trị xã hội cũng như những tiềm
năng về nông sản trên thế giới. Bên cạnh đó có thể trực tiếp nghiên cứu theo yêu
cầu của các đơn vị xuất khẩu trong nước về thông tin khách hàng, đối thủ cạnh
tranh, điều kiện khí hậu, thời tiết của các nước xuất khẩu nông sản khác.

- Sở NN&PTNT cùng với Liên minh HTX An Giang có nhiệm vụ thúc đẩy
phát triển sản xuất theo định hướng, đồng thời đảm bảo quyền lợi cho người sản
xuất thông qua việc cung cấp thông tin về các DN thu mua nông sản của HTX, của
nông dân ở địa bàn trong tỉnh như về giá cả, số lượng, chủng loại...

- Ngành nông nghiệp phối hợp với Sở thương mại – Du lịch An Giang cùng
các DN chủ động tìm kiếm thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước. Luôn luôn cập
nhật thông tin về giống cây trồng, vật nuôi, giá cả nông sản, giá cả vật tư nông
nghiệp, công nghệ và kỹ thuật sản xuất mới, và nhất là phân tích xu hướng tiêu
dùng trong tương lai về nông sản lên trang Web của ngành nông nghiệp trong tỉnh.
Ngược lại các HTX cần phải trao dồi kiến thức, kỹ năng truy cập trang Web, đồng
thời nâng cao kỹ năng phân tích và tổng hợp thông tin thị trường nhằm ứng dụng
vào sản xuất ngày càng tốt hơn.

3.2.2.4 Xây dựng và phát triển thương hiệu nông sản

Trong thời gian qua cả nước và từng địa phương phát động phong trào xây
dựng thương hiệu Việt đã tạo động lực cho các DN đầu tư cải tiến chất lượng, xây
dựng thương hiệu và nâng cao uy tín với khách hàng. Tuy nhiên nhiều mặt hàng
xuất khẩu của chúng ta chưa có thương hiệu riêng, nhất là mặt hàng nông sản. Do
đó giá bán hàng hoá nông sản của chúng ta không cao mặc dù chất lượng không
thua kém gì nông sản các nước, đều đó cho thấy: sức mạnh của công ty không chỉ
đơn giản chứa đựng trong phương pháp chế biến, công thức hay quy trình công
nghệ riêng mà còn là cách làm sao cho mọi người trên thế giới muốn dùng. Đó
chính là Thương hiệu.
55

Riêng An Giang trong những năm qua việc xây dựng thương hiệu trở nên rất
thuận lợi cho các đơn vị, các HTX đăng ký thương hiệu cho riêng mình. Căn cứ
Quyết định 1968/ QĐ - CTUB ngày 23 tháng 9 năm 2004 của UBND tỉnh An Giang
về việc phê duyệt kế hoạch phát triển thương hiệu năm 2004 - 2006 thì các HTX sẽ
được hỗ trợ 50% chi phí ban đầu xây dựng thương hiệu. Như vậy để xây dựng,
quảng bá và phát triển thương hiệu nông sản các HTX NN cũng như các DN xuất
khẩu nông sản cần thực hiện các nội dung sau:

- Các HTX NN, các DN kinh doanh hàng hoá nông sản nên chú trọng hơn
nữa việc xây dựng thương hiệu nông sản, nhất là cần phải đăng ký bảo hộ thương
hiệu trong và ngoài nước nhằm đảm bảo vị thế kinh doanh của mình.

- Cần phải gắn việc phát triển thương hiệu với việc quy hoạch vùng sản xuất
của HTX, tức là các HTX NN, các DN nên hoạch định chiến lược phát triển thương
hiệu phải liên thông từ việc nghiên cứu thị trường đến việc cải tiến chất lượng
nguyên liệu, giống, kỹ thuật canh tác, vận chuyển bảo quản và chế biến… thì mới
đảm bảo cho việc duy trì và ổn định chất lượng thương hiệu.

- Thông qua liên kết bốn nhà, các HTX NN cần phải phối hợp với các nhà
khoa học kiểm tra chất lượng, xây dựng các mã vạch xuất xứ nông sản, và xây dựng
các trang web về HTX NN để quảng bá hình ảnh thương hiệu, nhằm đảm bảo uy tín
và độ tin cậy cho người sử dụng nông sản.

