Professional Documents
Culture Documents
KINH TẾ VĨ MÔ
Hình 1.1. Quan hệ trao đổi giữa hộ gia đình và nhà sản xuất
Do mối quan hệ trao đổi giữa hộ gia đình và nhà sản xuất được thực hiện thông qua
thị trường, nên thị trường là dấu hiệu chỉ dẫn tốt nhất đối hành vi của các nhà sản xuất và
hộ gia đình tham gia các hoạt động kinh tế. Chẳng hạn như khi hàng hóa khan hiếm, nhu
cầu mua nhiều hơn nguồn cung ứng sẽ đẩy gía cả tăng cao và nhà cung ứng những hàng
hóa đó sẽ có lợi nhuận cao, lúc đó sẽ thu hút nhiều nhà sản xuất tham gia sản xuất mặt
hàng đó; và ngược lại. Các nhà kinh tế học thuộc trường phái thị trường tự do cạnh tranh
đưa ra quan điểm “thị trường dẫn dắt các hoạt động trong nền kinh tế” là cơ chế tốt nhất
dẫn đến nguồn lực được phân phối hiệu quả, Chính phủ không nên can thiệp thị trường.
Tuy nhiên, không phải lúc nào thị trường cũng đưa ra chỉ dẫn tốt nhất cho các hành
vi trong nền kinh tế, bởi vì chúng dễ bị thao túng bởi một số nhóm lợi ích, hoặc dễ xuất
hiện những “cú sốc” từ không gian và bối cảnh khác nhau. Chẳng hạn như thị trường tự do
cạnh tranh là nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng thừa 1929-1933. Ở Việt Nam, sự sôi
động trên thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản đến khủng hoảng tài chính kéo
dài từ năm 2007-2011.
Do vậy, cần thiết phải có sự can thiệp của Chính phủ vào các hoạt động trong nền
kinh tế nhằm đảm bảo các hoạt động kinh tế diễn ra liên tục, ổn định. Hoạt động điều tiết
của Chính phủ vào tổng thể các hoạt động trong nền kinh tế thường được gọi là các chính
sách điều tiết kinh tế vĩ mô. Mục tiêu của các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm duy trì tăng
trưởng ổn định, phát triển bền vững, tạo công ăn việc làm, kiểm soát được lạm phát, tạo ra
sự bình đẳng cho các đối tượng, thành phần kinh tế tham gia các hoạt động kinh tế.
Hình 1.2. Quan hệ ba chủ thể: hộ gia đình, nhà sản xuất và chính phủ
Chính sách tài khóa Tổng chi tiêu (tổng cầu) Tăng trưởng kinh tế
Chính sách ngoại Thị trường hàng hóa và thị Tỷ lệ thất nghiệp
thương trường tiền tệ
Câu 1.2: Mối quan hệ giữa các nhóm chủ thể trong nền kinh tế như thế nào?
Câu 1.3: Phân biệt kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô?
Câu 1.4: Nêu các mục tiêu nghiên cứu kinh tế học vĩ mô?
Câu 1.5: Nêu các cách tiếp cận nghiên cứu kinh tế học.
Câu 1.6: Nêu các phương pháp và công cụ nghiên cứu kinh tế học vĩ mô.
Câu 1.7: Đánh giá trạng thái của nền kinh tế qua những biến số gì ?
Câu 1.8: Các biến số nào giải thích các biến số đo lường trạng thái của nền kinh tế.
Câu 1.9: Các chính sách vĩ mô thường điều tiết những biến số nào? Nêu cụ thể cho chính
sách tài khóa, chính sách tiền tệ và chính sách ngoại thương.
Câu 1.10: Hãy xây dựng khung phân tích để xây dựng chính sách nhằm mục tiêu cải thiện
tình trạng thất nghiệp của một quốc gia (người đọc tự chọn quốc gia mình quan tâm).
Câu 1.11: Hãy xây dựng khung phân tích để xây dựng chính sách nhằm mục tiêu cải thiện
tình trạng nhập siêu của một quốc gia (người đọc tự chọn quốc gia mình quan tâm).
CHƯƠNG 2
ĐO LƯỜNG SẢN LƯỢNG QUỐC GIA
Chương 2 trình bày các chỉ tiêu đo lường thành tựu phát triển kinh tế của một quốc
gia. Trước hết là trình bày hệ thống tài khoản quốc gia bao gồm tài khoản sản xuất, tài
khoản thu nhập và chi tiêu, tài khoản vốn, tài chính và tài khoản quan hệ kinh tế với nước
ngoài. Kế đến là trình bày khái niệm và phương pháp tính chỉ tiêu đo lường sản lượng
quốc gia và cán cân thanh toán.
2.1 HỆ THỐNG TÀI KHOẢN QUỐC GIA (SNA – system national account)
Hệ thống tài khoản quốc gia là tập hợp các tài khoản ghi chép các hoạt động sản
xuất hàng hóa và dịch vụ giữa các thành phần kinh tế bên trong và bên ngoài lãnh thổ của
quốc gia tại một thời kỳ nhất định (thường là một năm).Trọng tâm các tài khoản của SNA
Việt Nam bao gồm: tài khoản sản xuất, tài khoản thu nhập và chi tiêu, tài khoản vốn, tài
chính và tài khoản quan hệ kinh tế với nước ngoài.
2.1.1 Các chỉ tiêu của SNA Việt Nam
Các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp của SNA được phân chia trên khía cạnh phạm vi lãnh
thổ và khía cạnh sở hữu như sau:
- Các chỉ tiêu theo phạm vi lãnh thổ quốc gia: tổng sản phẩm quốc nội (GDP -
Gross Domestic Product) và Sản phẩm quốc nội ròng (NDP – Net Domestic Product).
- Các chỉ tiêu trên khía cạnh sở hữu: đây là các chỉ tiêu phản ánh quá trình phân
phối, phân phối lại GDP như tổng thu nhập quốc dân (GNP – Gross National Product); sản
phẩm quốc dân ròng (NNP – Net National Product); thu nhập quốc gia (NI – National
Income); thu nhập cá nhân hay lợi tức cá nhân (PI – Personal Income) và Thu nhập khả
dụng (DI – Disposable Income).
KHU VỰC
Nhập khẩu NƯỚC NGOÀI
Xuất khẩu
Tiêu dùng Thị trường hàng hóa và
dịch vụ
Mua hàng
Đầu tư chính phủ
Khấu hao
Thu nhập
Thị trường yếu tố sản xuất
Chi phí lao động,
vốn, đất đai v.v
HÌNH 2.1. SƠ ĐỒ CHU CHUYỂN KINH TẾ
Sơ đồ chu chuyển kinh tế mô phỏng đơn giản cách thức hoạt động của nền kinh tế
diễn ra giữa bốn chủ thể chính là doanh nghiệp, hộ gia đình, chính phủ và khu vực nước
ngoài thông qua ba thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường các yếu tố sản xuất và thị
trường tài chính. Hoạt động của nền kinh tế là quá trình di chuyển khép kín của dòng tiền
giữa các thị trường, chẳng hạn thị trường hàng hóa và dịch vụ đo lường hoạt động sản xuất
của nền kinh tế; trong khi thị trường yếu tố sản xuất đo lường thu nhập tạo ra từ quá trình
hoạt động sản xuất, còn thị trường tài chính đóng vai trò trung gian bơm vào (đầu tư) và
hút ra (tiết kiệm) các dòng tiền để góp phần tái tạo và phát triển khu vực sản xuất của một
quốc gia. Phần nội dung tiếp theo sẽ trình bày chi tiết từng hoạt động của các chủ thể trong
nền kinh tế.
2.2.1.2 Các thành phần trong nền kinh tế
Hộ gia đình bao gồm toàn bộ các gia đình trong một quốc gia, hộ gia đình đóng
vai trò cung cấp các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất để tạo ra thu nhập. Từ thu nhập
có được hộ gia đình sử dụng vào hai mục đích là tiêu dùng và tiết kiệm.
Tiêu dùng hộ gia đình ( C – Consumption) là tổng số tiền hộ gia đình dùng để mua
hàng hóa và dịch vụ như chi phí học tập, lương thực thực phẩm (gạo, cá, thịt, trứng,…)
v.v. Thông thường hàng hóa tiêu dùng của hộ gia đình được chia thành ba loại: hàng hóa
không lâu bền, hàng hóa lâu bền và dịch vụ.
Tiết kiệm của hộ gia đình (S – Saving) là phần thu nhập còn lại sau khi tiêu dùng.
Doanh nghiệp bao gồm tất cả các doanh nghiệp hoạt động sản xuất trong mọi lĩnh
vực sản xuất và dịch vụ trong nền kinh tế. Doanh nghiệp là bộ phận chủ lực tạo ra hàng
hóa và dịch vụ của một quốc gia thông qua các hoạt động đầu tư và tái đầu tư hoạt động
sản xuất.
Đầu tư (I – Investment) bao gồm khoản chi tiêu mua hàng hóa và dịch vụ cho mục
đích sử dụng trong tương lai. Đầu tư chia thành ba loại: đầu tư tài sản tư bản mới của
doanh nghiệp (mua máy móc, thiết bị, nhà xưởng cho doanh nghiệp), đầu tư vốn vào giá
trị hàng tồn kho và đầu tư cố định của hộ gia đình (xây nhà mới). Một cách tổng quát, tổng
đầu tư được xác định như sau:
I = Tiền đầu tư vào tài sản tư bản mới + (Giá trị tồn kho đầu năm – Giá trị tồn kho cuối năm)
Ngoài ra, đầu tư còn tính dựa vào nguồn vốn bao gồm hai phần khấu hao (De) và đầu tư
ròng (IN):
Khấu hao (De - Depreciation) là khoản tiền bù đắp khoản hao mòn tài sản cố định
như máy móc thiết bị, nhà xưởng, công cụ dụng cụ có giá trị và sử dụng nhiều lần trong
sản xuất. Đây là khoản đầu tư duy trì khả năng sản xuất của doanh nghiệp.
Đầu tư ròng (IN – Net invesment) chính là tiền đầu tư vào tài sản tư bản mới được
xem là khoản đầu tư mở rộng năng lực sản xuất. Nguồn vốn dùng để đầu tư tài sản tư bản
mới có thể vay từ tiết kiệm của hộ gia đình và phần lợi nhuận giữ lại không chia của doanh
nghiệp.
Theo sơ đồ chu chuyển kinh tế có thể thấy doanh nghiệp là nơi hoạt động sản xuất
ra hàng hóa và dịch vụ cho nền kinh tế nên phải chi trả các khoản chi trả các yếu tố sản
xuất cho hộ gia đình và một phần nộp thuế cho chính phủ và được xác định cụ thể như sau:
Tiền lương (W – Wage) bao gồm các khoản thu nhập nhận được của người lao
động kể cả tiền thưởng, tiền trợ cấp cơm trưa, các khoản trợ cấp khác.
Tiền thuê (R – Rent) thu nhập có được từ cho thuê đất đai, nhà cửa và các loại tài
sản khác.
Tiền lãi (i – interest) được xem khoản thu nhập từ các khoản tiền cho vay vốn, tiền
gửi tiết kiệm, tiền của người cho vay.
Lợi nhuận (Pr – Profit)là khoản lợi nhuận trước thuế bằng tổng doanh thu trừ tổng
chi phí bao gồm chi phí chi trả lãi vay. Lợi nhuận trước thuế thông được chia thành ba
phần: lợi nhuận nộp (thuế thu nhập doanh nghiệp và các quỹ an sinh xã hội: quỹ cứu trợ xã
hội, quỹ phục vụ dịch vụ xã hội v.v), lợi nhuận giữ lại và dự phòngcho doanh nghiệp, và
lợi tức cổ đông (phần chia lãi cho các thành viên góp vốn cho doanh nghiệp).
Chính phủ đóng vai trò điều tiết các hoạt động nền kinh tế thông qua các hoạt
động chi tiêu, trợ cấp và thu thuế.
Chi tiêu chính phủ (G - Government purchase) là khoản chi mua hàng hóa và dịch
vụ được của chính phủ cấp trung ương và cấp địa phương. Các loại chi tiêu chính phủ này
bao gồm chi quốc phòng (mua trang thiết bị phục vụ quân đội), chi đầu tư cơ sở hạ tầng
(xây dựng đường xá, bệnh viện, trường học, và v.v) và chi dịch vụ như tiền công nhân viên
chính phủ. Chi tiêu chính phủ không bao gồm các khoản chuyển nhượng như phúc lợi và
bảo hiểm xã hội.
Chi chuyển nhượng (Tr – tranfer payments) là khoản trợ cấp của chính phủ cho
khu vực hộ gia đình và doanh nghiệp mà không cần nhận lại hàng hóa và dịch vụ như trợ
cấp thất nghiệp, quỹ hưu trí, bảo hiểm xã hội hay thậm chí là khoản bù lỗ cho các doanh
nghiệp nhà nước.
Thuế là nguồn thu quan trọng tài trợ cho hoạt động chi tiêu của chính phủ và nguồn
thu thuế chủ yếu từ hai nguồn thuế trực thu (Td) và thuế gián thu (Ti).
Thuế trực thu (Td - Direct Taxes) là khoản thuế đánh trực tiếp vào thu nhập của cá
nhân và người nộp thuế cũng chính là người chịu thuế. Các khoản thuế trực thu phổ biến
thuế thu nhập cá nhân, thuế thừa kế, thuế thu nhập doanh nghiệp.
Thuế gián thu (Ti - Indirect Taxes) là khoản thuế đánh gián tiếp thu nhập của cá
nhân và cá nhân chỉ chịu thuế thu nhập khi mua hàng hóa và dịch vụ nên đây là loại thuế
mà người nộp thuế không phải là người chịu thuế. Các khoản thuế gián thu thông thường
là thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu.
Khu vực nước ngoài là phần còn lại của thế giới trao đổi với hàng hóa trong nước
và được chia thành hai thành phần chính như sau:
Xuất khẩu (X – export) là chi tiêu của nước ngoài đối với hàng hóa và dịch vụ sản
xuất trong nước. Đây là giá trị hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu ra nước ngoài.
Nhập khẩu (M – import)là phần chi tiêu trong nước cho hàng hóa và dịch vụ sản
xuất ở nước ngoài. Đây là giá trị trị hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu vào trong nước.
2.2.2 Tổng sản phẩm quốc nội (GDP – Gross domestic Product):
2.2.2.1 Khái niệm tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
GDP là giá trị hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trên phạm vi lãnh
thổ của quốc gia trong thời kỳ nhất định (thường thời kỳ là một năm). GDP bao gồm giá trị
hàng hóa được sản xuất như là nhà cửa, gạo và .v.v , và giá trị dịch vụ như đi máy bay,
tiền học phí đi học và v.v. Giá trị sản lượng của mỗi loại hàng hóa được tính theo giá thị
trường của sản phẩm, sau đó cộng giá trị của toàn bộ sản phẩm sản xuất ra trong phạm vi
một lãnh thổ tạo thành GDP.
Công thức tổng quát: 𝐺𝐷𝑃𝑡 = ∑𝑛𝑖=1 𝑃𝑖𝑡 𝑄𝑖𝑡
Trong khái niệm này cần làm rõ thế nào hàng hóa và dịch vụ cuối cùng và có sự
khác biệt giữa thuật ngữ này với thuật ngữ hàng hóa và dịch vụ trung gian.
Hàng hóa và dịch vụ cuối cùng là hàng hóa và dịch vụ cho mục đích sử dụng cuối
cùng.
Hàng hóa và dịch vụ trung gian là hàng hóa và dịch vụ sử dụng cho mục đích sản
xuất để tạo ra hàng hóa và dịch vụ khác trong một thời kỳ nhất định. Các loại hàng hóa
trung gian chỉ các hàng hóa đầu vào của doanh nghiệp như nguyên vật liệu (sắt, thép, xi
măng, v.v); nhiên liệu (xăng, dầu, v.v); điện nước v.v; và các loại chi phí dịch vụ trung
gian của các doanh nghiệp như phí vận tải, phí quảng cáo, phí đào tạo và các loại chi phí
khác trong hoạt động doanh nghiệp.
Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hàng hóa và dịch vụ cuối cùng và hàng hóa và dịch vụ
trung gian chỉ có tính chất tương đối. Bởi vì, cùng một loại hàng hóa và dịch vụ nhưng nếu
người mua là người tiêu dùng cuối cùng thì đó là sản phẩm cuối cùng. Ngược lại, nếu
người mua là nhà sản xuất sử dụng hàng hóa và dịch vụ đó làm đầu vào để sản xuất thì
hàng hóa và dịch vụ đó là sản phẩm trung gian.Chẳng hạn, nếu ruột xe gắn máy nhãn hiệu
Casumina được mua bởi người tiêu dùng cần phải thay ruột xe để sử dụng thì ruột xe gắn
máy trở thành sản phẩm cuối cùng. Nhưng nếu ruột xe gắn máy này được hãng Honda
mua để lắp ráp vào xe gắn máy thì ruột xe này trở thành hàng hóa trung gian. Như vậy, sự
khác biệt giữa hàng hóa và dịch vụ cuối cùng và trung gian là mục đích sử dụng.
Điểm đáng chú ý về chỉ tiêu đo lường GDP là rằng GDP không chỉ đo lường giá trị
sản xuất hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia mà còn đo lường tổng thu nhập và tổng chi
tiêu của tất cả mọi thành phần kinh tế của một quốc gia.Thật vậy, qua sơ đồ chu chuyển
của nền kinh tế có thể hình dung tổng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất đem trao đổi trên
thị trường hàng hóa và dịch vụcho phép đo lường được tổng chi tiêu của các thành phần
kinh tế của một quốc gia như hộ gia đình, doanh nghiệp, chính phủ và chi tiêu nước ngoài
ròng cho hàng hóa sản xuất trong nước. Quá trình giao dịch trên thị trường hàng hóa và
dịch vụ tạo ra tổng thu nhập cho nền kinh tế. Thông qua thị trường yếu tố sản xuất trong sơ
đồ chu chuyển của nền kinh tế có thể thấy tổng thu nhập này chính các khoản chi phí chi
trả cho nguồn cung đầu vào sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ bao gồm tiền lương, tiền thuê,
lợi tức, lợi nhuận v.v. mà doanh nghiệp thuê mướn các thành phần kinh tế khác trong nền
kinh tế và thành phần đại diện cho tổng thể là hộ gia đình (vì xét cho cùng chủ doanh
nghiệp hay bất kỳ nhân viên của chính phủ cũng là thành viên của hộ gia đình). Vì vậy,
nếu giả định cơ chế hoạt động nền kinh tế vận hành như sơ đồ dòng chu chuyển (hình 2.1)
thì tổng sản phẩm quốc nội còn gọi là tổng thu nhập quốc nội hay tổng chi tiêu quốc nội.
Ví dụ: giả sử một nền kinh tế có sơ đồ chu chuyển kinh tế năm 2014 như hình 2.2,
ta thấy tổng sản lượng quốc nội theo định nghĩa có thể được ước tính theo tổng dòng tiền
chi tiêu của từng thành phần trong nền kinh tế bao gồm hộ gia đình (C), doanh nghiệp (I),
chính phủ (G) và khu vực nước ngoài (X và M) trên thị trường hàng hóa và dịch vụ. Khi
đó:
GDP = C + I + G + X – M = 1010 (đơn vị tiền)
Nguồn thu được trong quá trình sản xuất của nền kinh tế mà thành phần đại diện
cho khu vực sản xuất là doanh nghiệp phải nộp thuế (T), trả lương công nhân (W), tiền lãi
vay (i), tiền thuê đất đai (R) và lợi nhuận (Pr) và khi đó tổng thu nhập quốc nội của nền
kinh tế cũng bằng 1.010 đơn vị tiền.
KHU VỰC
M = 100 NƯỚC NGOÀI
X = 100
C = 480 Thị trường hàng hóa và dịch
vụ
G=240
I = 290
De = 100
Thu nhập
Thị trường yếu tố sản xuất W = 490, i = 30
R= 30, Pr = 150
HÌNH 2.2. SƠ ĐỒ CHU CHUYỂN KINH TẾ
2.2.2.2 Một số phương pháp đo lường tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
2.2.2.2.1 Phương pháp chi tiêu hàng hóa và dịch vụ cuối cùng
Phương pháp này tính toán dựa vào sơ đồ chu chuyển kinh tế của các thành
phầnchi tiêu dùnghộ gia đình (C), đầu tư doanh nghiệp (I), chi tiêu chính phủ (G) vào hàng
hóa và dịch vụ được sản xuất ra trong phạm vi lãnh thổ một quốc gia. Ngoài ra, các khoản
chi tiêu của nước ngoài cho hàng hóa và dịch vụ sản xuất trong nước (X) và khoản chi tiêu
mua hàng ở nước ngoài (M). Khi đó, GDP tính theo phương pháp chi tiêu hàng hóa và
dịch vụ cuối cùng là đồng nhất thức sau:
GDP = C + I + G + X − M
Ví dụ minh họa: xem ví dụ tại mục 2.2.2.1
2.2.2.2.2 Phương pháp phân phối (thu nhập):
Phương pháp này tính toán dựa vào dòng chu chuyển thu nhập bao gồm tất cả các
khoản chi phí doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ sau khi trừ các
chi phí trung gian như chi phí khấu hao máy móc thiết bị (De - Depreciation); chi phí thuê
lao động mà gọi chung là tiền lương (W - Wage), chi phí thuê đất đai, nhà xưởng và các tài
sản khác (R – rent) và tiền lãi vay (i - Interest); các loại thuế gián thu phải nộp (Ti – Tax
indirection) và lợi nhuận (Pr- Profit) chi trả cho chủ doanh nghiệp và người hùn vốn. Tóm
lại, GDP tính theo phương pháp phân phối như sau:
GDP = De + W + R + i + Pr +Ti
Ví dụ minh họa: xem ví dụ mục 2.2.2.1
2.2.2.2.3 Phương pháp giá trị sản xuất (giá trị gia tăng: VA – Value added):
GDP được tính bằng cách cộng giá trị gia tăng của từng công đoạn sản xuất trong
các khu vực sản xuất thuộc phạm vi lãnh thổ quốc gia và giá trị gia tăng được hiểu đơn giá
là doanh số trừ chi phí nguyên vật liệu đầu vào của nhà sản xuất khác(không tính chi phí
lao động). Theo SNA Việt Nam, các khu vực sản xuất của Việt Nam chia thành ba ngành
sản xuất:
Khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản bao gồm giá trị sản xuất của ngành
trồng trọt cây lương thực, cây công nghiệp; chăn nuôi gia súc, gia cầm; nuôi trồng và khai
thác lâm sản, thủy hải sản.
