Professional Documents
Culture Documents
Sản xuất ô tô trên thế giới ngày nay tăng vượt bậc, ô tô trở thành
phương tiện quan trọng về hành khách và hàng hóa cho các ngành kinh tế quốc dân,
đồng thời trở thành phương tiện tư nhân ở các nước có nền kinh tế phát triển. ngay ở
nước ta số ô tô tư nhân cùng phát triển cùng với sự tăng trưởng kinh tế, mật độ xe
trên đường ngày càng tăng.
Mỹ và Nhật là hai nước sản xuất ô tô nhiều nhất thế giới hàng năm mỗi nước
sản xuất khoảng 12 đến 13 triệu chiếc.
Do mật độ ô tô trên đường ngày càng tăng và tốc độ chuyển động ngày càng
cao cho lên vấn đề tai nạn giao thông trên đường là vấn đề cấp thiết hàng đầu luôn
phải quan tâm. ở nước ta chỉ trong hai năm 1998 đến 2000 mỗi năm có 20.000 vụ tai
nạn giao thông làm 7100 người chết và 30772 người bị thương. Năm 2002 xẩy ra
27420 vụ tai nạn giao thông, làm 12998 người bị chết và hơn 30.000 người bị
thương. Đến năm 2006 có 42000 vụ tai nạn giao thông làm hơn 20.000 người chết.
Nó không những gây thiệt hại lớn về người mà còn gây thiệt hại lớn về tài sản của
nhà nước và của công dân. Một trong những nguyên nhân đó là do con người gây ra
( như lái xe say riệu, mệt mỏi, buồn ngủ....). Do hư hỏng máy móc trục trặc về kỹ
thuật và đương xá qúa xấu.
Trong nguyên nhân hư hỏng máy móc trục trặc kỹ thuật thì tỉ lệ tai nạn giao
thông do hệ thống phanh là 52.2 % đến 74.4%. Từ số liệu trên thấy rằng tai nạn do hệ
thống phanh chiếm tỉ lệ lớn nhất vì thế mà hiện nay hệ thống phanh càng được cải
tiến, tiêu chuẩn về thiết kế, chế tạo và sử dụng nghiêm ngặt và chặt chẽ nhằm tăng
hiệu quả phanh tính ổn định hướng, tăng độ tin cậy làm việc với mục đích đảm bảo
an toàn chuyển động của ô tô.
Trong những cải tiến đó thì có hệ thống phanh trang bị ABS. No còn được gọi
là hệ thống phanh chống bó cứng bánh là một trong những hệ thống phanh có ưu
điển vượt trội nhất hiện nay. Nó đảm bảo cho người và phương tiện trên các loại
đường làm cho người lái chủ động được tốc độ.
Trong đồ án này của em tìm hiểu về hệ thống phanh, để hiểu rõ về công dụng
và cấu tạo, nguyên lý hoạt động của hệ thống từ đó tìm ra cách sử dụng tốt nhất, cách
MỤC LỤC
1. Lý do chọn đề tài
Cơ cấu phanh là cơ cấu an toàn chủ động của ô tô, dùng để giảm tốc độ hay dừng và
đỗ ôtô trong những trường hợp cần thiết.
Nền công nghiệp ô tô đang ngày càng phát triển mạnh, số lượng ô tô tăng
nhanh, mật độ lưu thông trên đường ngày càng lớn. Các xe ngày càng được thiết
kế với công suất cao hơn, tốc độ chuyển động nhanh hơn thì yêu cầu đặt ra với
cơ cấu phanh cũng càng cao và nghiêm ngặt hơn. Một ô tô có cơ cấu phanh tốt,
có độ tin cậy cao thì mới có khả năng phát huy hết công suất, xe mới có khả
năng chạy ở tốc độ cao, tăng tính kinh tế nhiên liệu, tính an toàn và hiệu quả vận
chuyển của ô tô.
10% số vụ tai nạn xảy ra trong trường hợp cần dừng khẩn cấp, tài xế đạp
phanh mạnh đột ngột làm xe bị rê bánh và trượt đi, dẫn đến mất lái. Hệ thống
ABS giúp khắc phục tình trạng này không phụ thuộc vào kỹ thuật phanh của
người lái.
Ở VN tai nạn giao thông ngày một gia tăng cả về số vụ và tính chất nguy hiểm
Trên thế giới cũng có nhiều diễn biến hết sức phức tạp,số vụ tai nạn ngày càng tăng
nên tính cấp thiết là phải nâng cao kỹ thuật cho xe cơ giới nói chung và cho ô tô nói
riêng
Báo cáo năm 2004 của WHO cho biết mỗi ngày trên thế giới, hơn 3000 người chết do tai
nạn giao thông. Trong số này, cá c nước có thu nhập thấp và trung bình chiếm đến 85%
số ca tử vong. Do tầm quan trọng của hệ thống phanh trên ô tô về sự an toàn giao thông
trong quá trình hoạt động mà việc nghiên cứu để nâng cao kỹ thuật sử lí cho hệ thống
phanh.mà nhà trường đã giao cho em tìm hiểu về hệ thống phanh ABS
Etienne Lenoir đã chế tạo thành công một động cơ đốt trong đứng yên năm 1860, và
trong vòng vài năm, khoảng bốn trăm chiếc như vậy đã hoạt động ở Paris. Khoảng
tới năm 1863, Lenoir đã lắp cái động cơ của ông lên một chiếc xe. Có lẽ động cơ của
nó dùng nhiên liệu từ các bình gas thắp đèn thành phố, và Lenoir đã nói rằng nó
“chạy chậm hơn một người đi bộ, và luôn luôn gặp trục trặc”. Trong bằng sáng chế
năm 1860 của mình, Lenoir đã thêm vào một cái chế hoà khí (carburettor), nhờ thế
nhiên liệu lòng có thể được dùng để thay thế cho khí gas, đặc biệt cho các mục đích
chuyển động của phương tiện. Lenoir được cho rằng đã thử nghiệm nhiên liệu lỏng,
như cồn, vào các động cơ đứng yên của mình; nhưng không có vẻ rằng ông đã dùng
Cải tiến tiếp sau xảy ra cuối thập kỷ 1860, với Siegfried Marcus, một người Đức làm
việc ở Viên, Áo. Ông đã phát triển ý tưởng sử dụng xăng làm nhiên liệu cho động cơ
đốt trong hai kỳ. Năm 1870, sử dụng một xe đẩy tay đơn giản, ông đã chế tạo một
phương tiện thô không có chỗ ngồi, thiết bị lái, hay phanh, nhưng nó rất đáng chú ý ở
một điểm: nó là phương tiện lắp động cơ đốt trong đầu tiên trên thế giới sử dụng
nhiên liệu xăng. Nó được đem ra thử nghiệm ở Viên tháng 9, 1870 và bị xếp xó. Năm
1888 hay 1889, ông chế tạo một cái ô tô thứ hai, cái này có ghế ngồi, phanh và thiết
bị lái và được lắp một động cơ đốt trong bốn kỳ do chính ông thiết kế. Thiết kế này
có thể đã được đem ra thử nghiệm năm 1890. Mặc dù ông có được các bằng sáng chế
cho nhiều phát minh của mình, ông không bao giờ xin cấp bằng phát minh cho các
thiết kế ở thể loại này.
Động cơ đốt trong bốn thì đã được thu thập tài liệu và đưa ra xin cấp bằng phát minh
vào năm 1862 bởi một người Pháp là Beau de Rochas trong một cuốn sách mỏng và
dài dòng. Ông đã in khoảng ba trăm bản sách đó và chúng được đem phân phát ở
Paris, nhưng không mang lại điều gì, và bằng sáng chế này cũng nhanh chóng hết
hạn sau đó – còn cuốn sách thì hoàn toàn bị lãng quên. Trên thực tế, sự hiện diện của
nó không được biết tới và Beau de Rochas không bao giờ chế tạo một động cơ riêng
biệt.
Đa số các nhà sử học đồng ý rằng Nikolaus Otto người Đức đã chế tạo ra chiếc động
cơ bốn thì đầu tiên dù bằng sáng chế của ông bị bác bỏ. Ông không hề biết gì về bằng
sáng chế hay ý tưởng của Beau de Rochas và hoàn toàn tự mình nghĩ ra ý tưởng đó.
Thực tế ông đã bắt đầu suy nghĩ về khái niệm này năm 1861, nhưng đã bỏ rơi nó cho
tới giữa thập kỷ 1870.
Có một số bằng chứng, dù chưa được xác định, rằng Christian Reithmann, một người
Áo sống ở Đức, đã chế tạo ra một chiếc động cơ bốn thì hoàn toàn dựa trên ý tưởng
của mình năm 1873. Reithmann đã thực nghiệm các động cơ đốt trong ngay từ đầu
năm 1852.