3.2.2.5 Tổ chức liên kết hợp tác theo chuỗi sản xuất kinh doanh

Liên kết hợp tác là quá trình tất yếu khách quan trong sản xuất hàng hoá của
các nước. Ở nước ta hiện nay, nhất là trong nông nghiệp việc liên kết hợp tác giữa
công ty, HTX, nông dân đã trở nên rất thành công trong việc sản xuất, chế biến và
tiêu thụ nông sản. Việc liên kết hợp tác phải đòi hỏi sự phối hợp gắn bó của nhiều
đơn vị tổ chức để khai thác và phát huy nguồn nội lực tạo ra sản phẩm hàng hoá
chất lượng cao và chi phí thấp.
56

Để có thể tổ chức tốt việc liên kết hợp tác trong quá trình sản xuất kinh
doanh của các HTX NN An Giang, thì cần phải đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ
theo trình tự nhất định trong chuỗi sản xuất kinh doanh của HTX.

Hình 3.2: Mô hình liên kết hợp tác giản đơn trong chuỗi sản xuất kinh doanh

Caùc toå chöùc hoã trôï


vaø coù lieân quan

DN kinh doanh haøng


Noâng daân, Caùc
hoaù noâng nghieäp,
xaõ vieân HTX NN
Lieân hieäp HTX NN

Như vậy, theo mô hình thì cần phải thực hiện các công việc sau:

- Trước nhất, các hiệp hội lương thực, trung tâm xúc tiến thương mại cần
phải nắm được yêu cầu về chủng loại, số lượng, chất lượng, giá cả hàng hoá nông
sản ... từ đó các HTX NN sẽ lên kế hoạch, rà soát lại năng lực, cơ sở hạ tầng, nguồn
tài chính… nhằm bố trí quy hoạch các vùng sản xuất phù hợp với yêu cầu thị trường
theo sự hướng dẫn khoa học của các trường và viện.

- Các DN kinh doanh hàng hoá nông sản, các liên hiệp HTX phải xúc tiến
thương mại, đẩy mạnh việc tìm kiếm và mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản. Trên
cơ sở đó sẽ thực hiện ký kết hợp đồng tiêu thụ nông sản với nông dân, mà đại diện
là các HTX NN.

- Nhà nước có nhiệm vụ hỗ trợ vào tạo điều kiện về vốn, cơ sở hạ tầng,
truyền thông đại chúng cho các HTX cũng như DN nhằm tăng tính ổn định trong
chuỗi sản xuất kinh doanh. Đặc biệt chú trọng vào hai lĩnh vực:

+ Thứ nhất: quy hoạch vùng nguyên liệu có trọng điểm.

+ Thứ hai: bình ổn giá cả hàng hoá nông sản và giá cả vật tư nông nghiệp
nhằm giúp cho các HTX và DN duy trì được định hướng kế hoạch đã đề ra.
57

3.2.3 Nhóm giải pháp về khoa học công nghệ

Theo Bộ NN& PTNN, ở nước ta phải mất ít nhất 15 đến 20 năm nữa, công
nghệ sau thu hoạch mới theo kịp Thái Lan ngày nay. Đây cũng là nguyên nhân lý
giải tại sao giá trị gạo xuất khẩu của Việt Nam lại luôn thấp hơn Thái Lan. Do đó,
để đẩy mạnh những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất thì cần thực hiện các
công việc sau:

- Đẩy mạnh khoa học và công nghệ vào sản xuất ngay từ khâu chọn giống
đến lúc ra sản phẩm.

+ Thứ nhất: Chính phủ phải tăng cường hỗ trợ phát triển công nghệ sinh học
trong việc nhân và lai tạo giống. Đặc biệt là làm nhiệm vụ liên kết các tổ chức,
thành phần có liên quan như nhà khoa học, nhà nông nghiệp, các DN để nghiên cứu
phát triển các loại giống mới cho năng suất cao, đạt giá trị xuất khẩu và phù hợp với
thị trường.

+ Thứ hai: Phát triển khoa học, công nghệ phải gắn liền với thực tiễn địa
phương để khi triển khai ứng dụng sẽ ít lãng phí và đạt được hiệu quả. Chẳng hạn
như trường hợp máy gặt đập liên hiệp được đánh giá rất hay nhưng lại không thích
hợp ở một số địa bàn của tỉnh An Giang.