Khu vực công nghiệp và xây dựng bao gồm giá trị sản xuất của ngành công nghiệp
chế biến thực phẩm; ngành công nghiệp chế tạo công nghiệp khai khoáng; ngành sản xuất
nhiên liệu, ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải; và ngành
xây dựng.
Khu vực dịch vụ bao gồm các dịch vụ hoạt động thương nghiệp, lưu trú, ăn uống,
du lịch và dịch vụ kinh doanh khác. Khi đó, GDP sẽ là:
Trong đó: VAi = Giá trị xuất lượng của doanh nghiệp i – Chi phí trung gian
AVA: giá trị gia tăng của các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp
IVA: giá trị gia tăng của các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp
SVA: giá trị gia tăng của các doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ
Giá trị xuất lượng của doanh nghiệp là giá trị thị trường của toàn bộ hàng hóa và
dịch vụ mà doanh nghiệp sản xuất ra trong năm.
Chi phí trung gian bao gồm các chi phí và dịch vụ mua hàng hóa và dịch vụ đầu
vào cho quá trình sản xuất.
Ví dụ: một nền kinh tế nhỏ Instantrice sản xuất ra ba sản phẩm (gạo, muối và cháo
ăn liền), mỗi sản phẩm được sản xuất bởi một công ty riêng biệt. Sản phẩm của công ty
sản xuất gạo và muối vừa là sản phẩm bán cho người tiêu dùng vừa là các nguyên liệu để
sản xuất ra cháo ăn liền; công ty sản xuất cháo ăn liền sử dụng gạo và muối từ hai công ty
trên để sản xuất ra cháo ăn liền và cháo ăn liền chỉ sản phẩm cuối cùng đến tay người tiêu
dùng . Các thông tin về chi phí sản xuất của ba công ty như sau:
Công ty gạo Công ty muối Công ty cháo ăn liền
15 tỷ VNĐ muối
Hãy xác định GDP của nền kinh tế nhỏ Instantrice.
GIẢI
Vận dụng các cách tính GDP, GDP của nền kinh tế Instantrice:
1. Theo phương pháp chi tiêu hàng hóa và dịch vụ cuối cùng ta có:
GDP = (60-40) + (20 – 15) + 250 = 275 tỷ VNĐ
2. Theo phương pháp phân phối ta có:
GDP = (35+10+105) + {(60–35) + (20 – 10) + (250–105–40–15)} = 275 tỷ
VNĐ
3. Theo phương pháp giá trị gia tăng
GDP = (60 – 0) + (20 – 0) + (250 – 40 – 15) = 275 tỷ VNĐ
Từ kết quả cho thấy nếu nền kinh tế không có thuế cả ba cách tính GDP đều cho
cùng một kết quả. Tuy nhiên, trong thực tiễn GDP theo giá trị sản xuất thực chất là GDP
theo giá yếu tố sản xuất và nhận giá trị chênh lệch so với hai cách tính còn lại là phần thuế
gián thu.
2.2.3. Tổng sản phẩm quốc dân (GNP - Gross national product)
Tổng sản phẩm quốc dân là giá trị của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được
sản xuất bởicác yếu tố sản xuất của công dân một quốc gia trong một thời kỳ nhất định
(thường thời kỳ là một năm).
Hay nói cách khác, GNP là tổng thu nhập mà người dân của một quốc gia kiếm
được kể cảtrong nước và ngoài nước, nhưng không bao gồm thu nhập của người nước
ngoài kiếm được ở trong nước và được tính theo cách tính thông qua chỉ số GDP như sau:
GNP = GDP + NIA
Trong đó:
NIA (Net income abroad): thu nhập ròng từ nước ngoài
NIA = Thu nhập từ yếu tố xuất khẩu – Thu nhập từ yếu tố nhập khẩu.
Thu nhập từ yếu tố xuất khẩu là thu nhập của công dân quốc gia tại nước ngoài và
nguồn thu nhập này chủ yếu từ xuất khẩu lao động (kể cả tiền lương và phúc lợi của người
lao động) và thu nhập ròng từ lợi nhuận hoạt động kinh doanh của công dân một nước giữ
tài sảnở nước ngoài. Ngược lại, thu nhập từ yếu tố nhập khẩu là thu nhập của người lao
động nước ngoài và thu nhập từ hoạt động kinh doanh của công dân nước ngoài giữ tài sản
trong nước.
Sơ bộ
Một số chỉ tiêu tài khoản quốc gia 2010 2011 2012
2013
ĐVT (Tỷ Đồng theo giá iện hành)
Tổng sản phẩm quốc dân (GNP/GNI) 2,075,578 2,660,076 3,115,227 3,433,515
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) 2,157,828 2,779,880 3,245,419 3,584,262
Thu nhập ròng từ yếu tố nước ngoài
(NFA/NFFI) -82,250 -119,804 -130,192 -150,746
Nguồn: Tổng cục thống kê (2015)
Sự khác biệt của GNP và GDP sẽ được trình bày thông qua ví dụ sau: người Việt
Nam sang Hàn Quốc làm việc, thu nhập người này kiếm được ở Hàn Quốc được tính vào
GDP của Hàn Quốc vì người này đang làm việc tại Hàn Quốc, nhưng khoản thu nhập này
không được tính vào GNP của Hàn Quốc mà tính vào GNP của Việt Nam vì người này
không mang quốc tịch Hàn Quốc. Một ví dụ khác, lợi nhuận kiếm được của Metro Việt
Nam là một phần của GDP Việt Nam, nhưng lợi nhuận này là một phần của GNP Đức vì
lợi nhuận này là thu nhập từ vốn của nhà đầu tư người Đức.
2.2.4.Sản phẩm quốc dân ròng (NNP - Net National Product)
Sản phẩm quốc dân ròng đo lường giá trị sản phẩm cuối cùng của phần có giá trị
sáng tạo mới do công dân của một quốc gia sản xuất ra trong thời kỳ nhất định.
NNP = GNP - De
2.2.5.Thu nhập quốc dân (NI- National Income)
Thu nhập quốc dânlà tổng yếu tố thu nhập của công dân một quốc gia vàđược đo
lườngtheo giá yếu tố sản xuất.
NI = NNP − Ti
Qua đó có thể nhận thấy sự khác biệt giữa tổng thu nhập quốc dân (GNP) và thu
nhập quốc dân (NI) là GNP tính theo giá thị trường vàtrong NI giá trị khấu hao đã được
giảm trừ.
2.2.6. Thu nhập cá nhân (PI - Personal Income)
Thu nhập cá nhân là lượng thu nhập của mỗi người dân trước thuế cá nhân bao
gồm một phần hộ gia đình nhận được từ hoạt động cho thuê mướn các yếu tố sản xuất kể
cả sức lao động và phần còn lại nhận được do chuyển nhượng phúc lợi xã hội của chính
phủ và doanh nghiệp.
PI = NI − 𝑃𝑟 𝑛ộ𝑝+𝑘ℎô𝑛𝑔 𝑐ℎ𝑖𝑎 − Ti + Tr
2.2.7. Thu nhập khả dụng (DI - Diposable Income)
Thu nhập khả dụng là thu nhập cuối cùng mà mỗi cá nhân có toàn quyền sử dụng
và DI thường là khoản tạo nên lượng tiêu dùng của hộ gia đình (C) và tiết kiệm (S-
Saving) của nền kinh tế.
DI = PI − Thuế cá nhân
2.2.8. Các chỉ tiêu khác
Ngoài một số chỉ tiêu nằm trong hệ thống SNA như đã trình bày bên trên, năm
1972 các nhà kinh tế đưa ra thêm chỉ tiêu khác đo lường sự thịnh vượng của người dân của
một quốc gia là chỉ tiêu phúc lợi kinh tế ròng (NEW do hai nhà kinh tế W.D Nordhous và
J.Torbin) và Jigme Singye Wangchuck (nhà vua đời thứ 4 của Bhutan) đề xuất tổng hạnh
phúc quốc dân (GNH).
Chỉ tiêu phúc lợi ròng (NEW – Net Economic Wefare) được tính như sau:
NEW = GNP + giá trị thời gian nhàn rỗi + giá trị của những sản phẩm và dịch vụ
tự làm – chi phí ngoại tác (ô nhiễm môi trường, tắc nghẽn giao thông,…)
Chỉ tiêu tổng hạnh phúc quốc dân (GNH – Gross National Happiness) dựa trên 4
giá trị cốt lõi là thúc đẩy phát triển bền vững, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, bảo
tồn môi trường tự nhiên và thiết lập nền quản trị tốt.
Rõ ràng các chỉ tiêu NEW và GNH đo lường tốt sự thịnh vượng của một quốc gia
nhưng việc định lượng các chi phí ngoại tác cũng như đo lường 4 giá trị của GNH khó
khăn nên chỉ số GNP và GDP được sử dụng phổ biến cho đến ngày nay.
* Lưu ý: riêng đối với cấp tỉnh và thành phố của Việt Nam dùng chỉ số tổng sản
phẩm trên địa bàn (GRDP) để đo lường giá trị mới tăng thêm của hàng hoá và dịch vụ
được tạo ra trên địa bàn tỉnh/thành phố trong một thời gian nhất định (quý, 6 tháng, 9
tháng, năm). Tổng sản phẩm trên địa bàn được tính theo giá thực tế và giá so sánh. Mục
đích của việc dùng chỉ số GRDP nhằm tránh bất cập về số liệu công bố tổng sản phẩm sản
xuất tại các địa phương luôn cao hơn số liệu công bố về tổng sản phẩm của cả nước. Một
trong những nguyên nhân chủ yếu của sự chênh lệch này do bộ phân thống kê cấp địa
phương có những hạn chế nguồn dữ liệu thu thập nên dẫn đến việc tính trùng đặc biệt đối
với doanh nghiệp có nhiều cơ sở đặt tại các địa phương khác nhau. Ngoài ra, phương pháp
tính toán chỉ số GRDP phổ biến cấp tỉnh/thành phố hiện nay là phương pháp sản xuất.
Công thức tính chỉ số GRDP theo phương pháp sản xuất như sau:
GRDP = Tổng giá trị tăng thêm của tất cả các ngành + Thuế nhập khẩu
của tỉnh/thành phố - Trợ cấp sản xuất.
2.3. GIÁ TRỊ THỰC VÀ DANH NGHĨA
Giá trị danh nghĩa (nominal value) đo lường giá trị sản lượng trong một thời kỳ
nhất định theo giá của kỳ thực hiện báo cáo (tháng/quý/năm hiện hành).
Giá trị thực (real value) đo lường giá trị sản lượng trong một thời kỳ nhất định theo
giá năm gốc và năm gốc thường được chọn là năm có ít biến động của các điều kiện ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động của nền kinh tế.
Vì vậy, so với chỉ tiêu danh nghĩa thì chỉ tiêu thực phản ánh tốt sự thay đổi của các
hoạt động trong nền kinh tế vì chỉ tiêu thực loại bỏ yếu tố giá chỉ so sánh mức độ tăng
giảm về mặt sản lượng sản xuất ra tại năm hiện hành so với năm gốc. Để tính mức độ
thịnh vượng của nền kinh tế có thực sự tăng hay không thường dùng chỉ tiêu GDP thực
hoặc GNP thực.
Ví dụ: một nền kinh tế SmartFood sản xuất ba mọi sản phẩm sau: điện thoại di
động, gạo và cháo ăn liền. Số liệu về giá cả và sản lượng của từng loại sản phẩm trong 3
năm 2012, 2013 và 2014 tại quốc gia SmartFood như sau
Điện thoại di động Gạo Quần áo
Năm Giá Số lượng Giá Số lượng Giá Số lượng
(VNĐ/Cái) (Cái) (VNĐ/kg) (Kg) (VNĐ/Cái) (Cái)
2012 6.000 35.000 12 6.000.000 300 90.000
2013 8.000 40.000 13 6.500.000 350 95.000
2014 9.000 30.000 13 7.000.000 360 85.000
Xác định GDP danh nghĩa và thựctrong ba năm, sử dụng giá của năm 2012.
GIẢI
GDP danh nghĩa:
GDP2012 = 6.000x35.000 + 12x6.000.000 + 300x90.000 = 309.000 ngàn VNĐ
GDP2013 = 8.000x40.000 + 13x6.500.000 + 350x95.000 = 437.750 ngàn VNĐ
GDP2014 = 9.000x30.000 + 13x7.000.000 + 360x85.000 = 289.500 ngàn VNĐ
GDP thực:
GDP2013 = 6.000x40.000 + 12x6.500.000 + 300x95.000 = 346.500 ngàn VNĐ
GDP2014 = 6.000x30.000 + 12x7.000.000 + 300x85.000 = 289.500 ngàn VNĐ
Từ kết quả tính toán, nếu xétchỉ tiêu danh nghĩa có thể kết luận rằng GDP năm
2014tăng so với năm 2013. Tuy nhiên, theo kết quả tính toán chỉ tiêu thực thì tổng sản
lượng quốc nội năm 2014 giảm so với năm 2013.
BOP = CA + KA + ODA = 0
CA = X - M + NIA + NTR
Chuyển nhượng ròng (NTR) là các khoản viện trợ nước ngoài vào trong nước và từ
trong nước viện trợ ra nước ngoài.
Nếu tài khoản vãng lai đạt giá trị dương (thặng dư) chỉ ra quốc gia này cho vay
ròng với các quốc gia còn lại của thế giới. Trong khi nếu chỉ số này âm (thâm hụt) chỉ ra
rằng quốc gia này đang mượn ròng từ các quốc gia khác trên thế giới.
2.4.2. Tài khoản vốn (KA – capital account)
Tài khoản vốn là dòng vốn đầu tư quốc tế của khu vực công và tư nhân vào và ra
của một quốc gia. Tài khoản vốn cho thấy sự thay đổi tài sản sở hữu ròng của một quốc gia
tại một thời điểm. Tài khoản vốn bao gồm đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI – foreign
direct investment), danh mục đầu tư nước ngoài (FPI – foreign portfolio investment), các
khoản đầu tư khác và dự trữ ngoại tệ. Tài khoản vốn là hàm số phụ thuộc vào lãi suất trong
nước (r) và lãi suất nước ngoài (r*).
KA = f(r-r*)
Nếu lãi suất trong nước lớn hơn lãi suất nước ngoài dòng vốn đi vào và ngược lại.
Tài khoản vốn thặng dư khi dòng vốn vào nhiều hơn so với dòng vốn ra, và dòng vốn vào
đại diện các khoản vay mượn hay bán tài sản. Tài khoản vốn thâm hụt dòng vốn ra quốc
gia này nhiều hơn so với nhận nên quốc gia này đang gia tăng quyền sở hữu tài sản ở nước
ngoài.
2.4.3. Khoản viện trợ chính thức
Ngoài hai tài khoản chính là tài khoản vãng lai và tài khoản vốn trong BOP còn ghi
nhận các khoản viện trợ chính thức. Theo tiêu chí của DAC (Development assistance
committee), các khoản viện trợ chính thức là hình thức đầu tư nước ngoài nhằm vào mục
tiêu hỗ trợ thúc đẩy phát triển kinh tế vànâng cao phúc lợi cho các quốc gia đang phát
triển, và các khoản viện trợ này luôn có phần viện trợ không hoàn lại thấp nhất 25%. Theo
quy ước, dòng vốn viện trợ chính thức bao gồm sự đóng góp của cơ quan chính phủ các
nước tài trợ cho các quốc gia nhận viện trợ. Chẳng hạn, ngân hàng Tokyo Mitsubishi cho
vay thương mại để xây dựng đường cao tốc TPHCM – Trung Lương không phải là viện
trợ, nhưng một khoản trợ cấp từ chính phủ Nhật Bản cho vay để xây dựng đường cao tốc
đây là khoản viện trợ chính thức.
Các hình thức viện trợ chính thức theo tiêu chí của DAC bao gồm viện trợ phát
triển chính thức (official development assistance, ODA), viện trợ chính thức (official
assistance, OA) và viện trợ tự nguyện tư nhân (private voluntary assistance). Trong đó,
ODA là khoản viện trợ lớn nhất bao gồm viện trợ của chính phủ các nước tài trợ dành cho
các nước thu nhập thấp và trung bình. OA là khoản viện trợ chính thức của chính phủ tài
trợ cho các quốc gia có thu nhập bình quân đầu người cao hơn 9.000USD. Viện trợ tự
nguyện tư nhân là các khoản trợ cấp từ các tổ chức phi chính phủ, các nhóm tôn giáo, các
tổ chức từ thiện, các quỹ và các công ty tư nhân.
TÓM TẮT CHƯƠNG
Chương này đã cung cấp đầy đủ thông tin cách thức đo lường chỉ tiêu sản phẩm
quốc gia và sự chuyển dịch của các luồng tiền tệ cũng như luồng hàng hóa giữa các quốc
gia. Trong đó, GDP là chỉ tiêu đo lường tổng sản phẩm quốc nội quan trọng nhất ảnh
hưởng đến kết quả của tất cả các chỉ tiêu đo lường sản phẩm, thu nhập một quốc gia. Bên
cạnh đó, điều đáng được quan tâm trong quá trình đo lường các chỉ tiêu này không chỉ
theo giá thị trường hay giá yếu tố sản xuất của năm hiện hành (còn gọi là chỉ tiêu danh
nghĩa) mà còn xác định theo giá năm gốc (còn gọi là chỉ tiêu thực). Bởi lẽ, chỉ tiêu thực
mới phản ánh tốt nhất sự tăng trưởng lượng hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia vì đã
loại sự gia tăng của mức giá trong nền kinh tế. Mặc dù, chỉ tiêu GDP được đo lường bằng
nhiều phương pháp để tránh sai sót nhưng vẫn còn hạn chế đối với hàng hóa và dịch vụ
giao dịch không thông qua thị trường, tự cung tự cấp trong nền kinh tế (còn gọi là giao
dịch ngầm trong nền kinh tế). Ngoài ra, đối với việc đo lường giá trị tổng sản phẩm của
quốc gia khi có giao dịch với nước ngoài bằng các loại ngoại tệ khác nhau tạo ra sai sót về
tỷ giá nên các giao dịch hàng hóa và dịch vụ xuyên quốc gia được thể hiện trong cán cân
thanh toán (BOP).
Chương 3 trình bày các khái niệm và cấu trúc của tổng cầu, tổng cung và sản lượng
cân bằng trong nền kinh tế. Sau khi học xong chương 3, sinh viên có thể phân tích các
thành phần của tổng cầu (AD), tổng cung (AS), phân tích sự hình thành của sản lượng cân
bằng và sự thay đổi của điểm cân bằng. Người học cũng biết khái niệm, cách tính số nhân
tổng cầu, ứng dụng của số nhân tổng cầu khi muốn tính toán thay đổi của tổng cầu để làm
thay đổi sản lượng quốc gia. Người học cũng phân tích được những tác động của việc thay
đổi (cú sốc) của tổng cầu và tổng cung làm ảnh hưởng đến các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như
thất nghiệp, lãi suất, lạm phát.
0<Cm<1: tốc độ tăng của tiêu dùng nhỏ hơn tốc độ tăng của Yd
Hình 3.1: Đồ thị hàm tiêu dùng
Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu: Các yếu tố chính ảnh hưởng đến xuất khẩu bao
gồm:
Thu nhập của nước ngoài: Thu nhập của nước ngoài tăng (tăng trưởng kinh tế của
nước ngoài tăng tốc), thì giá trị xuất khẩu có cơ hội tăng lên.
Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái tăng (tức là tiền trong nước mất giá so với ngoại tệ),
thì giá trị xuất khẩu cũng có thể tăng nhờ giá trị hàng xuất khẩu tính bằng ngoại tệ, khi quy
đổi về tiền nội tệ trở nên cao hơn.
- Nhập khẩu (Import, ký hiệu M): Là tổng giá trị hàng hóa dịch vụ xuất khẩu trong một
thời kỳ.
Hàm nhập khẩu: Hàm nhập khẩu theo sản lượng M=f(Y) là một hàm đồng biến vì
khi sản lượng tăng thì nhập khẩu tăng: M = M0+MmY
M0: Nhập khẩu tự định
Mm: Nhập khẩu biên. Còn gọi là MPM – Marginal Propensity to Import. Thể hiện
∆𝐌
số đơn vị tăng của nhập khẩu khi sản lượng tăng 1 đơn vị. 𝐌𝐦 = ∆𝐘
Hình 3.7: Đồ thị hàm nhập khẩu
Các yếu tố ảnh hưởng đến nhập khẩu: Nhập khẩu phụ thuộc vào thu nhập trong nước
và vào tỷ giá hối đoái.
Thu nhập trong nước: Thu nhập của người dân trong nước càng cao (sản lượng tăng)
thì nhu cầu của hàng đối với hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu càng cao. Điều này thể hiện ở
hàm nhập khẩu ở trên.
Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái tăng (đồng nội tệ trở nên mất giá so với đồng ngoại
tệ), thì giá hàng nhập khẩu tính bằng nội tệ trở nên cao hơn; do đó, nhu cầu nhập khẩu
giảm đi.
o
450
AD2
E1
AD1
Yp
Hình 3.7: Sự dịch chuyển của đường tổng cầu và thay đổi của sản lượng cân bằng
o Khi nền kinh tế có lạm phát cao: áp dụng chính sách tài khoá thu hẹp (giảm chi ngân
sách, tăng thuế)
- Khi giảm G: AD tăng => Y giảm
- Khi tăng T: Yd tăng , C giảm, AD tăng => Y giảm
Ngân sách sẽ có khuynh hướng thặng dư
Trong dài hạn, ngân sách sẽ cân đối theo chu kỳ.