Tuy nhiên, nếu tất cả những cuộc thực nghiệm trên không diễn ra, có lẽ sự phát triển
của xe hơi sẽ không thể nhanh chóng như vậy bởi vì có nhiều cuộc thực nghiệm
không được biết tới và chúng không bao giờ tiến tới được giai đoạn thử nghiệm. Ô tô
dùng động cơ đốt trong thực sự có thể cho là đã bắt đầu ở Đức với Karl Benz năm
1885, và Gottlieb Daimler năm 1889, vì những chiếc xe của họ thành công nên họ có
thể đưa vào sản xuất hàng loạt, và họ bị ảnh hưởng lẫn nhau.
Karl Benz
Mẫu của Benz Patent Motorwagen được xây năm 1885Karl Benz bắt đầu xin những
bằng phát minh mới về động cơ năm 1878. Ban đầu ông tập trung nỗ lực vào việc tạo
ra một động cơ hai thì dùng nhiên liệu gas dựa trên thiết kế của Nikolaus Otto về loại
động cơ bốn thì. Một bằng sáng chế về thiết kế của Otto đã bị bác bỏ. Karl Benz
hoàn thành chiếc động cơ của mình vào đêm giao thừa và được cấp bằng phát minh
cho nó năm 1879. Karl Benz chế tạo chiếc ô tô ba bánh đầu tiên của mình năm 1885
và nó được cấp bằng ở Mannheim, đề ngày tháng 1, 1886. Đây là -“chiếc ô tô đầu
tiên được thiết kế và chế tạo theo đúng nghĩa”- chứ không phải là một cái xe ngựa,
tàu, hay xe kéo được chuyển đổi. Trong số những thiết bị mà Karl Benz phát minh
cho xe hơi có chế hoà khí, hệ thống điều chỉnh tốc độ cũng được gọi là chân ga, đánh
lửa sử dụng các tia lửa điện từ một ắc quy, bugi, khớp ly hợp, sang số, và làm mát
bằng nước. Ông đã chế tạo thêm các phiên bản cải tiến năm 1886 và 1887 – đưa vào
sản xuất năm 1888 - chiếc xe đầu tiên trên thế giới được đưa vào sản xuất. Gần hai
nhăm chiếc đã được chế tạo ra trước năm 1893, khi chiếc xe bốn bánh của ông được
đưa ra giới thiệu. Chúng được lắp các động cơ bốn thì theo thiết kế của riêng ông.
Emile Roger nước Pháp, đã chế tạo các động cơ của Benz dưới bằng phát minh của
ông, và lúc ấy cũng đưa ô tô của Benz vào dây chuyền sản xuất của mình. Bởi vì
Pháp là nơi có thái độ chấp nhận hơn với những chiếc ô tô đầu tiên, nói chung ô tô
được chế tạo và bán ở Pháp qua Roger nhiều hơn số lượng của Benz lúc ban đầu ở
chính nhà máy của ông ở Đức.
Gottlieb Daimler, năm 1886, lắp động cơ bốn thì của mình lên một chiếc xe ngựa ở
Stuttgart. Năm 1889, ông chế tạo hai chiếc xe có thể coi là những chiếc ô tô với rất
nhiều cải tiến. Từ 1890 đến 1895 khoảng ba mươi chiếc đã được Daimler và người
trợ lý sáng tạo của ông là Wilhelm Maybach, chế tạo ở cả các xưởng của Daimler
hay tại Hotel Hermann, nơi họ lập ra một phân xưởng sau khi những người hỗ trợ rút
lui. Hai người Đức đó, Benz và Daimler, dường như không biết tới công việc của
nhau và làm việc độc lập. Daimler chết năm 1900. Trong thời chiến tranh thế giới thứ
nhất, Benz đề xuất hợp tác giữa hai công ty do hai người lập ra, nhưng mãi tới năm
1926 hai công ty mới hợp nhất dưới cái tên Daimler-Benz với cam kết sẽ cùng tồn tại
dưới tên này cho tới tận năm 2000.
Năm 1890, Emile Levassor và Armand Peugeot nước Pháp bắt đầu sản xuất hàng
loạt các phương tiện gắn động cơ của Daimler, và từ đó mở ra nền tảng ban đầu cho
công nghiệp ô tô ở Pháp. Chúng đều bị ảnh hưởng từ chiếc Stahlradwagen của
Daimler năm 1889, từng được triển lãm ở Paris năm 1889.
Chiếc ô tô Hoa Kỳ đầu tiên bằng động cơ đốt trong chạy nhiên liệu gas có lẽ đã được
thiết kế năm 1877 bởi George Baldwin Selden ở Rochester, New York, ông đã xin
cấp một bằng sáng chế cho một chiếc ô tô năm 1879. Selden không hề chế tạo một
chiếc ô tô riêng biệt cho tới tận năm 1905, khi ông bị bắt buộc phải làm thế, theo
luật. Selden nhận được bằng phát minh của mình và sau đó kiện Ford Motor
Company vì vi phạm bằng phát minh của mình. Henry Ford hiển nhiên là chống đội
lại hệ thống cấp bằng sáng chế Hoa Kỳ và trường hợp của Selden kiện Ford đã phải
đưa lên Toà án tối cao, toà phán quyết rằng Ford, và bất kỳ người nào khác, tự do chế
tạo ô tô mà không cần trả tiền cho Selden, bởi vì công nghệ ô tô đã phát triển mạnh
từ khi Selden được cấp bằng và không ai còn chế tạo ô tô theo thiết kế của ông ta
nữa.
Trong lúc ấy, những cải tiến quan trọng trong lĩnh vực năng lượng hơi nước ở
Birmingham, England bởi Lunar Society đã xảy ra. Cũng chính ở nước Anh, thuật
ngữ sức ngựa được đem ra sử dụng lần đầu tiên. Và cũng chính ở Birmingham những
chiếc xe ô tô bốn bánh chạy bằng dầu được chế tạo lần đầu năm 1895 bởi Frederick
William Lanchester. Lanchester cũng được cấp bằng phát minh ra phanh đĩa tại thành
phố này. Các phương tiện chạy điện được một số nhỏ những công ty chế tạo.
Ford Model T, 1927Bằng sáng chế ô tô đầu tiên ở Hoa Kỳ được trao cho Oliver
Evans năm 1789 cho chiếc "Amphibious Digger" (Máy xúc chạy trên cạn và dưới
nước) của ông. Nó là một chiếc xà lan dùng động cơ hơi nước được lắp thêm bánh.
Năm Evans trưng bày phương tiện tự hành thành công đầu tiên của mình, nó không
chỉ là chiếc xe hơi đầu tiên ở Mỹ mà còn là chiếc xe lội nước đầu tiên, vì khi nó dùng
bánh xe để chạy trên mặt đất, và bánh guồng trên mặt nước. Chiếc xe không mang lại
thành công và bị dỡ ra bán.
Chiếc Benz Motorwagen, chế tạo năm 1885, được trao bằng sáng chế ngày 29 tháng
1, 1886 của Karl Benz là chiếc xe đầu tiên sử dụng động cơ đốt trong. Năm 1888,
diễn ra một đột phá mới trong lĩnh vực xe hơn với lần lái xe lịch sử của Bertha Benz.
Bà đã lái chiếc xe do chồng mình chế tạo vượt khoảng cách hơn 106 km hay năm
mươi dặm. Sự kiện này chứng tỏ khả năng áp dụng vào thực tế của ô tô và gây được
tiếng vang trong dư luận, bà cho rằng đây là sự quảng cáo cần thiết cho phát để thúc
đẩy thêm các phát minh. Chiếc xe của Benz là ôtô đầu tiên được đưa vào sản xuất và
bán thương mại. Lần lái xe lịch sử của Bertha Benz hàng năm vẫn được coi là ngày
lễ tại Đức, với các cuộc diễu hành xe hơi cổ.
Ngày 5 tháng 11, 1895, George B. Selden được trao bằng ságn chế của Hoa Kỳ cho
một động cơ ô tô hai thì (Bằng sáng chế Hoa Kỳ số 549160). Bằng sáng chế này gây
trở ngại nhiều hơn là góp phần phát triển ôtô ở Mỹ. Các ôtô dùng động cơ hơi nước,
điện và xăng đã cạnh tranh với nhau trong nhiều thập kỷ, cuối cùng động cơ xăng đốt
Ransom E. Olds, người sáng tạo ra Dây chuyền lắp rápDây chuyền sản xuất ô tô lớn
bắt đầu được Oldsmobile đưa ra năm 1902, sau này được Henry Ford phát triển thêm
trong thập kỷ 1910. Kỹ thuật ô tô phát triển nhanh chóng, một phần nhờ sự cạnh
tranh lẫn nhau giữa hàng trăm nhà sản xuất nhỏ nhằm giành được sự quan tâm của
thế giới. Những phát triển quan trọng gồm hệ thống đánh lửa và tự khởi động điện
(cả hai đều của Charles Kettering, cho loại xe củaCadillac Motor Company năm
1910-1911), bộ treo độc lập và phanh bốn bánh.