- Các HTX phải mạnh dạn đổi mới tập quán sản xuất cũ chuyển sang cơ giới
hoá trong sản xuất nhằm giảm thiểu những tổn thất trong sản xuất và thu hoạch, làm
tăng giá trị hàng hoá nông sản cho HTX. Bên cạnh đó, cần củng cố và tận dụng các
phương tiện vận chuyển truyền thống vốn phù hợp với địa hình của địa phương.

- Đẩy mạnh những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong công nghệ sau thu hoạch
nhằm làm tăng chất lượng hàng hoá nông sản của HTX.

+ Thứ nhất: Nhà nước cần hỗ trợ vốn cho các HTX đầu tư đổi mới trang thiết
bị hiện đại phục vụ cho sản xuất sau thu hoạch như máy sấy, cơ giới vận chuyển,
máy xay xát…
58

+ Thứ hai: Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn để xe cộ vận chuyển
thiết bị máy móc đi vào thuận tiện, áp dụng máy gặt đập liên hiệp được dễ dàng và
tập trung vào các HTX.

+ Thứ ba: Chủ trì, phối hợp và khuyến khích các đơn vị sản xuất như HTX,
hộ trang trại, các DN tiến hành quy hoạch vị trí đặt hệ thống kho bãi, nhà máy xay
xát gắn với vùng nguyên liệu tập trung.

3.2.4 Nhóm giải pháp về tài chính

Để khắc phục tình trạng thiếu vốn sản xuất cũng như mở rộng việc đầu tư sản
xuất và kinh doanh, các HTX NN cùng với UBND tỉnh An Giang cần thực hiện các
công việc sau:

- Các HTX NN cần phải tiếp tục tận dụng và phát huy nguồn vốn từ nội lực
bằng cách huy động vốn góp từ xã viên, người lao động hay từ nguồn vốn tích luỹ.

- Thông qua hoạt động kinh doanh của HTX thành lập nguồn quỹ đầu tư và
phát triển. Song song đó, áp dụng phương thức lấy: “ngắn nuôi dài” bằng cách đa
dạng các loại hình dịch vụ trong HTX để tăng thêm lợi nhuận.

- HTX NN cần phải thiết lập cho được các phương án sản xuất kinh doanh cụ
thể, rõ ràng, và mang tính khả thi cao. Có như vậy mới có thể huy động được nguồn
vốn từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng nông thôn.

- UBND tỉnh An Giang cần giao nhiệm vụ cho liên minh HTX An Giang hỗ
trợ về vốn cho các HTX mới thành lập. Trong thời gian đầu khi HTX chưa đủ
mạnh, nhà nước có thể hỗ trợ cho các HTX theo tỷ lệ vốn như sau:

(1) Trung ương hỗ trợ 50%

(2) Tỉnh 25%

(3) Huyện 15%

(4) Còn lại là HTX đóng góp


59

Khi HTX hoạt động có hiệu quả sẽ trích một tỷ lệ phần trăm quỹ giữ lại để trừ
dần vào nguồn vốn đầu tư của chính phủ lúc ban đầu.

- UBND tỉnh cần phải thành lập bộ phận thẩm định và giám sát các phương
án SXKD cho các HTX. Một mặt là hỗ trợ HTX NN xây dựng các phương án sản
xuất khả thi. Mặt khác, kiểm tra, giám sát tiến trình thực hiện của HTX cho đúng
với kế hoạch đã đề ra, sau khi các HTX NN đã vay được từ các ngân hàng thông
qua phương án khả thi đó.

3.2.5 Nhóm giải pháp về nhân lực

3.2.5.1 Đào tạo nguồn nhân lực địa phương

Các giải pháp có thực hiện được hay không đều không thể thiếu vai trò của
con người, tuy giải pháp có hay nhưng không có con người tương xứng thì HTX
khó có thể thành công, hay nói cách khác lực lượng sản xuất phải tương xứng với
quan hệ sản xuất thì HTX mới phát triển.

Hiện nay An Giang còn thiếu nhiều lực lượng lao động có trình độ về kỹ
thuật, phân tích kinh doanh, dự báo thị trường và kinh nghiệm kinh doanh quốc tế.
Do đó trong thời gian tới cần phải chú trọng một số vấn đề sau:

- Đào tạo thường xuyên và ngắn hạn về quản lý, kỹ thuật, marketing, tin học,
ngoại thương,… cho các đối tượng nông dân, kinh tế cá thể, CN, PCN HTX có một
kiến thức cơ bản về quản trị và điều hành kinh doanh trong thời đại mới.