3.1.2. Đường tổng cầu theo giá
3.1.2.1 Khái niệm:
Đường AD là đường biểu diễn mối quan hệ giữa tổng mức cầu và mức giá
chung.Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, tổng cầu sẽ thay đổi ngược chiều với
mức giá chung của nền kinh tế. AD = f(P)
AD
LAS
Y
YP
Hình 3.10: Đường tổng cung dài hạn
Đường tổng cung của phái cổ điển là một đường thẳng đứng ứng với một mức sản
lượng toàn dụng các nguồn lực gọi là sản lượng tiềm năng (Yp: Potential Output)
Sản lượng tiềm năng: là mức sản lượng mà quốc gia đạt được trong tình trạng nền
kinh tế toàn dụng các nguồn lực (tồn tại một mức thất nghiệp gọi là thất nghiệp tự nhiên).
Đường tổng cung thẳng đứng cho thấy sản lượng không phụ thuộc vào mức giá.
Nền kinh tế đạt mức sản xuất tối ưu: Là mức sản xuất mà các xí nghiệp đạt được
ở mức chi phí trung bình cho mỗi sản phẩm là thấp nhất.
- Tăng giá bán có kích thích tăng sản lượng của doanh nghiệp ? Không.
- Vì trong dài hạn, giá các yếu tố cũng tăng cùng mức tăng của giá bán
- Xí nghiệp không tăng được lợi nhuận khi tăng sản lượng, do đó sẽ duy trì mức
sản lượng như cũ
Sự toàn dụng (full employment):
- Là tình trạng ngang bằng giữa khối lượng lao động yêu cầu và khối lượng lao
động cung ứng.
- Nền kinh tế chỉ có thất nghiệp cọ xát: thay đổi để tìm việc làm thích hợp.
- Tỉ lệ thất nghiệp là tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên.
- Sự tăng giá có làm thay đổi tỉ lệ thất nghiệp?
Trong ngắn hạn, nếu tiền lương không đổi thì tiền lương thực tế giảm, các
xí nghiệp tuyển dụng nhiều, làm giảm tỉ lệ thất nghiệp
Nhưng trong dài hạn, tiền lương sẽ thay đổi theo cùng một tỷ lệ với sự thay
đổi của mức giá, tiền lương thực tế không đổi, tỉ lệ thất nghiệp không đổi,
và duy trì ở mức tỷ lệ tự nhiên, tức là có sự toàn dụng.
3.2.4.2 Đo lường sản lượng tiềm năng:
GDP thực chỉ đo khối lượng sản phẩm dịch vụ được sản xuất ra, không đo được
tổng cung dài hạn. Ta chỉ có thể ước lượng:
- Ước lượng theo xu hướng: từ mức tăng của GDP thực qua nhiều năm, người ta
tính ra mức tăng trung bình hàng năm, từ đó ước lượng các mức tổng cung dài hạn cho các
năm sau đó
- Ước lượng theo hàm số sản xuất: theo cơ sở vật chất kỹ thuật và mức toàn dụng
nhân công
Không thể biết chắc chắn đường tổng cung dài hạn nằm ở vị trí nào trên đồ thị. Chỉ
biết rằng nó nằm thẳng đứng.
3.2.4.3 Sự hình thành đường LAS
Để xây dựng đường LAS, chỉ có P và W thay đổi, các yếu tố khác giữ nguyên.
Ban đầu mức giá là P0, lương danh nghĩa W0, thị trường lao động cân bằng ở mức
lương thực tế Wr0 = W0/P0 số lao động sử dụng là L0 sản lượng tương ứng là YP. Nền kinh
tế nằm ở điểm E.
Giả sử mức giá tăng lên P1 lương danh nghĩa tăng tương ứng đến W1 để đạt Wr
như cũ, số lao động sử dụng vẫn là L0 sản lượng cung ứng vẫn là YP. Nền kinh tế nằm ở
điểm A.
Nối các điểm E và A ta có đường LAS
Y
Y E Y
E
YP
Y
L
S LAS
L
P1
E A
E
D P0
L
L
L0
YP
- Lao động: Một nền kinh tế có sự gia tăng làn sóng nhập cư từ nước ngoài,
do đó có nhiều lao động hơn, lượng cung về hàng hoá và dịch vụ tăng lên. Kết quả
là đường tổng cung dài hạn dịch chuyển sang bên phải. Ngược lại, nếu nhiều công
nhân rời bỏ nến kinh tế để ra nước ngoài, đường tổng cung sẽ dịch chuyển sang
trái. Ngoài ra thất nghiệp tự nhiên cũng ảnh hưởng đến tổng cung dài hạn. Nếu tỷ
lệ thất nghiệp tự nhiên tăng và sản lượng giảm làm cho tổng cung dài hạn dịch
chuyển sang trái, và ngược lại.
- Tư bản: sự gia tăng khối lượng tư bản làm tăng năng suất, do đó làm tăng
lượng cung về hàng hoá và dịch vụ. Tổng cung dài hạn dịch chuyển sang phải.
Ngược lại, sự suy giảm trong khối lượng tư bản làm giảm năng suất, giảm lượng
cung về hàng hoá và dịch vụ, làm cho đường tổng cung dài hạn dịch chuyển sang
trái.
- Tài nguyên thiên nhiên: Nền sản xuất của một quốc gia phụ thuộc vào
nguồn tài nguyên thiên nhiên của nó như đất đai, khoáng sản thời tiết…việc khám
phá ra một mỏ khoáng sản có thể làm cho đường tổng cung dài hạn dịch chuyển
sang bên phải. Sự thay đổi khí hậu có thể làm cho hoạt động canh tác khó khăn hơn
và đường tổng cung dài hạn dịch chuyển sang trái.
- Tri thức công nghệ: Có lẽ lý do quan trọng nhất để hiện nay chúng ta sản
xuất ra nhiều hàng hoá và dịch vụ hơn thế hệ trước là sự tiến bộ trong tri thức công
nghệ. Việc phát minh ra máy tính đã giúp chúng ta sản xuất ra nhiều hàng hoá và
dịch vụ với lượng lao động, tư bản và tài nguyên thiên nhiên như cũ kết quả là điều
này làm dịch chuyển đường tổng cung sang phải.
Y
Y E1 Y1
E1
YP1
Y E
YP
E
Y
L
LAS LAS1
S P
L
E1 E E1
P0
E
D1
L
D
L L
L0 L1 YP YP1
Hình 3.12: Sự thay đổi của LAS
3.2.5 Đường tổng cung ngắn hạn (SAS- Short-run Aggregate Supply)
3.2.5.1 Khái niệm:
Tổng cung ngắn hạn là quan hệ giữa GDP thực cung cấp với mức giá khi giá các
yếu tố sản xuất không đổi, đặc biệt là lương danh nghĩa (W) không đổi.
Trong ngắn hạn, giá các yếu tố không thể điều chỉnh theo sự thay đổi của mức giá,
tổng cung phụ thuộc vào lượng lao động.
Theo J.M.Keynes, trong ngắn hạn:
- Giá cả và tiền lương là cứng nhắc.
- Sản lượng không phụ thuộc vào giá, chỉ phụ thuộc vào mức tổng cầu.
- Đường tổng cung theo lý thuyết Keynes là đường tổng cung ngắn hạn (SAS)
P SAS
Y
Hình 3.13: Đường tổng cung ngắn hạn SAS
Đường tổng cung ngắn hạn là một đường đi lên, song tương đối thoải ở mức sản
lượng thấp, và rất dốc khi sản lượng vượt quá mức tiềm năng. Điều này đã đưa đến câu hỏi
tại sao đường tổng cung ngắn hạn dốc lên?
Khi mức giá vượt quá mức dự kiến, sản lượng sẽ vượt quá mức tự nhiên và khi
mức giá thấp hơn mức dự kiến, sản lượng giảm xuống dưới mức tự nhiên của nó. Trong
ngắn hạn một sự giảm giá làm tổng cung giảm. Mối quan hệ này có thể do nhận thức sai
lầm, tiền lương cứng nhắc, hay giá cả cứng nhắc. Theo thời gian, nhận thức, tiền lương và
giá cả điều chỉnh, do đó mối quan hệ thuận này chỉ có tính tạm thời.
Lý thuyết nhận thức sai lầm: Theo lý thuyết này, sự thay đổi trong mức giá
chung có thể tạm thời làm cho các nhà cung cấp nhận thức sai lầm về tình hình diễn ra các
thị trường cá biệt mà họ bán sản phẩm của mình. Do nhận thức sai lầm của mình trong
ngắn hạn, các nhà cung cấp phản ứng lại những thay đổi trong mức giá bằng cách cắt giảm
sản lượng cung hàng hoá và dịch vụ khi thấy giá giảm hay họ sẽ tăng cung hàng hoá và
dịch vụ khi thấy giá tăng, phản ứng này dẫn đến đường tổng cung dốc lên trong ngắn hạn.
Lý thuyết tiền lương cứng nhắc: Cách lý giải thứ hai cho đường tổng cung ngắn
hạn dốc lên là lý thuyết tiền lương cứng nhắc. Lý thuyết này cho rằng đường tổng cung
ngắn hạn dốc lên vì tiền lương danh nghĩa điều chỉnh chậm chạp hay “cứng nhắc” trong
ngắn hạn. Sự điều chỉnh chậm chạp của tiền lương là do ràng buộc của các hợp đồng giữa
người lao động và doanh nghiệp, do các quy phạm xã hội hay do cảm nhận về sự công
bằng. Tất cả những nguyên nhân này ảnh hưởng đến quy định tiền lương và chỉ thay đổi
chậm chạp theo thời gian. Vì vậy trong ngắn hạn xem như tiền lương danh nghĩa không
đổi.
Do tiền lương không thay đổi ngay theo sự thay đổi của giá, nên mức giá thấp hơn
làm tăng tiền lương thực tế, sản xuất đem lại ít lợi nhuận hơn và điều này làm cho các
doanh nghiệp giảm lượng cung về hàng hoá và dịch vụ. Trái lại, sự gia tăng mức giá làm
giảm tiền lương thực tế, làm cho chi phí thuê lao động trở nên rẻ hơn. Tiền lương thực tế
thấp hơn làm cho các doanh nghiệp thuê thêm lao động, lao động thuê thêm tạo ra nhiều
sản lượng hơn.
Lý thuyết giá cả cứng nhắc: Lý thuyết này nhấn mạnh rằng giá cả hàng hoá và
dịch vụ cũng chậm điều chỉnh đáp lại các điều kiện kinh tế thay đổi. Sự thay đổi chậm
chạp trong giá cả một phần là do chi phí để điều chỉnh giá cả, gọi là chi phí thực đơn
(những chi phí này bao gồm chi phí in và phân phối các catalô và thời gian để thay đổi các
nhãn giá…) vì lý do này giá cả và tiền lương có thể cứng nhắc trong ngắn hạn.
Do không phải tất cả các loại giá cả đều điều chỉnh ngay lập tức khi điều kiện kinh
tế thay đổi, nên sự giảm sút bất ngờ trong mức giá có thể làm cho các doanh nghiệp
giảm số lượng hàng hoá và dịch vụ cung ứng.
Mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa mức giá và sản lượng hàm ý đường tổng cung dốc lên
trong khi tiền lương danh nghĩa chưa điều chỉnh.
3.2.5.4 Sự hình thành đường tổng cung ngắn hạn
Theo Keynes, trong ngắn hạn:
– Tiền lương danh nghĩa không đổi do đã ấn định trong hợp đồng
– Năng lực của nền kinh tế vẫn còn thừa, cầu lao động luôn được đáp ứng,
mức nhân dụng của nền kinh tế là do nhu cầu về lao động của doanh nghiệp
quyết định
Đường SAS mô tả mối quan hệ giữa mức giá chung P và sản lượng Y mà các
doanh nghiệp cung ứng cho nền kinh tế trong điều kiện các yếu tố khác không đổi
Đường SAS được xây dựng dựa trên hàm sản xuất ngắn hạn của doanh nghiệp
Để xây dựng đường SAS, tiền lương danh nghĩa W0 được giữ cố định, chỉ
cho mức giá chung P thay đổi
Y
Y Y
B
Y1
A
Y0
Y
L
L0 L1
SAS
B
P1
W 0/P0
W 0/P1 A
MPL P0
L0 L1 Y0 Y1
Hình 3.14: Sự hình thành đường tổng cung ngắn hạn SAS
- Mức giá ban đầu P0 Tiền lương thực W0/P0; Số lao động là L0 ; Sản lượng là Y0;
Nền kinh tế ở điểm A
- Mức giá tăng là P1; Tiền lương thực tế giảm xuống thành W0/P1; Số lao động thuê
được tăng lên là L1; Sản lượng là Y1 ; Nền kinh tế ở điểm B
- Nối các điểm A và B ta có đường tổng cung ngắn hạn SAS, tương ứng với tiền
lương danh nghĩa không đổi W0 , kho vốn K0 và trình độ công nghệ Tec0
Đường tổng cung ngắn hạn phản ánh những phối hợp khác nhau giữa mức giá và
sản lượng cung ứng, mà ở đó các doanh nghiệp đều tối đa hoá lợi nhuận
Khi mức giá chung tăng lên, tiền lương thực tế giảm xuống, để tối đa hoá lợi
nhuận, các doanh nghiệp sẽ thuê lao động nhiều hơn, sản lượng cung ứng cho nền kinh tế
tăng lên; đường tổng cung ngắn hạn dốc lên
Đường SAS ngày càng dốc lên do năng suất biên của lao động có qui luật giảm
dần. Khi mức giá tăng, tiền lương thực tế giảm nhiều, hiệu quả sử dụng lao động càng
thấp, sản lượng tăng với tốc độ chậm dần
Trở nên thẳng đứng tại một mức sản lượng nào đó:
Năng lực sản xuất của nền kinh tế là có giới hạn.
Khi giá bán tăng, các XN sẽ tăng mức sản lượng trên mức tối ưu. Tuy nhiên mức
tăng sẽ dừng ở một giới hạn, không thể hơn được nữa
3.2.5.5 Sự di chuyển và dịch chuyển của đường tổng cung ngắn hạn.
Sự di chuyển dọc đường tổng cung phản ánh sự thay đổi của tổng mức cung do sự
thay đổi của mức giá chung.
Sự dịch chuyển của đường tổng cung phản ánh sự thay đổi tổng mức cung do sự
thay đổi của giá cả các yếu tố đầu vào hay là sự thay đổi các nguồn lực trong nền kinh tế.
Các trường hợp sau đây làm dịch chuyển đường tổng cung:
-Sự dịch chuyển phát sinh từ lao động: Sự gia tăng của lượng lao động hiện có
(tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên giảm) làm dịch chuyển đường tổng cung sang phải.Sự giảm sút
lượng lao động hiện có (tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên tăng ) làm dịch chuyển đường tổng cung
sang trái.
- Sự dịch chuyển phát sinh từ tư bản: Sự tăng khối lượng tư bản làm dịch chuyển
đường tổng cung sang phải. Sự giảm sút khối lượng tư bản làm dịch chuyển đường tổng
cung sang trái.
- Sự dịch chuyển phát sinh từ tài nguyên thiên nhiên: Sự gia tăng tài nguyên
thiên nhiên có làm dịch chuyển đường tổng cung sang phải. Sự suy giảm của tài nguyên
thiên nhiên hiện có làm dịch chuyển đường tổng cung sang trái.
- Sự dịch chuyển phát sinh từ công nghệ: Tiến bộ trong công nghệ làm cho
đường tổng cung dịch chuyển sang phải. Sự giảm sút của công nghệ làm cho đường tổng
cung dịch chuyển sang trái.
- Sự dịch chuyển phát sinh từ mức giá dự kiến: sự giảm sút của mức giá dự kiến
làm dịch chuyển đường tổng cung ngắn hạn sang phải. Sự gia tăng của mức giá dự kiến
làm dịch chuyển đường tổng cung ngắn hạn sang trái.
3.3. CÂN BẰNG KINH TẾ VĨ MÔ
3.3.1 Khái niệm:
Cân bằng kinh tế vĩ mô là trạng thái cân bằng trên thị trường hàng hoá được xác
định tại giao điểm của các đường tổng cung và tổng cầu. Tại đó, chúng ta xác định được
mức sản lượng và giá cả cân bằng hay tổng khối lượng hàng hoá yêu cầu bằng tổng khối
lượng hàng hoá được cung ứng.
AS
P
E
P*
0 AD
Y* Y
YP
Hình 3.15: Cân bằng kinh tế vĩ mô
Nếu mức giá cao hơn mức giá cân bằng thì tổng cung lớn hơn tổng cầu, dư cung. Các
xí nghiệp sẽ giảm giá bán cho đến khi thị trường hấp thu hết lượng cung thặng dư.
Nếu mức giá thấp hơn mức giá cân bằng thì tổng cung nhỏ hơn tổng cầu, dư cầu. Các
xí nghiệp sẽ tăng giá bán cho đến khi thị trường cân bằng lượng cung và cầu.
3.3.2 Ba trường hợp cân bằng kinh tế vĩ mô trong ngắn hạn:
Khi nền kinh tế đạt cân bằng ngắn hạn:TT hàng hoá, TT tiền tệ cân bằng, đồng thời
các doanh nghiệp đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.
- Cân bằng khiếm dụng: GDP thực nhỏ hơn GDP tiềm năng, nền kinh tế có chênh lệch
suy thoái. P AS
E
P
0 AD
Y0 Yp Y
E
P
0
AD
Y0=Yp Y
Hình 3.17: Cân bằng toàn dụng
- Cân bằng trên toàn dụng: GDP thực lớn hơn GDP tiềm năng, nền kinh tế có chênh lệch
lạm phát.
P AS
E
P AD
0
Yp Y0 Y
P
LAS
E
P
0
AD
Y
Y0=Yp
Vậy chính phủ phải áp dụng chính sách mở rộng sao cho tổng cầu tăng một lượng là 25
nghìn tỷ đồng.
Chương 4 giúp cho người học nắm được cấu trúc của thị trường hàng hoá, tiền tệ và
sự tương tác giữa hai thị trường hàng hóa và thị trường tiền tệ thông qua mô hình IS - LM.
Mô hình IS-LM được nhà kinh tế học người Anh John Hicks (1904-1989) và nhà kinh tế
học của Hoa Kỳ Alvin Hansen (1887-1975) đưa ra và phát triển.
4.1. THỊ TRƯỜNG HÀNG HÓA VÀ ĐƯỜNG IS (IS - Investment and Saving)
4.1.1. Khái niệm:
Thị trường hàng hóa cân bằng khi tổng cầu bằng thu nhập tương ứng với một mức lãi
suất cho trước. Khi lãi suất thay đổi, đường tổng cầu sẽ dịch chuyển và cho một mức thu
nhập mới. Như vậy ta có thể kết luận: “Đường IS là tập hợp những tổ hợp khác nhau
giữa lãi suất và sản lượng mà tại đó thị trường hàng hóa cân bằng”.
4.1.2. Cách dựng đường IS.
Như đã đề cập ở trên “Đường IS phản ánh sự tác động của lãi suất đến sản lượng cân
bằng trên thị trường hàng hóa”. Do đó, khi xây dựng đường IS chúng ta chỉ cho lãi suất
thay đổi, các yếu tố khác coi như không thay đổi. Khi xây dựng đường IS chúng ta sẽ nghiên
cứu sự tác động giữa lãi suất (r) đến sản lượng (Y) thông qua nhân tố đầu tư (I) trong hàm
tổng cầu AD. Chính vì vậy, trong chương này hàm đầu tư ngoài biến sản lượng (Y) sẽ có
thêm biến lãi suất (r). Hàm đầu lúc này tư sẽ là: I = I0 + Im.Y + Im.r. r
Đầu tiên nếu mức lãi suất ban đầu là r1 thì tổng chi tiêu là AD1 và sản lượng cân bằng là
Y1, điểm cân bằng trên thị trường hàng hóa lúc này là E1. Từ đó ta xác định được điểm E1 có
toạ độ (r1 , Y1).
Giả sử sau đó lãi suất giảm xuống mức r2 khi đó đầu tư (I) tăng thêm một lượng là ΔI,
tổng chi tiêu của nền kinh tế tăng lên từ AD1 đến AD2, sản lượng cân bằng của nền kinh tế
tăng từ Y1 đến Y2. Từ đó ta xác định được E2 có toạ độ (r2 , Y2). Đường đi qua hai điểm E1
và E2 chính là đường IS.
AD
E2 AD2 (r2)
AD1 (r1)
E1
45o
r Y1 Y2 Y
r1 E1
r2 E2
IS
Y1 Y2 Y
<=> Đặt k =
Từ đó ta thấy đây chính là phương trình đường IS theo biến lãi suất (r).
Ví dụ: Một nền kinh tế được mô tả bởi các hàm số.
C = 100 + 0,75Yd M = 70 + 0,15 Y
T = 40 + 0,2 Y X = 150
G = 300 I = 100 + 0,15Y – 50.r
Ta có phương trình tổng cầu:
AD = C + I + G + X – M
<=> AD = 550 + 0,5.Y – 50.r
Ta có phương trình đường IS như sau:
AS = AD
<=> Y = 550 + 0,5.Y – 50.r
=> Y = 1100 – 100.r
=> Đó chính là phương trình đường IS, có dạng Y = f(r)
4.1.5. Độ dốc của đường IS
- Đường IS dốc xuống về bên phải thể hiện mối quan hệ nghịch biến giữa lãi suất (r) và
sản lượng cân bằng (Y).
- Độ dốc của IS phụ thuộc vào độ nhạy cảm của đầu tư đối với lãi suất, giá trị của số nhân
chi tiêu.