Xe hơi không chỉ đơn thuần là một công cụ cơ khí được hoàn thiện; kể từ những năm
1920 gần như tất cả đã được sản xuất hàng loạt để đáp ứng nhu cầu thị trường, do
vậy các dự án tiếp thị và sản xuất đáp ứng thị trường thường thống lĩnh việc thiết kế
xe hơi. Chính Alfred P. Sloan là người thiết lập ý tưởng nhiều kiểu xe được sản xuất
bởi một hãng, để người mua có thể "vươn lên" khi họ trở nên giàu lên. Những kiểu
khác nhau này dùng chung một số linh kiện do vậy số lượng sản xuất nhiều sẽ làm
giảm giá thành cho từng mệnh giá khác nhau. Ví dụ, vào năm 1950s, Chevrolet dùng
chung phần trước xe, của, mái xe và của sổ với Pontiac; LaSalle của những năm
1930, bán ra bởi Cadillac, sử dụng những linh kiện cơ khí rẻ hơn được sản xuất bởi
phân xưởng của Oldsmobile.
2. Sự phát triển ứng dụng công nghệ thông tin trong ô tô,điều khiển các hệ
thống trên ô tô.
phanh ở các bánh xe để quãng đường phanh là ngắn nhất trong trường hợp phanh
khẩn cấp.
Cơ cấu ABS kết hợp với cơ cấu ổn định ô tô bằng điện tử (ESP) không chỉ có
tác dụng trong khi dừng xe, mà còn can thiệp vào cả quá trình tăng tốc và
chuyển động quay vòng của ô tô, giúp nâng cao hiệu quả chuyển động của ô tô
trong mọi trường hợp.
Ngày nay với sự phát triển vượt bậc và hỗ trợ rất lớn của kĩ thuật điện tử của
ngành điều khiển tự động và các phần mềm tính toán, lập trình đã cho phép nghiên
cứu và đưa vào ứng dụng các phương pháp điều khiển mới trong ABS như điều
khiển mờ, điều khiển thông minh, tối ưu hoá quá trình điều khiển ABS.
Ngoài ra còn có phanh chậm dần: Trên các ô tô máy kéo tải trọng lớn (như xe
tải, trọng lượng toàn bộ lớn hơn 12 tấn, xe khách- lớn hơn 5 tấn) hoặc làm việc ở
vùng đồi núi,thường xuyên phải chuyển động lên xuống các dốc dài còn phải có loại
phanh thứ tư là phanh chậm dần, dùng để.
Phanh liên tục, giữ cho tốc độ của ô tô máy kéo không tăng quá giới hạn cho
phép khi xuống dốc.
Để giảm dần tốc độ của ô tô máy kéo trước khi dừng hẳn.
Các loại phanh trên có thể có các bộ phận chung và kiêm nhiệm chức năng của
nhau. Nhưng chúng phải có ít nhất là hai bộ phận điều khiển và dẫn động độc lập.
Ngoài ra, để tăng thêm độ tin cậy, hệ thống phanh chính còn được phân thành
các dòng độc lập để nếu một dòng nào đó bị hỏng thì các dòng còn lại vẫn làm việc
bình thường.
Để có hiệu quả phanh cao:
Tính năng phanh hay chất lượng quá trình phanh được định lượng thông qua 2 nhóm
chỉ tiêu : Hiệu quả phanh và Tính ổn định khi phanh.
Hiệu quả phanh đánh giá mức độ giảm tốc độ của ôtô khi người lái tác động lên cơ
cấu điều khiển phanh trong trường hợp phanh khẩn cấp.
Tính ổn định khi phanh đánh giá khả năng duy trì quỹ đạo của ôtô theo ý muốn của
người lái trong quá trình phanh.
Thời gian phanh là một trong những chỉ tiêu để đánh giá chất lượng phanh.
Thời gian phanh càng nhỏ thì chất lượng phanh càng tốt.
dv
dt =
jp
v2
dv
tp = ∫j
v1 p
v1.δ j
tmin = (2.2 )
ϕ .g
trong đó :
Công thức (2.2) cho thấy, thời gian phanh sẽ dài khi vận tốc bắt đầu phanh lớn,
thời gian phanh sẽ ngắn khi hệ số bám lớn. Thời gian phanh trong trường hợp ly hợp
vẫn đóng (δj > 1) thì thời gian phanh sẽ dài hơn so với trường hợp mở ly hợp.
Gia tốc chậm dần đều khi phanh là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh
giá chất lượng phanh và là đại lượng đặc trưng cho mức độ giảm tốc độ của ôtô trong
quá trình phanh. Khi phân tích các lực tác dụng lên ôtô, có thể viết phương trình cân
bằng lực kéo khi phanh ôtô như sau:
Pj = Pp ± Pf + Pω + Pη ± Pi ( 2.3 )
Pj = Pp
Khi đó lực phanh lớn nhất Pp max sinh ra tại bánh xe được xác định theo biểu
thức : Pp max = Pj max
δ j .G
ϕ .G = . j p max ( 2.4 )
g
Trong đó:
δj
: Hệ số tính đến ảnh hưởng của các trọng khối quay của ôtô.
jpmax: Gia tốc chậm dần khi phanh.
g: Gia tốc trọng trường.
Từ biểu thức (2.4) có thể xác định gia tốc chậm dần cực đại khi phanh:
ϕ.G
j p max = (2.5)
δj
δj
Nhận xét: Để tăng gia tốc chậm dần khi phanh cần phải giảm hệ số . Vì
vậy khi phanh đột ngột người lái cần tắt ly hợp để tách động cơ ra khỏi hệ thống
truyền lực lức đó δj sẽ giảm còn jpmax tăng. Gia tốc chậm dần cực đại khi phanh còn
phụ thuộc vào hệ số bám ϕ của lốp với mặt đường (mà giá trị của hệ số bám lớn nhất
ϕmax = 0,75 ÷ 0,8 trên đường nhựa tốt)
Quãng đường phanh (Sp) là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá chất lượng
phanh của ôtô. Vì vậy trong tớnh năng kỹ thuật của ô tô, các nhà chế tạo cho biết
quãng đường phanh của ô tô ứng với vận tốc bắt đầu phanh đã định. So với các chỉ
tiêu khác thì quãng đường phanh là chỉ tiêu mà người lái xe có thể nhận thức được
một cách trực quan, dễ dàng tạo điều kiện cho người lái xe xử lý tốt trong khi phanh
ôtô trên đường.
dv ϕ ⋅ g
j p. max = =
dt δj
dv ϕ⋅g
⋅ dS p = ⋅ dS p
dt δj
ϕ⋅g
hay v ⋅ dv = ⋅ dS p
δj
v2
δj δj
S p. min = ∫v ϕ ⋅ g ⋅ v ⋅ dv =
2ϕ ⋅ g
⋅ ( v1
2
− v2
2
)
1
Từ biểu thức trên ta thấy quãng đường phanh nhỏ nhất phụ thuộc vào:
- Vận tốc chuyển động của ôtô lúc bắt đầu phanh v1.
- Hệ số bám ϕ .
Muốn giảm quãng đường phanh thì ta cần phải giảm δi. Vì vậy nếu người lái
cắt ly hợp trước khi phanh thì quãng đường phanh sẽ ngắn hơn. Ta thấy ở biểu thức
trên Smin phụ thuộc vào hệ số bám, mà hệ số bám phụ thuộc vào tải trọng tác dụng
lên bánh xe.
Do vậy Smin phụ thuộc vào trọng lượng toàn bộ của ôtô G.
Ta có đồ thị thể hiện sự thay đổi của quãng đường phanh nhỏ nhất theo vận tốc
bắt đầu phanh v1 và theo giá trị hệ số bám như sau:
8 0
4 0
0
5 ,5 1 1 ,1 1 6 ,6 2 2 ,2 v 1 [m /s ]
H. 2.1. Đồ thị chỉ sự thay đổi quãng đường phanh nhỏ nhất theo tốc độ bắt đầu phanh
v1 và hệ số bám
Từ đồ thị thấy rằng: Ở vận tốc bắt đầu phanh v1 càng cao thì quãng đường
phanh S càng lớn vì quãng đường phanh phụ thuộc bậc 2 vào v1 và hệ số bám càng
cao thì quãng đường phanh S càng giảm.
Lực phanh và lực phanh riêng cũng là chỉ tiêu để đánh giá chất lượng phanh.
Chỉ tiêu này được dùng thuận lợi nhất là khi thử phanh ôtô trên bệ thử. Lực phanh
sinh ra ở bánh xe được xác định theo biểu thức sau:
Mp
Pp = ( 2.7 )
r b
Lực phanh riêng P là lực phanh được tính trên một đơn vị trọng lượng toàn bộ
G của ôtô:
Pp
P= (2.8 )
G
Lực phanh riêng P lớn nhất khi lực phanh Pp cực đại :
Pp max ϕ ⋅ G
P. max = = =ϕ ( 2.9 )
G G
Khi đánh giá chất lượng phanh của ôtô có thể sử dụng một trong bốn chỉ tiêu
trên. Trong đó quãng đường phanh là đặc trưng nhất, vì nó cho phép người lái hình
dung được vị trí xe sẽ dừng trước một chướng ngại vật mà họ phải xử lý để tránh
khỏi xẩy ra tai nạn khi người lái phanh ở một vị trí nào đấy. Do đó chỉ tiêu này
thường dùng để đánh giá hiệu quả tác động của phanh. Lực phanh và lực phanh riêng
thuận lợi khi đánh giá chất lượng phanh trên bệ thử.