- Gởi các CN, PCN, nông dân sản xuất giỏi, đơn vị kinh tế tư nhân làm ăn
hiệu quả ra các nước tiên tiến nhằm học tập kinh nghiệm và kiến thức về sản xuất
và kinh doanh hàng hoá nông nghiệp.

- UBND cần phải củng cố và cải thiện chính sách thu hút sinh viên về phục
vụ nông thôn sao cho đảm bảo tính hiệu quả và công bằng như những sinh viên tốt
nghiệp làm việc ở các cơ quan khác.

- Tăng cường mối quan hệ ngắn hạn và dài hạn giữa sinh viên trường đại học
An Giang và các HTX, trang trại, kinh tế cá thể thông qua việc trao đổi những kiến
60

thức giữa thực tiễn và lý thuyết với nhau. Theo đó thì sinh viên sẽ thường xuyên
đến tham quan các HTX, trang trại, kinh tế cá thể nhằm có cơ hội tiếp xúc với thực
tế. Ngược lại, trường sẽ cùng giải quyết các tình huống mà các đơn vị gặp khó khăn.

3.2.5.2 Tận dụng và phát huy tính cộng đồng nông thôn.

Việc đào tạo nguồn nhân lực cho địa phương là thực sự cần thiết trong quá
trình CNH-HĐH nông thôn. Tuy nhiên để phát huy được nguồn lực của địa phương
thì cần phải có một hậu phương vững chắc, đó chính là những đơn vị kinh tế tư
nhân cá thể. Do đó, củng cố phát triển kinh tế tư nhân phải đi đôi với việc phát triển
cộng đồng, tập thể. Mà trong đó HTX là đơn vị đại diện cho tính cộng đồng, tập thể
đó. Bởi vì, khi có những quyết định về chính sách quy hoạch vùng nguyên liệu sản
xuất cũng như những hợp đồng kinh tế mang tính chất to lớn thì nhất thiết phải có
sự liên kết của các đơn vị kinh tế cá thể và các HTX. Nếu từng bộ phận rời rạc thì
vẫn làm tốt việc tiêu thụ hàng hoá của mình, tuy nhiên xét theo quan điểm hệ thống
thì sẽ phá vỡ tính chất vĩ mô của chính sách. Vì vậy, HTX phải là nơi thể hiện tính
chung sống, chung làm và cùng chia sẻ những giá trị lợi ích thì mới có thể phát huy
được sức mạnh tập thể tạo thành thế vững chắc cho nông nghiệp nông thôn.
61

KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN

1. KIẾN NGHỊ VỚI UBND TỈNH AN GIANG

- Thứ nhất: UBND tỉnh An Giang phải phối hợp với các sở, ban, ngành như
Sở NN&PTNT, Liên Minh HTX An Giang, Trung tâm hỗ trợ nông dân tổ chức sắp
xếp các HTX NN theo đạo lý: “tu thân, tề gia, trị quốc và bình thiên hạ”. Nghĩa là
phải phát triển kinh tế tư nhân cá thể, hoặc kinh tế trang trại, hoặc tổ hợp tác sản
xuất một cách vững mạnh rồi sau đó phát triển dần lên hình thức cao hơn như công
ty cổ phần, HTX kinh doanh hàng hoá nông nghiệp. Có như vậy mới đảm bảo cho
HTX đủ mạnh làm đầu tàu trong việc mở rộng kinh doanh ra thị trường thế giới.

- Thứ hai: các HTX, các DN, các nhà khoa học cùng với UBND tỉnh An
Giang ngồi lại với nhau để tổ chức quy hoạch vùng sản xuất chất lượng cao, sao cho
đảm bảo từ khâu chọn giống đến khâu thu mua - chế biến - tiêu thụ mang tính hệ
thống và hiệu quả. Cụ thể cần thực hiện 2 vấn đề sau:

+ Khi quy hoạch vùng sản xuất phải được bắt đầu từ việc thu thập thông tin
thị trường về chủng loại, giá cả và chất lượng. Từ đó các DN cùng các trung tâm
xúc tiến thương mại phải nỗ lực tìm kiếm thị trường, đến khi có thị trường ổn định
mới tiến hành ký kết với các HTX hình thành khu nguyên liệu theo yêu cầu của thị
trường.

+ Phải gắn kết quy hoạch của vùng phù hợp với quy hoạch tổng thể về nông
nghiệp. Lựa chọn các HTX mạnh trong khu vực liên kết với nhau cùng hỗ trợ sản
xuất nhằm đảm bảo về số lượng, chất lượng theo kế hoạch đã đề ra.