Sự nhạy cảm của đầu tư với lãi suất:
+ Đầu tư rất nhạy cảm: một sự thay đổi nhỏ của lãi suất sẽ làm cho đầu tư và chi tiêu thay
đổi một lượng lớn qua đó sản lượng thay đổi nhiều, đường IS sẽ thoải.
+ Đầu tư ít nhạy cảm: Một sự thay đổi lớn của lãi suất sẽ làm cho đầu tư và chi tiêu thay đổi
một lượng nhỏ qua đó sản lượng thay đổi ít, đường IS sẽ dốc.
Giá trị của số nhân chi tiêu (k):
+ Nếu số nhân chi tiêu lớn thì thu nhập cân bằng tăng nhiều. Do vậy đường IS sẽ thoải.
+ Nếu số nhân chi tiêu nhỏ thì thu nhập cân bằng tăng ít. Do đó đường IS sẽ dốc.
Việc phân tích độ dốc của đường IS cho chúng ta biết được mức độ tác động của chính
sách tài khóa hoặc chính sách tiền tệ đến sản lượng, lãi suất, thất nghiệp, lạm phát trong nền
kinh tế như thế nào.
4.1.6. Các yếu tố làm dịch chuyển đường IS
Như ta đã phân tích đường IS phản ánh sự tác động của lãi suất (r) đến sản lượng (Y)
cân bằng trên thị trường hàng hóa. Do đó, nếu lãi suất (r) không đổi các nhân tố khác thay
đổi sẽ làm dịch chuyển đường tổng cầu (AD), qua đó sẽ làm dịch chuyển đường IS.
Với một mức lãi suất (r) nhất định, sự gia tăng niềm lạc quan của các hãng về những
khoản lợi nhuận trong tương lai sẽ dịch chuyển đường nhu cầu đầu tư đi lên, làm tăng nhu
cầu đầu tư tự định (I0); sự gia tăng trong kỳ vọng của các hộ gia đình về thu nhập (Yd) trong
tương lai sẽ dịch chuyển hàm tiêu dùng (C) lên trên, làm tăng nhu cầu tự định; hay sự gia
tăng trong chi tiêu của Chính phủ (G) có thể trực tiếp làm tăng chi tiêu của Chính phủ trong
nhu cầu tự định. Bất kỳ sự gia tăng nào như thế này cũng sẽ dịch chuyển đường tổng cầu lên
trên tại một mức lãi suất nhất định. Do đó sản lượng cân bằng sẽ tăng thêm ở bất kỳ lãi suất
nào.
Sau đây chúng ta sẽ phân tích sự dịch chuyển của đường IS khi một trong các nhân tố
khác thay đổi ngoài nhân tố lãi suất (r). Giả sử, sự gia tăng chi tiêu của Chính phủ từ G1 lên
mức G2 trong điều kiện lãi suất không đổi r1. Tổng cầu của nền kinh tế tăng lên từ AD1 đến
AD2, sản lượng của nền kinh tế tăng lên từ Y1 đến Y2, dẫn tới đường IS dịch chuyển từ IS1
đến IS2.
Hình 6.3 chỉ rõ sự gia tăng chi tiêu của Chính phủ G1 đến G2 trong điều kiện lãi suất
không đổi r1. Tổng chi tiêu của nền kinh tế tăng lên từ AD1 đến AD2, sản lượng cân bằng
của nền kinh tế tăng lên từ Y1 đến Y2, dẫn tới đường IS dịch chuyển từ IS1 đến IS2.
AD
AD2 (r1)
E2
AD1 (r1)
E1
Y
Y1 Y2
r
E1 E2
r1
r2 IS2
∆Y IS1
Y1 Y2 Y
Nhận xét: Từ ví dụ trên cho chúng ta thấy từ 10.000$ ban đầu các ngân hàng thương
mại có thể tạo ra 100.000 $. Tuy nhiên, khả năng tạo tiền của các ngân hàng thương mại
không phải là một con số vô hạn, độ lớn của khối lượng tiền tạo ra phụ thuộc vào tỷ lệ dự trữ
của ngân hàng (d). Ở ví dụ trên, với tỷ lệ dự trữ là 10% thì ngân hàng sẽ tạo được một lượng
tiền lớn gấp 10 lần (=1/10%) lần lượng tiền cơ sở ban đầu. Do vậy, ngân hàng trung ương có
thể tăng hay giảm tỉ lệ này khi cần thiết.
Cũng tương tự như vậy, quá trình “hủy tiền” sẽ xảy ra khi khách hàng rút tiền khỏi
ngân hàng 10.000$, cuối cùng lượng tiền sẽ giảm 100.000$.
Từ ví dụ trên ta có thể nhận thấy số nhân đơn giản của tiền chính là nghịch đảo của tỷ
lệ dự trữ của các ngân hàng thương mại: 1/d
- Số nhân tiền tệ (kM)
Khái niệm: Số nhân tiền tệ (kM) là hệ số phản ánh sự thay đổi trong mức cung tiền tệ khi
lượng tiền mạnh thay đổi một đơn vị.
M M
kM hoặc k
M
H H
Trong đó:
M : Cung tiền
H : Tiền mạnh hay tiền cơ sở
KM: Số nhân tiền tệ
Nếu ta gọi c là tỷ lệ tiền mặt ngoài ngân hàng so với lượng tiền gởi ta có: c = CM / D ;
d là tỷ lệ dự trữ chung trong hệ thống ngân hàng so với lượng tiền gởi: d = RM / D. ( Với RM
là dự trữ trong hệ thống ngân hàng).
Ta có:
H = CM + RM = c.D + d.D = (c+d).D
M = M1 = CM + DM = c.D + D = (c + 1).D
M
kM = (c + 1).D
H
(c + d).D
=> kM = (c + 1)/(c + d) với c = CM/DM và d = RM/DM
Giới hạn: c > 0; d < 1 => kM > 1
SM
0 Lượng tiền
M
r
LM = L0 + Lm.Y + Lm.r
LM
0
Lượng tiền
SM
r0
LM
0
Lượng tiền
M
Hình 4.6. Cân bằng của thị trường tiền tệ
- Lãi suất cân bằng thay đổi khi có sự thay đổi của:
Lượng cung tiền
Thu nhập
Tính chất cạnh tranh của các Ngân hàng trung gian
Mức giá
Tiếp theo ta sẽ nghiên cứu sự thay đổi của lãi suất khi có sự thay đổi của lượng cung tiền
trong nền kinh tế. Giả sử nếu ngân hàng trung ương tăng lượng cung tiền thí lúc đó đường
cung tiền SM sẽ dịch chuyển sang phải, lãi suất cân bằng sẽ giảm. Ngược lại, nếu ngân hàng
trung ương làm giảm mức cung tiền (SM) thì lúc này đường SM sẽ dịch sang trái và lãi suất
cân bằng sẽ tăng (hình 4.7).
r
SM3 SM1 SM2
r3 ∆M
r1
r2
LM
∆M
0 Lượng tiền
Hình 4.7. Lãi suất cân bằng thay đổi khi có sự thay đổi của cung tiền
Tương tự như vậy, nếu vì lý do nào đó, như sản lượng tăng làm tăng cầu tiền, lúc này đường
LM sẽ dịch chuyển sang phải => lãi suất cân bằng sẽ tăng lên.
r
SM
r1
r1
LM2
LM1
S
Hình 4.8. Lãi suất cân bằng thay đổi khi có sự thay đổi của cầu tiền
4.2.3. Đường LM.
4.2.3.1. Khái niệm
Thị trường tiền tệ cân bằng khi cầu tiền bằng cung tiền tương ứng với một mức lãi suất cho
trước. Khi sản lượng thay đổi, đường cầu tiền sẽ dịch chuyển và cho một mức lãi suất mới.
Như vậy ta có thể kết luận: “Đường LM là tập hợp các mức sản lương và lãi suất sao cho
thị trường tiền tệ cân bằng ứng với mức cung tiền tệ thực không đổi”
4.2.3.2. Cách dựng đường LM
Theo khái niệm ở trên thì: “Đường LM phản ánh sự tác động của sản lượng đến lãi suất
cân bằng trên thị trường tiền tệ”. Do đó, khi xây dựng đường LM chúng ta chỉ cho sản
lượng thay đổi, các yếu tố khác coi như không thay đổi. Khi xây dựng đường LM chúng ta
sẽ nghiên cứu sự tác động giữa sản lượng (Y) đến lãi suất (r) thông qua cầu tiền tệ (LM).
Như đã phân tích ở phần trước, hàm cầu tiền đồng biến với sản lượng và nghịch biến lãi suất
và có dạng như sau: LM = L0 + Lm.Y + Lm.r. r
1
M
Giả sử rằng mức cung tiền cố định tại S =
M
, với mức sản lượng tại Y1, đường cầu
P
tiền là LM ( r, Y1 ) và điểm cân bằng của thị trường tiền tệ là E1 với lãi suất cân bằng là r1, từ
đó có thể xác định điểm E1 của tổ hợp ( r1 , Y1 ). Khi sản lượng tăng đến Y2, đường cầu tiền
dịch chuyển lên LM ( r, Y2 ) với điểm cân bằng E2 lãi suất cân bằng r2. Từ đó có thể xác định
điểm E2 của tổ hợp ( r2 , Y2 ). Đường đi qua hai điểm E1, E2 trên đồ thị chính là đường LM.
r r
SM
LM
E2(Y2;r2) r2
r2 E2(Y2;r2)
E1(Y1;r1) r1
r1
LM (r;Y2) E1(Y1;r1)
LM (r;Y1)
Y1 Y2 Y
M
Hình 4.9. Xây dựng đường LM
Nhận xét: Đường LM có độ dốc dương, điều đó chứng tỏ khi sản lượng hay thu nhập (Y)
tăng thì lãi suất (r) tăng và ngược lại. Từ đó ta có thể kết luận: “Đường LM phản ánh mối
quan hệ tỷ lệ thuận giữa thu nhập và lãi suất”.
4.2.3.3. Ý nghĩa đường LM: Lãi suất (r)
- Đường LM biểu diễn quan hệ đồng biến giữa
sản lượng hoặc thu nhập (Y) với lãi suất (r) để
đảm bảo cần bằng thị trường tiền tệ cân bằng.
Do đó, tất cả các điểm nằm trên đường LM thì
thị trường tiền tệ cân bằng: SM = LM
- Những điểm nằm ngoài đường LM thể hiện thị
Đường LM
trường tiền tệ không cân bằng: SM ≠ LM.
+ Bên phải đường LM: Lượng cung tiền < Lượng cầu tiền (thiếu tiền)
+ Bên trái đường LM: Lượng cung tiền > Lượng cầu tiền (thừa tiền)
4.2.3.4. Phương trình đường LM:
Đường LM biểu diễn lãi suất cân bằng trên thị trường tiền tệ phụ thuộc vào sản lượng
trên thị trường hàng hóa. Do đó, có thể biểu diễn phương trình đường LM bằng cách giải
phương trình cân bằng lãi suất theo biến sản lượng (Y):
Ta có:
SM = LM
r
<=> M = L0 + Lm.Y + Lm.r
r r
r r LM2
SM2 SM1
LM1
E2 r2
r2 E2
E1 r1
r1
E1
Y1 Y
M2 M1
Hình 4.11. Sự dịch chuyển đường LM khi lượng cung tiền giảm
- Nguyên tắc dịch chuyển đường LM:
+ Nếu ngân hàng trung ương tăng mức cung tiền => Đường LM sẽ dịch chuyển xuống dưới
(hoặc qua phải)
+ Nếu ngân hàng trung ương giảm mức cung tiền => Đường LM sẽ dịch chuyển lên trên
(hoặc qua trái).
4.3. CÂN BẰNG ĐỒNG THỜI TRÊN THỊ TRƯỜNG HÀNG HÓA VÀ TIỀN TỆ
Các kết quả khảo sát ở trên cho ta thấy: Đường IS phản ánh các trạng thái cân bằng của
thị trường hàng hoá với các tổ hợp khác nhau giữa lãi suất (r) và sản lượng (Y) .
Đường LM phản ánh các trạng thái cân bằng của thị trường tiền tệ với các tổ hợp khác
nhau giữa lãi sản lượng (Y) và suất (r). Qua đó sự cân bằng đồng thời của thị trường hàng
hóa và thị trường tiền tệ chỉ xảy ra khi nền kinh tế vừa nằm trên đường IS và vừa nằm trên
đường LM, tức phải nằm trên giao điểm giữa hai đường. Qua đó chúng ta xác định được
mức lãi suất và sản lượng cân bằng đồng thời cho cả hai thị trường tại ( r0 , Y0).
r (lãi suất)
LM
IS
Y0 Y (sản lượng)
Sản lượng cân bằng
Hình 4.12. Trạng thái cân bằng đồng thời trên cả thị trường hàng hoá và tiền tệ
Tại điểm cân bằng E0 ta xác định được mức lãi suất cân bằng r0 và sản lượng cân bằng
Y0. Mọi mức sản lượng và lãi suất khác với r0 và Y0 đều có ít nhất một loại thị trường bị mất
cân bằng. Lúc này nền kinh tế sẽ tự điều chỉnh để đưa lãi suất và sản lượng trở về mức cân
bằng.
Điều gì sẽ xảy ra khi lãi suất và sản lượng không nằm ở mức cân bằng E0 ( r0 , Y0).
Nhìn vào hình 5.12, giả sử mức lãi suất tại r1, ta có mức sản lượng Y1 trên đường IS. Tổ hợp
( r1, Y1 ) đưa đến sự cân bằng của thị trường hàng hoá. Tuy nhiên, với mức lãi suất r1 thì cần
phải có mức sản lượng Y1’ cho sự cân bằng trên thị trường tiền tệ. Với mức lãi suất r1, mức
sản lượng Y1 là quá thấp đối với sự cân bằng của thị trường tiền tệ. Nhu cầu về tiền trở nên
thấp hơn lượng cung ứng tiền sẵn có (hay cung tiền > cầu tiền). Do đó, khi lượng cung ứng
tiền quá cao vượt quá cầu tiền thì lãi suất sẽ giảm. Quá trình này cứ tiếp diễn cho tới lúc lãi
suất giảm xuống tới r0. Tại mức lãi suất này, tổng cầu và sản lượng đã tăng lên mức làm cho
nhu cầu về tiền tăng đủ để dẫn tới sự cân bằng trên cả hai thị trường hàng hóa và tiền tệ tại
điểm E0 ( r0 , Y0).
r (lãi suất)
LM
r1 E1(r1; Y1)
E1’(r1; Y1’)
E
r0
0
IS
r (lãi suất)
LM
E0
r0
E2’(r2; Y2’) E2(r2; Y2)
r2
IS
Hình 4.14. Sự mất cân bằng trên thị trường hàng hoá và tiền tệ.
Nhận xét: “Nền kinh tế đạt được trạng thái cân bằng bên trong khi lãi suất (r) và sản
lượng (Y) được duy trì tại mức ở đó mà cả hai thị trường hàng hóa và tiền tệ đều cân
bằng”.
Trong chương này chỉ dừng lại ở việc giới thiệu sự cân bằng bên trong của nền khi
tế khi tại đó thị trường hàng hóa và tiền tệ cân bằng. Tuy nhiên, ở mức cân bằng này Chính
Phủ và Ngân hàng nhà nước có thể làm thay đổi lãi suất (r) và sản lượng (Y) thông qua
chính sách tài khóa và tiền tệ. Việc nghiên cứu chính sách tài khóa và tiền tệ sẽ tác động
và làm dịch chuyển đường IS và LM như thế nào chúng ta sẽ tìm hiểu ở phần chính sách
tài khóa và chính sách tiền tệ.
ecb
E
0
Lượng ngoại tệ
Hình 4.15. Sự mất cân bằng trên thị trường ngoại hối.
- Khi e tăng: lượng cung ngoại tệ tăng, lượng cầu ngoại tệ giảm.
- Khi e giảm: lượng cung ngoại tệ giảm, lượng cầu ngoại tệ tăng.
4.4.3. Cơ chế tỷ giá hối đoái.
Khái niệm: Cơ chế tỷ giá hối đoái là tổng hợp tất cả những điều kiện mà ngân hàng nhà
nước cho phép xác định tỷ giá hối đoái danh nghĩa.
- Có 3 cơ chế tỷ giá hối đoái là:
+ Tỷ giá hối đoái cố định: Là tỷ giá mà chính phủ đồng ý duy trì khả năng chuyển
đổi đồng tiền trong nước với đồng tiền nước ngoài. Theo cơ chế tỷ giá cố định, ngân hàng
nhà nước sẽ công bố mức tỷ giá chính thức và cam kết sẽ duy trì khả năng chuyển đổi đồng
tiền trong nước với đồng tiền nước ngoài theo mức đã công bố. Khi thực hiện theo cơ chế tỷ
giá cố định, tùy vào tình hình mà ngân hàng nhà nước sẽ phải mua hoặc bán ngoại tệ nhằm
giữ ổn định mức tỷ giá do ngân hàng nhà nước đã công bố.
+ Tỷ giá hối đoái thả nổi: Là tỷ giá được tự do biến động để đạt được mức cân bằng
của thị trường ngoại hối hay tỷ giá được quyết định bởi cung và cầu ngoại tệ trên thị trường.
Khi thực hiện theo cơ chế thả nổi ngân hàng nhà nước sẽ không quan tâm cũng như can
thiệp vào việc điều hòa cung và cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.
+ Tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý: Là kết hợp giữa tỷ giá thả nổi và tỷ giá cố định.
Theo cơ chế này thì tỷ giá sẽ được quyết định bởi cả cung, cầu ngoại tệ và sự can thiệp của
ngân hàng nhà nước vào thị trường ngoại hối. Thông thường khi thị trường ít biến động, tỷ
giá sẽ được thả nổi theo cung và cầu trên thị trường ngoại hối. Trường hợp tỷ giá có sự biến
động mạnh và nhiều thì ngân hàng nhà nước sẽ can thiệp để bình ổn tỷ giá. Do đó, tỷ giá hối
đoái thả nổi có quản lý là sự dung hòa giữa tỷ giá thả nổi và tỷ giá cố định. Hiện nay hầu hết
các quốc gia trên thế giới đều quản lý tỷ giá theo cách thức này, tuy nhiên mức độ can thiệp
vào thị trường ngoại hối có phần khác nhau.
4.4.4. Tỷ giá hối đoái thực (er)
Khái niệm: Tỷ giá hối đoái thực là tỷ giá phản ánh tương quan giá cả hàng hóa của
hai nước được tính theo một trong hai loại tiền của hai nước đó.
GIÁ HÀNG NƯỚC NGOÀI TÍNH BẰNG NỘI TỆ (Po)
er =
GIÁ HÀNG TRONG NƯỚC TÍNH BẰNG NỘI TỆ (P)
Giả sử P và P0 không đổi thì khi e tăng thì er cũng tăng. Do đó tác động làm giá hàng
hóa nước ngoài tăng lên tương đối so với giá hàng hóa trong nước. Như vậy làm hàng hóa
trong nước có khả năng cạnh tranh cao hơn so với hàng ngoại nhập và từ đó cải thiện cán
cân thương mại quốc gia. Chúng ta sẽ đi tìm hiểu các tác động của tỷ giá thực tới khả năng
cạnh tranh của hàng hóa trong các trường hợp sau:
- Trường hợp 1: Giả sử nếu một chiếc áo sơ mi may sẵn tại NewYord bán giá 10 USD/áo.
Tương tự như vậy, một áo sơ mi may sẵn (được sản xuất trong những điều kiện tương tự về
chất liệu, khích cỡ, mẫu mã ….) bán tại TP.HCM với giá 210.000 VND/áo. Nếu tỷ giá hối
đoái danh nghĩa giữa USD/VND: là 1USD = 21.000 VND. Như vậy, nếu chiếc áo sơ mi may
sẵn tại NewYord quy ra tiền đồng = 10x21.000VND = 210.000 VND. Qua đó, ta có thể thấy
tỷ giá hối đoái thực lúc này sẽ là:
GIÁ HÀNG NƯỚC NGOÀI TÍNH BẰNG NỘI TỆ
er =
GIÁ HÀNG TRONG NƯỚC TÍNH BẰNG NỘI TỆ
er = 210.000VND/210.000VND = 1.
Như vậy, tỷ giá hối đoái thực trong trường hợp này er = 1. Tỷ số này cho ta biết chiếc áo
sơ mi may sẵn tại NewYord có giá bằng với chiếc áo sơ mi may tại Việt Nam. Như vậy,
trong trường hợp này Việt Nam và Mỹ không thể có giao dịch thương mại vì giá chiếc áo sơ
mi sản xuất ở Việt Nam và Mỹ là ngang nhau.
- Trường hợp 2: Giả sử nếu tỷ giá giữa USD/VND tăng lên là: 1USD = 22.000VND. Trong
điều kiện các yếu tố khác như về chất liệu, khích cỡ, mẫu mã…không đổi. Như vậy lúc này,
nếu chiếc áo sơ mi may sẵn tại NewYord quy ra tiền đồng = 10x22.000VND = 210.000
VND, vậy tỷ giá hối đoái thực sẽ là: er = 220.000/210.000 = 1,048
Tỷ giá hối đoái thực trong trường hợp này er = 1,048. Tỷ số này cho ta biết chiếc áo sơ mi
may sẵn tại NewYord có giá cao hơn so chiếc áo sơ mi may tại Việt Nam. Do đó, trong
trường hợp này Việt Nam có thể xuất khẩu áo sơ mi sang thị trường Mỹ.
- Trường hợp 3: Tương tự như vậy nếu tỷ giá giữa USD/VND giảm xuống là: 1USD =
19.000VND. Như vậy lúc này, nếu chiếc áo sơ mi may sẵn tại NewYord quy ra tiền đồng =
10x19.000VND = 190.000 VND, vậy tỷ giá hối đoái thực sẽ là: er = 190.000/210.000 =
0,905. Nhìn vào tỷ giá hối đoái thực này ta thấy chiếc áo sơ mi may sẵn tại NewYord có giá
thấp hơn so chiếc áo sơ mi do Việt Nam sản xuất. Do vậy, trong trường hợp này Mỹ có thể
xuất khẩu áo sơ mi sang thị trường Việt Nam.
