You are on page 1of 14

Truyền xung băng cơ sở

Có 3 vấn đề quan trọng trong kỹ thuật truyền xung băng cơ sở là: Nhiễu giữa các ký hiệu,
Lọc phù hợp và ước lượng tỷ lệ bit lỗi.
1. Nhiễu giữa các ký hiệu
Thường viết tắt là ISI (Inter Symbol Interference). Đó là hiện tượng các dạng sóng đại
diện cho các tổ hợp bít khi gửi đi thì tách biệt lần lượt song khi nhận được lại có phần
chồng lấn lên nhau gây khó khăn cho việc nhận diện dạng sóng ở bên thu. Hiện tượng
này đặc biệt thấy rõ khi môi trường truyền là đa đường (multipath). Tuy nhiên ở đây ta
nhấn mạnh là ngay khi truyền 1 đường thì vẫn xảy ra ISI trong truyền tin số. Điều này
được giải thích như sau:
- Dạng sóng số giới hạn trong miền thời gian thì cũng vô hạn trong miền phổ
- Kênh truyền thường có băng thông (bandwidth) giới hạn, nên khi dạng sóng
truyền qua phổ của nó bị cắt còn giới hạn
- Phổ giới hạn có nghĩa là dạng sóng xoải rộng ra vô hạn dẫn đến chồng lấn lên
dạng sóng tiếp theo.
Trong lịch sử phát triển truyền tin số, ISI là vấn đề nan giải. cách giải quyết thô sơ là
dạng sóng sau phát chậm lại cách biệt với dạng sóng trước để bên thu không còn bị chồng
lấn; tuy nhiên cách này làm giảm nghiêm trọng tốc độ truyền tin. Người đề xướng ra cách
giải quyết vấn đề ISI là Nyquist (1928). Phương pháp giải quyết gắn với tiêu chuẩn thiết
kế bộ lọc truyền xung băng cơ sở mang tên ông là lọc Nyquist. Ý tưởng của ông như sau:
Do tính chất vật lý của kênh truyền và bản chất giới hạn của dạng sóng số trong thời gian,
nên hiện tượng ISI là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên trong truyền tin số bên thu chỉ
quan tâm đến tín hiệu nhận được tại thời điểm lấy mẫu. nên nếu có cách nào tạo lại dạng
tín hiệu trước khi lấy mẫu để tại các thời điểm lấy mẫu không xảy ra ISI (còn gọi là ISI
zero) là đạt yêu cầu, còn các thời điểm khác chồng lấn nhau không sao. Dạng sóng kiểu
hàm sinc(x)=sin(x)/x là một ví dụ (slice…)
Giải bài toán trong miền tần số của dạng sóng mong muốn, Nyquist đi đến tiêu chuẩn tạo
dạng trong miên tần số là:

Công thức này diễn tả: Chồng chập các phiên bản dịch của P(f), tức là phổ của dạng sóng
mong muốn, bằng 1 hằng số. Có thể thấy rằng tiêu chuẩn này có nhiều nghiệm thỏa mãn.
- Nghiệm lý tưởng:
Nghiệm này phổ có dạng chữ nhật (slice..). Rõ ràng dịch liên tiếp phổ này sang bên phải
hay bên trái với bước dịch là 1/Tb sẽ lấp đầy miền tần số với độ lớn Tb. Nghiệm này có độ
rộng phổ nhỏ nhất còn gọi là phổ Nyquist. Tuy nhiên dạng sóng miền thời gian có nó tắt
chậm (theo 1/t) nên nếu đồng hồ lấy mẫu (sampling) bị rung (xê dịch nhỏ) cũng tạo cho
nhiều giá trị khác zero của các ký hiệu xung quanh cộng thêm vào, gây nên sai khác
nghiêm trọng. Đây là lý do nghiêm nay gọi là nghiệm lý tưởng vì nó đòi hỏi độ chính xác
lấy mẫu phải lý tưởng. Điều này không đạt được trong thực tế
- Nghiệm cosin tăng:
Để khắc phục hiện tương rung của đồng hồ lấy mẫu, dạng sóng mong muồn cần tắt nhanh
hơn, để nếu khi lấy mẫu có xê dịch nhỏ chỉ một số ít dạng sóng liền kề cộng thêm vào,
dạng sóng ở xa không tác động động đáng kể. Khi đó sai sót do ISI nhỏ là chấp nhận
được trên thực tế. Điều này đồng nghĩa với việc mở rông phổ của tín hiệu mong muốn
thêm một tỷ lệ α (slice…)
B=W(1+α) với 0<α<1
Khi mở rộng phổ theo đường cong cosin, phổ vẫn thỏa mãn tiêu chuẩn chồng chập các
phiên bản dịch theo tiêu chuẩn Nyquist đồng thời thỏa mãn yêu cầu dạng sóng tắt nhanh
trong thời gian (theo 1/t2) (slice…). Hệ số mở rộng phổ α được chọn tùy thuộc mức
chống chịu lượng ISI của bên thu, và là giá phải trả để dạng sóng co hẹp lại (tắt nhanh
hơn).
2. Bộ lọc phù hợp (Matched filter)
Bộ lọc này nhằm cực đại tỷ số SNR tại thời điểm lấy mẫu ở bên thu, nhằm giảm ảnh
hưởng của tạp âm. Vai trò của bộ lọc phù hợp tương tự như bộ lọc cộng hưởng trong
truyền tin tương tự. Khi dò đài trong Radio, ta thay đổi giá trị tụ C dẫn đến thay đổi tần
số riêng cộng hưởng f0. Khi tần số riêng này trùng với tần số đài nào cần thu sẽ cộng
hưởng (hay phù hợp) với đài đó dẫn đến tăng SNR còn các tần số đài khác không được
cộng hưởng sẽ bị triệt nhỏ đi.
Sử dụng bất đẳng thức Schwarz trong biểu diễn miền tần số sau đó chuyển sang miền
thời gian, ta có đáp ứng xung của bộ lọc phù hợp có dạng h(t)=g(T-t). tức là đáp ứng phải
phù hợp với dạng tín hiệu.
Do kênh truyền trên thực tế luôn đồng thời có băng tần giới hạn và tạp âm, nên tạo dạng
sóng trước bộ lấy mẫu phải đồng thời thỏa mãn tiêu chuẩn Nyquist và tiêu chuẩn bộ lọc
phù hợp. Đây là vấn đề quan trọng trong thiết kế. Để có câu trả lời ngắn gọn, từ công
thức mô tả tổng thể hệ thống truyền thông trên miền tần số (slice..) ta có đáp ứng tần số
của bộ lọc phát và bộ lọc thu được thiết kế bằng căn của phổ Nyquist lựa chọn khi cho
kênh truyền có băng tần đủ rộng.
3. Ước lượng tỷ lệ lỗi
Trong chương trình đại học ta chỉ xem xét kênh truyền có tạp âm. Khi đã thiết kế tốt theo
tiêu chuẩn Nyquist và tiêu chuẩn lọc phù hợp thì lỗi đường truyền gây nên chủ yếu do tạp
âm. Khác với vấn đề ISI là về lý thuyết có thể làm cho ISI zero, song tạp âm lại không
thể làm cho tạp âm zero vì nó sinh ra do chuyển động nhiệt ngẫu nhiên tác động lên các
hạt tải điện.
Tạp âm do nhiệt sinh ra là tín hiệu ngẫu nhiên cộng thêm vào tín hiệu mong muốn. Do là
tín hiệu ngẫu nhiên nên ngoài biểu diễn trên miền thời gian, miền tần số còn có biểu diễn
phân bố xác suất theo độ lớn (biên độ) tạp âm. Trong nhiều thực nghiệm thực tế cho thấy
phân bố xác suất theo độ lớn của tạp âm là hàm Gau (hình quả chuông), tức là xác suất
giảm theo hàm mũ của độ lớn. Ngoài ra biểu diễn miền tần số của tạp âm là đường song
song với trục tần số, tức là tần số nào cũng có mặt như là ánh sáng trắng chứa đựng nhiều
tần số (màu sắc). Do đó tạp âm nhiệt hay được viết tắt là AWGN (additional White Gauss
Noise)
Tín hiệu dạng sóng có biên độ A (hay -A) đến nơi thu sẽ cộng với tạp âm nên giá trị lấy
mẫu có thể lớn hơn A hoặc nhỏ hơn A theo phân bố xác suất của tạp âm. Thông thường
bộ quyết định sẽ chọn ranh giới quyết nằm giữa A và –A tức là nếu giá trị mẫu>0 quyết là
A (ứng với 1), giá trị mẫu <0 quyết là-A (ứng với 0). Do phân bố xác suất của tạp âm trải
dài từ -∞ đến +∞ nên khi quyết như vậy sẽ có tỷ lệ sai do đuôi phân bố của dạng sóng kia
lấn sang. Tích phân phần đuôi phân bố lấn sang trong miền quyết định sẽ cho ta tỉ lệ lỗi
đường truyền (slice…)
Tích phân này không tính được trực tiếp (dùng bảng tra) được định nghĩa bằng hàm lỗi
erfc(u). Biến của hàm lỗi là Eb/N0 Và thường đồ thị diễn tả tỷ lệ lỗi viết trong thang
Logarit, có dạng hình thác nước (Water fall)
Bên cạnh công thức tính tỷ lệ lỗi chính xác cần lưu ý các ước lượng gần đúng bằng bất
đẳng thức (slice…). Các bất đẳng thức này cho phép ước lượng nhanh cận trên của tỷ lệ
lỗi.
Truyền xung băng cơ sở II
Phần kiến thức này làm sâu sắc hơn việc giải quyết vấn đề ISI và tạp âm.
Nhắc lại rằng nghiệm lý tưởng theo tiêu chuẩn Nyquist đảm bảo phổ tín hiệu dạng sóng
hẹp nhất với một tốc độ truyền xác định: W=Rs/2 (điều này cũng có nghĩa nó chiếm băng
tần hẹp nhất trên kênh truyền), song nghiệm này không chịu được sự sai lệch của đồng hồ
lấy mẫu (gây nên tích lũy ISI lớn). Nghiệm chịu được sai lêch này như cosin tăng lại mở
rộng thêm phổ tín hiệu (theo hệ số α), có nghĩa là chiếm nhiều chỗ hơn trên băng tần
kênh.
Một số phương pháp lý thuyết đặt mục tiêu giải quyết vấn đề chịu sai lệch đồng hồ lấy
mẫu mà vẫn đảm bảo phổ của tín hiệu là W=R s/s (còn gọi là phổ Nyquist). Có 2 phương
pháp tiêu biểu sau:
1. Mã mức tương quan:
Phương pháp này đặt thêm một bộ mã trước bộ lọc Nyquist lý tưởng.
Ví dụ: duobinary là bộ tổng 2 ký hiệu liên tiếp trước khi thực hiện Nyquist lý tưởng (sau
đó mới lấy mẫu). Phổ và dạng sóng của kỹ thuật này cho trên slice 3. Thực chất là kéo dài
dạng sóng nhằm đảm bảo phổ tín hiệu không mở rộng và dạng sóng vẫn tắt nhanh.
Kết quả lấy mẫu của phương pháp này là c k có 3 giá trị -2,0,2 (slice 4). Để xác định giá
trị bít truyền dùng giá trị lấy mẫu được trừ đi giá trị bít truyền trước đó