- Thứ ba: UBND tỉnh An Giang không nên đào tạo một cách đại trà mà cần
phải đào tạo các nông dân, kinh tế tư nhân, các HTX những nội dung phù hợp với
những thay đổi trong sản xuất nông nghiệp trên thế giới. Có như vậy mới đảm bảo
cho nông nghiệp An Giang bắt kịp theo đà phát triển của khu vực. Muốn vậy, thì
cần phải:
62

+ Đưa HTX đi tham quan các mô hình HTX ở các nước tiên tiến nhằm giúp
họ nắm bắt những tư duy mới trong khoa học sản xuất.

+ Đào tạo thí điểm mô hình Giám đốc HTX trên địa bàn An Giang làm cơ sở
để nhân rộng mô hình trong toàn tỉnh khi mô hình đạt hiệu quả.

+ Thường xuyên phối hợp với các trường, viện để cập nhật kiến thức cho các
HTX về kỹ thuật sản xuất, công nghệ thông tin và khoa học quản lý khác

- Thứ tư: UBND tỉnh An Giang cần phải tạo điều kiện thuận lợi cho các
HTX thâm nhập và mở rộng thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước.

+ Củng cố và hoàn thiện hệ thống thu thập thông tin và dự báo thị trường.
Tiến hành phân tích cung cầu nông sản ở thị trường trong nước và quốc tế. Các xu
hướng của giá cả vật tư nông nghiệp, giá cả nông sản, tiềm năng sản phẩm…lên
trang web của ngành nông nghiệp trong tỉnh.

+ Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại trong tỉnh, nếu cần thiết thì
phối hợp với các tham tán thương mại, ngoại giao các nước. Thông qua đó khảo sát,
thăm dò nhu cầu của khách hàng ở thị trường nước ngoài về nông sản hàng hoá. Có
thể phối hợp tổ chức cho các HTX tham dự các hội chợ quốc tế hay khu vực về
nông sản.

+ Có chính sách bình ổn giá cả vật tư nông nghiệp, bình ổn giá cả nông sản
khi giá cả thị trường có sự biến động nhằm giúp cho các HTX cũng như doanh
nghiệp thuận lợi trong việc đầu tư và mở rộng thị trường.

- Thứ năm: UBND tỉnh An Giang cần phải phối hợp các đối tác trong quan
hệ bốn nhà tiến hành nghiên cứu thực tiễn các công nghệ trước và sau thu hoạch. Từ
đó có chính sách hỗ trợ đầu tư cho các HTX trong việc nâng cao chất lượng hàng
hoá nông sản.

- Thứ sáu: UBND tỉnh An Giang cần phải phối hợp với sở, ban, ngành như
Liên Minh HTX An Giang, Sở NN&PTNN An Giang, trường Đại học An Giang…
thành lập bộ phận kiểm định và giám sát dự án nông nghiệp nông thôn. Một mặt hỗ
63

trợ cho các HTX NN trong việc thiết lập và xây dựng phương án SXKD, cao hơn
nữa là dự án SXKD mang tính khả thi và xác thực với địa phương. Mặt khác, tư vấn
dự án, phương án đó với các tổ chức ngân hàng, tổ chức tín dụng cho các HTX NN
vay vốn. Đồng thời kiểm tra, giám sát tiến độ thực hiện dự án của các HTX NN cho
đúng với kế hoạch đề ra nhằm đảm bảo hiệu quả thiết thực cho cả hai bên: Ngân
hàng và các HTX NN.

2. KẾT LUẬN

Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh được thể hiện qua các nhân tố trong mô hình
viên kim cương của Michael Porter. Qua phân tích các nhân tố của mô hình, cho
thấy điều kiện tự nhiên của An Giang là một lợi thế lớn giúp cho sản xuất nông
nghiệp phát triển mạnh và đạt năng suất cao trong cả nước. Trong những năm qua
chính quyền An Giang đã nỗ lực hết sức trong phát triển nền kinh tế nông nghiệp,
mà chiến lược cốt yếu là tập trung vào các HTX NN và các trang trại thông qua mô
hình liên kết bốn nhà. Tuy nhiên khi đi sâu phân tích thực tế của các HTX NN thì
thấy bộc lộ nhiều khó khăn vướng mắc. Nguyên nhân chính là trình độ của các
HTX còn quá thấp, chưa đáp ứng được những yêu cầu thực tế đề ra. Bên cạnh đó, ý
thức của người dân về HTX NN còn hạn chế, còn ám ảnh về mô hình HTX NN
trước đó, chưa có ý thức trách nhiệm trong quan hệ hợp tác mang tính chất to lớn.
Vì vậy, các HTX khó tập trung được sức mạnh trong sản xuất nhằm cùng đưa nền
nông nghiệp đi lên.