4.5. TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI XUẤT, NHẬP KHẨU
Ngày nay, trong xu thế hội nhập kinh tế thế giới thì tỷ giá hối đoái giữ một vai trò đặc
biệt quan trọng trong đời sống kinh tế của một quốc gia. Việc tăng, giảm của tỷ giá hối đoái
có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động xuất nhập khẩu của một quốc gia. Khi tỷ giá hối đoái
thay đổi kéo theo sự thay đổi của giá hàng xuất nhập khẩu và khả năng cạnh tranh của hàng
xuất khẩu trên thị trường quốc tế. (như chúng ta đã phân tích ở trên)
Thông thường khi tỷ giá hối đoái tăng sẽ tốt cho hoạt động xuất khẩu, trong trường
hợp các điều kiện khác được giữ nguyên. Bởi vì, khi tỷ giá hối đoái tăng, có nghĩa là số
đơn vị tiền tệ trong nước đổi lấy một đơn vị ngoại tệ tăng (còn gọi là đồng tiền nội tệ mất
giá).. Chính vì vậy khi tỷ giá hối đoái tăng sẽ kích thích xuất khẩu vì các nhà xuất khẩu nội
địa được hưởng lợi thông qua chênh lệch tỷ giá hối đoái.
Đối với hoạt động nhập khẩu thì khi tỷ giá hối đoái tăng, giá cả hàng hoá nhập
khẩu vào thị trường nội địa trở nên đắt tương đối. Kết quả là hoạt động nhập khẩu bị hạn
chế vì lợi nhuận của các doanh nghiệp nhập khẩu giảm do họ phải mua hàng hóa với mức
giá đắt đỏ hơn.
Do đó khi khi tỷ giá hối đoái tăng thì => Xuất khẩu tăng, nhập khẩu giảm =>
Cán cân thương mại tích cực.
Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái giảm, tức là đồng nội tệ lên giá so với ngoại tệ, thì
giá hàng hoá nội địa tính ra ngoại tệ sẽ trở nên đắt đỏ hơn. Qua đó, làm giảm khả năng
cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường quốc tế lúc này các nhà xuất khẩu sẽ gặp khó khăn
khi tiêu thụ sản phẩm trên thị trường thế giới. Mặt khác, do giá cả hàng hoá nhập khẩu tính
bằng đồng nội tệ trở nên rẻ hơn trên thị trường nội địa, nhập khẩu sẽ được khuyến khích,
mở rộng cạnh tranh với hàng hoá được sản xuất trong nước.
Do đó khi khi tỷ giá hối đoái giảm => Xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng =>
Cán cân thương mại tiêu cực.
Chính vì tính chất quan trọng của tỷ giá hối đoái trong thương mại quốc tế và xu
thế hội nhập kinh tế thế giới hiện nay, các quốc gia trên thế giới đều có những chính sách
tỷ giá phù hợp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Tuy nhiên, trong
phần này chỉ dùng lại ở việc phân tích ảnh hưởng của tỷ giá tới cán cân thương mại, việc
nghiên cứu chính sách tỷ giá chúng ta sẽ tìm hiểu ở phần chính sách ngoại thương.
TÓM TẮT:
Đường IS phản ánh sự tác động của lãi suất đến sản lượng cân bằng trên thị trường
hàng hóa. Lãi suất giảm làm tăng đầu tư, qua đó làm gia tăng tổng cầu dẫn tới sản lượng
cân bằng tăng lên. Như vậy, sản lượng cân bằng nghịch biến với lãi suất và đường IS dốc
xuống.
Đường LM phản ánh sự tác động của sản lượng đến lãi suất cân bằng trên thị trường
tiền tệ. Sản lượng tăng làm tăng cầu về tiền, qua đó làm lãi suất cân bằng tăng lên. Như
vậy, lãi suất cân bằng đồng biến với sản lượng và đường LM dốc lên.
Mọi mức sản lượng nằm trên đường IS đều là sản lượng cân bằng trên thị trường
hàng hóa cân bằng. Mọi mức sản lượng trên đường LM đều là lãi suất cân bằng trên thị
trường tiền tệ. Thị trường hàng hóa và tiền tệ căn bằng đồng thời khi nền kinh tế nằm tại
giao điểm của đường IS và LM.
Tỷ giá hối đoái là mức giá mà tại đó hai đồng tiền của hai quốc gia có thể chuyển đổi
cho nhau. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa là tỷ số phản ánh lượng nội tệ thu được khi đổi một
đơn vị ngoại tệ. Tỷ giá hối đoái tăng có nghĩa là đồng ngoại tệ tăng giá và đồng nội tệ
giảm giá, điều này sẽ có tác dụng khích thích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu.
Chương 5 sẽ trình bày khái niệm và cách tính toán tăng trưởng kinh tế và phân biệt
chúng với khái niệm phát triển kinh tế. Chương này đi sâu bàn luận về các nhân tố tác
động đến tăng trưởng kinh tế; chu kỳ kinh tế; sự ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế và những lý
luận về tăng trưởng kinh tế và chu kỳ kinh tế.
Cách đánh giá Mức tăng trưởng tuyệt Tuổi thọ bình quân; tốc độ tăng dân
đổi : Δ = Y1 - Yo. số; số calo bình quân đầu người; tỷ
Mức Tăng trưởng tương lệ người biết chữ trong dân số; tỷ lệ
đổi: = Y1/Yo. 100% chết của trẻ sơ sinh; số giường bệnh
/ 1000 dân; số bác sĩ/ 1000 dân; trình
độ học vấn dân cư;….
Phân biệt phát triển và kém phát triển
Để xác định một quốc gia là phát triển hay kém phát triển, phải trả lời ba câu hỏi
sau đây:
Một là: Mức sống trong một quốc gia có được nâng cao hay không? tình hình thất
nghiệp có được quan tâm giải quyết không? Các dịch vụ giáo dục, y tế và các dịch vụ văn
hóa – xã hội khác đã được cải thiện không?
Hai là: Sự phát triển kinh tế có nâng cao được vị thế của quốc gia với các quốc gia
khác trong khu vực và bảo đảm sự công bằng giữa các cá nhân, các nhóm trong một quốc
gia hay không?
Ba là: Sự phát triển kinh tế có giúp thoát khỏi sự lệ thuộc và ràng buộc với bên
ngoài hay không?
Trong đó:
- GDPR1 và GDPR0 là sản lượng thực tế cuối năm và đầu năm nghiên cứu
-g là tỷ lệ tăng trưởng kinh tế
5.2.2.Tốc độ tăng trưởng bình quân thời kỳ :
Chỉ tiêu này được tính theo công thức:
( n−1 GDP
a̅ (%) = √GDPRn − 1 × 100 = ( Tốc độ phát triển bình quân − 1). 100
R0
Trong đó:
-GDPRn là sản lượng thực tế của năm báo cáo kỳ nghiên cứu
-GDPR0 là sản lượng thực tế của năm gốc kỳ nghiên cứu.
P2
AD2
P1 AD1
Q1 Q
Hình 5.1 Đường cung thẳng đứng, tổng cầu tăng làm tăng giá
5.3.2.Các nhân tố thuộc tổng cung tác động đến tăng trưởng kinh tế:
Tổng mức cung đề cập đến khối lượng sản phẩm và dịch vụ mà các ngành kinh doanh
sản xuất bán ra trong điều kiện giá cả, khả năng sản xuất và chi phí sản xuất nhất định.
Như vậy tổng cung liên quan chặt chẽ đến sản lượng tiềm năng. Trong dài hạn, sự gia tăng
sản lượng tiềm năng của nền kinh tế có tác động quyết định đến tăng trưởng kinh tế. Các
nhân tố tác động đến sản lượng tiềm năng do đó quyết định đến tổng mức cung chính là
các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Thông thường, các yếu tố sản xuất chủ yếu
thường được kể đến là: vốn (K); lao động (L); tài nguyên thiên nhiên (R) và công nghệ
(T). Cũng vì thế, hàm sản xuất phản ánh mối quan hệ hàm số giữa kết quả đầu ra của nền
kinh tê (Y) với các yếu tố sản xuât đầu vào được biểu thị khái quát dưới dạng sau: Y =
F(K,L,R,T)
Nguồn vốn (K): Vốn trong kinh tế học được hiểu là vốn hiện vật, là tổng khối lượng
nhà xưởng, máy móc thiết bị sản xuất…. để sản xuất ra các loại hàng hóa và dịch vụ khác.
Nếu muốn tăng khối lượng vốn này thì phải tăng tổng đầu tư ròng. Đầu tư ròng được xác
định theo công thức:
Đầu tư ròng = Tổng đầu tư – Khấu hao
Đầu tư ròng giúp tích lũy thêm vốn cho nền kinh tế. Nguồn này được lấy từ tiết kiệm,
do đó muốn tăng vốn thì phải tăng tiết kiệm. Khi sản lượng đạt mức sản lượng tiềm năng,
chúng ta muốn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng nhân tố vốn thì phải khuyến khích gia
tăng tiết kiệm, để số tiền tiết kiệm được chuyển thành đầu tư. Điều này đòi hỏi phải giải
quyết hài hòa mối quan hệ giữa tiêu dùng hiện tại và tiêu dùng tương lai. Muốn tăng tiêu
dùng trong tương lai thì phải cắt giảm tiêu dùng hiện tại.
Trong nền kinh tế, khi vốn tăng cùng tỷ lệ với yếu tố lao động, nghĩa là lượng vốn gia
tăng bình quân trên mỗi lao động không thay đổi, thì nền kinh tế được coi là đầu tư theo
chiều rộng. Khi tốc độ tăng vốn nhanh hơn tốc độ gia tăng của lao động, như vậy nền
kinh tế đã đầu tư theo chiều sâu.
Nguồn nhân lực(L) :Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua nguồn nhân lực phải
thông qua hai yếu tố sau đây:
Một là, số lượng lao động có việc làm. Tuy nhiên, nguồn lao động chỉ có thể biến
thành động lực tăng trưởng khi có đủ công ăn việc làm. Khi xem xét đến tăng trưởng của
nền kinh tế, cần quan tâm đến quan hệ giữa tốc độ tăng dân số và tốc độ tăng sản lượng.
Dân số tăng nhanh nhiều khi tạo gánh nặng cho nền kinh tế. Vì đối với các nước giàu dân
số tăng chậm thì họ coi lao động là nguồn tăng trưởng kinh tế quan trọng; trong khi đó
những nước nghèo dân số tăng nhanh thì họ lại coi sự gia tăng dân số là một gánh nặng
đối với nền kinh tế.
Hai là, trình độ lao động chuyên môn và kỹ năng của người lao động, tức là số lượng
lao động đã qua đào tạo. Yếu tố này phụ thuộc vào trình độ giáo dục, quản lý và sử dụng
lao động. Trong thời đại của một nền kinh tế toàn cầu hóa, giáo dục có vai trò rất quan
trọng cho việc tạo ra một lực lượng lao động có chuyên môn cao để đáp ứng yêu cầu cạnh
tranh của nền kinh tế.
Tài nguyên thiên nhiên (R) : Bao gồm đất đai và các tài nguyên khác (khoáng
sản, thủy sản, điều kiện khí hậu, thời tiết). Quốc gia nào có nguồn tài nguyên dồi dào,
điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ tạo ra mức tăng trưởng nhanh.
Đối với đất đai có tổng cung không co giãn, tuy nhiên cung về đất đai của một
ngành cụ thể thì có thể có sự thay đổi.
Đối với các tài nguyên khác, cần phân theo hai loại sau đây:
+ Tài nguyên không có khả năng tái sinh là loại tài nguyên chỉ được khai thác một lần
như: dầu mỏ, vàng, than đá... Các quốc gia đều đứng trước một trữ lượng xác định đối với
nguồn tài nguyên này. Vì vậy, tác động của nó đối với quá trình tăng trưởng được thể hiện
ở khả năng tìm kiếm khai thác nó.
+ Tài nguyên có khả năng tái sinh là loại tài nguyên có thể tái tạo lại sau khi khai thác
như: gỗ, cá, tôm… Để phục vụ cho tăng trưởng lâu dài thì việc khai thác loại tài nguyên
này cần đi đôi với nuôi dưỡng bảo vệ và đồng thời có kế hoạch tái tạo chúng.
Tiến bộ khoa học và kỹ thuật (T) : Tiến bộ khoa học làm tăng hiệu quả sử dụng
vốn đầu tư, giúp khai thác tốt hơn nguồn tài nguyên thiên nhiên, thúc đẩy tăng năng xuất
lao động, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ thấp chi phí sản xuất. Đây là loại
đầu tư cần vốn lớn, tính rủi ro cao.
Tóm lại, các nguồn thúc đẩy tăng trưởng có thể là nguồn nhân lực và vật lực, làm tăng
số lượng của chính những nguồn lực sản xuất này và làm tăng năng suất của một số hay
toàn bộ nguồn lực thông qua tiến bộ công nghệ là nhân tố chính kích thích tăng trưởng
kinh tế.
5.3.3. Các mô hình tăng trưởng kinh tế:
Lịch sử phát triển kinh tế thế giới đã chuyển qua rất nhiều giai đoạn khác nhau và ở
mỗi giai đoạn đó đã hình thành các lý thuyết và mô hình kinh tế đặc trưng tương ứng. Sau
đây là một số mô hình tăng trưởng kinh tế với những quan điểm về yếu tố nguồn lực và tác
động của chúng tới tăng trưởng kinh tế.
5.3.3.1. Trường phái cổ điển với mô hình tăng trưởng của David Ricardo
Trường phái này xuất hiện vào những năm đầu của thế kỉ XIX với hai đại diện tiêu biểu
là Adam Smith và David Ricardo.
Adam Smith (1723-1790) coi sự gia tăng tư bản là yếu tố quyết định đến tăng trưởng
kinh tế. Ông đưa ra hai học thuyết cơ bản:
- Học thuyết về “Giá trị lao động” : ông cho rằng lao động là nguồn gốc cơ bản
tạo ra mọi của cải cho đất nước.
- Học thuyết “Bàn tay vô hình” : phủ nhận vai trò của Chính phủ trong việc điều
tiết và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Theo học thuyết này nếu không bị chính
phủ kiểm soát, thông qua thị trường tự do doanh nghiệp sẽ bị lợi nhuận thúc đẩy
để sản xuất hàng hóa và dich vụ từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
David Ricardo (1772-1823) đã kế thừa các tư tưởng của Adam Smith và chịu ảnh hưởng
của tư tưởng dân số học của T.H Malthus để sáng lập ra học thuyết của riêng mình “Mô
hình tăng trưởng của Ricardo”.
Các giả định của mô hình tăng trưởng của Ricardo:
- Lao động (L) là nguồn gốc tạo ra của cải.
- Yếu tố nguồn vốn (K) là yếu tố trực tiếp tăng sản lượng. Nên không có sự xuất
hiện của chính phủ vì chi của chính phủ không sinh lời và làm giảm động lực
tích lũy của doanh nghiệp.
- Nền kinh tế truyền thống : nông nghiệp là yếu tố chi phối.
- Quy luật lợi tức biên giảm dần theo quy mô. Yếu tố công nghệ tác động yếu ớt,
coi như bằng không.
Nội dung của mô hình :
Theo Ricardo có 3 yếu tố tác động tới tăng trưởng là: lao động(L), vốn(K), và đất
đai (R).
Như vây có hàm sản xuất như sau : Y = f (L, K, R )
Theo Ricardo trong 3 yếu tố nêu trên thì đất đai (R) là yếu tố quan trọng nhất. Đất đai
chính là giới hạn của tăng trưởng. Vì khi sản xuất nông nghiệp gia tăng trên những đất đai
kém màu mỡ hơn thì giá lương thực, thực phẩm sẽ tăng lên. Do đó tiền lương danh nghĩa
tăng lên, lợi nhuận của nhà tư bản giảm. Cho tới khi đất đai đạt điểm dừng tại Ro và Y sẽ
đạt sản lượng tối đa, tại đó sẽ là giới hạn của tăng trưởng. Khi đó nền kinh tế chia làm hai
khu vực, khu vực 1: nông nghiệp trì trệ tuyệt đối, khu vực 2 là khu vực công nghiệp. Như
vậy, khi chưa đến điểm dừng Ro thì R là yếu tố quyết định tăng trưởng, khi đạt điểm dừng
Ro thì tích lũy cho khu vực công nghiệp mới là yếu tố quyết định tăng trưởng.
Như vậy lý luận của Ricardo là: tăng trưởng là hàm của tích lũy, tích lũy là hàm của lợi
nhuận, lợi nhuận lại phụ thuộc vào chi phí sản xuất lương thực, chi phí sản xuất lương thực
phụ thuộc vào đất đai. Do đó đất đai là giới hạn đối với sự tăng trưởng.
5.3.3.2.Mô hình tăng trưởng của trường phái tân cổ điển (mô hình Cobb – Douglas)
Trường phái tân cổ điển xuất hiện vào cuối thế kỉ XIX là thời kì đánh dấu sự chuyển biến
mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật với một loạt các phát minh khoa học và các nguồn tài
nguyên được khai thác phục vụ cho quá trình sản xuất. Người đứng đầu của trường phái
này là Marshall (1842-1924) với tác phẩm chính “các nguyên lý của kinh tế học”.
Giả định của mô hình :
- Đặt nền kinh tế dưới tác động mạnh của yếu tố công nghệ.
- Vốn là yếu tố trực tiếp tạo nên sản lượng.
- Quy luật lợi tức giảm dần theo quy mô vẫn chi phối.
Nội dung của mô hình :
Theo mô hình của trường phái tân cổ điển các yếu tố tác động tới tăng trưởng là: lao
động (L), vốn (K),tài nguyên thiên nhiên (R), và khoa hoc – công nghệ (T). Như vậy hàm
sản xuất là:
Y = f ( K, L, R, T )
Theo mô hình này các nhà kinh tế học tân cổ điển đã chia các yếu tố nguồn lực ra làm 2
nhóm:
- K, L, R : nhóm các yếu tố tăng trưởng theo chiều rộng
- T : yếu tố tăng trưởng theo chiều sâu.
Tính chất kế thừa và sự tiến bộ của mô hình tăng trưởng của trường phái tân cổ điển :
trường phái tân cổ điển đã kế thừa mô hình tăng trưởng của trường phái cổ điển và phát
triển nó lên bậc cao hơn, hoàn thiện hơn.
Tính kế thừa: cũng giống như mô hình tăng trưởng của trường phái cổ điển mô hình của
các tân cổ điển cũng bao gồm các yếu tố: lao động, vốn, đất đai ( L,K,R ) là các nhân tố
tăng trưởng kinh tế. Cả hai mô hình đều phủ nhận vai trò của chính phủ trong viêc điều tiết
nền kinh tế, ủng hộ thị trường tự do chịu điều tiết của “ bàn tay vô hình “.
Sự tiến bộ : mô hình tăng trưởng của trường phái tân cổ điển đã nhận ra vai trò của yếu
tố công nghệ và cho rằng nó là yếu tố quan trọng nhất tác động tới tăng trưởng, nhờ có
công nghệ mà có nhiều cách kết hợp đầu vào trong sản xuất.
5.3.3.3. Mô hình tăng trưởng của Harrob – Domar
Các giả định của mô hình tăng trưởng Harrob – Domar :
- Cố định công nghệ. Hàm sản xuất không có yếu tố T.
- Quy luật lợi tức cận biên giảm dần không chi phối sản xuất.
- Tổng đầu tư = tổng tiết kiệm = tổng mức vốn sản xuất gia tăng
Nội dung của mô hình :
Hàm sản xuất : Y = f ( L, K, R )
Theo đó các nhân tố tác động tới tăng trưởng chỉ gồm có : lao động L, nguồn vốn K , và
đất đai R. Để tăng trưởng kinh tế cần đầu tư vào vốn dự trữ. Hay nói cách khác tiết kiệm
(S) và đầu tư (I) là yếu tố quyết định tăng trưởng trong mô hình Harrob – Domar. Chính vì
vậy ở đây đã có sự xuất hiện vai trò của chính phủ trong việc điều tiết các nguồn tiết kiệm,
tích lũy, đầu tư.
Mô hình cũng đưa ra cách tính hệ số ICOR.
Hệ số ICOR phản ánh hiệu quả sử dụng vốn đầu tư để tăng trưởng kinh tế. ICOR xác định
kinh tế kỳ này tăng 1% so với kỳ trước thì cần tăng vốn đầu tư lên bao nhiêu phần trăm so
với kỳ trước.
ICOR được tính bằng công thức sau:
ICOR = (Kt-Kt-1) / (Yt-Yt-1)x 100%
trong đó K là vốn, Y là sản lượng, t là kỳ báo cáo, t-1 là kỳ trước.
Cần lưu ý là gia tăng sản lượng có thể nhờ nhiều nhân tố chứ không phải chỉ nhờ gia tăng
vốn đầu tư. Chính vì thế, việc tính ICOR thường giả định:
-Mọi nhân tố khác không thay đổi;
-Chỉ có gia tăng vốn dẫn tới gia tăng sản lượng.
Có thể nói mô hình Harrob – Domar được sử dụng phổ biến trong các nước đang phát
triển và là một phương pháp đơn giản để xem xét mối quan hệ tăng trưởng và nhu cầu đầu
tư vốn.
Tính chất kế thừa và sự tiến bộ của mô hình :
Tính kế thừa : mô hình tăng trưởng Harrob Domar đã kế thừa và phát triển từ mô hình
tăng trưởng của Ricardo như đều đưa ra 3 nhân tố tác động tới tăng trưởng là : L, K, R và
đều không đưa yếu tố T vào trong hàm sản xuất.
Sự tiến bộ : mô hình khẳng định vai trò quan trọng của chính phủ trong việc điều tiết,
ổn định và tăng trưởng nền kinh tế. Yếu tố nguồn lực R ở đây không chỉ đơn thuần là đất
đai mà được mở rộng lên thành tài nguyên thiên nhiên.