.
Tuy nhiên kỹ thuật này lại có nhược điểm là truyền lỗi vì dựa vào giá trị quyết định trước
đó. Nếu trước đó quyết định sai, thì sau đó cũng sai. Để khắc phục điều này người ta đưa
thêm 1 bộ tiền mã vào phía trước đó là bộ cộng modul-2

Toàn bộ hệ được gọi là bộ mã mức duobinary sửa đổi. (slice 5)


Theo ý tưởng nói trên có thể tổng quát nhiều kiểu mã mức tương quan, còn gọi là mã
mức tương quan từng phần. Sơ đồ tổng quát trên slice 7 trong đó mã duobinary và
Modified duobinary là các trường hợp riêng của mã mức tương quan tổng quát có các hệ
số bộ mã tương quan khác nhau.
2. Bộ lọc tạo dạng Gau:
Ở phương pháp này về lý thuyêt không đảm bảo ISI zero tại thời điểm lấy mẫu như tiêu
chuẩn Nyquisst, song nó lại đáp ứng yêu cầu giống như khi đồng hồ lấy mẫu không ổn
định là tích lũy ISI không lớn, nên vẫn được dùng trên thực tế trong một số trường hợp
như GMSK ở hệ thống GSM (trong thông tin di động). Bộ lọc này không làm dạng xung
dao động mà giảm trơn dần. Có thể tính hệ số α theo độ rộng phổ tín hiệu cho trước.
(Slice 8).
Bộ cân bằng ZF:
Trên thực tế ở một số đường truyền xác định (đường điện thoại), cho dù đã thiết kế các
bộ lọc phát, thu, kết hợp với kênh truyền để đảm bảo dạng Nyquist trước lấy mẫu, song
do thăng dáng của đường truyền và hệ thống (mạng có tác động liên quan giữa các đường
truyền), nên đáp ứng xung của đường truyền tổng hợp không đảm bảo ISI zero tại thời
điểm lấy mẫu. Do đó có thể bổ sung một bộ lọc ZF (zeroForcing) để đảm bảo ISI zero tốt
hơn. Bộ lọc này thông thường được thiết kế như một bộ lọc đường trễ (Delay line). Các
hệ số bộ lọc có được từ giải một hệ phương trình tuyến tính từ các tham số sai lệc đã biết
và tham số mong muốn.
Bộ lọc MMSE:
Việc xác định hệ số bộ lọc ZF về lý thuyết gắn với việc tìm ma trận nghịch đảo của ma
trận đường truyền. Nếu đường truyền có đáp ứng biên độ nhỏ thì nghịch đaỏ có thể gây
nến sai số lớn hơn cả tạp âm. Do vậy bộ lọc MMSE có hệ số xác định dựa trên yêu cầu
tổng thể là: hệ thống phải có trung bình bình phương các sai số quyết định là nhỏ nhất
nhỏ nhất so với các dãy huấn luyện. Đây là một bộ lọc dung hòa lỗi do ISI và lỗi do tạp
âm của kênh truyền gây nên. Thuật toán xác định các hệ số của bộ lọc dựa trên nghiêm
của bài toán tìm cực tiểu trung bình bình phương sai số quyết định.
Truyền tin PAM hạng M
Kỹ thuật này sử dụng mức biên độ (Pulse Amplitude) khác nhau như những dạng sóng
khác nhau để truyền. Nếu có M mức, ứng với M dạng sóng thì mỗi dạng sóng sẽ mang
thông tin là log2M bít và thời gian của dạng sóng là T blog2M. Điều nàu có nghĩa là tốc độ
dạng sóng (còn gọi là tốc độ Baud) R s= Rb/log2M, hay phổ tín hiệu truyền tin sẽ chiếm
băng tần kênh ít hơn. Trả giá cho kỹ thuật này như ta sẽ thấy sau này là tỷ lệ lỗi cao hơn
nếu tín hiệu có cùng công suất.
Mã đường (Line Coding)
Phổ của tín hiệu trong truyền tin số băng cơ sở phụ thuộc vào dạng xung tín hiệu lẫn cách
thức (format) sử dụng các dạng xung đó. Bên cạnh dạng xung, việc tạo ra cách thức khác
nhau sử dụng dạng xung chính là các mã đường. Mã đường nhằm đảm bảo tính chất
thống kê của tín hiệu truyền đạt được một số mục tiêu:
- Tín hiệu không có thành phần 1 chiều: Nhằm dễ dàng chuyển tiếp, ghép nối qua
các tụ điện, biến áp.
- Tín hiệu dễ đồng bộ thời gian và có tính chống nhiễu cao.
- Tín hiệu có phổ hẹp nhất: nhằm chiếm băng tần hẹp nhất trong kênh
Khi áp dụng tính toán phổ mật độ công suất với các tín hiệu điển hình như: Tín hiệu đơn
cực, cực, lưỡng cực, mã Manchester…cho cả tín hiệu RZ và NRZ như slice 14 ta dễ thấy
tín hiệu lưỡng cực (bipolar) có được nhiều ưu điểm hơn cả. Kiểu mã đường này và một
số biến thể của nó như AMI,..hay sử dụng trong truyền tin quang.