Mặt khác, phần lớn HTX An Giang là những người nông dân sản xuất giỏi
được bầu lên làm CN và PCN. Đa số họ chỉ dựa vào kinh nghiệm và sự tín nhiệm
của người dân, chứ thật sự chưa được qua đào tạo về quản lý và kỹ thuật canh tác.
Vì vậy, các HTX vẫn còn sử dụng nhiều kỹ thuật sản xuất lạc hậu, chưa bắt kịp với
khoa học công nghệ tiên tiến. Do đó, chất lượng nông sản ở An Giang chưa cao,
chưa đủ sức cạnh tranh với các nước mạnh như Thái Lan, dù năng suất hàng năm
rất lớn.
64

Từ những tồn tại đã được phân tích, luận án đã đề xuất những giải pháp
quan trọng nhằm hạn chế những yếu kém về nhân lực, công nghệ, thị trường, giá trị
hàng hoá nông sản, quan hệ hệ liên kết… và mục đích cuối cùng là làm sao để nâng
cao lợi thế cạnh tranh cho các HTX NN ở An Giang.

TAØI LIEÄU THAM KHAÛO


Tieáng Vieät
1. Traàn Vaên Tuøng (2004), “Caïnh tranh kinh teá”, NXB Theá Giôùi, Haø Noäi
2. Baïch Thuï Cöôøng (2002), “Baøn veà caïnh tranh toaøn caàu”, NXB Thoâng Taán, Haø
Noäi.
3. Nguyeãn Vaên Trình (2000), “Lòch söû caùc hoïc thuyeát kinh teá”, NXB Ñaïi hoïc
Quoác gia, TP HCM.
4. Nguyeãn Huøng Phong (2002), Taøi lieäu moân Quaûn trò kinh doanh quoác teá, Tröôøng
Ñaïi hoïc kinh teá TP HCM.
5. Löông Gia Cöôøng (2003), “Naâng cao naêng löïc caïnh tranh quoác gia”, NXB
Giao thoâng vaän taûi, Haø Noäi
6. Nguyeãn Thò Caønh (2004), “Phöông phaùp vaø phöông phaùp luaän nghieân cöùu khoa
hoïc kinh teá”, NXB Ñaïi hoïc quoác gia, TP HCM
7. Nguyeãn Vinh Long (2003), “Moät soá giaûi phaùp chieán löôïc nhaèm naâng cao lôïi
theá caïnh tranh cho caø pheâ Ñaklak”, Luaän vaên thaïc só kinh teá, Tröôøng ñaïi hoïc
kinh teá TP HCM.
8. Döông Bích Thuyû (2001), “Moät soá giaûi phaùp phaùt trieån loaïi hình HTX nghieäp ôû
caùc tænh phía nam”, Luaän vaên thaïc só kinh teá, Tröôøng ñaïi hoïc kinh teá TP
HCM.
9. Nguyeãn Vaên Hoaø (1998) “Thöïc traïng vaø nhöõng ñònh höôùng ñoåi môùi HTX noâng
nghieäp tænh Bình Thuaän”, Luaän vaên thaïc só kinh teá, tröôøng ñaïi hoïc kinh teá TP
HCM.
10. Cao Minh Toaøn (2004), “Moät soá bieän phaùp ñaåy maïnh hoaït ñoäng Marketing
cho HTX noâng nghieäp An Giang”, Ñeà taøi nghieân cöùu khoa hoïc caáp tröôøng,
Tröôøng ñaïi hoïc An Giang.
11. “Phaùt trieån kinh teá ñòa Phöông”, Kyû yeáu hoäi thaûo, Phoøng thöông maïi vaø Coâng
nghieäp Vieät Nam chi nhaùnh Caàn Thô, naêm 2003
65