5.3.3.4. Mô hình tăng trưởng của R.Solow :
Năm 1956 dựa trên tư tưởng thị trường tự do của trường phái tân cổ điên Robert
Solow đã xây dựng mô hình tăng trưởng mới. Ông chia các yếu tố nguồn lực ra làm hai
nhóm : L, K, R là nhóm yếu tố tăng trưởng theo chiều rộng, T là yếu tố tăng trưởng theo
chiều sâu tuy nhiên T vẫn là yếu tố ngoại sinh. Ông cho rằng T mới là yếu tố quyết định
tới tăng trưởng, các nhân tố còn lại sẽ vấp phải điểm dừng tại giới hạn của nó, chỉ có T
mới tạo nên tăng trưởng liên tục.
Hàm sản xuất : Y = f ( K, L, R, T ) . Theo mô hình này cho biết tiết kiệm, tăng dân số và
tiến bộ công nghệ có ảnh hưởng lớn tới sản lượng và tốc độ tăng trưởng kinh tế. Một điểm
đáng chú ý của mô hình là Solow đã đưa những tính toán của mình trên các con số bình
quân trên đầu người, điều này đảm bảo một sự tăng trưởng một cách hợp lý, công bằng
hơn và đơn giản hóa tính toán.
Solow đã kế thừa và hoàn thiện mô hình tăng trưởng của Harrob – Domar với việc thêm
yếu tố công nghệ T vào mô hình tăng trưởng đã khắc phục được khiếm khuyết của mô
hình Harrob Domar. Hơn nữa cho dù ủng hộ thị trường tự do nhưng Solow cũng không
phủ định hoàn toàn vai trò của Chính phủ. Như vậy rõ ràng mô hình của Solow đã có sự kế
thừa kết hợp cả hai mô hình tăng trưởng của hai trường phái tân cổ điển và Keynes và phát
triển lên thành một mô hình tăng trưởng mới.
5.3.3.5. Mô hình tăng trưởng hiện đại của Samuelson :
Vào những năm 40 của thế kỷ XX, ra đời một lý thuyết kinh tế mới ủng hộ xây
dựng một nền kinh tế hỗn hợp có sự kết hợp một cách hợp lý giữa “ bàn tay hữu hình “ và
“bàn tay vô hình”. Thực chất đó là sự xích lại gần nhau của học thuyết kinh tế tân cổ điển
và học thuyết kinh tế của Keynes.
Lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại thống nhất với sự xác định mô hình kinh tế
tân cổ điển về các yếu tố nguồn lực là K, L, R, T và nâng R lên thành tài nguyên thiên
nhiên chứ không chỉ là đất đai như trước. Và thống nhất kiểu phân tích của hàm Cobb –
Douglas về sự tác động của các yếu tố nguồn lực.
Lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại cũng thống nhất với quan điểm của trường
phái tân cổ điển về mối quan hệ giữa các yếu tố. Các nhà sản xuất kinh doanh có thể lựa
chọn sử dụng công nghệ nhiều vốn hoặc nhiều lao động. Và do đó mô hình cũng thống
nhất với mô hình Harrob Domar về vai trò của vốn đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế.
Samuelson cho rằng một trong những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế hiện đại là “ kỹ
thuật tiên tiến hiện đại dựa vào việc sử dụng vốn lớn”. Do đó, vốn là yếu tố quan trọng để
phát huy tác động của yếu tố khác, quy luật cận biên không chi phối bởi có hai loại đầu tư,
đó là đầu tư vào tư bản cố định và đầu tư vào tri thức, giáo dục, công nghệ mà đầu tư này
không chịu ảnh hưởng của quy luật lợi tức cận biên mà còn tác động tới tăng trưởng nhiều
hơn khi đầu tư. Vì vậy, trong tính toán kinh tế ngày nay hệ số ICOR vẫn được coi là cơ sở
để xác định tỷ lệ đầu tư cần thiết phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Tóm lại, có thể nói lý thuyết kinh tế học hiện đại đã giải quyết các vướng mắc,
khắc phục những nhược điểm của các mô hình kinh tế trước đó, và hơn nữa nó đã đánh giá
một cách có hệ thống chính xác, đầy đủ và rõ ràng vai trò của các yếu tố nguồn lực và mối
quan hệ giữa chúng.
Peak (đỉnh)
(đỉnh)
Peak (đỉnh)
(đỉnh)
Bottom
(đáy)
Narrowing Development
(thu hẹp) (phát triển)
Hình 5.2 : Chu kỳ kinh tế ( tổng hợp từ nhiều nguồn)
Mặc dù tên gọi có thể không giống nhau, nhưng về cơ bản các giai đoạn này
chuyển tải nội dung tương tự.
(1) Suy thoái (Recession)
Một số đặc điểm thường gặp của suy thoái là: Tiêu dùng giảm mạnh, hàng tồn kho
trong các doanh nghiệp tăng lên ngoài dự kiến. Từ đó, dẫn đến nhà sản xuất cắt giảm sản
lượng và việc đầu tư vào trang thiết bị, nhà xưởng cũng giảm dẫn đến kết quả là GDP thực
tế giảm sút. Các doanh nghiệp giảm đầu tư, thậm chí có doanh nghiệp phá sản, nhu cầu về
lao động giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao. Khi sản lượng giảm thì lạm phát sẽ chậm lại do
giá đầu vào của sản xuất giảm bởi nguyên nhân cầu sút kém. Giá cả dịch vụ khó giảm
nhưng cũng tăng không nhanh trong giai đoạn kinh tế suy thoái. Lợi nhuận của các doanh
nghiệp giảm mạnh và giá chứng khoán thường giảm theo khi các nhà đầu tư cảm nhận
được pha đi xuống của chu kỳ kinh doanh. Cầu về vốn cũng giảm đi làm cho lãi suất giảm
xuống trong thời kỳ suy thoái.
Thể hiện rõ nhất là tốc độ tăng trưởng GDP sẽ suy giảm trong 2 hay 3 quý liên tiếp.
(2) Đáy của suy thoái (Low Point, bottom)
Nền kinh tế trong giai đoạn này có đặc điểm là tỷ lệ thất nghiệp cao, thu nhập giảm
sút, nguồn cung hàng hóa ứ đọng, tỷ lệ hàng tồn kho cao. Khi GDP bắt đầu ngừng suy
giảm và bắt đầu tăng trưởng trở lại thì nền kinh tế đã đạt đáy của chu kỳ. Nền kinh tế sẽ ở
thời kỳ “Đáy” trong bao lâu rất khó xác định. Trong cuộc suy thoái của nền kinh tế Mỹ
những năm 1930, đáy của chu kỳ kéo dài hàng năm trời.
(3) Hưng thịnh và Phục hồi (Expansion, Recovery)
Trong thời kỳ hưng thịnh và phục hồi , GDP bắt đầu tăng trưởng trở lại, và nền
kinh tế hồi phục khỏi suy thoái. Hoạt động kinh doanh bắt đầu tiến triển, nhiều doanh
nghiệp sẽ khởi động lại việc mở rộng sản xuất và tuyển nhân viên, sẽ có nhiều công ăn
việc làm hơn giúp người lao động cải thiện thu nhập và sau đó tăng chi tiêu, thúc đẩy nền
kinh tế tăng trưởng.
(4) Đạt đỉnh (Peak)
Giai đoạn này, GDP thực của nền kinh tế ngừng tăng trưởng thêm và bắt đầu có dấu
hiệu đi xuống. Tại đỉnh của chu kỳ, hoạt động kinh doanh sẽ ngừng mở rộng thêm, việc
làm, tiêu dùng và sản xuất của nền kinh tế đạt đến mức cao nhất. Giống như điểm đáy của
suy thoái, thời kỳ đạt đỉnh này có thể dài hoặc ngắn. Khi thời kỳ đạt đỉnh kéo dài thì chúng
ta sẽ được hưởng lợi từ một giai đoạn thịnh vượng của nền kinh tế.
Ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế
Chu kỳ kinh tế là những biến động không mang tính quy luật. Không có hai chu kỳ
kinh tế nào hoàn toàn giống nhau và cũng chưa có công thức hay phương pháp nào dự báo
chính xác thời gian, thời điểm của các chu kỳ kinh tế. Chính vì vậy chu kỳ kinh tế, đặc biệt
là pha suy thoái sẽ khiến cho nền kinh tế gặp nhiều khó khăn. Khi có suy thoái, sản lượng
giảm sút, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, các thị trường từ hàng hóa dịch vụ cho đến thị trường
vốn...thu hẹp dẫn đến những hậu quả tiêu cực về kinh tế, xã hội.
Nguyên nhân và biện pháp đối phó với chu kỳ kinh tế
Chu kỳ kinh tế khiến cho kế hoạch kinh doanh của các doanh nghiệp gặp khó khăn.
Việc làm và lạm phát cũng thường biến động theo chu kỳ kinh tế. Đặc biệt là trong những
thời kỳ suy thoái, nền kinh tế và xã hội phải gánh chịu những tổn thất, chi phí khổng lồ. Vì
thế cần nghiên cứu nguyên nhân gây ra chu kỳ để có những biện pháp chống chu kỳ. Các
trường phái kinh tế học vĩ mô nghiên cứu nguyên nhân gây ra chu kỳ kinh tế có khác nhau,
nên biện pháp chống chu kỳ kinh tế do họ đề xuất cũng khác nhau:
Keynes cho rằng chu kỳ kinh tế hình thành do thị trường không hoàn hảo, khiến
cho tổng cầu biến động mà thành. Do đó, biện pháp chống chu kỳ là sử dụng chính sách
quản lý tổng cầu. Khi nền kinh tế thu hẹp, thì sử dụng các chính sách tài chính và chính
sách tiền tệ nới lỏng. Khi nền kinh tế phát triển thì lại chuyển hướng các chính sách đó
sang thắt chặt. ( Hình 5.3) minh họa một sự suy thoái do tổng cầu giảm: tổng cầu dịch
chuyển từ AD1 sang 'AD2 khiến cho sản lượng giảm từ Q1 xuống Q2 và giá cả giảm từ p1
đến p2 ' (lạm phát giảm)
P AD2 AD1 AS
Q2 Q1 Q
Hình 5.3 . Suy thoái do tổng cầu giảm
Các trường phái theo chủ nghĩa kinh tế tự do mới thì cho rằng sở dĩ có chu kỳ là do
sự can thiệp của chính phủ hoặc do cung tăng ngoài dự tính. Vì thế, để không xảy ra chu
kỳ hoặc để nền kinh tế nhanh chóng điều chỉnh cung, chính phủ không nên can thiệp gì cả.
(Hình 5.4 ) minh họa một trường hợp suy thoái do tổng cung giảm: vì lý do nào đó (ví dụ
giá đầu vào tăng đột biến) tổng cung giảm từ AS1 xuống AS2 khiến cho sản lượng giảm từ
Q1 xuống Q2 nhưng giá cả lại tăng từ P1 lên P2' (lạm phát tăng).
P AD AS2
AS1
P2
P1
Q2 Q1 Q
Bất kỳ quốc gia nào cũng luôn quan tâm đến tăng trưởng, phát triển kinh tế và chu
kỳ kinh tế. Tăng trưởng kinh tê là sự gia tăng quy mô vê mặt số lượng của các yếu tố kinh
tế của nền kinh tế trong một thời kỳ nhât định so với kỳ gốc.Tăng trưởng kinh tế là sự gia
tăng của GDP hoặc GNP hoặc thu nhập bình quân đầu người trong một thời gian nhất
định. Tăng trưởng kinh tế thể hiện sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Để biểu thị sự
tăng trưởng kinh tế, người ta dùng mức tăng thêm của tổng sản lượng nền kinh tế của thời
kỳ sau so với thời kỳ trước.
Phát triển kinh tế là quá trình tăng tiến mọi mặt của nền kinh tế, bao gồm sự thay
đổi cả về lượng và chất, là quá trình hoàn thiện cà về kinh tế và xã hội của một quốc gia.
Những nội dung cơ bản của phát triển kinh tế là: tăng trưởng kinh tế, thể hiện sự gia tăng
tổng thu nhập của nền kinh tê và thu nhập bình quân đầu người dài hạn. Cơ câu kinh tê -
xã hội chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Năng lực nội sinh của nền kinh tế, đặc biệt là năng
lực khoa học và công nghệ, chất lượng nguôn nhân lực, chât lượng cuộc sống của mọi
người dân được nâng cao từ kêt quả tăng trưởng.
Từng thời kỳ có thể sử dụng hai chỉ tiêu: tốc độ tăng trưởng hàng năm và tốc độ
tăng trưởng bình quân thời kỳ để xác định tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế,
hay nói cách khác tăng trưởng GDP thực tế là kêt quả tác động qua lại của tổng mức cung
và tổng mức cầu của nên kinh tê. Vì vậy, để xem xét các nhân tố tác động đến tăng trưởng
kinh tê cần phải xem xét các nhân tố tác động đến tổng cung và các nhân tố tác động đến
tổng câu của nền kinh tế. Các nhân tố thuộc tổng cầu tác động đến tăng trưởng kinh tế là
từ sự biến đổi của các yếu tố tạo nên GDP (GDP=C+I+G+X-M) gây nên sự biến đổi của
tổng cầu và từ đó tác động đến tăng trưởng kinh tế. Các nhân tố thuộc tổng cung tác động
đến tăng trưởng kinh tế gồm có: Các nhân tố tác động đến sản lượng tiềm năng,chính là
các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. vốn (K); lao động (L); tài nguyên thiên nhiên
(R) và công nghệ (T).
Lịch sử phát triển kinh tế thế giới đã biết đến các mô hình tăng trưởng kinh tế theo
lý thuyết của các trường phái David Ricardo, tân cổ điển (mô hình Cobb – Douglas),
Harrob – Domar, R.Solow , Samuelson
Chu kỳ phát triển kinh tế thường trải qua 4 giai đoạn: Suy thoái, đáy của suy thoái,
Hưng thịnh và Phục hồi, Đạt đỉnh. Chu kỳ kinh tế là những biến động không mang tính
quy luật. Không có hai chu kỳ kinh tế nào hoàn toàn giống nhau và cũng chưa có công
thức hay phương pháp nào dự báo chính xác thời gian, thời điểm của các chu kỳ kinh tế.
Chính vì vậy chu kỳ kinh tế, đặc biệt là pha suy thoái sẽ khiến cho nền kinh tế gặp nhiều
khó khăn. Với sự phát triển của công nghệ thông tin, ngày nay người ta đã có thể dự báo
biến động kinh tế vĩ mô với độ tin cậy lớn hơn mặc dù nó chưa đạt độ chính xác cao.
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
A. Câu hỏi ôn tập
5.1. Hãy cho biết nguyên nhân tăng trưởng kinh tế.
5.2.Trình bày các phương pháp đo lường tốc độ tăng trưởng.
5.3.Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
5.4.Phân tích những đặc điểm của tăng trưởng kinh tế hiện đại.
5.5.Trình bày phương pháp xác định nguồn tăng trưởng của các nhân tố sản xuất.
5.6.Trình bày nội dung mô hình tăng trưởng của Harrod – Domar.
5.7.Trình bày mô hình Solow khi có tác động của dân số.
5.8.Trình bày mô hình Solow khi có tác động của tiến bộ công nghệ.
5.9.Một quốc gia nên tiết kiệm nhiều hay ít thì có lợi?
5.10.Một quốc gia nên đầu tư vào loại tư bản (vốn hiện vật) nào thì có lợi?
5.11.Một quốc gia cần có chính sách gì tác động vào tiến bộ công nghệ?
5.12.Hàm ý của Phát triển là gì?
5.13.Trình bày các quan điểm mới về phát triển.
5.14.Phân tích ba giá trị cơ bản và mục tiêu của phát triển.
5.15.Phân tích các tiêu chí phân biệt phát triển và kém phát triển.
5.16.Nêu các giai đoạn của chu kỳ kinh tế.
5.17.Những nguyên nhân nào tác động đến chu kỳ kinh tế
B. Bài tập
Bài 1. Giả sử nền kinh tế đang trong thời kỳ suy thoái. Nếu các nhà hoạch định chính sách
không có hành động gì, thì nền kinh tế sẽ diễn biến như thế nào? Hãy giải thích.
Gợi ý :
Nền kinh tế đang suy thoái với Y0 < Y* -> nền kinh tế sẽ tự điều chỉnh theo xu hướng
tăng AS -> Đường AS sẽ dịch chuyển -> sản lượng.... tăng dần cho đến khi đạt mức sản
lượng tiềm năng và nền kinh tế đạt mức toàn dụng.
Bài 2. Cho biết những yếu tố nào ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Hãy bình luận về
việc chính phủ có nên áp dụng chính sách để khuyến khích tăng trưởng không? Chính sách
nên hướng tới những yêu tố nào ?
Sau khi học xong chương 6, người học sẽ: trình bày được các khái niệm thất nghiệp
và lạm phát, các loại hình thất nghiệp và các nhân tố tác động đến lạm phát; phân tích
được các tác động của thất nghiệp và lạm phát đến nền kinh tế; và phân tích mối quan hệ
giữa thất nghiệp và lạm phát để hiểu được sự can thiệp của Chính phủ bằng các chính sách
vĩ mô nhằm giảm thiểu thất nghiệp và kiềm chế lạm phát.
Người già
Người có việc làm
Tổng Lực lượng lao động
Dân số trong độ Người thất nghiệp
dân
tuổi lao động Không thuộc LLLĐ
số
(Nội trợ, HSSV, ….)
Trẻ em
Theo IMF và ADB, thời điểm 2007, dân số Việt Nam là 85 triệu người. Số người có việc
làm là 43 triệu người, thất nghiệp là 1,5 triệu người và có 4,5 triệu người trong độ tuổi lao
động không nằm trong lực lượng lao động.
Yêu cầu tính:
1. Lực lượng lao động của Việt Nam năm 2007?
2. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là bao nhiêu?
3. Tỷ lệ thất nghiệp là bao nhiêu?
4. Hãy tìm các số liệu tương tự của Việt Nam tại thời điểm hiện nay?
Định luật OKUN:
Nhà kinh tế học người Mỹ Athur Okun (1929 - 1979) là người đã phát hiện ra mối
quan hệ giữa thất nghiệp và sản lượng, phát biểu thành định luật Okun: “Nếu GDP giảm đi
2% so với GDP tiềm năng thì tỷ lệ thất nghiệp tăng lên 1%”.
Nội dung định luật Okun đưa ra mối quan hệ sống còn giữa thị trường đầu ra và thị
trường lao động. Nó mô tả mối quan hệ giữa những biến động ngắn hạn của GDP thực tế
với những thay đổi của thất nghiệp, do đó, có thể đưa ra các định hướng chính sách: (i)
GDP thực có phải tăng nhanh bằng GDP tiềm năng để giữ tỷ lệ thất nghiệp không tăng
lên? Hay (ii) nếu muốn giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống thì GDP thực có phải tăng nhanh hơn
GDP tiềm năng?
Định luật Okun còn có thể giúp dự báo được tỷ lệ thất nghiệp sẽ vận động như thế
nào nếu tính toán được sự thay đổi của GDP so với GDP tiềm năng.
6.1.2. Các dạng thất nghiệp:
Các nhà kinh tế học phân loại thất nghiệp theo nguồn gốc, gồm: thất nghiệp tạm
thời, thất nghiệp cơ cấu, thất nghiệp chu kỳ và thất nghiệp cổ điển.
Thất nghiệp tạm thời phát sinh do người lao động cần có thời gian để tìm kiếm
công việc khác, gồm những người bị mất việc làm trong thời gian ngắn khi họ di chuyển
chỗ ở hoặc chuyển từ công việc này sang công việc khác. Thất nghiệp tạm thời là số người
thất nghiệp tối thiểu mà thị trường lao động luôn vận động phải có.
Thất nghiệp cơ cấu là loại thất nghiệp phát sinh do sự mất cân đối khi lượng cung
lao động vượt lượng cầu về lao động. Các nguyên nhân là do thay đổi cơ cấu kinh tế, do
lao động được đào tạo không đáp ứng được nhu cầu thị trường lao động.
Khi cơ cấu kinh tế thay đổi, những ngành phát triển hơn sẽ gia tăng nhu cầu lao động, như
công nghiệp và dịch vụ, ngược lại, những ngành khác sẽ sụt giảm nhu cầu lao động (ví dụ,
năm 1900, 70% dân số thế giới làm việc trong ngành nông nghiệp, đến năm 2000, lực
lượng này chỉ còn 3%) làm cho lao động tại các ngành này hoặc phải tự đào tạo lại hoặc
tìm các công việc ở ngành khác.
Thất nghiệp chu kỳ (thất nghiệp do thiếu cầu): khi nền kinh tế lâm vào tình trạng
suy thoái, tổng cầu giảm và tổng sản lượng giảm, sản xuất thu hẹp dẫn đến nhu cầu về lao
động giảm. Tình trạng thất nghiệp xảy ra ở hầu hết các ngành trong nền kinh tế.
Thất nghiệp cổ điển phản ánh số người thất nghiệp do tác động của luật tiền lương
tối thiểu. Khi mức lương tối thiểu được quy định cao hơn mức lương cân bằng, chi phí
lương của doanh nghiệp tăng lên và các nhà sản xuất sẽ tiết kiệm chi phí bằng cách giảm
nhu cầu lao động.
Lương Thất nghiệp
SL
Lương tối thiểu
Hình 6.1. Thất nghiệp do tác động của lương tối thiểu
Theo tính chất thất nghiệp, thất nghiệp gồm có thất nghiệp tự nhiên, thất nghiệp tự
nguyện và thất nghiệp không tự nguyện.
Thất nghiệp tự nhiên là mức thất nghiệp bình thường mà nền kinh tế trải qua, tồn
tại ngay cả khi thị trường lao động cân bằng. Thất nghiệp tự nhiên gồm thất nghiệp tạm
thời và thất nghiệp cơ cấu.