Lý thuyết không gian tín hiệu


1. Ta sử dụng 2 ví dụ để bắt đầu trình bày lý thuyết không gian tín hiệu
- Kỹ thuật BPSK (Binary Phase Shift Keying): Trong kỹ thuật này thông tin mang
bởi pha của sóng mang và mỗi dạng sóng mang 1 bit nên số dạng sóng M=2,
Số hàm cơ sở chọn là N=1 và được coi là vecto cơ sở. Khi đó dạng sóng biểu diễn
qua hàm cơ sở tạo nên không gian vecto 1 chiều còn gọi là không gian tín hiệu.
Các điểm cuối của vecto biểu diễn tạo nên chòm 2 sao tín hiệu
Dựa trên biểu diễn qua hàm cơ sở và không gian tín hiệu, có thể xây dựng sơ đồ
thu phát và ước lượng tỷ lệ lỗi của kỹ thuật này. (theo các slice 4,5,6)
- Kỹ thuật BFSK (Binary Frequency Shift Keying): Kỹ thuật này thông tin mang
bởi tần số sóng mang. Do mỗi dạng sóng mang 1 bít nên số dạng sóng M=2. Song
khác với BPSK, ở trường hợp này số hàm cơ sở phải là N=2 vì các dạng sóng trực
giao với nhau. (còn các hàm cơ sở như thường lệ được chuẩn hóa và trực giao
nhau)
Khi đó 2 dạng sóng đươc biểu diễn là 2 vecto trong không gian 2 chiều với các tọa
độ (√ Eb , 0) và (0 , √ Eb) (slice 9)
Sơ đồ phát thu và ước lượng lỗi được xây dựng và tính toán dưa trên biểu diễn
hình học của không gian tín hiệu, ở đó đường phân giác thứ nhất phân chia 2 miền
quyết định, còn đường nối 2 sao tín hiệu trở thành trục mà chiếu tín hiệu nhận
được lên đó ta có bài toán ước lượng lỗi quen thuộc với hệ số tọa độ giảm đi √ 2
Sự khác biệt của hàm lỗi trong kỹ thuật BFSK so với BPSK được giải thích bởi
khoảng cách của 2 sao gần hơn (giảm √ 2 lần) với cùng một năng lượng bít
2. Tổng quát hóa vấn đề: Biểu diễn hình học của tín hiệu
Xuất phát từ nhu cầu truyền nhiều bít trên một dạng sóng dẫn đến rất nhiều dạng sóng
phải thiết kế. Số dạng sóng là lũy thừa 2 của số bít (M=2 n). Yêu cầu đặt ra là khi có
nhiều dạng sóng như vậy, chỉ dẫn thiết kế sơ đồ thu phát như thế nào cho khoa học,
cho hiệu quả và đánh giá lỗi của kỹ thuật hạng cao này ra sao.
Lý thuyết không gian tín hiệu nhằm thực hiện điều này. Trong đó 1 dạng sóng được
coi như một vecto trong không gian vecto, tập các dạng sóng tạo nên 1 chòm sao tín
hiệu (signal constellation) trong không gian vecto. Khi đó các dạng sóng có thể biểu
diễn như một tổ hợp tuyến tính của các vecto cơ sở. Việc thiết kế sẽ được tối giản
theo số chiều của không gian tức là số vecto cơ sở.
Vấn đề cơ bản là xác định số chiều và các vecto cở sở của không gian này. Khi đó:
Sơ đồ phát chẳng qua là thực hiện phát một tổ hợp tuyến tính các hàm cơ sở (công
thức tổng hợp).
Sơ đồ thu là tính các hệ số biểu diễn dạng sóng (công thức phân tích) khi nhân dạng
sóng với các hàm cơ sở tại nơi thu, hay nói các khác là xác định các hình chiếu của
vecto tín hiệu nhận được lên các hàm cơ sở.
Ước lượng xác suất lỗi được xác định dựa trên biên phân chia miền chứa sao trong
giản đồ chòm sao và dạng phân bố tạp âm gây nên quyết định sai.
3. Qui trình Gram-Schmidt
Qui trình này nhằm xác định các hàm (vecto) cơ sở của một tập dạng sóng đã cho.
Qui tắc gồm các bước:
- Chọn một dạng sóng bất kỳ và chuẩn hóa nó, coi đó là chiều và vecto cơ sở đầu
tiên
- Chiếu dạng sóng thức 2 lên chiều đầu tiên và xác định chiều vuông góc với chiều
đầu tiên là chiều thứ 2 (thông qua hiệu vecto thứ 2 và hình chiếu của nó lên chiều
đầu tiên), chuẩn hóa chiều thứ 2
- Chiếu dạng sóng thứ 3 lên 2 chiều trên và tìm chiều thứ 3 vuông góc với 2 chiều
này (thông qua hiệu vecto thứ 3 với tổng các vecto hình chiếu)…cứ thế cho đến
dạng sóng cuối
4. Sự tương đương giữa sơ đồ thu tương quan và sơ đồ thu theo lọc phù hợp
Ở bộ thu có thể thực hiện 2 kỹ thuật:
- Thu tương quan: Phương pháp này thực hiện đúng như công thức phân tích 1