12. “Keá hoaïch phaùt trieån saûn phaåm coâng nghieäp xuaát khaåu 2006-2010”. UBND
tænh An Giang.
13. “Baùo caùo tình hình hoaït ñoäng HTX noâng nghieäp tænh An Giang”, Sôû Noâng
nghieäp vaø PTNN An Giang, thaùng 07 naêm 2005
14. “Hoäi thaûo Phaùt trieån kinh teá HTX trong cô cheá thò tröôøng qua kinh nghieäm cuûa
quoác teá vaø thöïc tieãn ôû Vieät Nam”, Lieân minh HTX Vieät Nam, toå chöùc taïi An
Giang, naêm 2003
15. “Ñeà aùn Ñaøo taïo nguoàn nhaân löïc phuïc vuï phaùt trieån noâng thoân An Giang giai
ñoaïn 2002-2010”, Sôû Noâng nghieäp vaø PTNN An Giang.
16. “Chieán löôïc phaùt trieån noâng thoân An Giang ñeán naêm 2020”, Sôû NN&PTNN
An Giang
17. “Chieán löôïc phaùt trieån thò tröôøng cuûa tænh An Giang ñeán naêm 2020” Sôû
NN&PTNN An Giang
18. “Thöïc traïng coâng ngheä sau thu hoaïch ôû Vieät Nam”, Vieän canh taùc-tröôøng Ñaïi
hoïc Caàn Thô, naêm 2003
19.”Quy hoaïch toång theå kinh teá xaõ hoäi An Giang ñeán naêm 2020”, Sôû keá hoaïch &
ñaàu tö An Giang, naêm 2005
20. Löông Quoác Daân, Phaïm Vaên Thaéng (2004), “Vaøi neùt veà caïnh tranh cuûa saûn
phaåm noâng nghieäp trong tieán trình hoäi nhaäp”, Taïp chí coâng nghieäp, soá 20,
trang 11
21. Hoàng Vaân (2004), “Moâ hình HTX cuûa moät soá nöôùc chaâu aù”, taïp chí coâng
nghieäp, soá 14, trang 46
22. Tieáp söùc cho HTX taïi caùc nöôùc ASEAN”, website:www.vnn.vn
23. “Tình hình phaùt trieån kinh teá xaõ hoäi An Giang naêm 2002, 2003, 2004”.
website: www.angiang.gov.vn
24. Moät soá Website khaùc coù lieân quan: www.nhandan.com.vn; www.sggp.ogr.vn;
www.angroviet.gov.vn.
Tieáng Anh
25. Michael E.Porter (1990), “The competitive Advantage of Nation”, Harvard
Business Review, pp 78-90
26. “Porter’s diamond and Subsidies”, Seminar in Organisation and International
Management 2002.
66

PHỤ LỤC 1

1.3.1 Mô hình nghiên cứu

Qua nghiên cứu và phân tích lý thuyết về lợi thế cạnh tranh của Michael
Porter cũng như kinh nghiệm phát triển HTX của một số nước trên thế giới ta có mô
hình nghiên cứu đối với HTX NN ở An Giang như sau:

Lôïi theá caïnh tranh HTX NN

Ñieàu kieän Ñieàu kieän Coâng nghieäp hoã trôï Caáu truùc, chieán löôïc
nhaân toá veà caàu vaø lieân quan vaø caïnh tranh

- Nguoàn nhaân löïc - Cung öùng ñaàu vaøo - Caáu truùc sôû höõu HTX
- Nguoàn tri thöùc - Hoã trôï sau thu hoaïch - Chieán löôïc phaùt trieån
- Nguoàn taøi chính - Caùc nhaø khoa hoïc cuûa HTX
- Cô sôû haï taàng - Hoã trôï ñaàu ra. - Aùp löïc cuûa caïnh tranh
- Ñoäng löïc vöôn leân
- Nhu caàu noâng saûn trong tænh vaø
nöôùc ngoaøi
- Aùp löïc cuûa khaùch haøng
- Ñoäng cô phaùt trieån HTX
67

1.3.2 Trình tự nghiên cứu

Moâ hình vieân Caùc nghieân


kim cöông cöùu tröôùc ñoù

Muïc tieâu Moâ Kinh nghieäm


nghieân cöùu hình cuûa caùc nöôùc

Quan Baùn caáu truùc


Baûng caâu hoûi
ñieåm

Sô caáp
Thu thaäp
thoâng tin
Thöù caáp

Xöû lyù
Coâng cuï SPSS
thoâng tin

Phaân tích,
toång hôïp

Caùc giaûi phaùp Phaân tích


SWOT

You might also like