Thất nghiệp tự nguyện là số người lao động thất nghiệp do không chấp nhận mức
lương đưa ra. Nếu chấp nhận công việc với mức lương hiện có, đó là thất nghiệp không tự
nguyện (thất nghiệp bắt buộc).
SL
Lương Thất nghiệp không tự nguyện
WE
Có việc làm
DL
LE Lao động
LLLĐ
Có hai loại chỉ số giá dùng để tính tỷ lệ lạm phát: chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và chỉ
số giá sản xuất (PPI).
Thông thường, các mặt hàng tiêu dùng được chọn đại diện theo nhóm hàng: Lương thực,
thực phẩm; phương tiện giao thông; thiết bị và đồ dùng gia đình; văn hoá, giải trí; giáo
dục; y tế; …. và gắn trọng số của các mặt hàng trong rổ hàng hoá để tính chỉ số giá tiêu
dùng (CPI).
PPI (Producer Price Index) còn được gọi là chỉ số giá bán buôn hay chỉ số giá sản xuất
được tính tương tự như CPI, nhưng ít được sử dụng hơn trong việc tính tỷ lệ lạm phát.
Tỷ lệ lạm phát còn được tính dựa vào chỉ số giảm phát (GDP Deflator - DGDP)
Việc tính toán tỷ lệ lạm phát chủ yếu dựa vào CPI và DGDP, trong khi CPI chỉ phản
ánh mức giá của người tiêu dùng thì DGDP lại phản ánh giá của cả doanh nghiệp và chính
phủ mua. Vì thế, DGDP sát với mức giá chung hơn. Tuy vậy, DGDP lại chỉ tính toán mức giá
của hàng hoá được sản xuất trong nước, CPI tính cả giá của hàng hoá được sản xuất trong
nước và cả hàng hoá nhập khẩu mà người tiêu dùng thực mua. Trên thực tế, số liệu thống
kê cho thấy sự khác biệt giữa CPI và DGDP không lớn.
Giảm lạm phát diễn ra khi tỷ lệ lạm phát năm t+1 thấp hơn tỷ lệ lạm phát năm t.
Trường hợp ngược lại của lạm phát, khi mức giá chung/chỉ số giá giảm liên tục
trong một khoảng thời gian, là giảm phát (tỷ lệ lạm phát âm).
Hình 6.4 Minh hoạ quá trình lạm phát cầu kéo
Lạm phát chi phí đẩy: là lạm phát xảy ra do chi phí tăng lên trong những giai đoạn
thất nghiệp cao và mức huy động nguồn lực yếu.
Nguyên nhân đầu tiên gây ra lạm phát chi phí đẩy là mức tiền lương tăng. Xu hướng mong
muốn của người lao động nói chung và sự đấu tranh của công đoàn luôn nhằm tăng lương,
ngay cả khi tỷ lệ thất nghiệp cao. Lương là một bộ phận quan trọng của chi phí doanh
nghiệp, do đó, khi lương tăng, về dài hạn tổng cung sẽ
sụt giảm. Các cú sốc kinh tế cũng làm chi phí tăng như
giá dầu thế giới tăng, sự thay đổi của tỷ giá hối đoái hay
giá thực phẩm, … cũng là những nguyên nhân làm cho
P AS’
chi phí sản xuất tăng cao, tổng cung sụt giảm.
AS
Khi tổng cung giảm, tổng cầu không đổi, mức cung mới
của nền kinh tế sụt giảm làm giá cả tăng lên (lạm phát chi
P’ E’
phí đẩy).
P E
Hình 6.5 Minh hoạ
AD
quá trình lạm phát chi phí đẩy
6.2.4. Tác động kinh tế của lạm phát: Qp Q
Các ngân hàng trung ương đều thống nhất với nhau
về quyết tâm cùng chống lạm phát vì lạm phát được coi là kẻ thù số một của nền kinh tế.
Tại sao lại như vậy? Vì trong thời kỳ lạm phát, mọi giá cả tiền lương đều thay đổi nhưng
lại không theo một tỷ lệ, tức là có những thay đổi của thu nhập thực tế. Hai ảnh hưởng
chắc chắn của lạm phát là:
Sự phân phối lại thu nhập và của cải giữa những nhóm người khác nhau;
Những sai lệch trong giá tương đối và sản lượng của những hàng hóa khác nhau.
Lạm phát tác động đến sự phân phối thu nhập và của cải: xuất phát từ sự khác nhau
giữa các loại tài sản có và tài khoản nợ mà mọi người nắm giữ, khi có lạm phát thì thu
nhập sẽ bị phân phối lại.
Đối với người đang vay tiền, lạm phát cao sẽ có lợi cho họ bởi các khoản vay phải trả
về danh nghĩa thì không đổi, nhưng chi phí thực tế đã giảm do lương và thu nhập tăng lên.
Theo suy nghĩ này, thời kỳ lạm phát cao, người dân rất tích cực vay tiền để mua nhà cửa,
đất đai và thậm chí tiêu dùng.
Ngược lại, đối với người có tiền cho vay, có trái phiếu dài hạn thì lạm phát cao sẽ làm
mất đi giá trị thực tế của tài sản mà họ đang có, dù giá trị danh nghĩa không hề thay đổi.
Nếu lạm phát kéo dài, mọi người sẽ dự đoán trước được và các thị trường sẽ bắt đầu
thích nghi. Một khoản bù cho lạm phát sẽ dần dần được đưa vào lãi suất thị trường. Sẽ
không có sự phân phối lại thu nhập của cải lớn nào khi lãi suất đã thích nghi với lạm phát.
Những tác động đến tính hiệu quả kinh tế:
Lạm phát có hại đến hiệu quả kinh tế do nó làm sai lệch những tín hiệu giá. Trong
thời kỳ lạm phát thấp, nếu giá thị trường của một loại hàng hoá nào đó tăng lên thì cả
người mua và người bán đều sẽ biết có sự thay đổi nào đó của cung hoặc cầu về hàng hoá
đó. Họ sẽ có những phản ứng phù hợp như mua hàng ít hơn hoặc tìm hàng thay thế. Tuy
nhiên, trong thời kỳ lạm phát cao, rất khó phân biệt thay đổi của giá là do cung, cầu với
riêng thị trường đó hay do mức giá chung.
Về ngắn hạn, lạm phát và sản lượng có mối quan hệ thuận chiều khi mà các nhà
sản xuất luôn mong muốn có được nhiều hàng cung ứng với mức giá cao. Tuy vậy, các
ngân hàng trung ương lại luôn đề phòng và phản ứng trước những đe dọa của lạm phát.
Các biện pháp giảm lạm phát như giảm tốc độ tăng tiền tệ, tăng lãi suất, theo đó, sẽ giảm
mức tăng của sản lượng thực tế khi lạm phát được kiểm soát. Thất nghiệp sẽ nhiều hơn.
Suy thoái có thể sẽ bắt đầu và ngày càng nghiêm trọng.
Tỷ lệ thất nghiệp
Bằng cách lựa chọn các chính sách tài khoá và tiền tệ, chính phủ có thể tác động
đến tổng cầu và do vậy là mức thất nghiệp trong nền kinh tế. Nếu là mức tổng cầu cao
hơn, mức lương và giá cũng sẽ tăng, và lạm phát tăng, tuy nhiên thất nghiệp lại sẽ giảm
xuống.
6.3.2. Đường cong Phillips dài hạn
U* Tỷ lệ thất nghiệp
Khác với hình dáng đường Philips ngắn hạn, đường Philips trong dài hạn là đường
thẳng dốc xuống. Tại trạng thái cân bằng dài hạn, tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên và sản lượng
tiềm năng được duy trì. Do là sản lượng tiềm năng nên mức sản lượng của nền kinh tế
không chịu sự tác động của lạm phát, do vậy, về dài hạn, đường Philips thẳng đứng tại
mức thất nghiệp tự nhiên.
Trong dài hạn, mức lạm phát không thay đổi nên mọi người sẽ dự kiến chính xác
mức lạm phát và điều chỉnh tốc độ tăng lương danh nghĩa để giữ cho mức lương thực tế
không đổi, mức lương thực tế sẽ duy trì ở mức lương cân bằng dài hạn. Tương tự, lãi suất
danh nghĩa cũng đủ lớn để bù đắp mức lạm phát và duy trì mức lãi suất thực tế ở trạng thái
cân bằng của nó. Mọi người sẽ thích nghi với lạm phát và dự kiến được đầy đủ về nó.
TÓM TẮT
Thất nghiệp là tình trạng tồn tại một số người trong lực lượng lao động muốn làm
việc nhưng không thể tìm được việc làm với mức lương mong muốn. Mặc dù người lao
động không muốn nhưng có rất nhiều lý do dẫn đến tình trạng thất nghiệp, lý do từ phía
người lao động, từ thị trường lao động và từ nền kinh tế vĩ mô. Thất nghiệp không những
là vấn đề kinh tế mà nó còn là vấn đề xã hội khi hậu quả của thất nghiệp chính là các vấn
đề xã hội nảy sinh. Các chính phủ luôn luôn đặt ra mục tiêu kinh tế vĩ mô về tỷ lệ thất
nghiệp và có nhiều chính sách để đạt được mục tiêu đó.
Lạm phát là tình trạng mức giá chung trong nền kinh tế gia tăng liên tục. Sự gia tăng
của giá có thể do sự dự tính (lạm phát quán tính), có thể do cầu tăng (lạm phát cầu kéo) và
cũng có thể do chi phí tăng (lạm phát chi phí đẩy). Một mức lạm phát vừa phải sẽ là sự
kích thích sản xuất, tăng cung của các doanh nghiệp nhưng mức tăng giá quá cao lại gây ra
sự sai lệch giá nghiêm trọng, phân hóa thu nhập và của cải trong nền kinh tế. Vì vậy, kiểm
soát lạm phát là nhiệm vụ quan trọng của tất cả các ngân hàng trung ương thông qua chính
sách tài chính – tiền tệ, hay các chính sách giá, lương, thuế khác của chính phủ.
Lạm phát và thất nghiệp được chỉ ra có mối quan hệ ngược chiều và phải đánh đổi
với nhau trong ngắn hạn. Đường Philips biểu diễn mối quan hệ giữa lạm phát và thất
nghiệp có hình dáng của một đường thẳng có chiều dốc xuống. Tuy vậy, về dài hạn, để
duy trì mức sản lượng cân bằng (sản lượng tiềm năng), tỷ lệ thất nghiệp nên được kiểm
soát ở tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên và lạm phát chỉ ở mức vừa phải. Chính phủ cần kết hợp
nhiều chính sách, giải pháp khác nhau để đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô về thất
nghiệp và lạm phát.
Câu 7:Khi cung lao động vượt quá cầu lao động, thị trường lao động sẽ bị dư thừa, lượng
lao động thất nghiệp này là:
A. Thất nghiệp tự nguyện
B. Thất nghiệp không tự nguyện
C. Thất nghiệp tạm thời
D. Thất nghiệp tự nhiên
Câu 8: Khi tỷ lệ lạm phát phát tăng cao, nhóm người nào sẽ được hưởng lợi:
A. Những người đi vay tiền, trả góp hàng tháng
B. Những người cho vay tiền, nhận lãi hàng tháng
C. Những người mua trái phiếu dài hạn, nhận lãi cuối kỳ.
D. Cả A, B và C
Câu 9: Thất nghiệp sẽ là khoảng thời gian nghỉ ngơi có giá trị hoặc cơ hội tìm kiếm những
việc làm tốt hơn, mức lương cao hơn là lợi ích của:
A. Thất nghiệp cơ cấu
B. Thất nghiệp tự nguyện
C. Thất nghiệp không tự nguyện
D. Thất nghiệp tự nguyện tạm thời
Câu 10: Chính sách tiền tệ thắt chặt thường được ngân hàng trung ương áp dụng nhằm:
A. Tăng trưởng kinh tế
B. Giảm tỷ lệ thất nghiệp
C. Giảm tỷ lệ lạm phát
D. Tăng mức cung tiền
C. Tình huống:
Tình huống 1. Giả sử rằng Quốc hội đang xét một dự luật về mức lương tối thiểu nhằm ấn
định mức lương tối thiểu trên mức cân bằng thị trường đối với thanh niên nhưng nằm dưới
mức lương đó đối với công nhân lớn tuổi. Sử dụng mô hình cung - cầu, chứng minh tác
động của mức lương tối thiểu đối với việc làm, thất nghiệp và thu nhập của cả hai nhóm
người lao động trên. Thất nghiệp đó là thất nghiệp tự nguyện hay không tự nguyện? Bạn
sẽ kiến nghị gì với Quốc hội nếu bạn được yêu cầu giải trình ưu, nhược điểm của biện
pháp đó?
Tình huống 2. Nhiều sinh viên Việt Nam có thể vay mười triệu đồng một năm để trả học
phí học đại học tại Ngân hàng chính sách xã hội với lãi suất 0%. Điều gì sẽ xảy ra với
những viên này nếu tiền lương và giá cả bắt đầu giảm 5% một năm?
CHƯƠNG 7
PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH VĨ MÔ
Mọi hoạt động trong nền kinh tế khó có thể tự nó dẫn đến nguồn lực trong xã hội
được phân phối hiệu quả, nên cần đến sự điều tiết chính sách của chính phủ. Các chính
sách can thiệp vào các hoạt động kinh tế ở góc độ vi mô lẫn vĩ mô. Chương 7 trình bày
tổng quan về chính sách vĩ mô điều tiết các hoạt động trong nền kinh tế từ nhận diện khái
niệm, mục tiêu, đến các công cụ, hình thức ban hành và cách thức đánh giá hiệu quả của
chúng.
Chính sách kinh tế đối ngoại: là các công cụ dùng để điều tiết đến các hoạt động
giao thương giữa quốc gia này với quốc gia khác. Chúng bao gồm các chính sách thương
mại, chính sách đối với tài khoản vốn.
Chính sách phát triển kinh tế: là hệ thống các biện pháp của chính phủ tác động tới
các cơ chế văn hóa, xã hội, kinh tế và thể chế để đạt được những tiến bộ kinh tế.
Nếu phân theo công cụ điều tiết, chính sách vĩ mô được phân thành hai loại cơ bản
là chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ.
7.1.4. Độ trễ của chính sách
Thông thường khi ban hành chính sách rất ít khi chúng phát huy hiệu ứng ngay,
chúng thường gặp độ trễ nhất định. Sở dĩ có độ trễ chính sách là luôn tồn tại một khoản
thời gian nghiên cứu, khảo sát, thẩm định lựa chọn chính sách từ khi phát hiện vấn đề trục
trặc của nền kinh tế vĩ mô.
Mặt khác, từ khi chính sách tài khóa được ban hành cho đến khi nó được triển khai
và bắt đầu phát huy tác dụng cũng có thêm một độ trễ nhất định. Những quốc gia thiết kế
thể chế quản trị nhà nước yếu kém thường dẫn đến độ trễ chính sách cao hơn các quốc gia
có thể chế kinh tế được thiết kế hiệu quả.
Ngoài những lý do nên trên, trong quá trình nghiên cứu hoạch định đến thực thi
chính sách tài khóa có thể xuất hiện nhiều yếu tố làm cho tình hình thay đổi, dẫn đến các
chính sách không phù hợp với bối cảnh và các vấn đề mới phát sinh.
Y
Ta có, số nhân tổng cầu: k
AD
Suy ra: 1
k
1 Cm (1 Tm) Im Mm
ngân hàng; d là tỷ lệ dự trữ (gồm tỉ lệ dự trữ bắt buộc và tỉ lệ dự trữ tùy ý); d=R/D.
- Do đó khi d thay đổi thì số nhân tiền thay đổi theo tỷ lệ nghịch. Chính vì thế bằng
cách thay đổi tỷ lệ dữ trữ bắt buộc, ngân hàng trung ương có thể thay đổi số nhân tiền để
điều tiết cung tiền với một lượng tiền cơ sở bất kỳ.
Nghiệp vụ thị trường mở
Khi NHTW mua vào các loại công trái và giấy tờ có giá khác của nhà nước thì tăng
lượng tiền cơ sở. Khi bán ra các giấy tờ có giá đó sẽ làm giảm lượng tiền cơ sở. Qua đó, có
thể điều chỉnh được lượng cung tiền.
7.3.3 Nguyên tắc hoạch định chính sách tiền tệ
Thay đổi M → thay đổi r → thay đổi I→ thay đổi AD → thay đổi Y
Khi nền kinh tế suy thoái (Y<Yp ): áp dụng chính sách nới lỏng tiền tệ bằng cách:
mua chứng khoán vào, giảm lãi suất chiết khấu, giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc. Khi đó, cung
tiền tăng, lãi suất giảm, đầu tư và sản lượng tăng, tỉ lệ thất nghiệp giảm.
LM1
r
LM2
E1
r1
E2
r2
F
r’
IS
Y1 Y2 Yp
Khi nền kinh tế lạm phát (Y> Yp): áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ bằng cách:
bán chứng khoán ra, tăng lãi suất chiết khấu, tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc. Khi đó cung tiền
giảm, lãi suất tăng, đầu tư và sản lượng giảm, lạm phát giảm.
LM2
LM1
E2
r2
E1
r1
F
IS
Y2 Y1
LM
2
E1
r1
E2
r2
F
r’
IS
Y1 Y2 Yp Y
7.3.5 Những tranh luận về chính sách tiền tệ:
- Bẫy thanh khoản:
Bẫy thanh khoản là hiện tượng trong đó chính sách tiền tệ được nới lỏng bằng biện
pháp giảm lãi suất để rồi lãi suất xuống thấp quá một mức nhất định khiến cho mọi người
quyết định giữ tài sản của mình dưới dạng tiền mặt và chính sách tiền tệ trở nên bất lực.
Khi đó việc điều tiết chu kỳ kinh tế chỉ còn trông cậy vào chính sách tài khóa. Đây là một
trong những lý luận của kinh tế học Keynes.
Kinh tế học Keynes cho rằng khi nền kinh tế rơi vào tình trạng này thì chỉ có cách
sử dụng tích cực chính sách tài khóa (giảm thuế, tăng chi tiêu công cộng), tăng xuất khẩu
ròng, khuyến khích tư nhân đầu tư để đổi mới công nghệ.
Cũng có quan điểm cho rằng chính sách tiền tệ không mất hoàn toàn hiệu lực mà
vẫn có thể triển khai qua biện pháp giảm giá đồng tiền trong nước để kích thích xuất khẩu
ròng, thực hiện mục tiêu lạm phát, biện pháp nới lỏng tiền tệ qua tăng trực tiếp lượng tiền
cơ sở.
- Chế độ tỷ giá hối đoái cố định: Ở một nền kinh tế áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái
cố định, chính sách tiền tệ sẽ bị hạn chế sử dụng, bởi bất cứ sự thay đổi nào của cung tiền
cũng làm thay đổi tỷ giá hối đoái.
- Khi đầu tư không thay đổi theo lãi suất: Chính sách tiền tệ làm thay đổi lãi suất,
qua đó thay đổi đầu tư của doanh nghiệp và điều chỉnh được tổng cầu. Đấy là giả thiết
rằng đầu tư của doanh nghiệp có phản ứng trước các thay đổi của lãi suất. Tuy nhiên, nếu
đầu tư không phản ứng trước thay đổi của lãi suất, thì chính sách tiền tệ bị vô hiệu hóa. Sử
dụng phân tích IS-LM cũng có thể thấy điều này. Khi đầu tư không phản ứng với lãi suất,
đường IS trở nên thẳng đứng. Dù chính sách tiền tệ có làm dịch chuyển đường LM thế nào
đi nữa, tổng cầu vẫn không thay đổi.
- Sự độc lập của Ngân hàng trung ương: Ngoài ba loại hạn chế nói trên, nếu
NHTW không được hoạt động độc lập, thì chính phủ có thể can thiệp vào việc phát hành
tiền tệ (chẳng hạn khi cần bù đắp thâm hụt ngân sách), khiến cho hiệu quả của chính sách
tiền tệ trở nên hạn chế.
7.4.2.2. Căn cứ vào mức độ tiếp cận của nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới,
chính sách ngoại thương gồm chính sách hướng nội và chính sách hướng ngoại.
Chính sách hướng nội (Inward Oriented Trade Policies):
Là chính sách mà nền kinh tế ít có quan hệ với thị trường thế giới, phát triển tự lực
cánh sinh bằng sự can thiệp tuyệt đối của Nhà nước. Với mô hình này, nền kinh tế thực
hiện chính sách công nghiệp hóa thay thế hàng nhập khẩu.
- Ưu điểm:
Thị trường nội địa được bảo hộ chặt chẽ, nhờ đó mà nền công nghiệp còn
non yếu trong nước có thể phát triển được trong điều kiện không phải trực
diện với cạnh tranh; đặc biệt ở những nước mà nền kinh tế chủ yếu dựa vào
nông nghiệp và khai thác tài nguyên.
Là mô hình phát triển dựa vào nguồn tài lực bên trong, cho nên mọi tiềm
lực quốc gia được huy động cao độ cho công cuộc phát triển kinh tế.
Phát triển kinh tế trong nước ít chịu sự tác động của thị trường thế giới, nên
tốc độ tăng trưởng kinh tế tuy thấp nhưng ổn định.
- Nhược điểm:
Hàng hóa sản xuất không mang tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Nhiều ngành kinh tế của quốc gia phát triển không có hiệu quả, vì không
phát triển dựa vào lợi thế mà chỉ dựa vào nhu cầu của nền kinh tế đóng cửa.
Mất cân đối trong cán cân thương mại, vì nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu
bị hạn chế.
Vay nợ nước ngoài lớn, trả nợ khó khăn.