2.2. Các chỉ tiêu đánh giá tính ổn định khi phanh
Tính ổn định phanh là khả năng đảm bảo quỹ đạo chuyển động của ôtô theo ý
muốn của người lái trong quá trính phanh. Tính ổn định khi phanh được đánh giá
bằng 2 chỉ tiêu: Góc quay khi phanh (βp) và hành lang phanh (Bp).
1) Góc quay khi phanh (βp)
Trong quá trình phanh ôtô thì trục dọc của ôtô bị nghiêng đi một góc β nào
đấy so với hướng của quỹ đạo đang chuyển động. Đó là do tổng các lực phanh sinh
ra ở các bánh xe bên phải khác với tổng các lực phanh sinh ra ở các bánh xe bên trái
và tạo thành mômen quay vũng Mq quanh trục thẳng đứng Z đi qua trọng tâm A của
ôtô .
H. 2.2. Sơ đồ lực tác dụng lên ôtô khi phanh mà bị quay ngang
Khi phanh mà ôtô bị quay đi một góc quá mức quy định sẽ ảnh hưởng đến an
toàn chuyển động trên đường. Vậy tính ổn đinh khi phanh là khả năng ôtô giữ được
quỹ đạo chuyển động như ý muốn của người lái trong quá trình phanh.
Giả sử ôtô chuyển động theo hướng trục X nhưng sau khi phanh ôtô bị lệch đi
một góc β. Trong khi phanh thì ở các bánh xe bên phải có các lực phanh Fp.ph1 ở trục
trước và Fp.ph2 ở trục sau, còn các bánh xe bên trái có các lực phanh Fp.tr1 ở trục trước
và Fp.tr2 ở trục sau.
Giả sử rằng tổng các lực phanh bên phải Fp.ph lớn hơn tổng các lực phanh bên
trái Fp tr thì ôtô quay vòng theo chiều mũi tên như hình vẽ quanh trọng tâm A của ôtô.
mômen quay vòng Mq được xác định theo biểu thức:
Do có sự ma sát giữa bánh xe và mặt đường cho nên khi xuất hiện mômen
quay vòng Mq thì các bánh xe ở trục trước sẽ có phản lực Ry1 tác dụng từ mặt đường
theo phương ngang và ở các bánh xe sau sẽ có phản lực Ry2 tác dụng.
Phương trình chuyển động của ôtô đối với trọng tâm A được viết
dưới dạng sau :
I Z .β = M q − R y1.a − R y 2 .b ( 2.13 )
Vì ôtô bị xoay đi một góc β tức là mômen quay vòng lớn hơn rất nhiều so với
các mômen khác do các lực Ry1 và Ry2 sinh ra, để đơn giản bớt ta có thể viết lại như
sau:
Mq
I Z .β = M q hoặc β = ( 2.14 )
IZ
Với: Iz – mômen quán tính của ôtô quanh trục Z đi qua trọng tâm A
lấy tích phân hai lần phương trình (2.14) ta được :
Mq
β= t2 +C ( 2.15 )
2I Z
Với: t- thời gian phanh
Để tìm giá trị của C ta sử dụng điều kiện ban đầu khi t=0 thì β=0 và đưa vào
phương trình ( 2.15) ta có C=0. Từ đó rút ra được biểu thức cuối cùng để xác định
góc lệch β do mômen quay vòng gây nên. Mà mômen này là do sự chênh lệch lực
phanh bên phải và bên trái gây nên:
Mq
β= t2 (2.16)
2I Z
Qua biểu thức trên ta thấy β tỷ lệ thuận với Mq, với bình phương thời gian
phanh t và tỷ lệ nghịch với mômen quán tính Iz của ôtô quanh trục Z đi qua trọng
tâm của nó. Theo yêu cầu của nhà chế tạo thì khi ôtô xuất xưởng thì phải bảo đảm
Lấy giá trị Mq.max từ biểu thức (2.18) thay vào biểu thức (2.16) ta tìm được góc
lệch cực đại βmax:
Ở biểu thức (2.19) thành phần F′p.max cần phải hiểu là lực phanh cực đại ở một phía
(có thể bên trái hay bên phải) tuỳ theo điều kiện bám.
Lực phanh cực đại:
G
F ' p. max = ϕ max ( 2.20 )
2
Góc lệch cực đại βmax cho phép khi phanh không vượt quá 8° hoặc khi phanh
thì ôtô không vượt ra ngoài hành lang có chiều rộng 3,5m.
Một vấn đề lớn và cũng là bài toán quan trọng cần phải giải quyết đối với hoạt
động
của cơ cấu phanh, đó là khi ô tô phanh gấp hay phanh trên các loại đường có
hệ số bám thấp như đường trơn, đường đóng băng, tuyết thì dễ xảy ra hiện
tượng sớm bị hãm cứng bánh xe, tức hiện tượng bánh xe bị trượt lết trên đường
khi phanh. Khi đó quãng đường phanh sẽ kéo dài hơn, tức hiệu quả phanh thấp
đi, đồng thời dẫn đến tình trạng mất ổn định và khả năng điều khiển của xe. Nếu
các bánh trước bị hãm cứng sẽ làm cho xe không thể chuyển hướng theo sự điều
khiển được, nếu các bánh sau bị hãm cứng do sự khác nhau về hệ số bám giữa
bánh trái và bánh phải với mặt đường nên làm cho đuôi xe bị lạng, xe bị trượt
ngang và chuyển động lệch hướng so với trước lúc bắt đầu phanh. Trong trường
hợp xe phanh khi quay vòng, hiện tượng trượt ngang của các bánh xe dễ dẫn
tới hiện tượng quay vòng thiếu hay quay vòng thừa làm mất tính ổn định khi
xe quay vòng.
Để giải quyết bài toán về vấn đề hiệu quả và tính ổn định khi phanh, phần lớn các
xe
ô tô hiệ n nay đều trang bị cơ cấu chống hãm cứng bánh xe khi phanh, tức là
chống hiện tượng trượt lết của bánh xe, gọi là “Anti-Lock Braking System’’ và
thường được viết và gọi tắt là ABS.
Cơ cấu ABS hoạt động chống hãm cứng bánh xe khi phanh bằng cách điều
khiển thay đổi áp suất dầu tác dụng lên các xylanh bánh xe để ngăn không cho
nó bị hãm cứng khi phanh trên đường trơn hay khi phanh gấp, đảm bảo tính hiệu
quả và tính ổn định của ô tô trong quá trình phanh.
Hệ số bám và lực bám có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo an toàn
chuyển động của ô tô, nó có liên quan chặt chẽ đến tính chất động lực học của ô
tô, đến hiệu quả phanh và độ ổn định khi phanh, tính năng dẫn hướng … Cơ
cấu ABS được thiết kế dựa trên cơ sở phân tích và xử lý đã đạt được các giá trị
tối ưu này.
2.4.Hệ số bám
Bánh xe là phần tử đàn hồi kết hợp giữa xe và mặt đường. Nhờ có sự bám giữa
bánh xe với mặt đường mới có sự truyền động các mô men kéo, mô men phanh
được tạo ra từ động cơ hay cơ cấu phanh tới mặt đường, giúp cho xe chuyển
động hay dừng lại được.
Sự bám giữa bánh xe với mặt đường được đặc trưng bằng hệ số bám . Về cơ bản
có thể xem hệ số bám tương tự như hệ số ma sát giữa hai vật thể cơ học. Tuy
nhiên do mối quan hệ truyền động giữa bánh xe và mặt đường là vấn đề rất
phức tạp, vừa có tính chất của một ly hợp ma sát, vừa theo nguyên lý ăn khớp
giữa bánh răng- thanh răng,vì ở đây còn có sự bám của bề mặt gai lốp vào mặt
đường.
Hệ số bám giữa bánh xe và mặt đường được chia thành hai thành phần: Hệ số bám
trong mặt phẳng dọc, tức trong mặt phẳng chuyển động của ô tô được gọi là hệ số
bám dọc ϕx và hệ số bám trong mặt phẳng ngang vuông góc với mặt phẳng dọc và
được gọi là hệ số bám ngang ϕy
Thực nghiệm chứng tỏ rằng hệ số bám phụ thuộc nhiều yếu tố như: Loại mặt
đường và tình trạng mặt đường, kết cấu và nguyên liệu lốp, áp suất không khí ở
trong lốp, tải trọng tác dụng lên bánh xe, tốc độ chuyển động của xe, điều
kiện nhiệt độ làm việc, độ trượt giữa bánh xe với mặt đường. Do đó, trong quá
trình chuyển động của xe, giá trị của hệ số bám là thay đổi phụ thuộc vào các
yếu tố kể trên.