vecto trong không gian vecto để làm cơ sở nhận dạng vecto đó
- Thu theo lọc phù hợp: Thay vì nhân với các hàm cơ sở, ở bên thu thiết kế các bộ
filter phù hợp với các dạng sóng đến (phương pháp này có nhược điểm nếu số
dạng sóng nhiều thì cần nhiều bộ lọc). Lý thuyết chứng minh sự tương đương của
2 phương pháp này (slice 18)
Tùy theo các mục đích cụ thể mà bên thu lựa chọn cách thiết kế, tuy nhiên sau đó cả 2
kỹ thuật này đều có phần nhận dạng dạng sóng gioosnh nhau theo tiêu chuẩn MAP,
ML hay tiêu chuẩn khoảng cách tối thiểu đây là các kỹ thuật nhằm đảm bảo xác suất
quyết định sai (lỗi) nhỏ nhất, sẽ được trình bày ở phần tiếp sau
5. Hàm log khả năng:
Quyết định dạng sóng nhận được là dạng sóng nào trong số các dạng sóng được thiết
kế ở bên phát là quyết định hậu nghiệm theo đó phải tìm xác suất hậu nghiệm cực đại
(MAP) slice 20. Tuy nhiên tính xác suất hậu nghiệm dài và phức tạp nên khi xác suất
tiền nghiệm (xác suất các dạng sóng vào kênh) như nhau, bài toán tìm cực đại xác
suất hậu nghiệm chuyển về tìm cực đại các hàm khả năng (Likelihood function).
Các hàm khả năng sinh ra bởi phân bố tạp âm nên có dạng hàm e mũ. Một cách thuận
tiện để làm việc với hàm khả năng là làm việc với hàm loga của nó (slice 19)
6. Qui tắc quyết định theo xác suất lỗi tối thiểu
Do tổng xác suất các dạng sóng nhận được bằng 1 nên để xác suất quyết định sai nhỏ
nhất thì xác suất của dạng sóng quyết định phải lớn nhât (Pe=1-Pm)
- Qui tắc MAP (Maximum Poster Probability) Để đạt lỗi tối thiểu thì xác suất đầu
cuối nhận được phải là lớn nhất. Việc tính toán xác suất này nói chung phức tạp, vì
xác suất đầu cuối bằng tích xác suất nguồn tuôn ra và xác suất trên kênh truyền.
Dùng qui tắc Bayes (đổi xác suất hậu nghiêm thành xác suất tiền nghiệm) và khi
nguồn tín hiệu có xác suất bằng nhau giữa các sao, khi đó xác suất đầu cuối chỉ
phu thuộc vào kênh truyền (tạo ra các khả năng khác nhau), nên qui tắc quyết định
sẽ trở nên đơn giản hơn là quyết định sao nào có khả năng (qua kênh truyền) lớn
nhất đó là qui tắc ML.
- Qui tắc ML(Maximum Likelihood): Tính toán qui tắc này dựa trên tạp âm phân bố
theo hàm mũ và sau khi lấy logarit hàm khả năng (Loga Likelihood Function) bài
toán đưa về so sánh khoảng cách tín hiệu nhận được với vị trí các sao trong chòm
sao. Qui tắc ML trở thành qui tắc tìm khoảng cách nhỏ nhất

Điều chế số sóng mang I


- Mô hình chung:
Bên phát có bộ ánh xạ tổ hợp nhóm bít vào 1 số phức, số phức này được điều chế lên
hàm cơ sở là sóng cosin và sóng sin.
Bên thu tách sóng (detection) lấy ra lại số phức (đã bị méo do kênh) thông qua việc nhân
với các hàm cơ sở, sau đó quyết định theo qui tắc MAP hoặc ML.
- Kỹ thuật QPSK (Quadrature Phase Shift Keying)
Trong kỹ thuật này mỗi dạng sóng mang 2 bit, thông tin chứa trong pha nên cần 4 dạng
sóng (lêch pha nhau π/2). Dễ dàng tìm ra 2 hàm cơ sở là hàm cosin và hàm sin.
Sơ đồ thực hiện bằng việc trong 1 cặp bit thì tách bit I (bít đứng trước) điều chế sóng
cosin, bít Q (bít đứng sau) điều chế sóng sin. Bít trước được làm trễ T b để 2 phép điều chế
là đồng thời sau đó tín hiệu được cộng lại trong thời gian 2Tb tạo nên tín hiệu QPSK.
Sơ đồ giải điều chế và ước lượng BER được coi như 2 quá trình BPSK độc lập
- OQPSK.
Nhược điểm của phương pháp QPSK là có thể chuyển pha 180 0 giữa 2 ký hiệu liên tiếp.
Điều này tạo nên nhiều hài phi tuyến và mở rộng phổ truyền. Để tránh điều này OQPSK
(Offset QPSK) làm dịch dòng dữ liệu của nhánh I và nhánh Q một khoảng T b để không
tạo ra dịch pha cùng lúc của nhánh I và Q. Trên giản đồ chòm sao sẽ thấy đường di
chuyển giữa các sao chỉ là hình vuông và không có đường chéo, còn dạng sóng sẽ có sự
chuyển mức biên độ nhỏ hơn ở QPSK.
- π /4 QPSK