Chính sách hướng ngoại (Outward Oriented Trade Policies):
Là chính sách mà nền kinh tế lấy xuất khẩu làm động lực để phát triển. Tham gia
vào quá trình phân công lao động khu vực và quốc tế, chuyên môn hóa vào sản xuất những
sản phẩm mà quốc gia có lợi thế phát triển, về thực chất, đây là chính sách “mở cửa“ kinh
tế để tham gia vào quá trình quốc tế hóa kinh tế toàn cầu. Và tùy điều kiện phát triển kinh
tế của mỗi nước mà chính sách “mở cửa“ được lựa chọn thực hiện khá đa dạng như mô
hình phát triển mở cửa dần từng bước hay mô hình phát triển xuất khẩu dựa vào nguồn
tài nguyên thiên nhiên hoặc gia công sản phẩm sơ chế hoặc mô hình phát triển XK dựa
vào lợi thế so sánh...
- Ưu điểm:
Tạo ra sự năng động trong sự phân công lao động quốc tế: mỗi quốc gia, dù
không có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất ra một loại hàng hoá, thì cũng
có lợi thế cạnh tranh trong một loại nguồn lực, một loại sản xuất nào đó.
Việc tận dụng lợi thế cạnh tranh và tham gia phân công lao động quốc tế
trong chuỗi cung ứng toàn cầu giúp cho các nước chưa phát triển có thể tiếp
cận với sự phát triển nhanh nhất.
Chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu làm cho nền kinh tế phát
triển năng động vì các doanh nghiệp luôn trực diện với cạnh tranh, sản
phẩm và dịch vụ của họ phải có khả năng đảm bảo cạnh tranh (về chất
lượng, giá cả...) với các sản phẩm khác trên thế giới.
Mở cửa kinh tế tạo điều kiện cho cạnh tranh phát triển, là động lực thúc đẩy
cải tổ nền kinh tế, hợp lý hóa sản xuất, đầu tư mới công nghệ.
Tăng cường thu hút vốn đầu tư, đẩy mạnh xuất khẩu là nhân tố quan
trọng làm lành mạnh hóa môi trường tài chính quốc gia: giảm bớt vay nợ,
thực hiện cân bằng cán cân thanh toán và cán cân buôn bán quốc tế.
Chính sách hướng về xuất khẩu còn được xem như là một chính sách ngoại
thương tạo ra sự công bằng hơn trong nền kinh tế.
- Nhược điểm:
Nền kinh tế trong nước sẽ bị phụ thuộc vào kinh tế bên ngoài, các tác động
đằng sau của phụ thuộc kinh tế là phụ thuộc về chính sách, chính trị.
Sự biến động nhỏ của thị trường thế giới sẽ ảnh hưởng lớn đến kinh tế trong
nước, dẫn đến sự biến động trong các chính sách kinh tế hay sự bất ổn của
kinh tế trong nước.
Ngày nay, khi xu hướng nhất thể hóa nền kinh tế toàn cầu gia tăng, mô hình
kinh tế hướng ngoại đẩy mạnh xuất khẩu ngày càng khẳng định ưu thế phát
triển và ngày càng được các nước áp dụng rộng rãi.
TÓM TẮT:
Mục tiêu điều tiết của chính sách vĩ mô nhằm kích thích tăng trưởng và ổn định nền
kinh tế với 3 chính sách căn bản, bao gồm: chính sách tài khoá, tiền tệ và ngoại thương.
Chính sách tài khoá được thực hiện thông qua điều tiết thu – chi của chính phủ; còn chính
sách tiền tệ được thực hiện thông qua điều tiết lượng cung tiền với các công cụ lãi suất, tỷ
lệ dự trữ bắt buộc và các nghiệp vụ thị trường mở; chính sách ngoại thương được thực hiện
chủ yếu thông qua tỷ giá hối đoái và điều chỉnh mức độ tham gia các hiệp định song
phương, đa phương. Không có mẫu số chung về chính sách vĩ mô nên như thế nào là tốt,
thế nào là xấu; thay vào đó là lựa chọn chính sách phải phù hợp với từng bối cảnh khác
nhau của nền kinh tế.
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ BÀI TẬP:
A. Câu hỏi:
Câu 1: Chính sách kinh tế vĩ mô là gì?
Câu 2: Có những chính sách vĩ mô cơ bản nào?
Câu 3: Độ trễ chính sách là gì?
Câu 4: Chính sách mở rộng tiền tệ thực hiện khi nào? Để thực hiện chính sách tiền tệ mở
rộng, ngân hàng trung ương cần làm gì?
Câu 5: Chính sách thắt chặt tiền tệ thực hiện khi nào? Để thực hiện chính sách thắt chặt
tiền tệ, ngân hàng trung ương cần làm gì?
Câu 6: Chính sách ngoại thương là gì? Phân loại chính sách ngoại thương?
B. Bài tập
Bài tập 1. Trong một nền kinh tế đóng cửa có các hàm số sau đây:
C = 320 + 0,6Yd I = 2680 – 100r
G = 1650 T = 1650
(r tính bằng %, các đại lượng khác tính bằng tỷ đồng)
Dân số hoạt động 25,2 triệu người
Mức nhân dụng: L = 3.10-3Y
Yêu cầu:
a) Xác định sản lượng cân bằng theo lãi suất.
b) Cho r = 7%. Xác định mức nhân dụng và mức khiếm dụng.
c) Xác định r nếu nền kinh tế đạt mức toàn dụng.
d) Minh họa bằng đồ thị mối quan hệ giữa r, Y và L.
e) Chính phủ nên áp dụng chính sách tài khóa như thế nào để giải quyết tình hình
khiếm dụng?
Bài tập 2. Một nền kinh tế được mô tả bởi các hàm số:
C = 400 + 0,75Yd I = 800 + 0,15Y – 80r
T = 200 + 0,2Y Cg = 700
Ig = 200 X = 400
M = 50 + 0,15Y SM M 400
LM = 800 – 100r YP = 5500
UN = 5%
Yêu cầu:
a) Xác định sản lượng cân bằng, tình trạng ngân sách và cán cân thương mại của nền
kinh tế.
b) Để Y = Yp, cần phải sử dụng công cụ mua bán chứng khoán (hoạt động trên thị
trường mở) như thế nào? Biết tỷ lệ tiền mặt ngoài ngân hàng c = 60%, tỷ lệ dự trữ
của ngân hàng thương mại d = 20%.
c) Để Y = Yp cần áp dụng chính sách thuế nào?
C. Trắc nghiệm:
1) Chính phủ có thể giảm bớt lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế bằng cách:
a. Bán chứng khoán của chính phủ trên thị trường chứng khoán
b. Tăng lãi suất chiết khấu
c. Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc
d. Các câu trên đều đúng.
2) Nếu ngân hàng trung ương giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc và bán ra chứng khoán của
chính phủ thì khối tiền tệ sẽ:
a. Tăng lên
b. Không đổi
c. Giảm xuống
d. Chưa biết.
3) Ngân hàng trung ương có thể làm thay đổi lượng cung tiền trong nước bằng cách:
a. Mua và bán chứng khoán của chính phủ
b. Mua và bán ngoại tệ
c. a, b đều đúng
d. a, b đều sai.
4) Nếu các yếu tố khác không đổi, cung tiền tệ giảm xuống thì:
a. Lãi suất sẽ giảm do đó đầu tư tăng
b. Lãi suất sẽ giảm và đầu tư giảm
c. Lãi suất sẽ tăng do đó đầu tư giảm
d. Không câu nào đúng.
5) Cho biết tỷ lệ tiền mặt so với tiền gửi ngân hàng là 60%, tỷ lệ dự trữ so với tiền gửi
ngân hàng là 20%. Khi ngân hàng trung ương mua một lượng trái phiếu 10 tỷ đồng
sẽ làm cho lượng cung tiền tệ:
a. Tăng thêm 20 tỷ đồng
b. Giảm 20 tỷ đồng
c. Tăng thêm 10 tỷ đồng
d. Giảm 10 tỷ đồng.
6) Khi sản lượng thực tế bằng sản lượng tiềm năng, chính sách mở rộng tiền tệ sẽ tạo
ra tác động dài hạn:
a. Sản lượng thực không đổi và mức giá chung tăng lên
b. Sản lượng thực tăng và mức giá chung tăng
c. Sản lượng thực không đổi và mức giá không đổi
d. Sản lượng thực tăng và mức giá không đổi.
7) Khi cung tiền tệ tăng, nếu các yếu tố khác không đổi sẽ làm:
a. Lãi suất tăng do đó đầu tư giảm
b. Lãi suất giảm do đó đầu tư giảm
c. Lãi suất tăng do đó đầu tư tăng
d. Lãi suất giảm do đó đầu tư tăng.
8) Khi ngân hàng trung ương tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ:
a. Dẫn tới việc ngân hàng thương mại cho vay ít hơn và dự trữ tiền mặt nhiều hơn
b. Không tác động đến hoạt động của những ngân hàng thương mại
c. Dẫn tới việc ngân hàng thương mại cho vay ít hơn và dự trữ tiền mặt giảm
xuống
d. Dẫn tới việc gia tăng các khoản tiền gởi và cho vay của ngân hàng thương mại.
9) Ngân hàng trung ương bán công trái cho khu vực tư nhân, sẽ làm:
a. Giảm mức cung tiền
b. Một chính sách hạn chế tín dụng sắp được thực hiện
c. Giảm lãi suất
d. Tăng mức cung tiền.
10) Các công cụ chính làm thay đổi lượng cung tiền của ngân hàng trung ương là:
a. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu, hoạt động thị trường mở (mua bán
chứng khoán)
b. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hạn chế việc chi tiêu của chính phủ, lãi suất chiết khấu
c. Các câu trên đều đúng
d. Các câu trên đều sai.
11) Chính sách tiền tệ là một công cụ điều hành kinh tế vĩ mô vì:
a. Tiền tệ là công cụ trao đổi, là phương tiện thanh toán, là thước đo giá trị và là
phương tiện dự trữ giá trị.
b. Tiền tệ biểu hiện cho sự giàu có và quyết định sức mua xã hội.
c. Sự thay đổi cung tiền tệ và lãi suất có tác động đến mức giá, tỷ giá hối đoái,
mức sản lượng và mức nhân dụng.
d. Mọi nền kinh tế ngày nay đều là nền kinh tế tiền tệ và tốc độ tăng trưởng kinh
tế phụ thuộc tốc độ lưu thông tiền tệ.
12) Khi tỷ lệ thất nghiệp bằng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, chính sách tiền tệ mở rộng sẽ
tạo ra tác động dài hạn:
a. Làm tăng mức giá, còn GDP thực không đổi
b. Làm tăng mức giá và tăng GDP thực
c. Làm tăng GDP thực, còn mức giá không đổi
d. GDP thực và mức giá đều không đổi.
CHƯƠNG 8
THỂ CHẾ KINH TẾ
Chương 8 trình bày mô hình thể chế điều tiết các hoạt động kinh tế. Trước hết là
khái quát các yếu tố cấu thành của thể chế bao gồm cơ cấu tổ chức quản lý nhà nước
(chiều dọc, chiều ngang), hệ thống các quy tắc điều tiết các hoạt động kinh tế, công cụ
thực thi và kênh phản hồi các nguyên tắc điều chỉnh hoạt động kinh tế. Kế đến là trình bày
những trục trặc thường gặp trong thiết kế mô hình thể chế của các quốc gia trên các khía
cạnh phân cấp trong cơ cấu quản lý nhà nước; hệ thống pháp luật; công cụ thực thi chính
sách ; và vấn đề đạo đức, trách nhiệm của công chức tác động đến tính hiệu quả của thể
chế; cuối cùng là kênh tiếp nhận phản hồi của thể chế. Từ đó, gợi ý một số định hướng
mang tính nguyên tắc để giúp một quốc gia thiết kế mô hình thể chế và quản trị nhà nước
hiệu quả.
Nguyên tắc: dưới dạng hiến pháp, pháp luật, Công cụ thực thi các nguyên tắc:
thông tư, nghị định, quyết định, quy chế, quy - Bộ máy triển khai, giám sát việc
trình, quy định về: thực thi các nguyên tắc;
- Quyền sở hữu tài sản. - Phương tiện thực thi;
- Điều kiện kinh doanh, quyền cấp phép kinh - Phẩm chất đạo đức, tinh thần
doanh. trách nhiệm của công chức.
- Chế độ báo cáo, nghĩa vụ thuế.
- Kết thúc hoạt động KD (phá sản).
- Bảo hiểm rủi ro.
- Chính sách khuyến khích ưu đãi, hạn chế.
Hình 8.1: Cấu trúc của thể chế kinh tế
Chất lượng của thể chế được Rodrik (2000) đề cập đến trước hết thuộc về khâu xây
dựng thể chế phải đảm bảo tính dân chủ, huy động được nhiều đối tượng, tầng lớp trong xã
hội tham gia; kế đến là phạm vi bao phủ của các quy tắc phải đảm bảo điều chỉnh các hoạt
động trong nền kinh tế; và hiệu ứng của chính sách được đảm bảo cần có sự hỗ trợ của
công nghệ thông tin.
8.2. MỐI QUAN HỆ GIỮA THỂ CHẾ KINH TẾ VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Tăng trưởng kinh tế là thuật ngữ khá phổ biến chúng thường được đo lường bằng
sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc nội bình quân
đầu người (GDP/người). Sự tăng trưởng của GDP là kết quả của sự tăng trưởng của các bộ
phận cấu thành như tiêu dùng, đầu tư, chi tiêu chính phủ, chênh lệch xuất khẩu và nhập
khẩu. Theo dòng kinh tế học tân cổ điển các thành phần này phụ thuộc vào tích lũy vốn,
lao động, công nghệ, kiến thức và sự xuất hiện của nhiều các loại thị trường mới.
Bên cạnh các yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế theo cách lý giải của dòng lý
thuyết kinh tế học tân cổ điển, có nhiều nghiên cứu khẳng định thể chế có quan hệ chặt chẽ
với tăng trưởng kinh thế, chẳng hạn như Dollar & Kraay (2002) đã chứng minh hệ thống
pháp luật của quốc gia nào đầy đủ hơn thì có thu nhập bình quân đầu người cao hơn; Soto
(2000) đã chứng minh được quốc gia nào đảm bảo được quyền sở tài sản cho người dân tốt
và áp đặt cơ chế giải quyết bài toán hợp tác tốt sẽ tạo ra khả năng đầu tư vốn vật chất phục
vụ cho tăng trưởng kinh tế; Rodrik (2000) đã chỉ ra được vai trò của các quy định điều
chỉnh thị trường, bảo hiểm và chế độ chính trị là các nhân tố quan trọng trong việc khuyến
khích đầu tư và tăng trưởng kinh tế của các quốc gia.
Cấu trúc của thể chế kinh tế được minh hoạ bởi Hình 8.2.
Cơ cấu tổ chức quản nhà nước về các Kênh phản hồi:
hoạt động kinh tế: - Cơ chế tiếp nhận phản hồi
- Phân chia chiều dọc. - Xử lý thông tin phản hồi
- Phân chia theo chiều ngang. - Kết quả phản hồi
Nguyên tắc: dưới dạng hiến pháp, pháp Công cụ thực thi các nguyên tắc:
luật, thông tư, nghị định, quyết định, quy - Bộ máy triển khai, giám sát việc
chế, quy trình, quy định về: thực thi các nguyên tắc;
- Quyền sở hữu tài sản. - Phương tiện thực thi;
- Điều kiện kinh, quyền cấp phép kinh - Phẩm chất đạo đức, tinh thần
doanh. trách nhiệm của công chức.
- Chế độ báo cáo, nghĩa vụ thuế.
- Kết thúc hoạt động KD (phá sản).
- Bảo hiểm rủi ro.
- Chính sách khuyến khích, hạn chế.
Hình 8.2: Các yếu tố của thể chế tác động đến phát triển kinh tế.
TÓM TẮT
Thể chế kinh tế được cấu thành bởi 4 thành tố nhằm điều tiết các hoạt động trong
nền kinh tế, bao gồm: (1) Hệ thống các nguyên tắc; (2) Cơ cấu tổ chức để ban hành và
thực thi các nguyên tắc; (3) tính kỷ cương trong thực thi nguyên tắc đã ban hành; (4) khả
năng tiếp nhận phản hồi và điều chỉnh các nguyên tắc. Thể chế kinh tế tạo nên sự khác biệt
về giàu nghèo giữa các quốc gia, tuỳ thuộc vào mức độ kiểm soát các trục trặc trong các
thành tố của thể chế.
Câu 8.2: Thể chế kinh tế có quan hệ như thế nào đối với tăng trưởng kinh tế?
Câu 8.3: Nêu mối quan hệ giữa thể chế chính trị, quyền lực chính trị, thể chế kinh tế, và
phân phối nguồn lực trong một nền kinh tế.
Câu 8.4: Tóm tắt các trục trặc thường gặp của hệ thống thể chế kinh tế trong một nền kinh
tế.
Anh/chị hãy phân tích những thay đổi trong thể chế kinh tế Việt Nam từ năm 1975 đến
nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
[1] Nguyễn Như Ý, Trần Thị Bích Dung (2014), Kinh tế vĩ mô, NXB trường ĐH Kinh tế
TP HCM.
[2] Nguyễn Như Ý & Trần Thị Bích Dung (2009). Kinh tế Vĩ mô. NXB Thống kê.
[3] Nguyễn Như Ý & các tác giả (2009). Tóm tắt – Bài tập – Trắc nghiệm Kinh tế Vĩ
mô, NXB Thống kê.
[4] Dương Tấn Diệp (2007), Kinh tế vĩ mô, NXB Thống kê.
[5] Nguyễn Ngọc Thạch, Lý Hoàng Ánh (2014),Giáo trình Kinh tế học vĩ mô. Nhà xuất
bản kinh tế TP HCM.
[6] Nguyễn Thái Thảo Vy (2009), Kinh tế học vĩ mô(Phần cơ bản), NXB Tài Chính.
[7] Nguyễn Văn Dần (2007), Kinh tế học vĩ mô, Nhà xuất bản tài chính.
[8] Nguyễn Văn Luân, Nguyễn Tiến Dũng, Nguyễn Văn Trình, Nguyễn Chí Hải, 2007,
Kinh tế vĩ mô, nhà xuất bản Đại học quốc gia TP HCM.
[9] Trần Nguyễn Ngọc Anh Thư & Phan Nữ Thanh Thuỷ (2006). Kinh tế vĩ mô, NXB
Phương Đông.
Tài liệu dịch từ tiếng Anh
[1] David Begg (2008), Kinh tế học Vĩ mô, Phiên bản 8, Bản dịch tiếng Việt của Đại
học Kinh tế quốc dân, NXB Thống kê .
[2] David Begg (2008), Bài tập Kinh tế học Vĩ mô, Phiên bản 8, Bản dịch tiếng Việt của
Đại học Kinh tế quốc dân, NXB Thống kê.
[3] David Begg, Stanley Fischer, Rudiger Dornbusch (2008), Kinh tế học, NXB Thống Kê,
Hà Nội.
[4] Damian Ward, David Begg (2007), Kinh tế học vĩ mô, Nhà xuất bản thống kê.
[5] Paul A. Samuelson, William D. Nordhaus (1997), Kinh tế học, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
TIẾNG ANH
[1] Amartya K. Sen (1970), Collective Choice and Social Welfare. "5.3 Basic and
Nonbasic Judgments" & "5.4 Facts and Values," pp. 59–64.
[2] Blanchard, Oliver (2003). Macroeconomics, 3th edition. Prentice Hall.
[3] Daniel M. Hausman and Michael S. McPherson (1996), Economic Analysis and Moral
Philosophy, Cambridge: Cambridge University Press.
[4]. Dani Rodrik (2000). Institutions for High-Quality Growth: What They are and How to
Acquire Them. NBER Working Paper No. 7540.
[5] Dollar, D., & Kraay, A. (2002). “Growth is Good for the Poor”. Journal of Economic
Growth, 7(3), 195- 225.
[6] John C. Harsanyi, 1987, "Value judgemts," The New Palgrave: A Dictionary of
Economics, v. 4, pp. 792–93
[7] John M. Keynes (1936,1997), The General Theory of Employment, Interest, and
Money, Prometheus Books
[8] Lawrence S.Davidson và Richard T.Froyen (1983), Study guide Macroeconomics
theories and policies, NXB Macmillan.
[9] Mankiw, Gregory N. (2002), Macroeconomics, Fifth edition, Worth Publisher.
[10] Mankiw, N. Gregory (2004). Principles of Economics. 3th edition. Thompson.
[11] Milton Friedman (1953). "The Methodology of Positive Economics," Essays in
Positive Economics
[12] North, D.C. and R.P. Thomas (1973). The Rise of the Western World: A New
Economic History. Cambridge: Cambridge University Press.
[13] North, D.C. and R.P. Thomas (1977). “The First Economic Revolution”. Economic
History Review, vol. 30, 2nd series, no.2, 229-241.
[14] North, D.C. (1990), Institutions, Institutional Change and Economic Performance.
Cambridge and New York: Cambridge University Press.
[15] North, Douglass C. and Barry R. Weingast (1989). "Constitutions and Commitment:
[16] The Evolution of Institutions Governing Public Choice in Seventeenth-Century
England." The Journal of Economic History, 49:4.
[17] Paul A. Samuelson và William D. Nordhaus (1989), Macroeconomics, 13th edition,
NXB McGraw-Hill.
[18] Phillipe Mongin (2002), "Is There Progress in Normative Economics?", same title in
Stephan Boehm, et al., eds., Is There Progress in Economics?
[19] Robert E. Hall và John B. Taylor (1988), Macroeconomics theory, performance and
policy, 2th edition, NXB W.W. Norton & Company.
[20] Rudiger Dornbusch (1998), Stanley Fischer và Richard Startz, Macroeconomics, 7th
edition, NXB McGraw-Hill.
[21] Soto, H. de (2000). The Mystery of Capital. Basic Books Perseus Books Group ISBN
0465016154.
[22] Stanley Wong (1987), "positive economics," The New Palgrave: A Dictionary of
Economics, v. 3, pp. 920–21.
[23] Steven E. Landsburg và Lauren J.Feinstone (1997), Macroeconomics, NXB McGraw-
Hill, 1997.
[24] World Bank. (2000). “Making Transition Work for Everyone: Poverty and Inequality
in Europe and Central Asia”. Washington DC: World Bank.