3.1.2. Sơ lược về nội dung và các thiết bị,mô hình cơ cấu ABS ở nước ta
thời gian qua .
Nhờ sự phát triển nhanh về khoa học kỹ thuật, trên thế giới đã có công ty
chuyên sản xuất thiết bị dạy học ở các nước sản xuất được thiết kế trên xa bàn và
bố trí đầy đủ như một cơ cấu thật trên xe, có thể xem như một cơ cấu phanh trên
xe thu nhỏ lại, giá thành của các mô hình như vậy là rất cao.
Viện vật lý có chế tạo một số mô hình hoạt động của cơ cấu ABS nhưng trên cơ
sở các thiết bị của cơ cấu phanh xe máy, lập trình chương trình điều khiển, cũng
không giống như hoạt động của cơ cấu phanh thật.rất nhiều công trình nghiên cứu
Ha.sự thay đổi mômen phanh. Hb.áp suất dẫn động phanh.
H12-Sự thay đổi mômen phanh, áp suất dẫn động phanh gia tốc bánh xe.
Trên (hình 12) trình bày đồ thị chỉ sự thay đổi của một số thông số của cơ cấu
phanh và chuyển động của bánh xe khi có trang bị cơ cấu ABS.
Khi tác động lên bàn đạp phanh thì áp suất dẫn động tăng lên, nghĩa là mô men
Phanh Mp tăng lên làm tăng giá trị gia tốc chậm dần của bánh xe và làm tăng độ
trượt củanó. Sau khi vượt qua điểm cực đạ i trên đường cong ϕx = f (λ)thì
gia tốc chậm dần của
bánh xe bắt đầu tăng đột ngột. Điều này báo hiệu bánh xe có xu hướng bị hãm
cứng. Giai đoạn này của quát trình phanh có ABS sẽ ứng với các đường cong
(0-1) trên (hình 12a, b,
c). Giai đoạn này gọi là pha I (pha bắt đầu phanh hay pha tăng áp suất trong
dẫn động phanh).
Bộ điều khiển của cơ cấu ABS lúc này sẽ ghi lại gia tốc tại thời điểm 1 đạt giá trị
tới hạn (đoạn C1 trên hình c ) và ra lệnh cho bộ chấp hành thủy lực phải giảm
áp suất trong dẫn động phanh. Sự giảm áp suất được bắt đầu với độ chậm trễ
Nguyên lý hoạt động của hệ thống phanh chống hãm cứng ABS
Khi bắt đầu phanh, bánh xe quay với tốc độ giảm dần, khi bánh xe đạt tới
giá trị gần bó cứng tín hiệu của các cảm biến gửi về bộ điều khiển trung tâm (ECU).
ECU tiếp nhận và lựa chọn chế độ đưa ra tín hiệu điều khiển van điều chỉnh áp suất
các đường dầu từ xilanh chính đến xilanh bánh xe do vậy lực phanh ở cơ cấu phanh
không tăng được nửa, bánh xe lại có xu hướng lăn với tốc độ cao lên, tín hiệu từ cảm
biến lại đưa về bộ điều khiển trung tâm, bộ điều khiển điều khiển van điều chỉnh mở
đường dầu tăng thêm áp suất dẫn ra xylanh bánh xe thực hiện tăng lực phanh gây ra
do cơ cấu phanh. Nhờ đó bánh xe lại bị phanh và giảm tốc độ quay tới khi gần bị bó
cứng, quá trình xảy ra được lặp lại theo chu kỳ liên tục cho tới khi bánh xe dừng hẳn.
Một chu kỳ thực hiện khoảng 1/10 s, nhờ các bộ tích áp suất thấp, cao, van một chiều
và bơm dầu độ chậm trễ tác động chỉ nhỏ hơn 1/1000s, do vậy ABS làm việc rất
hiệu quả tránh được bó cứng bánh xe. Quá trình này coi như là hành động nhấp
phanh liên tục của người lái xe khi phanh, nhưng mức độ chuẩn xác và tần số lớn
hơn rất nhiều so với người lái xe có kinh nghiệm.
Các tín hiệu từ hệ thống các cảm biên gởi đến ECU tiếp nhận, tính toán, so
sánh biết được bánh xe có khả năng bị hãm cứng và quyết định chống hãm cứng
bánh xe đó bằng cách đưa dòng điện khoảng 5A nhằm tạo ra lực từ mạnh ở cuộn dây
để đóng đường dầu tới (cổng A), mở đường dầu về (cổngB) do vậy mà áp lực dầu
không đến xilanh bánh xe nữa mà từ xilanh bánh xe trở về bình tích trữ làm cho áp
lực phanh giảm bánh xe không bị bó cứng nữa. Nếu áp lực phanh vẫn còn lớn để làm
Nhận xét: Trạng thái làm việc của hệ thống phanh ABS thay đổi liên tục theo
tình trạng của ôtô và mặt đường.
Chương III. Kết cấu và quá trình làm việc của hệ thống phanh
ABS.
- Cụm điều khiển điện tử (ECU: electronic control unit): Được xem như một
bộ não của hệ thống ABS. Tiếp nhận thông tin từ hệ thống các cảm biến tức là xác
định được tốc độ của bánh xe hoặc gia tốc chậm dần khi phanh, do các cảm biến gởi
đến từ đó xử lý thông tin và gửi tín hiệu đến bộ điều khiển thuỷ lực (HCU).
- Cụm điều khiển thuỷ lực (HCU: hydraulic control unit ) nhận tín hiệu từ
ECU gửi đến, HCU đóng mở mạch dầu để tăng, giảm hay giữ áp lực phanh đến các
bánh xe cho phù hợp nhằm thực hiện chức năng chống hãm cứng.
- Hệ thống các cảm biến (sensor): nhận tín hiệu gửi về ECU, từ đó ECU có
thông tin để điều khiển quá trình chống hãm cứng. Thông thường trên xe có trang bị
một số loại cảm biến sau:
Cảm biến tốc độ bánh xe (wheel speed sensor).
1. Cảm biến tốc độ bánh xe ; 2. Bộ điều khiển thuỷ lực; 3. Bộ điều khiển trung tâm;
4. Xilanh chính ; 5. Đèn báo
Trong ABS còn có nguồn năng lượng bổ sung như bình dự trữ dầu thấp áp,
bơm dầu, các van an toàn…
Tín hiệu ra
đến
Công tắc đèn stop bộ tự kiểm tra
H.3.2.Lựơc đồ khối của khối điều khiển ABS với các tín hiệu đầu vào, đầu ra.
Tất cả các quá trình làm việc ở trên, được kiểm tra theo dõi bởi bộ vi xử lý. Bộ
phận vi xử lý tiếp nhận các tín hiệu của quá trình nhập, tính toán cũng như xuất tín
hiệu, nên kiểm tra quá trình đó một cách chính xác. Nếu có sai sót bộ phận này sẽ
xuất tín hiệu để báo. Ngoài ra: bộ kiểm tra vi xử lý còn có các chức năng tự kiểm tra,
kiểm tra lúc bắt đầu nhận tín hiệu và chẩn đoán các bộ phận hư hỏng của toàn bộ hệ
thống ABS.
Trong ECU còn có bộ ổn định điện áp. Điện áp từ bình đến ECU
được ổn định, do đó ECU làm việc ổn định và tăng độ chính xác trong quá trình điều
khiển.
Đặc biệt các bộ phận vi xử lý trong ECU có mối liên hệ rất chặt chẽ
chính vì vậy mà ECU làm việc rất chính xác và hiệu quả.
Theo sơ đồ của mạch điều khiển chống hãm cứng thì sau khi mở công tắc điện,
ECU được cung cấp điện và tiến hành một số chức năng kiểm tra ban đầu cho hệ
thống ABS. Nếu có sai sót thì hệ thống ABS không hoạt động và ngược lại. ECU tiến
hành tính toán, kiểm tra khả năng hãm cứng của bánh xe.
Qua kết quả nhận được ECU tiến hành lựa chọn:
- Nếu phanh thường thì bánh xe không có khả năng chống hãm cứng nên hệ
thống chống hãm cứng bị ngắt.
- Nếu bánh xe có khả năng bị hãm cứng bộ vi xử lý chính tiến hành phân tích
so sánh với các ngưỡng giá trị cài sẵn trong bộ nhớ của ECU rồi đưa ra quyết định và
chuyển đến bộ phận phân tích, bộ phận phân tích đưa tín hiệu đến các bộ phận thi
hành chức năng chống hãm cứng như van điện và bơm ABS để thực hiện chức năng
chống hãm cứng.
Chu trình trên được lặp đi lặp lại liên tục cho đến khi tín hiệu gửi đến từ các
cảm biến cho biết tình trạng của bánh xe không còn có khả năng chống hãm cứng thì
ECU ngắt tín hiệu cung cấp. Cả hệ thống chống hãm cứng trở trạng thái bình thường
không hãm cứng.