Kỹ thuật này dung hòa ưu nhược điểm của 2 kỹ thuật trên, tạo nên dịch pha ở mức 135 0.
Điều này được thực hiện thông qua xây dựng 2 chòm sao QPSK lêch nhau 90 0. Các ký
hiệu điều chế được tuần tự nhảy giữa 2 chòm sao, do đó kỹ thuật điều chế này đòi hỏi
phải biết trạng thái điều chế trước đó (điều chế có nhớ). Phương trình điều chế có nhớ và
dạng sóng được cho trên slice.
- MSK (Minimum Shift Keying)
MSK là kỹ thuật điều tần nhị phân đạt một số ưu điểm: khoảng cách 2 tần số nhỏ nhất,
các dạng sóng trực giao và có pha kết nối liên tục (không nhảy pha như QPSK). Để đảm
bảo pha kết nối liên tục, kỹ thuật này là kỹ thuật điều chế có nhớ. Trên giản đồ dạng sóng
có 4 dạng sóng song thực hiện truyền 1 bít nhị phân. Dang sóng sau phải có điểm đầu kết
nối với điểm cuối dạng sóng trước và quyết định cũng dựa trên kết quả tích phân có thời
gian 2Tb.
Phương pháp thực hiện kỹ thuật này cũng dựa trên 2 hàm cơ sở đặc biệt ở bên phát và thu
và kết quả tách sóng của ký hiệu trước đó.
- GMSK
Ở phương pháp này đưa thêm bộ lọc Gau vào để làm trơn dữ liệu trước khi cấp lên bộ
điều chế MSK. Điều này đảm bảo giảm độ rộng phổ của tín hiệu đồng thời vẫn chống ISI
hiệu quả. Kỹ thuật này được thực hiện trong hệ thống thông tin di động thế hệ 2 ở châu
Âu là hệ GSM (Global System for Mobile). Hệ thống thống này được du nhập bào Việt
nam thông qua các công ty MobiPhon, Vinaphon, Viettel
- Kỹ thuật DPSK (Difference Phase Shift Keying)
Khác với các kỹ thuật BPSK, BFSK, QPSK là các kỹ thuật tách đồng bộ, tức là đòi hỏi
dao động tại chỗ phải không lệch pha (đồng bộ) với sóng mang tới (đảm bảo điều này
thường phải dùng đến vòng bám pha, PLL ngoại trừ một số kỹ thuật khôi phục sóng
mang khác).
Ở DPSK cho phép không phải dùng bộ PLL (Phase Lock Loop), chấp nhận sự sai pha tùy
ý (gây bởi đường truyền) giữa dao động cục bộ và sóng tới. Phương pháp này dựa trên
giả thiết là kênh không thay đổi trong thời gian 2T b (khá hợp lý trên thực tế), điều này
dẫn đến ký hiệu trước sai pha thế nào thì ký hiệu sau cũng sai pha như thế. Khi đó thì
hiệu 2 ký hiệu liên tiếp sẽ không còn phụ thuộc đại lượng sai pha (và do vậy không cần
biết cũng như không cần điều khiển đại lương sai pha này này)
Kỹ thuật này đòi hỏi bổ sung bộ mã vi phân ở bên phát: Nếu bít thông tin là 1 thì lối ra
giống lối ra trước đó (hay dạng sóng sau giống dạng sóng trước đó). Nếu bit thông tin
bằng 0 thì lối ra đảo so với lối ra trước đó.
Dựa trên điều này bên thu chỉ việc so sánh dạng sóng nhận được và dạng sóng trước đó.
Nếu giống nhau quyết định thông tin là 1, ngược nhau quyết thông tin là 0. Để khắc phục
trường hợp lêch pha φ=π/2, bên thu dùng 2 hàm cơ sở trực giao tách song song và phối
hợp với nhau (nếu nhánh cosin cho kết quả bằng 0 khi φ=π/2, thi nhánh sin lại cho kết
quả tách tốt)
Kỹ thuật này đơn giản, rẻ tiền (vì không dùng PLL), song giá phải trả là phải có thêm bộ
nhớ ký hiệu trước ở bên thu để so sánh với ký hiệu sau và phải thiết kế bộ mã vi phân ở
bên phát
- So sánh các kỹ thuật
Kỹ thuật M-QAM, M-PSK cho độ lợi về băng tần. Ngược lại M-FSK tốn kém về băng
tần. Tuy nhiên có thể thấy sự trả giá tương ứng về năng lượng để đạt cùng tỷ lệ BER hay
độ phức tạp hệ thống. Bổ sung: MSK (Minimum Shift Keying) và GMSK (Gaussian
Minimum Shift Keying)
Đây là các kỹ thuật kiểu điều tần đặc biệt nhằm làm cho khoảng cách các tần số mang
thông tin tối thiểu (dẫn đến băng tần làm việc tối thiểu) đồng thời pha liên tục giữa các ký
hiệu (giảm bức xạ hài xung quanh).