Như ta đó biết trên ôtô hiện đại ngày nay một số xe có hê thống phanh ABS
được trang bị nhiều cảm biến với chức năng khác nhau nhằm tăng thêm chất lượng
của quá trình phanh nhưng cảm biến tốc độ bánh xe là không thể thiếu trong hệ thống
phanh ABS.
Cảm biến tốc độ bánh xe có nhiệm vụ nhận biết sự thay đổi của tốc độ bánh xe
và gửi tín hiệu về ECU, từ đó ECU nhận biết, xử lý thông tin và điều khiển các bộ
phận chống hãm cứng bánh xe.
Các cảm biến tốc độ được bố trí ở mỗi bánh xe hay trên cầu chủ động để nhận
biết tốc độ của bánh xe dựa trên tốc độ quay của cầu xe.
- Lắp đặt cảm biến theo vị trí trục cảm biến song song với trục bánh răng:
Nam châm vĩnh cửu tạo ra từ trường khép kín qua các cuộn dây, khi các bánh
xe quay thì vòng răng cũng quay cùng tốc độ. Các răng trên vòng răng cắt các từ
trường của châm làm thay đổi từ trường qua các cuộn dây. Do đó từ thông qua các
cuộn dây cũng thay đổi làm xuất hiện dòng điện tự cảm trong cuộn dây. Vì vậy ở hai
đầu cuộn dây xuất hiện một điện áp xoay chiều. Điện áp này thay đổi theo tốc độ
quay của bánh xe cả về độ lớn và tần số dao động. Nhờ sự thay đổi này mà ECU
nhận biết được tốc độ bánh xe.
Dạng xung điện áp ở hai đầu cuộn dây cảm biến tốc độ
Cảm biến gia tốc kiểu cảm biến quang bao gồm cỏc phần sau:
.7. Cấu tạo cảm biến gia tốc chậm dần trên xe TOYOTA
1) Sơ đồ mạch điện
ECU cung cấp một điện áp ổn định khoảng 5V cho cảm biến gia tốc.
Trong khi đó cảm biến vẫn nhận nguồn 12V từ acquy. Khi có tác động phanh tuỳ
theo mức độ chậm dần của ôtô mà các photo-transistor mở hoặc ngắt tạo sự thay đổi
điện
Cảm biến trọng lực được đặt ở phía trước, bên trái hay bên phải khung xe
H.3.12. Nguyên lý làm việc cảm biến gia tốc trọng lực G
3) Sơ đồ mạch điện
1.3. Bộ điều khiển thuỷ lực thực hiện nhiệm vụ chống trượt
lê
khi nhận được tín hiệu điều khiển từ ECU gửi đến. Bộ điều khiển thủy lực làm thay đổi áp lực phanh
đến các xilanh bánh xe bằng cách đóng mở các van điện và hoạt động của bơm
- Van điện hai vị trí (2- positsion solenoid valve) điều khiển áp lực phanh từ
xilanh chính đến xilanh bánh xe chỉ tăng hoặc giảm mà thôi.
- Van điện ba vị trí (3-position solenoid valve) điều khiển áp lực phanh từ xi
lanh chính đến xilanh bánh xe ngoài tăng và giảm còn có thêm trường hợp áp lực
phanh trong các xilanh con không đổi. Về mặt cấu tạo thì van điện hai vị trí và van
điện ba vị trí không có gì khác nhau chúng bao gồm các bộ phận chính sau:
- Cuộn dây: dùng tạo ra lực từ đóng mở các van dầu khi nhận được sự điều
khiển của ECU.
- Lõi thép từ và cơ cấu các lò xo để đóng mở các mạch dầu do tác động của
cuộn dây.
Mối quan hệ giữa cường độ dũng điện điều khiển, áp lực phanh, gia tốc xe, tốc
độ bánh xe trong hệ thống phanh ABS sử dụng van điện ba vị trí như sau:
Khi phanh bình thường thì ECU chưa hoạt động nhưng khi áp lực phanh tăng
và tốc độ bánh xe giảm, nếu khả năng hãm cứng xảy ra thì ECU sẽ làm việc.
Bắt đầu tại khoảng B tốc độ bánh xe bắt đầu tăng lên nên vì vậy mà gia tốc
mang giá trị dương. ECU tiếp tục điều khiển tăng áp lực phanh và giữ áp lực phanh
một cách liên tục đó là phần B của đồ thị giúp cho bánh xe tiếp tục giảm tốc độ
nhanh hơn.
Nhưng áp lực phanh cứ tăng dần có thể làm cho bánh xe bị hãm cứng lần nữa
nên ECU lại điều khiển giảm áp lực phanh (phần C trên đồ thị), sau đó tiếp tục giữ áp
lực phanh, tốc độ bánh xe lại tăng lên.
Không đủ áp lực phanh để dừng bánh xe nên ECU lại tiếp tục tăng áp lực
phanh (phần D trên đồ thị).
Quá trình này lặp đi lặp lại liên tục cho đến khi tốc độ bánh xe nhỏ hơn 8km/h .
ECU điều khiển van điện qua rơle bằng cách đóng hoặc ngắt nguồn điện 12V
đến cuộn dây rơle qua các cọc SR và R của ECU. Khi rơle đóng thì điện nguồn từ
acquy tới cuộn dây van điện và được ECU điều khiển dòng qua rơle bằng cách mở
transistor một phần (dòng qua cuộn dõy là 2A) hoặc toàn phần (dòng qua cuộn dây là
H. 3.17 Vị trí tăng áp lực phanh của van điện hai vị trí
Van dầu tới (cổng A) van dầu về đóng (cổng B). Dầu được chuyển từ xilanh
chính tới xilanh con. Chính vì vậy mà áp lực dầu tăng nhưng chưa đủ lớn để bánh xe
bị hãm cứng.
- Vị trí 2:
ECU cung cấp dòng cho cuộn dây nên tạo ra lực từ ép lò xo lại làm đóng van dầu
tới ( cổng A ) và mở van dầu về (cổng B).
Tuy nhiên để điều khiển khả năng chống hãm cứng tốt hơn thì van điện hai vị
trí kết hợp với một van điện phụ hoặc một van tăng áp lực được điều khiển từ ECU.
H.1.3. Vị trí giảm áp lực phanh của van điện hai vị trí
-Vị trí 3:
Là vị trí mà áp lực dầu trong xilanh bánh xe không đổi. ECU cung cấp dòng
khoảng 2A đến cuộn dây, lực từ sinh ra chỉ vừa đủ để hút ống thép đi một ít đủ để
đóng van dầu tới (cổng A) và van dầu về (cổng B) cũng đóng. Chính vì vậy mà áp
lực phanh trong xilanh bánh xe giữ nguyên không đổi.
Khi hệ thống ABS cần giảm áp lực phanh thì van điện mở dầu trở về bộ tích
năng, đầu vào của bơm nối đường tới của bộ tích năng, nếu áp lực trong bộ tích năng
lớn làm cho bánh xe có thể bị hãm cứng thì lúc này ECU điều khiển cung cấp nguồn
cho bơm làm việc để đẩy dầu từ bộ tích năng về xilanh chính tiếp tục giảm áp lực
phanh.
a) Hệ thống chống hãm cứng của mỗi loại xe tuy khác nhau nhưng cách bố trí
thông thường theo hai nguyên tắc sau:
Van điều chỉnh bố trí thành một khối ,sử dụng ba cảm biến tốc độ bánh xe:
H. 3.22. Hai bánh trước điều khiển riêng rẽ,hai bánh sau chung
Van điều chỉnh bố trí thành một khối, sử dụng bốn cảm biến tốc độ bánh xe
ngoài ra còn bố trí thêm cảm biến gia tốc chậm dần (cảm biến trọng lực G) chính vì
vậy mà loại này có tính ổn định khi phanh cao hơn.
Từ những kết quả phân tích lý thuyết và thực nghiệm cho thấy rằng đối với
ABS thì hiệu quả phanh và ổn định khi phanh phụ thuộc chủ yếu vào việc lựa
chọn sơ đồ phân phối các mạch điều khiển và mức độ độc lập hay phụ thuộc
của việc điều khiển lực phanh tại các bánh xe. Sự thoả mãn đồng thời hai chỉ
tiêu hiệu quả phanh và tính ổn định phanh của xe là khá phức tạp, tuỳ theo phạm
vi và điều kiện sử dụng mà chọn các phương án điều khiển khác nhau.
Dưới đây trình bầy 6 phương án bố trí cơ cấu điều khiển của ABS tại các bánh
xe (hình 16) và những phân tích theo quan điểm hiệu quả và ổn định khi
phanh.
2.1. phương án 1: ABS có bốn kênh với các bánh xe được điều khiển độc lập.