Giới thiệu mã kênh


Các kỹ thuật mạch điện tử thông thường đạt được tỷ lệ lỗi p e=10-3 khi truyền qua
kênh nhị phân đối xứng (BSC). Tuy nhiên tỷ lệ này không đáp ứng yêu cầu các dịch
vụ phổ biến là cỡ 10-6- 10-7.
Để giảm tỷ lệ lỗi, một phương pháp cổ điển là dùng mã lặp lại. Thay vì truyền 1 thì
truyên 111, thay vì truyền 0 thì truyền 000 sau đó quyết định giải mã theo đa số. Với
kỹ thuật này cho phép giảm lỗi truyền tin đến 10-5 khi kênh BSC có lỗi 10-3. Tuy nhiên
giá phải trả cho kỹ thuật mã lặp lại này là tốc độ truyền tin bị giảm đi 3 lần.
Về phương diện lý thuyết, người ra quan tâm đến kỹ thuật truyền có khả năng đạt
được tỷ lệ lỗi nhỏ tùy ý (còn gọi là truyền tin cậy), tức là p e→0. Nếu như áp dụng
cách thức mã lặp lại thì dẫn đến tốc độ truyền tin cũng →0, điều này không có ý nghĩa
thực tế. Câu hỏi đặt ra là liệu có tồn tại 1 phương pháp truyền tin có thể đạt tỷ lệ lỗi
→ 0 mà tốc độ không giảm đến 0?
Một phương pháp tự nhiên để vừa đạt việc giảm lỗi vừa không giảm tốc độ truyền là
sử dụng mã lặp lại kết hợp với kỹ thuật truyền hạng cao (tức là 1 ký hiệu, hay 1 dạng
sóng mang nhiều bít một lúc). Điều này kèm theo phải có nhiều dạng sóng: 2 n dạng
sóng để cho phép 1 dạng sóng mang n bít. Câu hỏi là với một công suất phát hạn chế
tối đa có thể thiết kế bao nhiêu dạng sóng. Slice trình bày cách sắp xếp dạng sóng
theo kỹ thuật M-PAM, các dạng sóng (hay các điểm trong không gian tín hiệu) phải
cách nhau 1 khoảng vừa đủ để phân biệt tin cậy tại nơi thu khi kênh truyền có tạp âm.
Như vậy khoảng cách này phụ thuộc công suất tạp âm (còn gọi là bán kính tạp âm).
Shannon đã giải quyết hoàn chỉnh bài toán khi sử dụng mô hình quả cầu công suất N

chiều với bán kính chứa bên trong các quả cầu tạp âm bán kính
. Tâm các quả cầu tạp âm là dạng sóng trong kỹ thuật truyền hạng M để đảm bảo bên
thu phân biệt tin cậy. Lấy thể tích quả cầu công suất chia cho thể tích quả cầu tạp âm
ta được số dạng sóng cực đại. Lấy logarit cơ số 2 rồi chia cho N chiều ta được số bít
tối đa trên 1 lần truyền trên 1 chiều không gian tín hiệu. Kết quả có được là :
1 P
2 ( )
C= log 2 1+ 2 / lần truyền
σ

Nhận xét:
- Khi coi truyền tin cậy đạt được khi các dạng sóng cách nhau k/c ≥ bán kính tạp âm
thì số bít tối đa/lần truyền không lỗi là giá trị C trên (gọi là dung năng/lần truyền)
- Khi truyền số bít/lần truyền >C dẫn đến số dạng sóng nhiều hơn hay các quả cầu
tạp âm với tâm là các dạng sóng giao nhau (có phần chung) dẫn đến bên thu phân
biệt không tin cậy hay tỷ lệ lỗi >0
- Khi số bít/lần truyền ≤C cần số dạng sóng ít hơn, các quả cầu bán kính tạp âm có
tâm là dạng sóng có thể sắp xếp xa nhau hơn dẫn đến bên thu phân biệt càng tin
cậy
KL: Dung năng/lần truyền là tốc độ truyền không lỗi cực đại/lần truyền của một kênh
truyền. Giá trị này phụ thuộc tỷ số công suất tín hiệu /công suất tạp âm tại nơi thu.
Khi kết hợp với độ rộng băng tần của kênh truyền, ta chỉ cần chú ý kênh có độ rộng
băng tần B (Hz) thì có thể có 2B lần truyền/s độc lập. Dẫn đến công thức dung
năng/giây của một lần truyền, tức là tốc độ tối đa tính theo bít/s có thể đạt được mà
không lỗi.
Chú ý: Có 2 điểm quan trọng cần chú ý là:
- Sau khi chỉ ra tốc độ truyền tối đa đạt được, Shannon chứng mính đ/lý mã kênh
(trình bày trong chương trình cao học) là nếu tốc độ nguồn tin nhỏ hơn dung năng
kênh thì tồn tại kỹ thuật mã làm cho truyền tin không lỗi hay pe→0. Tuy nhiên
đ/lý chỉ chứng minh tồn tại mã mà không đưa ra 1 cấu trúc cụ thể về mã
- Các kỹ thuật mã kênh phổ biến (giảm lỗi đến 10 -6-10-7) đều có tốc độ nhỏ hơn
nhiều dung năng kênh. Tức là trả giá tốc độ truyền tin để được lỗi giảm. Một số kỹ
thuật mã hiện đại là Tubo hay LDPC đã đem lại tốc độ truyền tin gần dung năng
kênh mà vẫn đạt yêu cầu về lỗi.