ABS có 4 cảm biến bố trí ở 4 bánh xe và 4 van điều khiển độc lập, sử dụng cho
cơ cấu phanh bố trí dạng mạch thường (một mạch dẫn động cho hai bánh xe
cầu trước, một mạch dẫn động cho hai bánh xe cầu sau). Với phương án này
các bánh xeềđu được tự động hiệu chỉnh lực phanh sao cho luôn nằm trong
vùng có khả năng bám cực đại nên hiệu quả phanh là lớn nhất. Tuy nhiên khi
phanh trên đường có hệ số bám trái và phải không đều thì mô men xoay xe sẽ
rất lớn và khó có thể duy trì ổn định hướng bằng cách hiệu chỉnh vô lăng. Ổn
định khi quay vòng cũng giảm nhiều. Vì vậy với phương án này cần phải bố trí
thêm cảm biến gia tốc ngang để kịp thời hiệu chỉnh lực phanh ở các bánh xe để
tăng cường tính ổn định chuyển động và ổn định quay vòng khi phanh.
2.2. Phương án 2: ABS có bốn kênh điều khiển và mạch phanh bố trí chéo.
Sử dụng cho cơ cấu phanh có dạng bố trí mạch chéo ( buồng của xy lanh chính phân
bố cho một bánh trước và một bánh sau chéo nhau). ABS có 4 cảm biến bố trí ở các
bánh xe và 4 van điều khiển. Trong trường hợp này hai bánh trước được điều khiển
độc lập, hai bánh sau được điều khiển chung theo ngưỡng trượt thấp, tức là bánh xe
này sẽ loại bỏ được mô men quay vòng trên cầu sau, tính ổn định tăng nhưng hiệu quả
phanh giảm bớt.
2.3. Phương án 3: ABS có ba kênh điều khiển.
Trong trường hợp này hai bánh xe sau được điều khiển theo ngưỡng trượt thấp,
Scòn ở cầu trước chủ động có thể có hai phương án sau.
Đối với những xe có chiều dài cơ sở lớn và mô men quán tính đối với trục đứng
đi qua trọng tâm xe cao tức là có khả năng cản trở độ lệch hướng khi phanh, thì
chỉ cần sử dụng một van điều khiển chung cho cả cầu trước và một cảm biến tốc
độ đặt tại vi sai. Lực phanh trên hai bánh xe cầu trước sẽ bằng nhau và được
điều chỉnh theo ngưỡng trượt thấp. Cơ cấu như vậy cho tính ổn định phanh rất
cao nhưng hiệu quả phanh lại thấp.
Đối với những xe có chiều dài cơ sở nhỏ và mô men quán tính thấp thì để tăng
hiệu quả phanh mà vẫn đảm bảo tính ổn định, người ta để cho hai bánh trước
được điều khiển độc lập.
Tuy nhiên phải sử dụng bộ phận làm chậm sự ra tăng của mô men xoay xe. Cơ
cấu đó sử dụng bốn cảm biến tốc độ đặt tại bốn bánh xe.
2.4. Các phương án 4,5,6: Đều là loại có hai kênh điều khiển trong đó:
Phương án 4: Tương tự như phương án 3, tuy nhiên cầu tr ước chủ động được
điều khiển theo phương thức chọn cao, tức là áp suất phanh được điều chỉnh
theo ngưỡng của bánh xe bám tốt hơn. Điều này tuy làm tăng hiệu qu ả phanh
nhưng tính ổn định lại kém hơn do mô men xoay xe khá lớn, theo phương án
này thì khi phanh trên các loại đường mà hai bên bánh xe có hệ số bám chênh
lệch nhau lớn thì xe rất dễ bị quay đầu vì lý do bên bánh có hệ số bám thấp bị bó
cứng trước trong khi bánh xe bên kia vẫn còn chuyển động để tận dụng tối đa
lực bám .
Phương án 5: Trên mỗi cầu chỉ có một cảm biến đặt tại hai bánh xe chéo nhau
để điều khiển áp suất phanh chung cho cả cầu. Cầu trước được điều khiển theo
ngưỡng trượt cao, còn cầu sau được điều khiển theo ngưỡng trượt thấp.
Phương án 6: Sử dụng cho loại mạch chéo. Với hai cảm biến tốc độ đặt tại cầu
sau,áp suất phanh trên các bánh xe chéo nhau sẽ bằng nhau,ngoài ra các bánh xe
cầu sau được điều khiển chung theo ngưỡng trượt thấp. Cơ cấu này tạo độ ổn
định cao nhưng hiệu quả phanh thấp.
3.2. Những lưu ý khi sửa chữa hệ thống phanh ABS và những hư
hỏng thường gặp và cách khắc phục.
3.2.1. Những lưu ý trong kiểm tra sữa chữa hệ thông phanh ABS.
Trước tiên cần lưu ý rằng ABS là một hệ thống điều khiển trong hệ thông
phanh, các sự cố về phanh như lết phanh, pedan thấp, tiếng ồn không bình thường
khi phanh thường gây ra trong hệ thống phanh thủy lực hoặccụm thiết bị ở bánh xe.
Khi chẩn đoán các sự cố về ABS nên nhớ rằng đường kính và tình trạng bề
mặt làm việc của các rơ le là rất quan trọng, chúng ảnh hưởng tới tốc độ quay của
bánh xe. Nếu người “chơi” xe ô tô thay đổi kích thước vỏ xe điều này sẽ tạo ra sự lừa
phỉnh mô đun điều khiển phanh điện tử ABs ECU mô đun điều khiển xẽ hiểu là có sự
cố xảy ra trong hệ thống.
Hệ thống ABS dùng booster chân không hoặc booster thủy lực, trong đó một
số hệ thông điện thủy lực dùng bơm để tạo ra áp suất thủy lực để vận hành phah sau.
Với những hệ thống này, nếu bơm hoặc động cơ bơm xẩy ra sự cố sẽ làm cho phanh
sau mất tác dụng. Trên hầu hêt các hệ thống, xi lanh chính được nối với bộ điều tiết
thủy lực, vơi bộ điều tiết thủy lực bằng một cặp ống thủy lực. Với bộ điều tiết thủy
lực, mặc dù có thể tháo rời các chi tiết bên trong của nó nhưng đa số các nhà sản xuất
khuyến cáo không nên thay thế sửa chữa các bộ phận, chi tiết bên trong mà nên thay
thế toàn bộ điều tiết thủy lực( bộ chấp hành). Chỉ một ít nhà sản xuất cho phép thay
thế một vài bộ phận phụ của bộ chấp hành với phụ tùng do họ cung cấp và trình tự
thay thế được hướng dẫn trong sổ tay sửa chữa của họ.
Hệ thống ABS là một hệ thống điều khiển điện tử với thiết bị đầu vào là cảm
biến tốc độ bánh xe, các thiết bị đầu ra là van điện tử hoặc động cơ. Nên hầu hết các
sự cố của hệ thống thuộc phần điện, thường gặp nhất là sự cố đầu nối dây.
Cần đặc biệt chú ý khi kiểm tra ABS ECU, không được sờ tay vào ABS ECU
điện từ trong người của bạn có thể làm hỏng ABS ECU. Những người thợ kinh
nghiệm thường nối mát dây đất từ người họ tới thân xe hoặc xịt lên thảm sàn xe hoặc
lớp phủ ghế ngồi mặt chất chống tĩnh điện để ngăn sự tạo ra tĩnh điện khi bạn làm
việc ở khu vực này. Ngoài ra các vấn đề khác cũng rất quan trọng là không được
dùng các thiết bị liểm tra mà chúng tạo ra dòng điện lớn chạy qua các thiết bị điện tử.
3.2.2.1.Các sự cố về điện.
Các sự cố này rất đa dạng nhưng hầu hết các các sự cố của hệ thống ABS. Là
các sự cố thuộc phần điện, thường gặp nhất là sự cố ở các đầu nối dây. Vì ECU nhận
tín hiệu điện từ các cảm biến tốc độ và điều khiển các van điện cũng bằng tín hiệu
điện. Các dây nối như là các cánh tay của hệ thống ABS. Chỉ đơn giản nếu dây dẫn
tư cảm biến tốc độ của bánh xe bị đứt hoặc lỏng thì lúc này ABS ECU sẽ nghĩ rằng
các bánh xe sau bi khóa và điều khiển giảm áp suất ở phanh, điều này có thể dẫn đến
hậu quả rất nguy hiểm.
Do vậy trước khi chẩn đoán hư hỏng ở hệ thống ABS các kỹ thuật viên thường
kiểm tra bằng mắt các đầu giác nối điện và các đầu dây dẫn co phương án và chuẩn
đoán thích hợp.
3.2.2.4.Bảng triêu chứng và cách sửa chữa khi phanh đậu xe.
Động cơ chạy lâu Kiểm tra mức dầu pahnh, kiểm tra áp suất của hệ
hơn một phút,Đèn thống thủy lực, kiểm tra công tác áp suất và rơ le
ABS bình thương bơm. Nếu đèn phanh nhấp nháy nhưng động cơ bơm
đen phanh nhấp ngừng ít hơn một phút. Kiểm tra mô đun thời gian.
nháy.
Đèn ABS sáng khi xe Đo điện trở, điện áp ,hoặc cảm biến tốc độ bánh xe.
đang chạy, Đèn Nếu điện áp không đúng kiểm tra khe hở không khí,
phanh bình thường. kiểm tra ổ bi bánh xe.
Đèn ABS và đèn Kiểm tra mức dầu phanh, kiểm tra công tác mức dầu
phanh sáng liên tục. phanh. Kiểm tra rơ le và động cơ bơm, kiểm tra áp
suất. Nếu sự cố vẫn tồn tại, kiểm tra áp suất hệ thống
thủy lực.
Đèn ABS chập trờn Kiêm tra công tác áp suất và công tác mức dầu
đèn phanh bình phanh. Kiểm tra các đầu nối và sự tiếp xúc ở cảm
thường. biến tốc độ bánh xe.
Đèn ABS bình Kiểm tra mạch 33, công tác phanh đậu xe và công
thường đèn phanh tác khởi động xe bị chập mach. Kiểm tra công tắc áp
sáng liên tục. suất và mức dầu phanh.
Đèn ABS không sáng Kiểm tra bóng đèn, kiểm tra điện áp ắc quy ở điện
trong khi khởi động cực ra 27 cổ hộp đầu ra. Công tác khởi động xe ở vị
đèn phanh bình trí ON. Nếu không có điện áp sửa chữa mạch 852
thường.
3.3.Kiểm tra hoạt động của hệ thống ABS thông qua đèn báo.
3.3.1. Hoạt động của đèn báo.
Các hệ thống ABS dùng hai đèn báo, một đèn báo phanh màu đỏ có chức năng
giống với đèn báo trên xe không có hệ thống ABS và đèn báo màu hổ phách báo hiệu
sự cố trong phần điện hoặc phần thủy lực của mạch điều khiển chống kẹt phanh
Nếu hoạt động của đèn bình thường như trên, báo hiệu các đại lượng của hệ
thống điện và thủy lực trong hệ thống phanh bình thường.
Trong tất cả các hệ thống, các sự cố về điện hoặc sự cố ở các bộ phận của hệ
thống sẽ tạo ra các mã sự cố. Các sự cố của hệ thống thường biểu hiện mặt trong các
dạng sau.
d Hoạt động của đèn bình thường có một số vấn đề khi phanh dừng xe
(kéo, lết) kiểm tra hoạt động của các van điều khiển ABS và cụm phanh.
( Động cơ bơm chạy lâu hơn một phút. Kiểm tra mức đầu phanh, áp suất
bơm hoặc công tác bơm.
b Đèn mầu hổ phách (Đèn ABS) sáng liên tục và đèn màu đỏ ( đèn sự
cố)hoạt động bình thường. Kiểm tra tất cả các mạch điện nối với
ABSECU (cảm biến, van điện, áp suất bơm hoặc công suất bơm.
A Đèn màu hổ phách(đèn ABS) sáng liên tục và đèn màu đỏ (đèn sự cố
phanh) hoạt động bình thường. Kiểm tra tất cả các mạch điện nối với
ABSECU(cảm biến, van điện, áp suất bơm, các rơ le, cầu chì, dây tiếp
đất).
đ Đèn hổ phách hoạt động bình thường.
Sáng liên tục từ bước 3 tới bước 6 và đèn màu đỏ hoạt động bình thường.
Kiểm tra đại lượng điện trong suốt tất cả các mạch điện của cảm biến tốc động bánh
xe.
(C)
A.MONITOR OTC B.SOSNNER SNUP-ON C.TECH-2
Hình22. dụng cụ quét cầm tay để đọc mã
Số các máy chẩn đoán chuyên dụng được thiết kế có thể nối trực tiếp vào đầu chẩn
đoán, nhưng có một số cần đầu nối tương ứng. Dưới đây là một hình ảnh của một số
đầu nối.
Hình 23. cácdạng đầu nối thích hợp để nối dụng cụ quét với đầu nối chẩn đoán
trên xe
Một số dụng cụ quét hiện đại có khả năng báo hiệu hoạt động đúng hay không
đúng của các công tác, van điện, điện áp các mô đun điều khiển và công tắc khởi
động xe tốc độ ở các cảm biến tốc độ bánh xe cũng như các mã sự cố.
Việc đọc các mã sự cố phải được tiến hành theo một trình tự xác định,trên một
xe, trình tự này chỉ đơn giản là mở công tắc khởi động xe và giữa pe dal ở vị trí áp
phanh trong vòng 5s hoặc nâu hơn, một trình tự khác là nối một dụng cụ đặc biệt tới
đầu nối chẩn đoán, mở công tác khởi động xe và ghi lại tần số, số lần nhấp nháy của
đèn báo ABS, đèn nhấp nháy báo hiệu các mã sự cố, tra cứu sổ tay sửa chữa để hiểu
3.5. Cách kiểm tra về điện hệ thống ABS bằng hộp đầu nối.
Để kiểm tra về điện có thể tiến hành thuận lợi dễ dàng và nhanh chóng hơn,
người ta thường dùng một hộp đầu nối để nối với hệ thống như sau hình sau
Bảng sau cho ta nhận biết được 37 chân của hộp đầu nối.
Lỗ Mạch màu Chức năng
1 B/WT cảm bien tốc độ bánh xe
3 B/16GY Điều khiển role đ/c bơm
Kiểm tra đến các mạch có sự cố. Ví dụ có sự cố ở cảm biến tốc độ bánh xe
trước bên trái, Các chân số 6 và 23 sẽ nối tới cảm biến này và điện trở của cảm biến
này có giá trị trong khoảng 800Ù tới 1400Ù. Dùng 2 que đo của ôm- met đo ở chân
số 6 và chân số 23. Nếu chỉ số đọc được trong phạm vi 800Ù tới 1400Ù thì cảm biến
và mạch cảm biến còn tốt. Nếu giá trị đo được bé hơn thì cảm biến bị ngắn mạch và
giá trị đo trên khoảng đó thì báo hiệu mạch cảm biến có các chỗ nối tiếp xúc đó lỏng
hay bụi bẩn. Nếu điện trở của cảm biến tốt chuyển sang đo ACvon. Vẫn nối các que
đo vào chân 6 và 23. Dùng tay quay bánh xe trước bên trái. Nếu điệ áp đo được dao
động trong khoảng 0,05V và 0,7V thì cảm biến, vòng cảm biến và khe hở không khí
tắt. Nếu điện áp đo được bé hơn 0,5V hoặc không có điện áp , vòng cảm biến hỏng
hoặc khe hở không khí sai.
d. Nếu hệ thống hoạt động bình thường có nghĩa là không có hư hỏng đèn báo
sẽ nháy 0.5 giây 1 lần. Dải tín hiệu của mã bình thường có dạng
e. Trong trường hợp có hư hongt, sau 4 giây, đèn báo sẽ bắt đầu nháy đếm số
lần nháy ta có được mã chẩn đoán.
Bảng cho chúng ta thấy bảng mã sự cố của hệ thống chẩn đoán áp dụng
cho xe .
Mã Chẩn đoán Khu vực hư hỏng
11 Hở mạch trong mạch rơle vạn điện * Mạch bên trong của
12 Chấp mạch trong rơle vạn điện
bộ chấp hành. Rơle
điều khiển. Dây điện
và giắc nối của mạch
rơle vạn điện
13 Hở mạch trong mạch rơle môtơ bơm * Mạch bên trong
14 Hở mạch trong mạch rơle môtơ bơm
của bộ chấp hành.
* Rơle điều khiển.
* Dây điện và giắc
nối của mạch rơle
môtơ bơm
c. Xoá mã chẩn đoán chứa trong EBCM bằng cách đạp phanh 8 lần hay nhiều
hơn trong vòng 3 giây
d. Kiểm tra rằng đèn báo ABC chỉ mã bình thường. Dải tín hiệu mà bình
thường của đèn báo ABC có dạng.
e. Tháo SST ra khỏi cực TC và E1 của giắc kiểm tra SST 09843 -18020
f. Kiểm tra rằng đèn báo ABS tắt.
3.7.1.3. Chức năng kiểm tra cảm biến tốc độ.
Trong khi chức năng kiểm tra cảm biến đang được kiểm tra. ABS sẽ không
hoạt động và hệ thống phanh sẽ làm việc như hệ thống phanh bình thường. Quy trình
kiểm tra như sau.
1. Kiểm tra điện áp ắc qui
Điện áp ắc qui khoảng 12v
2. Kiểm tra đèn báo ABS
a. bật khoá điện ON
b. Kiểm tra rằng đèn ABS sáng trong 3 giây. Nếu không, kiểm tra và sửa chữa
hay thay thế cầu chì, bóng đè, hay dây điện.
c. Kiểm tra rằng đèn ABS tắt.
d. Tắt khoá điện.
e. Dùng SST, nối chân E1 với TC và TS của giắc kiểm tra SST 09843-18020
Lý do lự chọn mô hình.
1.
2. Quá trình lựa chọn thiết bị.
3. Quá trình lắp mô hình.
4. Quá trình khảo sát quá trình làm việc.