Mã khối
Mã khối được tiến hành theo từng khối bít thông tin. Chẳng hạn cứ k bít thông tin
được bổ sung thêm n-k bít kiểm tra (còn gọi là bít kiểm tra chẵn lẻ vì các phép tính
theo modulo-2) tạo nên một từ mã n bít. Trong một từ mã, thứ tự k bít thông tin giữ
nguyên thì gọi là mã hệ thống. Mã lặp lại là t/h đặc biệt của mã khối.
Mã khối tuyến tính
Các bít kiểm tra được tạo ra bằng một tổ hợp tuyến tính các bít bản tin thì ta có mã
khối tuyến tính.
Từ các hệ số của biểu thức tổ hợp tuyến tính ta xây dựng được ma trận sinh G. Theo
đó vecto k bít bản tin chỉ việc nhân với ma trận sinh ta được từ mã c
Từ ma trận sinh ta cũng xây dựng được ma trận kiểm tra H theo đó từ mã c nhân với
ma trận kiểm tra phải bằng bằng vecto 0 nếu đường truyền không gây nên lỗi
Nhận xét: Việc bổ sung thêm các bít dư làm khoảng cách giữa các từ mã xa hơn trong
không gian các bít biểu diễn. Ví dụ với khối 4 bit thông tin chỉ có 2 4 tổ hợp thông tin,
khoảng cách Hamming tối thiểu giữa các tổ hợp là 1. Khi thêm 3 bít kiểm tra vào ta
vẫn chỉ có 24 từ mã, song lúc này số bít biểu diễn là 7 nên các từ mã này nằm trong
không gian biểu diễn có 27 tổ hợp bít. Khi thiết kế hợp lý, khoảng cách Hamming giữa
các từ mã sẽ xa nhau hơn trong không gian biểu diễn nên chống nhiễu tốt hơn, hay mã
làm cho tỷ lệ lỗi giảm
Giải mã Syndrome
Khi đường truyền gây lỗi bít trong từ mã, từ nhận được nhân với ma trận kiểm tra cho
kết quả khác 0. So sánh kết quả này với kết quả từ bảng các mẫu lỗi ta có thể xác định
lỗi nằm ở vị trí nào trong từ mã. Kết quả này chỉ chính xác khi số lỗi ≤ (d free-1)/2, ở đó
dfree là khoảng cách nhỏ nhất giữa các từ mã trong không gian biểu diễn. Nếu số lỗi
trong từ mã ≥(dfree-1)/2 sẽ vượt quá khả năng hiệu chỉnh của mã và gây nên lỗi không
khắc phục được. Tuy nhiên tỷ lệ xảy ra điều này nhỏ hơn nhiều so với tỷ lệ lỗi mà
không thực hiện mã hóa. Sự khác biệt này tính theo đơn vị logarit gọi là gain mã.
Mã Cyclic
Đây là một lớp con trong mã khối tuyến tính. Mã này có đặc điểm đặc biệt là hoán vị
vòng quanh của một từ mã cũng sẽ là từ mã. Tính chất này gắn liền với cấu trúc toán
học là trường và đặc biệt có thể biểu diễn dưới dạng đa thức trong đó đa thức sinh (có
thể kiêm đa thức kiểm tra) là nhân tử của Xn+1.
Việc thực hiện tạo mã như sau: Lấy đa thức ứng với khối thông tin nhân với X n-k sau
đó chia cho đã thức sinh để tìm đa thức dư. Đa thức bị chia sau đó trừ (cộng modulo-
2) đi đa thức dư tạo nên từ mã ứng với đa thức chia hiết cho đa thức sinh.
Ở bên thu sẽ kiểm tra lại tính chia hết này. Nếu có phần dư chứng tỏ đường truyền sẽ
gây nên lỗi và dựa theo phần dư cụ thể sẽ định vị được vị trí lỗi trong từ mã.
Mã Cyclic có một đặc điểm thuân lợi là dễ thực hiện trên mạch điện tử bằng các thanh
ghi dịch: Phép chia chẳng qua là các phép cộng dịch khi tính toán theo modulo-2.
Ngoài ra hiệu chỉnh lỗi đơn giản bằng cách cộng với đa thức dư ở bên thu. Có thể so
sánh sự khác biệt về mạch điện thực hiện của Cyclic và mã khối tuyến tính ở phần
trên.

You might also like